Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:18:56 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Mẫn và tôi  (Đọc 93682 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #140 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 09:12:56 am »

Đến nay, tôi chợt nghĩ rằng Mẫn với tôi cũng có thể lâm vào cảnh ấy thật. Nếu cả hai đứa đều bận ngập đầu thì tình yêu cứ lặng lẽ phai mầu mỗi ngày một tí, héo dần tới khi chết khô. Tới đó, chúng tôi sẽ vất vả lắm mới viết được kín một trang giấy thăm hỏi, khi gặp nhau cũng chẳng có gì mà nói. Gượng gạo mãi cũng ngấy. Một đứa sẽ hỏi trước: “Hay là ta coi nhau như bạn?”. Chia tay xong, mỗi đứa bùi ngùi tiêng tiếc ít nhiều gì đó, lại nghĩ: “May là chưa cưới nhau, không thì chán chết”.
Chao ôi, chúng tôi mà chán nhau ư?

Tôi rùng mình. Một sợi gân nào đó bên thái dương bỗng rút mạnh, rất đau. Tôi nằm xuống giường, cảm thấy ngay nước mắt Mẫn đang tuôn lã chã trên mặt tôi, mặn và nóng rực. Mãi mãi sẽ không bao giờ có một cô gái nào yêu tôi mãnh liệt như Mẫn. Chỉ tình yêu dành cho mấy ngàn bà con mới đủ sức ngăn không cho Mẫn lên ở với tôi như gái nuôi chồng ốm. Hay là… hay là Mẫn bị thương, vẫn cố ở lỳ trên vành đai, gắng lắm mới ghi được bấy nhiêu chữ cho tôi khỏi lo?

Tôi chồm dậy, đưa tay quờ thắt lưng súng ngắn. Nằm ăn vạ đến bao giờ nữa.
Tay tôi run khi mở bao, xem lại súng. Cây P.38 trung thành đã sùi lên nhiều vết gỉ. Nó chỉ còn hơn chục viên đạn. Đạn chín ly bây giờ không kiếm ra, số cũ lép nhiều, mấy cậu quen khuyên tôi đút kho cho rảnh, tìm Côn 45 mà đeo. Phải chăng, cũng như nó, tôi đang gỉ ra, trở nên lỗi thời cũ kỹ, đi dần vào kho? Tôi thắt nịt vào bụng, bước ra cửa, lại phải tháo nịt ngay cho đỡ đau. Khi ngồi xuống giường, mồ hôi đã thấm ướt áo tuy trời mát. Tôi ngả lưng thở hổn hển một lát cho đỡ mệt, cơn nhức đầu kéo dài đến chiều.
Tôi chưa hiểu được những phút cuồng ấy vì đâu mà có. Chỉ biết rằng tôi không chịu nổi bốn bức tường vây quanh nữa. Tôi phải đi đâu đấy, làm cái gì đấy, không sẽ chết ngột mất. Người lính chiến trong tôi bất thần nổi loạn, đòi về đánh giặc và sống với xê mình. Còn chuyện tình duyên kia thì tới đâu hay đó. Tôi có thể trách Mẫn, nhưng không bao giờ quên được Mẫn.

*


Chiều nay, tôi được phép tập đi không quá một cây số, vào giờ tạnh máy bay.
Cắt tóc và tắm xong, tôi mặc bộ quân phục mới nhất đã lót dưới đệm cho thẳng nếp, đội cái mũ tai bèo đính dù ngụy trang, đến trước tủ gương lớn và sửng sốt khi thấy một ai khác trong gương. Một chàng lính cậu phốp pháp, rất là công tử bột, như đứa em trai cách tôi năm tuổi mới vào bộ đội, chưa qua tháng tân binh nào. Tôi ngượng, quay đi, vừa lúc Thu Yến bước qua cửa. Yến dừng ngay, nhìn tôi đăm đăm, trong cặp mắt bồ câu có cái ánh lạ mà tôi bắt gặp đôi lần nhưng không muốn – hay không dám - nhìn kỹ.

Tôi hỏi hơi vội:
- Yến đi đâu?
- Đi với anh. Lỡ anh lăn ra đường, em cõng về, khỏi cản trở giao thông.
Yến vỗ vào túi thuốc bên hông, cười nghịch ngợm.
Chung quanh vườn có tường cao vây kín. Lâu nay tôi mới lê đến cổng dòm ra. Yến kèm bên tôi, nhắc: “Chậm chậm thôi, anh”. Tôi chợt nhớ chưa lần nào được thong thả đi dạo bên Mẫn và nói chuyện bâng quơ, cóc nhảy mà trai gái hay nói với nhau.
- Tụi em đặt tên đường Thanh niên đó, anh. Bắt chước Hà Nội mà.

Chúng tôi đếm bước dọc con đường viền dừa chạy ven con sông nhỏ. Làng Cẩm Tú xứng với tên, đẹp lắm. Địch bị nhừ xương ở Việt An, rút một lèo bảy đồn to, trả cho ta thêm một mảng đồng bằng rất giàu này nữa, sáu vạn dân được giải phóng. Cẩm Tú nằm xa các trục đường ô tô và máy bay, suốt hai tháng qua mới bị vài trái pháo rớt tít ngoài ruộng. Nhà ngói nhiều, nhà tranh cũng cột kèo gỗ cả, cha mẹ đánh nài bằng bẹ chuối khô cho con leo cột nhà, tập hái dừa và đánh bóng cột luôn thể. Các nhà nghèo nhất đã bị địch bắt đi đinh điền, ai sót lại cũng không dám nghèo ra mặt với tụi hội đồng. Bây giờ bộ máy chính quyền và các đoàn thể đã lắp đủ, chạy đều, coi bộ trơn tru như hàng cột lim. Và lúc này, khi mặt trời sắp lặn, sau mây đỏ, những tiếng vui dần dần nổi lên trong các ngõ xóm. Máy bơm xình xịch gọi cấy ngoài kia, trẻ em reo đón mẹ về,gà tao tác tìm chuồng, lát nữa sẽ rộn thêm tiếng trẻ em tập hát và trống làng gọi người lớn đi học bình dân hay bàn việc ruộng đất.
- Nghỉ chút đã, anh.
Yến bước vào vệ cỏ rộng bên đường, định ngồi xuống một súc gỗ to. Tôi bật kêu:
- Chông!

Yến ngẩn ra, khi hiểu mới cười rũ, kể một hồi ra vẻ thạo:
- Chưa có chông mìn, anh ơi. Anh xã đội ghé chơi bệnh xá cứ than thở bà con ở đây phát miết mà động ít, cày cấy chăm mà đóng góp kém, học bình dân đông mà làm làng chiến đấu thì nhác. Họ còn sợ đánh to bị chết người cháy làng… Gớm, anh đi qua Điện Bàn, Duy Xuyên chông cắm tận nóc hầm kia, khiếp. Địch càn vô đây mặc sức mà ruồng. Bệnh xá mình về đóng, họ cứ kêu trước sau tàu bay cũng tới, tụi em phải đi phát thuốc, chích dạo, làm thân từng nhà…

Làng này được giải phóng bằng quân sự, số đông còn ngỡ ngàng chưa động. Tôi đã nghe nói vậy từ trước. Không sao, cứ phát mãi đi, đến một lúc nào đó tia điện mạnh sẽ biến mây thành nước. Đừng ca ngợi suông lớp vỏ láng bóng bên ngoài, cũng chớ cho rằng nơi lạc hậu sẽ ở chót đuôi mãi. Lá cờ đầu còn nhiều năm tháng để chuyền tay, cô bé ơi.

Yến đang kể về một bà gặp ai cũng kêu ốm đau, xin thuốc để dành, vừa rồi bị ngộ độc gần chết, chữa xong bà mới đưa ra một bát to thuốc viên bỏ lộn lạo mấy chục thứ không nhãn không chữ: “Thuốc uống vô, không lành cái này cũng bổ cái khác chớ?”. Tôi nghe lơ đãng, chợt nghĩ đến làng Cá bị giành đi giật lại, trầy vi tróc vảy chưa biết bao giờ mới dứt. Cũng là thôn giải phóng cả, sao cái làng Cẩm Tú này chưa mất và không muốn mất chút gì hết?
- Em chán, còn anh Hảo lại thích ở lại đây, sẵn chất tươi mà ít bom pháo… Anh Hảo khen anh có tài mà có chí ép xác quá. Thiệt vậy không anh?

Tôi cười trừ, nghĩ tiếp: cùng theo cách mạng cả, sao cô Yến này đi ngay vào chỗ êm ấm, còn Mẫn của tôi chưa hề được hưởng trọn một ngày vui riêng? Ừ, cứ vậy mà suy, tại sao dân tộc ta lại phải trả cái giá đắt chưa từng thấy để giành độc lập, thống nhất?
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #141 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:34:48 pm »

Duy Hảo hãm xe ngay chỗ chúng tôi, thả hai tay phanh tanh tách, bước xuống. Cậu hơi nghiêng đầu, nheo cặp mắt trông sâu hoắm sau kính cận, buông lửng bằng tiếng Anh:
- Rất bảnh trai. Và rất đẹp đôi.

Thu Yến học đệ nhị, kém sinh ngữ nên không nghe được gì, còn cậu Hảo tự cho mình là lịch thiệp lại cứ nói tràn những câu thế đấy. Hình như cậu cố ý chọc tức Yến. Anh em trong bệnh xá nói rằng Hảo rất chịu khó chiều Yến, nhưng Yến cứ lờ nên cậu trả đũa chơi. Tôi giả bộ không hiểu hết ý:
- Mày chỉ quen nhìn giống đười ươi thôi à?
- Thông minh đấy. Tao ngắm quái gì mày, chỉ chiêm ngưỡng một thành công lớn của nghề y. Người ta khiêng tới một con đười ươi lòi ruột, ốm nhom, đen thui, sắp phải chôn. Tao đã biến nó thành một con người mập, trắng, đẹp và nó bắt đầu nói bậy. Nó lại sắp nuốt mất con chim én sa vào tay nó…

Hảo cười to, rất thú khi tìm được cách chơi chữ mới: swallow là nuốt, cũng là chim én, là Yến. Tôi ngượng khi thấy Yến ngoảnh mặt đi, hẳn rất khó chịu vì không hiểu Hảo cười ai. Tôi khoả lấp cho xong:
- Lo phần mày đi, tao có rồi.
- Ai?
- Một cô du kích dễ thương. Sẽ giới thiệu với mày. Con chim én vẫn bay tự do.
- Rất tiếc, cô ấy thân mày mà lạnh với tao. Tao không thích những bi kịch bộ ba, cũ rồi, nên tìm cách mới.
Một nhóm bà con xong buổi cấy về qua. Tôi suỵt Hảo im. Hảo ngả sang tiếng Việt khá kiểu cách, giọng và mặt tươi lên rõ:
- Kỷ niệm đúng một năm Duy Hảo bước vào đời chống Mỹ, chúc mừng người hùng Đô Đốc Thiêm tái xuất trận buổi đầu, xin mời hai bạn tối nay họp đồng hương Đà Nẵng.

Hảo mới nhận được một chuyến tiền nhà nữa, mười ngàn. Tôi biết cậu kiếm cớ để khao chúng tôi thôi. Hảo đạp xe ra quán với cái giỏ mây khá to, tự mua các thứ ăn nhậu, khoản ấy cậu rất sành.
- Ta xuống bờ sông chơi, anh.
Yến hay buông tiếng “anh” cuối câu, nũng nịu. Cô nữ sinh mười tám tuổi này, nói cho công bằng, đẹp và duyên dáng hơn Mẫn nhiều. Hảo vừa bảo cô ấy mến tôi, thì ra lâu nay tôi đoán chừng cũng không đến nỗi vơ vào. Có thể cô mến như người anh, người bạn trai, như anh bộ đội kể nhiều chuyện hay. Nên dừng ở đấy là vừa. Dù trách Mẫn thờ ơ, tôi vẫn biết đời tôi gắn liền với Mẫn như cây chò xanh một gốc hai thân. Không thể đùa bỡn với một người thứ ba, nhất là với một cô gái trong trắng và cả tin như Yến.

Đang bước trên những viên đá dẹt lát bãi sông- lại một con suối được đề bạt non- tôi bật kêu:
- Chà, bông bạc!
- Đâu, anh?

Tôi chỉ cho Yến xem một mảng bông bạc bằng cái nong, nhô từng cặp cánh hoa trên mặt nước. Yến ngồi xuống sát bờ, đưa tay ngắt một bông, lắc đầu:
- Xấu òm. Vườn đằng kia có nhiều hoa đẹp, để em xin về cắm bình.
- Người yêu tôi thích nhứt bông bạc. Cô ta khuyên tôi đừng bao giờ ngắt. Nó chỉ đẹp khi vùng vẫy giữa nước chảy xiết.

Yến ngồi im, nhìn bông hoa trên tay, quay lưng lại tôi khá lâu. Rồi Yến kéo ống quần lội luôn xuống sông vốc nước rửa mặt. Tội nghiệp. Tôi nhẹ người sau khi thốt ra được cái điều cần nói rành mạch nhưng phải rất êm.
Lau mặt xong Yến mới bước lên, mỉm cười, giọng hơi khản:
- Chắc chị ấy… đánh giặc giỏi lắm.
- Cô ta đánh nhiều trận tôi không hiểu nổi.
- Ghê thiệt! Chị… chị đẹp không anh?
- Đẹp theo kiểu một cô du kích. Như bông bạc kia.

Yến chợt buông một câu giễu, hơi lạ tai vì khác thói thường:
- Vậy anh làm sao ngắt về nhà được?
- Thì lội ra giữa dòng mà gặp nhau!

Đèn đã nhấp nháy trong xóm. Chúng tôi lặng lẽ về trên những đường mòn trắng mờ. Tôi hơi mệt sau chuyến đi thử sức đầu tiên, và hình như bước chân của Thu Yến cũng nằng nặng.
“Hội đồng hương Đà Nẵng” họp quanh một nồi bún Tàu(6) nấu thịt bò thơm lựng, mấy đĩa kẹo mè xửng, một chùm chai bia 33 và nước cam vàng. Ngoài ba chúng tôi còn có thêm cậu Hưỡn, thấp lùn và đen như than đá, chiến sĩ biệt động Đà Nẵng, vừa phải cưa tay trái. Hưỡn rất ít nói, chỉ cười tủm tỉm cả ngày, nhiều người tưởng cậu bị điếc. Cậu đang nhấp nhổm đợi liền da là về đơn vị đánh tiếp. Hưỡn ăn bún uống bia xong, lẳng lặng biến mất, có lẽ không thích lối nói lắt léo của Hảo. Còn lại ba đứa khề khà tán chuyện Đà Nẵng.

Trời đổ mưa. Cửa sổ lắp kính loe loé hình chữ nhật trắng. Những đêm thế này trên vành đai cực lắm. Trẻ em giãy khóc, không chịu ngủ dưới hầm lầy lội, các bà mẹ nhìn những chớp pháo đen lộn sòng và chớp trời mà lo thắt ruột. Mưa gõ mái lều ồn ào, nghe sao được tiếng đạn hú mà chồm lưng che mảnh cho con.
Tôi bần thần một lúc, rồi bị cuốn theo dòng kỷ niệm chung. Ngọn đèn bão đủ sáng để gợi ánh điện. Tiếng sáo của cậu tiếp phẩm ở nhà sau từng lúc nổi véo von, bay vào buồng như tấm lụa hoa màu tươi làm nền cho chuyện xưa. Căn buồng xanh chuyển mình rất êm, lắc lư, biến thành con thuyền ngược sông, đưa chúng tôi trở về thăm các bến quen đã phủ một lớp sương bạc. Ba người trẻ tuổi từ Đà Nẵng nối nhau ra đi, cùng nhớ một khúc phố, một mảnh bờ biển, một bà bán canh hến có tiếng rao ngọng líu. Nhớ lắm. Những gì lởn vởn hằng ngày tan đi, còn lại ba người bạn đường dài rất muốn thương nhau, đang thương nhau hồn hậu mà buông thả…

Sao thế nhỉ? Con sông chỉ có hai bờ, sao Đà Nẵng có nhiều bộ mặt đến thế? Sao mỗi đứa lại thấy Đà Nẵng từ một góc xa nhau đến thế? Tôi lại nghĩ rồi…
Đà Nẵng của Hảo hiện qua cửa sổ biệt thự và khung kính chiếc xe hơi Đôphin xinh xắn, có những dạ hội ồn nhạc pốp nhạc pít và đẫm thơm nước hoa Paris, có vị ngon của bánh xèo bà Trĩ hồi xưa đã mươi đồng một cái, có nhiều trai “chịu chơi” và gái “đợt sóng mới” ưa đón chàng sinh viên y khoa con nhà giàu hay mua vé máy bay từ Sài Gòn tót về chơi phố quê. Hảo ưa triết lý rằng làm cách mạng cứ làm, học cứ học, chơi cứ chơi, phải nếm cho hết mùi đời muôn vẻ. Nghe lời khuyên rất khẩn khoản của cha, Hảo bước theo cách mạng, thấy mình được việc chẳng thua ai. Hào hoa phong nhã vẫn đánh Mỹ tốt chứ.
Thu Yến biết một Đà Nẵng khác.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #142 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:36:09 pm »

Đó là phòng thi đầy tiếng học trò nức nở trước một đề bài cố bắt trượt, những lời rầu rĩ của người cha giáo chức con đông thêm mà lương teo dần vì tiền mất giá, những mâm cơm cuối tháng phải úp vội lồng bàn khi có khách bước vào căn nhà chật, nhất là những hoàng hôn u uất đè nặng trên hồn người đang chết mòn. Đôi mắt bồ câu của Yến mở to nhìn chặng đường đằng trước, chỉ thấy bùn nhơ, đá lởm chởm, nhiều máu, rất nhiều hơi dịch bệnh bốc nồng, mà phần Yến chỉ có nước mắt. Mãi đến năm ngoái Yến mới liều xuống đường lần đầu với các cô bạn. Lập tức cái chất lửa vùi tro trong người Yến nổi dậy, Yến không ngờ nó mạnh đến vậy. Sau một buổi đầu óc quay cuồng, Yến về đến nhà trong bộ quần áo trắng lấm lem, nón guốc mất hết, nhớ mang máng rằng mình giật được micro một lần và đá hai trái lựu đạn cay, hụt một.

Trong chín ngày thanh niên học sinh làm chủ Đà Nẵng, Yến không biết mình ăn cơm ở đâu và gọi loa những gì đến nỗi mất tiếng. Thế rồi nhà Yến bị soát, Yến bị bắt giam một ngày. Thằng công an không đánh mà chỉ bẹo má: “Xinh quá ta, cho anh yêu một phát đi”. Yến thù nó tím ruột. Rồi lại tiếp những ngày xám xịt sau khi bị đuổi học và ghi sổ đen, Yến lang thang tìm việc mà mắt phải ngó chừng lính Mỹ chẹt xe hay bóp ngực, giúp nhà thì một ngày chỉ mua nổi hai bó rau với một lọn củi cho mười người. Cứ thế đến khi anh Hai gọi cho ra.

Tới phần tôi… Tôi chưa đến nỗi ôm chiếu rách đi rải chân cầu, giữa đêm mưa chui cống rác tránh vây ráp như cậu Hưỡn ít lời, khi cậu còn là “dân lậu giấy” ở Đà Nẵng. Tôi thuộc các phố ở Đà Nẵng lắm bởi đã nhìn chúng qua cặp mắt xoay tròn vì đói, trong khi gò lưng đạp xích lô dưới nắng cháy nhựa đường. Tôi quen cả các đường lẻ ngóc ngách ít gặp cảnh sát thổi còi phạt vạ, đỡ đụng lũ xe nhà binh ưa húc nhào xích lô. Tôi nghe tiếng Đà Nẵng đêm đêm lách qua cửa đóng kín, vào căn bếp sáu thước vuông mà tôi thuê rất đắt, lấy chỗ phóng ảnh kiếm thêm tiền gửi má và em. Đó là tiếng khóc ti tỉ của chị trên gác vừa bị xe cây bịt bùng đến bắt mất anh chồng thợ điện, tiếng chửi sa sả của mụ chủ nhà - một tay buôn lậu cỡ bự được cảnh sát che chở nhờ khéo lót tiền và lót thân, tiếng cười sặc sụa dội từ ngôi nhà rực nêông bên cạnh một con hạm no mồi, tiếng ho khúc khắc của cô gái điếm lao phổi khuya về rón rén. Tôi cởi trần ngồi trước máy phóng, giao cái lưng ướt mồ hôi cho muỗi chích, từng lúc nảy người khi chuột cắn thử đầu ngón chân hay giật xé tờ giấy ảnh đã bị một con gián xập xòe đậu vào dưới luồng sáng, còn lũ gián từ lũ cống bên hè bò lên vai lên cổ thì mặc kệ chúng. Mãi sau này, ngay cả lúc sốt rét nằm run giữa rừng hay húp chén canh sắn không muối trừ bữa, tôi vẫn rùng mình khi nhớ lại mấy năm kiếm ăn ở Đà Nẵng, nơi tôi đã hiểu thấu đến tủy sống hai chữ bất công, nơi tôi học thù ghét mọi kiểu bất công trên đời.

Hồi ấy giặc đang mạnh. Trên tờ giấy ngâm vào thuốc hiện, từng mảnh đậm lợt nổi lên dần, mà những đau xót, căm uất, những cơn điên đòi bắn chém cắn xé trong tôi còn phải ứ mãi như hình ẩn chưa gặp thuốc. An ủi chỉ đến từ nửa đêm trở đi, khi cuộn phim giấu kỹ được moi ra, rồi trang truyền đơn hay trang báo nổi chữ li ti trên giấy ảnh. Tôi đọc vội những lời cháy lửa của ta gửi cho ta dưới đèn an toàn lù mù, đó là những phút chói lọi nhất trong cái vòng tròn hăm bốn giờ quay mãi mà chưa thấy sáng. Tổ chức cấm tôi lộ mặt, tôi càng giống cái nồi hơi bị khoá mất xupap, rất dễ nổ. Những gì Thu Yến và các bạn làm gần đây như cơm bữa, dạo xưa là những cơn thèm dữ dội của tôi: đốt cái xe Mỹ vừa húc mình nhào, và bơm xích lô nện vào đầu tụi lính hở lính kín, nửa đêm cầm lựu đạn luồn tới bót cảnh sát hay tiệm rượu dành riêng cho Mỹ.

Tôi đã biết vì sao tôi tham gia gợi chuyện cậu Hưỡn lầm lì, vì sao Thu Yến thích gần tôi hơn. Hảo chưa hiểu. Đi song song với nhau trên hai bờ kênh lâu lắm rồi. Tôi quý Hảo, biết ơn Hảo hết lòng giữ cho tôi sống, càng phải bắc nhanh cái cầu để hai đứa tới sát bên nhau.

Trời mưa mỗi lúc một lớn. Chớp đánh khi xa khi gần. Gió hú. Tôi ngắm hai khuôn mặt tươi nở, cảm thấy hơi ấm của tình bạn đang bao quanh tôi, thấm vào từng ánh mắt, từng câu tâm tình thấp giọng. Phải đấy, bên ngoài dông tố càng to, chúng mình càng phải nhích lại gần nhau hơn, sao cho tình bạn rất đẹp của tuổi trẻ ngày càng thêm chất men thiêng của tình đồng chí.

Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #143 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:41:34 pm »

Đêm sau, anh xã đội trưởng mời tôi đi gặp cán bộ và du kích. Thu Yến vẫn mang túi thuốc kèm tôi từng bước, qua chỗ khó lại đưa vai cho tôi vịn, rất ngoan. Anh em trầm trồ, tấm tắc, xuýt xoa khi nghe chuyện Tam Sa đánh Mỹ. Chính tôi cũng thấy lạ: khi đang ở trong cuộc, cái gì xảy ra cũng có vẻ bình thường, không thể khác; nay ôn lại mùa hè chống Mỹ trên vành đai, tôi mới nhận ra mỗi ngày và mỗi mái nhà ở làng Cá có một sức chứa kỳ diệu, bao nhiêu sự tích anh hùng vẫn đựng được hết.
Lá thư của Mẫn chọn đúng lúc này để đến với tôi. Trở về nhà, tôi thấy ngay cái phong bì nhỏ dán bằng báo cũ đặt trên giường với nét chữ tròn của Mẫn. Dày hơn thư trước. Miễn là Mẫn không gửi tài liệu địch cùng mấy chữ nhờ tôi dịch. .. Hai tờ giấy kép dứt từ giấy vở trăm trang, viết kín, cả chung quanh những chỗ thủng bụng cũng lèn thêm được mấy dòng:

Anh Thiêm của em ơi!
Giặc Mỹ xúc gần hết hai thôn vùng cát rồi anh à. Mấy bữa nay em không nhắm mắt được chi cả, hễ nằm một lát lại đập tay xuống chiếu giận muốn kêu trời!!! Mình diệt xong cái núi Sàm thì sáng ra giặc Mỹ càn lên đông đen mà tụi em cản không thấu, nó đốt nhà đánh người rất thâm độc rồi ra lịnh không dời xuống biển thì nó thả hơi độc hủy diệt hết trơn, may phước tụi em rình diệt được một cánh hai mươi mốt tên nó mới chịu rút, bà con chưa đến nỗi phải ngậm hờn lìa quê! Từ đó giặc càn đổ đồng ba ngày hai trận, đóng thêm hai đồn trên vùng gò sau lưng ta…

Tôi hồi hộp chờ gặp những tin xấu nhất. Nhưng bốn thôn Tứ Nhơn vẫn trụ vững, bám chắc. Bà con Nhị Lộc lai rai kéo về được chừng một nửa, còn về tiếp. Du kích xã và thôn đã tăng gấp ba, súng gần đủ, “con số bao nhiêu anh biết rồi”, cẩn thận đấy. Mạnh nhất là mảnh đất Cuba, nơi tôi gắn bó hơn cả. Mẹ Sáu bị đốt mất nửa số lúa giấu. Út Liềm có người anh trúng pháo gãy tay. Ông thầy Mười biến thành thầy địa, chuyên chống gậy đi coi thế đất đặt bãi chông mìn. Những người thân nhắc tới tôi luôn, ngóng tôi về thăm một chút để tin chắc tôi còn. Các đồng chí tiến bộ hết, “con số tăng gấp rưỡi mà cái chất thì vô cùng phấn khởi”. Chú Tám Liệp rất xông xáo, hay nhắn thăm tôi, kể rằng trước kia ăn ở với tôi có lúc chẳng ra sao. Bây giờ Mẫn đang lo vụ cấy, máy bơm bị phá, trâu chết nhiều, người ra đồng dễ trúng đạn xỉa bốn bề, đấu gắt thì địch ngớt năm bảy ngày lại bắn nữa. Còn phải đưa bớt trẻ nhỏ ra xa vành đai, mở lớp học cho trẻ lớn. Còn việc chữa bệnh, đòi đi chợ, vót chông đúc mìn…

Một trăm cái lo, em chẳng lo gì bằng bà con mình ngán Mỹ. Đụng mấy trận đầu dữ quá nhiều người cũng ngán thiệt, bây giờ đỡ rồi anh à, các bà nói hồi xưa sợ cháy nhà hư vườn tao có hơi né né tụi nó, giờ nó phá sạch trơn rồi tao chẳng còn gì mà phải né, tao đánh thí xác cho đã nư. Mà giết một thằng Mỹ giá trị bằng mười thằng Ngụy, nghe nói Mỹ đóng cùng trái đất mà chẳng chết, tới nước mình mới chết, bà con hỉ hả lắm, em cũng mừng…

Tôi chưng hửng khi biết Mẫn mới nhận được ba lá thư của tôi hôm kia – nghĩa là cách đây bảy ngày. Thì ra anh Tư Luân lên Tam Lý uống thuốc bắc chữa khớp, tôi đề gửi cho anh nên thư chạy vòng mất, anh về thăm xã mới đưa tận tay cho Mẫn.

Ôi chao, chị Tám nạt em một trận hết hồn! Chị kêu chưa thấy đứa nào tệ như em, nói yêu anh mà thơ không ra thơ, người chẳng thấy người, anh có sao thì tội về em hết. Em nghe chị trách mà đứt ruột anh ơi, bụng em đâu đen bạc vậy. Đưa anh đi rồi em chống càn mà nhớ anh không nuốt nổi miếng cơm, tới khi Út Hoà về nói anh không nguy thì em mới như người sống lại. Việc búi quá mà em dốt nát, viết thơ xong thấy lạt lẽo quá em lại xé đốt, cứ lần lữa tính lên thăm anh mới tỏ hết nỗi lòng, dè đâu mắc lỗi với anh quá thể, thôi anh thương phần nào em nhờ phần nấy, lỡ rồi, em chỉ còn chịu lỗi với người yêu quý nhứt của đời em…
Đọc lần nữa, tôi nhận thấy thư Mẫn đoạn đầu và đoạn cuối viết bằng bút bi, khúc giữa bút máy. Đâu đến bảy tám lần nét chữ bỗng đậm hẳn lên, có khi giữa câu. Mẫn viết từng khúc như ghi nhật ký, giữa những đợt pháo cực nhanh thình lình nổ toé bên mình, và đố biết bao nhiêu chục người đã đâm bổ tới với tin hoả tốc hay một việc không tên nào đó, ngắt quãng những phút Mẫn dành cho tôi. Một trang giấy dính bùn lau chưa hết, chắc bom hắt qua miệng hầm…

Tôi tắt đèn, vẫn ngồi chống cùi trên bàn, hai tay ép là thư vào trán, buông mình vào cái yên tĩnh mênh mông đang toả khắp chung quanh và ngấm vào người tôi từng chút một.
Sáng ra, tôi bàn với Hảo khi cậu khám bệnh:
- Tao đỡ rồi. Cho tao nằm chung với anh em bị nhẹ nghen.
- Nhà thừa lu bù, mày ở đây giữ cái câu lạc bộ Đà Nẵng, tụi mình đấu hót cho vui. Chẳng ai so bì với đồng chí trọng thương đâu.
- Một mình một cõi, vắng quá…

Tôi biết mình chưa ra viện được. Chẳng nên sồn sồn đòi về đơn vị để rồi làm phiền anh em cõng gạo cho ăn, mang giúp ba lô khi đi đường, có lúc phải khiêng cả người, bỏ thương vương tội. Nhưng tôi cần nhích dần tới mặt trận, thở cái không khí cay nồng mà anh em mang từ tuyến lửa về như cây bị rợp cần ngoi ra nắng, tự kiếm lấy màu xanh diệp lục để lớn lên.

Cuộc chiến đấu trên giường bệnh có mặt nguy hiểm riêng của nó.
Bị buộc phải hầu hạ cái thân xác quá lâu, tôi đã thắng các vết thương nhưng lại mắc một cái gì nữa na ná như tác dụng ngược của thuốc. Cảnh sống nhàn rỗi no đủ làm nhão bắp thịt; sự chiều chuộng của chung quanh và những “tính toán giùm” của Hảo gợi cho tôi nhiều đòi hỏi, so bì mà trước đây tôi không có. Tôi vẫn cưỡng lại chúng, không buông xuôi hẳn, nhưng sức chống đỡ ấy yếu và lộn xộn. Cặp mắt đã kéo màng ích kỷ, còn mỏng nhưng cũng đủ làm cho mọi thứ nhoà đi, lộn lạo, có khi đảo ngược. Rất may, tôi mới bị vài cơn quáng gà thôi, chưa nặng…

Độp một cái, bệnh xá được lệnh dời gấp. Máy bay Mỹ sắp đánh phá vùng này, chúng không để sót một góc ấm nào cả trên đất miền Nam.
(--Hết chương 23--)

Chú thích:
(1) Mời ngài xơi
- Cảm ơn
(2) Tạm biệt
(3) Tiếng thét xung trận của người Anh điêng, tức da đỏ (Whoppel)
(4) Gọi tắt và thân tên Risớt
(5) Herriet Tubman, đàn bà da đen và John Brown, đàn ông da trắng, đều nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh giải phóng nô lệ da đen ở Mỹ.
(6) Miến
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #144 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:42:32 pm »

Chương 24

Phản lực đánh mỏ vàng Bông-miêu suốt năm ngày đêm qua.
Cứ con mắt nhà binh mà nhìn thì Bông –miêu phải là chỗ đầy nhóc Việt cộng: một khu mỏ lớn nằm sâu trong “vùng đỏ”, sát núi, nhiều hầm lò ngóc ngách rất tiện tránh bom. Ảnh chụp từ máy bay cho thấy đường ô tô ra vào còn nguyên, nhiều nhà gạch nhô mái giữa cây rậm. Các bản “không đồ” chụp bằng tia cực đỏ đã ghi được chỗ nhiều tập trung kim loại dưới vòm lá kín. Hẳn Vi-xi đóng ở đây hàng sư đoàn, đặt các kho súng đạn, có thể đang đào quặng nấu vàng làm giầu lắm. Đáng ném vài ngàn tấn chất nổ lắm!

Mỗi tờ mờ sáng, cặp tàu rà vè vè bay lên, hứng ảnh mặt trời dưới cánh đỏ làm như bết máu, tìm dấu mới. đợi tốp cường kích đầu tiên ào tới mới thổi rốc-két khói. Tụi trâu điên đổi ca nhau rất đều, không nghỉ trưa, gặp mưa to cũng thả bom áng chừng qua mây. Đêm những chiếc C.47 hay C.130 cõng ra-đa quần chậm như diều giấy, đót chớp ma-nhê-di chụp ảnh pình pình, từng lúc thả một lọat đèn dù cho phản lực đánh cầu may. Cái thung lũng hẹp đã loét đỏ và sạm đen gần hết, chúng vẫn làm tới nữa vì Việt cộng có những hoạt động khó hiểu cứ tăng dần. Sẩm tối ngày đầu, giữa lúc ít ngờ nhất, hang chục súng máy từ mặt đất đã gần đen kịt chợt bắn lên như vòi phun, hạ tức khắc một F.4 và một C.47. Qua suốt đêm treo đèn, sáng sau tốp UH.1B câuvề hai bộ xương sắt đã mất hết những bộ phận nào có thể tháo được. Rồi lại có những đống lửa do người đốt bỏ lại, một túp lều từ lòng đất mọc lên như trong thần thoại, đôi cái áo trắng phơi ngay bên miệng phễu. Tức chịu hết nổi! Tất cả số máy bay vá bom đánh cho vùng mới mất, tụi Mỹ tống cả vào Bông-miêu, chỉ đôi lần đánh lẻ dọc đường ô-tô lên Trà-mi, bắn nhà thờ An-lâu gãy đầu tượng Đức Mẹ, đuổi theo bầy trâu nhảy loạn ở Phước –hiệp.

Anh Ba Tơ với chú Dé đã đem cho tôi xem số giấy tờ lấy được trên ba cái xác Mỹ chưa bị cháy, hẹn gò làm quà một ăng-gô laọi bảnh bằng vỏ đu-ra. Chính xê mình quật hai chiếc hôm nọ. Bây giờ đang bận học, giao cho xê khác đến khu mỏ vàng bỏ hoang mà tập bắn cho đã thèm.

Tiểu đoàn tôi về cách bệnh xá mươi cây số, sắp đánh lớn. Anh Ba Tơ đi chuẩn bị trận mới. Anh rỉ tai làm tôi ngừng thở: “Hiệp-đức, Quế-sơn, dọn sạch hai quận một lần!”. Cha mẹ ơi, vậy mà tôi phải nằm đây đến thối lưng!

Thấy tôi bồn chồn quá, anh Ba nán lại với tôi một buổi để nói thật kỹ kinh nghiệm trận núi Sâm. Ở Tam-sa anh giục tôi về xê mình gấp, bây giờ anh dỗ tôi cứ chữa thật lành. “ở nhà” mọi việc toàn màu hồng cả. Anh tô hồng vụng nhưng tôi giả vờ tin cho anh vui, và không tin cũng chẳng ra viện được ngay. Chú Dé vừa được them một huân chương sau núi Sâm – chuỗi bộc phá ngon lành nổ từ hàng rào thứ nhất đến lô-cốt đầu cầu là do chú đánh- cứ lắc đầu quầy quậy:
- Cái bụng anh Thiêm xấu. Anh Thiêm làm cái bụng tốt tốt, về xê mình.
Đã bắt tay ra đi, anh Ba Tơ còn quay, rút đưa cho tôi một tập giấy in rô-nê-ô khá dày, ngập ngừng:
- Chắc thằng Giai cự tao… thôi, mày chứ giữ mà đọc kỹ, hồi nào trung đoàn cho người tới lấy thì đưa, đừng gời giao lien. Mày nói cũng phải. Tụi mình không sợ địch mà sợ dốt, sợ phụ lòng an hem tin cậy. Ráng học cho nó khuây nghen Thiêm.

Đó là ba bản kinh nghiệm rất quý. Một về bắn máy bay Mỹ, một về chống cơ giới và các binh khí kỹ thuật mới của Mỹ, hai xấp này chỉ đóng dấu mật. Hẳn cánh cán bộ đại đội rất dễ “cầm lầm” của nhau món này, chong đèn chép tay vội vàng trong vài đêm, khi trả thì đưa ngực chịu đấm mà trừ. Tập thứ ba là một ản báo cáo tối mật về quân đội Mỹ ở Đà Nẵng, Chu Lai, kèm theo những kinh nghiệm chống Mỹ đầu tiên và một loạt goẹi ý cho cán bộ tự nghiên cứu thêm. Chủ biên là anh Điển, trong nhóm biên soạn tám người có cả tên tôi, chao, ông thầy cũ chu đáo lắm. Bản này đánh số 09, cái phiếu mượn tài liệu kẹp trên đầu cho biết anh Ba Tơ chỉ được giữ nó đến ngày mai. Ngót trăm trang mà cho mượn có năm ngày, hẳn là của hiếm, anh cứ giúi bừa cho tôi, thật tội.

Tôi đang ngốn vội như học trò sắp thi, anh Giai cho một cậu cầm thư đến, đồng ý để tôi giữ luôn cả ba bản. Riêng cái báo cáo tối mật, anh Điển có gửi phần tôi một bản riêng, trung đòan sẽ lấy nó mà dung. Anh Giai còn gửi biếu tôi một hộp đựng tài liệu mặt bằng sắt tây, chứa sẵn một lạng thuốc nổ, khi lôi thôi sẽ giật nụ xòe và ném cho tan hết. Kỷ luật bảo mật ngày càng nghiêm. Có ông bảo vệ đã dọa tôi : “ Chết mà mất tài liệu thì tao viết giấy cảnh cáo bỏ vào hòm mày, thương tiếc để sau!”.

Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #145 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:43:37 pm »

Sáng nay, tôi treo võng giữa hai gốc cau, gần miệng hầm, nằm ngửa tập bắn máy bay. Vòng quần của tụi phản lực phá Bông-miêu mở đến tận cái xóm nghèo và thưa thớt này.

Khó tin tiếng rống nhức tai từ hẻm núi dội lên chính là do mấy con chim nhòm ấy phát ra. Tôi nhớ những chiều xê mình làm cỏ rẫy trên sườn núi, cả trăm người bỗng nổi hét rầm rầm khi một bầy vẹt thả xuôi cánh nhọn chực đáp xuống ăn bắp già, chúng hốt hoảng lao qua vòng vây tiếng dữ, bay trốn, và chúng tôi cười thả cửa. Hình như lúc này đất mình đang quát đuổi máy bay mới phải… Tôi nhắm mắt, mở ra, chộp ngay chiếc phản lực đang phóng tới, nhận thật nhanh nó là kiểu gì, bay bao nhiêu mét giây, độ cao, chiều dài của than và sải cánh, tính gấp khoảng ngắm đón, hô thầm một lệnh bắn. Đơn giản và thú vị nhất là “ngắm giữa đầu, bắn!”, nhưng đâu phải lúc nào cũng được ăn ngon như vậy.

Đây nhé… Ép một trăm, hai trăm năm mươi mét giây, cao ba trăm, đòn bốn mươi phân.. Chậm quá. Nó qua khỏi vật chuẩn, chúc đầu về phía mỏ, ụp-ùm đằng xa tiếng rốc-két vẳng lại. Tôi bực như vừa nổ súng vuốt đuôi, liếc dem lại tập giấy. Thuộc đấy mà chưa nhuyễn. Có thể bắn chiếc thứ hai hay vòng quần thứ hai , nhưng đường bay đã khác, chỗ núp lộ, bom sẽ rơi từ rất cao xuống trận địa ta. Ước sao tôi không bao giờ phải nghe tiếng “hừ” bực dọc của an hem xê mình sau khi bắt hụt, đọc trong mắt của đồng chí bị thương một lời trách thầm lặng, ngậm miệng nghe bình cán bộ : “Anh Thiêm đánh gan, hòa mình được với an hem, có điều chỉ huy còn non…”

Tôi bắn nhẩm một loạt nữa, đỡ chậm, nhưng chưa trúng.

Có phải vì ba tôi khi xưa đã tát bốp vào mặt tôi khi khám cái bu-gi mà tôi vừa đánh sạch, thấy khe hở giữa hai điện cực bị rộng thêm một phần mười ly? Hay vì tôi nín thở cân đúng nửa gam brô-mua, lấc láo dòm từ cây kim đồng hồ đến cái nhiệt kế to chỉ từng phần tư độ trong khi tráng phim màu? Hay vì tôi quý anh em lắm, nên khi cần đổ mười giọt máu thì quyết không chịu đổ tới mười một? Dù sao, trong nếp suy nghĩ của tôi vẫn đầy những lo toan kiểu ấy, tôi cố tìm một sự tối ưu mà đôi người thấy là máy móc. Khi cần liều sẽ hay…

Yến bật cười bên tôi:
- Cúng ai mà khấn hoài vây, anh Thiêm?
Tôi quay lại , cười theo:
- À … Cúng ông Địa, xin ổng một miếng bụng đắp vô.
Từ nãy Yến lúi húi moi giúp tôi cái hầm cũ cho rông thêm , cần ngủ dưới ấy tôi cũng đỡ co đôi chân dài. Đi đò với ngủ hầm, cứ muốn chân tay có ốc tai hồng để tháo bớt ra cho đỡ cấn. Yến xúc từng xẻng đất hắt lên nắp, khá vụng, đất rơi xuống khăn trùm đầu từng vốc, hai bàn tay Yến xỏ trong túi vải thay găng.
- Anh đào bao nhiêu hầm mới hết đau tay, anh Thiêm?
- Chín mười tuổi tôi đã cuốc đất khoai.
- Dóc tướng!
- Thiệt. Hồi nào dỡ. tôi đi cày Yến coi.
- Cày đường nhựa trước Thiên thai ảnh viện…
Tôi thích chụp cho Yến một tấm ảnh màu giữa lúc này. Màu hòa hợp rất đẹp nhé. Râm bụt xanh có hoa đỏ, than cau trắng, áo cỏ úa dính từng mảng đất nâu non, mặt hồng dưới khăn dù hoa. Trong ba lô của Yến có cái áo dài quần trắng giấu kỹ, nhưng tôi đã chụp quá nhiều giai nhân trong buồng khuê, xin đủ thôi. Còn các cô “đầm lô-can” mặc váy mini phơi đùi xoài tượng khảm xà cừ, áo hở nách bày cánh tay giống cửa tiệm đồng hồ, thì tôi ngấy đến trăm tuổi già chưa hết ngấy.

Câu lạc bộ Đã Nẵng từ căn buồng trang nhã dời về một nhà tranh nhỏ rất ấm tình người. Bà mẹ với cô em nhận nuôi anh thương binh nào bị năng nhất, thương tôi như người nhà. Cái thời rảnh rỗi ở Cẩm Tú đã dứt, anh chị em nhân viên phải đào hầm, cõng gạo xa, cuốc ruộng cấy lúa tự túc theo lênh mới. Hảo với Yến vất vả hơn nhưng than nhau hơn, Hảo ngừng chơi nước thượng và Yến không lạnh mặt nữa. Cái tình bạn bộ ba của chúng tôi coi bộ sống lâu, còn cậu Hưỡn chỉ gần tôi mà tránh nhập bọn với “các anh chị học cao”, tôi đồ không chuyển. Phần tôi, sau hai đêm cậu Hưỡn lê được mười ba cây số, đã bắt đầu tập mang ba lô đi bộ. Mức cao nhât tới nay là hai cây số với năm cân trên lưng, nịt súng đạn vẫn phải khoác vai chứ chưa thắt bụng.

Nắng đã lên cao. Tôi cuốn võng vào nhà nằm đọc cho đỡ chói mắt.
Tụi phản lực hôm nay cố đánh nát con đường ô tô từ mỏ chạy ra, sạt qua xóm thấp hơn. Hồi nhỏ xíu tôi đã nghe những tiếng hệt vậy. Tôi theo ba tôi vào chỗ sửa xe của hãng STACA, chơi tha thẩn rồi chui vào xó ga ra ngủ thiu thiu, trong tai vẫn ồn tiếng những thùng phuy rỗng lăn từ xe tải xuống theo cai cầu nghiêng, thúc mạnh vào thùng khác. Thằng cai Tây bắt gặp, đá vào hông đuổi tôi ra ngoài, phạt ba tôi một ngày lương…
- Anh Thiêm!
Tôi chưa kịp quay lại, đã biết Mẫn đến.

Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #146 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:47:43 pm »

Đồng chí an ninh thôn thấy cần phân bua rất dài:
- Là tại chỉ chớ. Đang khi tàu bay bắn gần, chỉ đi tìm bệnh xá, tôi liếc xéo thấy cái gì như sung lục dưới áo, nghi liền. Coi giấy, chẳng được chữ nào là bệnh xá hết. Tôi nói không có đâu, chỉ cứ nói có. Tôi hỏi quen ai ở đó, chỉ nói bạn anh Thiêm thương binh. Tôi lắc: bạn không được, cha mẹ vợ con mới được, cơ quan cấm vô tràn lan, lộ điểm. Chỉ nói là em gái. Em, sao mặt mũi không giống, phỉnh tôi được à? Chị lại nói là vợ anh. Cha, cũng một người mà cả vợ, cả em cả bạn, chắc điệp rồi. Tôi vặn: chánh hiệu tôi là ạn anh Thiêm đây, tôi biết ảnh chưa có vợ, đừng nhận ba láp. Chỉ đứng khớ ra, cười ngỏn ngoẻn. Tôi hô du kích bắt. Chỉ cười, tháo sung đưa, còn dặn đừng táy máy nổ bậy. Giải về mặt trận thử coi…

Mẫn đứng bên cửa ngó tôi, mắt long lanh, má đỏ ửng. Tôi ngây người nhìn Mẫn, quên cả mở miệng. Cậu an ninh chợt nghi lần nữa:
- Ủa, vợ sao anh không biết mặt ?
Tôi bật cười ồ, đứng dậy:
- Đúng vợ tôi chớ. Vợ sắp cưới. Ông cứ yên chí lớn.
- Chẳng tin anh thì tin ai, có điều… tên gì anh nói thử?
- Mẫn. Phan Thị Mẫn. Thôi, xin cây súng.

Tôi đón cái nịt nhỏ đeo cây sung ngắn 7 ly 65 với hai cái băng ngoài, đón luôn bao lưng và mũ tai bèo của Mẫn. Cậu an ninh gật gù quay ra, còn kể bô bô câu chuyện bắt vợ anh Thiêm ngoài sân, them một lần ngoài ngõ. Lập tức bà con trong xóm và anh chị em trong bệnh xá kéo tới chơi, coi chị Thiêm ra sao mà đến cách ly kỳ vậy.

Chúng tôi chưa kịp nói chuyện với nhau câu nào đã tiếp khách ngay như một đôi tân hôn. Cũng rót nước, mời ngồi, trả lời một trăm câu hỏi săn đón. Mẫn rụt rè hơn cô cán bộ một tí, rất vừa. Tiếp tới bà mẹ và cô em đi cấy về, Mẫn xuống bếp nấu cơm, bà mẹ đuổi hai chị em đi tắm giặt với nhau để mẹ lo hết.

Hơn ba giờ sau nhà mới vắng hẳn. Hai đứa ngồi đối mặt nhau hai bên cái bàn như hội đàm, khay nước đặt ở giữa, rất ngoan. Mẫn trách ngay:
- Gớm, con mắt…
- Sao?
- Đông khách mà anh ngó em chằm chặp, mắc cỡ khiếp. Em tưởng mặt em dính đất hay lọ nồi, phải lén đi rửa.
- Tại anh nhớ quá. Không nói được, anh phải ngó thôi.
Mẫn từ từ cúi đầu, tay vo cái khăn, giọng rất buồn:
- Em sợ…
- Sợ gì?
- Đi dọc đường, em đoán chắn anh giận, có khi anh chẳng them hỏi tới. Trăm dâu đổ đầu tằm, em chịu trái với anh hết…

Suốt đời cô Hai này chỉ biết nghĩ tới người khác thôi ư? Bên cạnh cái gánh công tác trĩu vai, Mẫn phải lo cho cha mẹ, các em, con nuôi hay đèo thêm mói lo người yêu chưa được săn sóc, sao Mẫn không tính tới mình một chút cho công bằng? Cái nếp vận cả vào thân ấy chưa dễ gì thay đổi. Hãy làm cho Mẫn tươi chút đã… Tôi nghiêng người tới trước:
- Anh hôn em nghen.
- Úi, người ta thấy!
- Vậy em cười một cái thiệt vui cho anh coi, trừ nợ… Hôn đây nè, cười không?

Mẫn lau mắt, cười gượng, nấc nhẹ trong cổ, lại cười rất xinh, cười dài:
- Chết với anh mất. Đêm em nằm cứ nhớ bao lần anh giỡn, em cười rúc rich, con Hoà kêu: “ Chị Hai, mơ gì vậy?”. Em phải nói chiêm bao thấy cái gì vui lắm, quên rồi. Tới hôm được ba lá thơ anh, em coi rồi cứ bắt hát một mình hoài, mừng quá mà.
- Vợ lính thăm chồng, cho cái gì chưa thấy bày ra?

Mẫn “à” một tiếng, tung tăng đi mở cái bao xi-ta trên giường. Hạnh phúc của Mẫn đấy, cái hạnh phúc được đem cho. Áo bà ba của Mẫn vá đắp một miếng trên vai phải, cây các-bin nhai áo rất khoẻ. Quà cả đống, lấy ra xong cái bao chỉ còn bằng cai túi dết. Chuối khô, mít khô ngào đường, chè nhỏ, sữa bột, đường, các ngừ chà bông, chao ôi, mỗi người gửi một ít, của ngon làng Cá kéo lên đây hết còn gì.

Từ nãy tôi đã thấy Mẫn đổi khác nhiều, mặt và người đầy đặn hơn, da trắng hơn. Tại sao nhỉ? Tôi bưới tới gần, Mẫn hơi né người một chút.
- Ông tướng, đừng ẩu nghen. Bà con cười em chớ đâu có cười anh.
- Sao coi bộ em lên cân…
- Em quên chưa kể, em lên tỉnh học nửa tháng, mang các thứ theo mà không kịp ghé bệnh xá. Càng học càng mê, dốt khổ lắm anh ơi. Tỉnh nuôi sang ghê, nói cái gì quý nhứt phải dành cho vành đai, bắt em tiêm thuốc lu bù nữa. Chín rưỡi tối chưa ngủ thì y tá thổi đèn, kỳ không vậy, làm gì chẳng mập! Khi về em nói đi thăm anh, các anh chị trong Đảng uỷ ưng hết, chị Tám Giàu biểu em ở lại thiệt lâu, chưă hết Mĩ đâu mà sợ mất phần. Chị còn dặn… thôi, để sau sau đã. Em ở đây với anh… ba ngày được không?
- Ồ!
Tôi thú quá. Mẫn tưởng tôi chê ít, năn nỉ:
- Anh nghĩ giùm, bây giờ em phải nằm du kích mười hai xã, ngợp quá, chưa biết cạy gỡ ra sao cho thấu..

Chị Tám với Mẫn được chỉ định vào Đảng uỷ khu vành đai diệt Mỹ Chu-lai mới lập. So với hồi làm bí thư xã thì đỡ búi việc hơn, các anh chị nói Mẫn là em gái út phải cho học nhiều. Khu này ngang huyện. Đồng chí huyện uỷ trẻ thật, càng trẻ măng ra sau nửa tháng được ngủ đẫy giấc, hồi ở Tam-sa tôi chưa bao giờ thấy Mẫn được ngủ đến bốn tiếng mỗi đêm ngày, có khi thức trắng băng đi cả tuần. Tôi bước tới nữa. Mẫn nép hẳn vào cột, rất hoảng:
- Kìa, đừng có điên điên…
- Không đâu, anh thấy em lạ lắm…

Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #147 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:49:59 pm »

Mẫn ngạc nhiên, buôn các gói quà đang tháo xem bị mốc hay không, quay lại. Lạ thật. Mẫn có đôi mắt đàn ông, bây giờ them đôi má phính tròn như trẻ em, cặp môi hậu và đỏ tươi rất con gái. Ba giới trên một khuôn mặt, sao đến giờ tôi mới nhận ra?

Chắn Mẫn quen với mặt mình, ít ngắm vuốt, không để ý đến những nét riêng ấy. đứng trước tôi, Mẫn chỉ hiểu rằng mình đang được yêu. Một người con trai yêu Mẫn, còn nồng nàn gấp mấy cái độ Mẫn chờ đợi bấy nay. Tình yêu ấy tưởng chỉ có còn trong câu hát đêm trăng thôi chứ, ngoài đời cũng có thật ư… Hơi men mạnh quá. Mẫn say. Mẫn đứng dựa cột, hai tay vịn vào phên như choáng váng sắp ngã, mỉm nửa miệng cười chung chung, mặt ngời lên vầng sáng hồng bên trong mà tôi hay thấy. Chúng tôi ngăm nhau đắm đuối, rất lâu. Rồi Mẫn chép miệng một cái, đi ra sân, ngó quanh, thoăn thoắt quay vào, sà luôn vào tay tôi:
- Tội nghiệp… anh hôn em đi.

Bầy phản lực vòng qua gần hơn. Dưới gầm cầu sắt có xe lửa chạy qua không ngớt, tôi hôn Mẫn cái hôn cháy rực có mùi mít chin của làng Cá. Bàn tay Mẫn vuốt mà tôi rất nhám. Lại cuốc ruộng đêm mãi. Tôi hôn những vết chai trong long bàn tay mềm. Rốc-két rít lên tiếng nghiến răng trên đầu. Tôi sống hẳn với khu vành đai ba ngày, bên Mẫn. Mặt trời lặng lẽ đi vội từ biển về núi, còn các bữa cơm và giờ làm thuốc cứ đến lia lịa không để cho chúng tôi yên than. Yên nghĩa là chuyện trò với nhau, chứ không phải ngồi một chỗ.

Sáng Mẫn thu quần áo chăn chiếu của thương binh đi giặt, về lại chặt chuối cho heo, nấu cám, quét dọn, nấu cơm trưa, đi hái rau chiều giúp chị nuôi, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy chào tôi sang ngủ chung với Thu Yến. Ban đầu tôi cũng như mọi người can Mẫn đừng làm, nhưng thôi ngay sau khi Mẫn nhắc khẽ: “Anh đi với em”. Tôi biến thành cái bong của Mẫn rất “hợp pháp”. Mẫn hỏi to: “Giặt chiếu chỗ nào, anh?”, tôi khoác nịt súng vào vai đưa Mẫn ra tận con suối đá dưới chân đồi, bà mẹ biết tôi sẽ về chậm vì chưa đi được nhanh. Vào bếp, hai tay Mẫn vừa buông dầm lại cầm chèo, tôi ngồi trên cái võng gai nghe chuyện, ai thấy cũng khen chị Thiêm chăm làm và anh Thiêm quý vợ.

Mẫn làm việc thạo đến nỗi không cần nhìn xuống tay mà cái gì cũng xong gọn trơn. Lên ba đã bắt đầu giữ em, lên sáu biết “ nồi cơm bắc xuống, nồi chè bắc lên”, thêm vài tuổi nữa đã lo liệu “ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau”. Hồi ở làng Cá, phải qua nhiều ngày gần nhau tôi mới tin rằng Mẫn có thể vừa đạp chè hay vá áo vừa bàn kỹ một kế hoạch tác chiến. Tôi thì chịu, làm gì cũng hùng hục chúi mũi vào một việc thôi. Đông Tây kim cổ, các cô gái luôn luôn được ví như hoa chứ không ai so sanh với rau. Tôi rất thú khi biết bông bạc có thể luộc ăn được. Mẫn đấy, bông hoa nuôi sống người.

- Tiếng Mỹ, gì là bỏ sung xuống, em quên…
- Gân-đao-n!
- Đằng sau quay?
- Phây-xơ-hao, lơ-n! Em học nhiều chưa?
- Mới mươi tiếng. Tức cười, bữa đánh nú Sàm, bắt được thằng Mỹ, các ảnh giao thằng Tâm nhà em giải về huyện đội. Nó trói cả hai cho đi trước, nó đằng sau cầm lái, biết được có gâu là đi. Tới chỗ rẽ, nó kêu miết mà thằng Mĩ cứ trật đường, nó nổi vung chạy lên hét: “Mẹ cố tổ mày, tao biểu gâu bên tay mặt, mày cứ gâu tầm bậy là sao?” Sau nó tháo dây võng cột chằng hai đứa, dắt đi như cặp trâu.

Tôi cười đau bụng. Mẫn học nhẩm mấy từ mới, kêu thứ tiếng gì nói trẹo bản họng rồi ngừng tay xắt chuối cây trầm ngâm:
- Đỗ miết mà đám con gái nhất định không chịu bắt tù binh Mỹ. Biết ta cần thứ đó, vậy chớ chị em nhỏ con sức yếu, sợ nó đánh nhào giựt súng, sợ nó giải khó nuôi, mà cũng thù nó hiếp nữa. Để em tự bắt một thằng đem về cho chị em tin.

Mẫn nói như sắp tóm con heo sẩy chuồng. Mới hỏi vài lần, tối đến Mẫn đã thuộc long hơn chục khẩu lệnh, giọng khá đúng. Kiểu đó chắc Mẫn làm y như lời, hay hơn thế nữa.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #148 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:51:25 pm »

- Anh biết chưa, nắm đầu được cái thằng điệp hại vợ chồng chị Biền rồi. Thằng Hờ, Mười Hờ, nhớ không? Anh nạt nó một lần rồi đó!

Tôi “à” khoan khoái.

- Nhớ chứ. Mặt hắn đen choắt, tóc gọng kính ngoặc tai. Xưa nhà hắn giàu sụ, hắn thua bạc mấy năm bán ruộng lần lần cho xã Chinh hết, xoay qua nghề mổ heo. Hắn chạy xuống vùng địch ở ít lâu lại về, kêu sợ bom đạn không bằng sợ đói. Hôm nhà bà Miện trúng pháo chết mất đứa con trai và con trâu mộng, tôi đến giúp chôn cất, gặp hắn quảy tới đôi rổ sảo, dao thớt, hòn đá mài dẹt. Bà Miện đang khóc con bên cái nhà bay nửa mái, hắn ngồi xuống tỉ tê: “Chỗ chòm xóm hồi tang ma, tôi chẳng có gì giúp đỡ, chạy được ngàn bạc đây, bà cầm mà lo đám tang cho thằng nhỏ, tội nghiệp. Còn con trâu chết bỏ thối uổng, bà để tôi xẻ, chắc gì được đủ một ngàn, thôi của đổ đi tôi cũng rán hốt về…”. Tôi nóng mũi lắm rồi, còn cố nén để tìm Năm Ri hỏi lại. Con trâu tám chin ngàn bạc, mổ ra bỏ rẻ cũng được năm ngàn. Hắn đưa ra một ngang, bán chịu tới mùa lấy lúa, thu được không phải chỉ gấp năm! Tôi quay lại thì bà Miện đã cầm tiền, vẫn khóc nức nở. Mười Hờ đang trải lá chuối trên nong, nói oang oang: “Lúa mùa hay lúa chứ cũng được, tiền thì không, xin thưa trước vậy đó cho khỏi mất công xách lên thả xuống!”. Tôi muốn đấm vào mặt hắn, sau chỉ sạc cho một trận. Anh em du kích kéo tới xẻ giúp, thu tiền và lúa cho bà Miện gần đủ giá vốn.

Hắn làm điệp theo lối uôn chuyến, được món nào lãnh thưởng món ấy. Nhà hắn sát sau nhà chị Biền. Hắn rình nghe được câu chuyện chị Biền rỉ tai khuyên chồng chịu khó xuống ở vùng cát, anh chồng bị đánh nhiều đâm nặng tai, lại nhất định đòi biết ngay, biết kĩ,…

Tam-Sa lúc này coi như tẩy sạch giun sán, nhưng thứ đó sẽ sinh them. Triều đại cha con xã Chinh đã dứt, on quận cử về thằng Huề làm đại diện kiêm cảnh sát trưởng, tên này vừa gửi thư thăm uỷ ban Tam-sa vừa lo tìm vây cánh, để coi ra sao.

- Em trả lời nó rồi. Đổi nghề khác được ăn cơm chín, làm nghề này cơm cúng chẳng có mà ngửi hơi. Hung sung như Chinh cha Chinh con cũng nhào đầu hết, bộ tướng thằng Huề như cò Ma rúc xó đồn Mỹ, liệu hứng nổi mấy viên? Cứ tưởng nói tiếng Mỹ róc róc là thoát chết à!
Mẫn chửi một câu thật độc. Nói như xem thằng Huề bằng rác nhưng rõ ràng Mẫn vẫn rất chú ý tới tên tể này.


Cuộc sống vành đai là vậy. Cái mới cứ đến từng giờ, bà con quen ngay với pháo cực nhanh và đạn lân tinh, với điệp viên của CIA và tể học trường Mỹ ra. Rời vành đai hai tháng rồi, tôi về đấy sẽ lạc đường lầm ngõ, nói toàn chuyện đời xưa, gặp đồng chí xã đội lại hỏi thăm “ em vô du kích chưa?”. Giữa lòng những biến động nhanh đến chóng mặt ấy, cái lõi không đổi mà chỉ lớn lên vẫn là chất anh hùng trong mỗi con người. Những giọt sương đọng rải đây đó trên đá trên cỏ, trong đêm chỉ biết có mình, khi nắng lên đều mang giữa long một mặt trời nhỏ như ngực người đeo huy hiệu Bác Hồ. Chúng mình nhận ra nhau và yêu nhau ngay cũng nhờ chấm lửa ấy trước hết em nhỉ.

Chiều ngày cuối cùng Mẫn ở, anh Lẫm bệnh xá trưởng mới về. Anh có mái tóc đốm bạc, cách nói lựa chữ, những câu vui hơi ồn ào của người trí thức đứng tuổi muốn trẻ lại và gần an hem. Anh vừa học chung lớp với Mẫn, rất thú cô tổ trưởng nhỏ hơn con gái đầu của anh. Tính giữ anh lại bàn rút người đi lập một trạm phẫu tiền phương cho Chu Lai. Gặp Mẫn, anh mừng muốn reo:

- Trời đất, tôi tiếc hoài! Muốn mời chị về bệnh xá nói chuyện, thấy chị bận quá, không dám. Cái báo cáo điển hình của chị tôi ghi đủ hết, tính về kể lại, may có chị tới đây, xin một buổi thôi! Chị nắm lý lịch số anh em xin đi vành đai hay là …
- Dạ không, cháu ở khu đội mà.
- Hà hà, tôi biết, các vị ở Chu Lai lựa kĩ là phải. Thăm dò ngay tại chỗ mới chắc. Tôi khuyên chị nhằm được ai cứ lấy luôn đi cho sớm .

Mẫn luống cuống rõ. Tôi đáp thay:
- Thăm người thôi, chưa muốn lấy người đâu anh ơi.
- Lấy ngay càng tốt chớ sao?
- Chi ta kêu lên chưa xứng đáng… Mặt trời mọc trong nhà, coi kìa.. Úi, thương binh đang bị chà đạp dày xéo!

Mẫn vừa ấn mũi dép lên chân tôi, lủi biến. Anh Lẫm ngớ ra. Khi biết chuyện, anh vỗ đùi cười phá, nói tiếng Pháp:
- Tuyệt! Trong lòng bản anh hùng ca có thêm một tình ca, chúc mừng anh nhé!

Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #149 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 02:52:52 pm »

Anh bàn với hai chúng tôi một điều khó xử.
Trên định tách năm người lập trạm phẫu. Bảy đồng chí đã nộp đơn xin ra tuyến lửa, trong đó có Thu Yến rất tha thiết đòi đi. Còn thiếu một bác sĩ. Tay nghề mổ xẻ của Duy Hảo hơi non nhưng rất quý ở một vùng ác liệt. Hảo được thực tập nhiều sẽ mau lành nghề. Nhưng Hảo tỏ ý không muốn đến chỗ khó. “Bác sĩ chớ đâu phải nghề bảy đáp mà mổ cho mau cho nhiều! Tôi cần thì giờ để nghiên cứu mấy vấn đề về các vết thương chiến tranh…”. Hảo nói lơ lửng vậy, không thấy nghiên cứu cái gì, lâu nay chỉ gặp những vết thương đã qua một hai ngày khiêng đi đường… Tôi là bạn Hảo, nếu có thể khuyên Hảo một chút thì hay. Mẫn kể chuyện vành đai sẽ giúp anh chị em nghĩ thêm.

Anh Lẫm bóp trán mãi mới tìm ra chữ dùng:
- Anh chị đừng hiểu lầm Hảo. Cậu ta bây giờ vẫn tốt, tốt trung bình, vừa phải. Trong ca anh Thiêm, cậu rất chịu khó. Nếu không đi Chu Lai, Hảo vẫn là một cán bộ có ích, không nên trách. Nhưng…
Anh nhảy sang tiếng Pháp, và tôi dịch cho Mẫn: “ Trong cuộc sống, có cái tốt, có cái tốt hơn, cái tốt nhất. Tình thế là ở chỗ đó!”.

Chúng tôi nhận lời, cả hai, tuy đêm nay Mẫn định “giúp anh Thiêm tập đi” để ra suối ngắm trăng non với nhau.
“Chiến dịch không quân” đã dứt. Đèn măng sông cháy ri ri, sáng xanh. Mới báo tin khi chiều, cán bộ du kích đã tới hơn trăm, bà con kéo vào đình đông nghịt. Xã này đang bốc mạnh tuy vừa được giải phóng cùng một lần với làng Cẩm Tú. Khoảng sáu trăm người ngồi nghe chị Thiêm kể chuyện vành đai. Cùng một huyện Tam Kỳ cả, nhưng đó với đây có bao nhiêu điều khác lạ.

Tôi đã biết câu chuyện Mẫn kể.
Chỉ có một vốc của dòng thác lớn thôi. Tam Sa hoá thành xã S., làng Cá là thôn Một, tôi được gọi bằng cái tên dài : “anh cán bộ chủ lực về giúp địa phương và điều nghiên cái Chu Lai”, còn Mẫn thì biến hẳn trong đám đông không tên. Cuộc sống ầm ào toả ánh cầu vồng dưới kia trở nên trần trụi, nó mất hẳn đi những vui buồn sướng khổ của người trong cuộc. Thế nhưng tại sao mắt người nghe cứ lặng lẽ sáng lên, long lanh ngấn nước, và tôi cũng kín đáo gẩy một giọt bên khóc?

Phải không. Mẫn ơi, khi em cố giữ giọng thường để tả cái chết của một bà già bị pháo chem. Trên mái đình lụt - mẹ em - của đứa trẻ lên hai bị bay từng mảnh – con nuôi em – em đã xốc xới lên nỗi đau dồn sẵn trong mỗi người nghe từ khi biết đời đến nay? Em nhắc lại những keo địch hất ra, ta lăn xả vào, giành chính quyền từng xóm một. Hồi ấy có anh. Chúng mình đã tìm hạnh phúc thế đấy, cả dân tộc ta vật lộn giành sống cũng vậy, loài người đánh lấn đế quốc từng bụi tre một trên làng Cá của em, và bà con đây đang ứa những giọt nước mắt tự hào, đúng chứ?

Những trận “ăn ngon” tới rồi, mắt em lấp láy. Đôi mắt mới hai mươi mốt tuổi mà đã thấy hết một quãng lịch sử lớn nhiều thế kỉ. Em thấy tầu bay và lính Nhật ngay khi mới sinh, em xem cha đánh Pháp, em nhằm thẳng vào Mĩ để giết. Qua đôi mắt rất đen còn hay khóc, những ngàn năm trước đang cùng em nhìn giặc Mĩ, cùng làm nên cái tia chớp gan và khôn lạ lung loé giữa đôi hàng mi dày, khi em sắp đánh một đòn chưa ai nghĩ ra. Em ngó anh, định hỏi gì…Hiểu rồi. Em kể hay đấy, bấy nhiêu bà con đang cười giàn giụa vì em…
Không cần đâu Mẫn ơi, ai lại thắc mắc vì em tránh nêu tên, chỉ cần nghe em vuốt ve mấy tiếng “anh chủ lực” là anh nhận ra ngay chút hương riêng của tình yêu không lẫn được trong câu chuyện đánh Mĩ đầy khói thuốc nổ, đêm nay.


- Ác mà đừng liệt, nhớ nghen anh.
- Đồng ý. Nè, dọc đường coi chừng biệt kích với thám báo. Thử cây sung ngắm bắn ruồi chưa đó?
- Rồi, Em đi, anh…

Chúng tôi bắt tay nhau, cười. Như hai người lính chia bi đáng hai đường.
Mẫn không quay đầu lại. Thu Yến đưa Mẫn tắt bờ ruộng đến đầu mối đường to, đỡ vòng xa. Tôi ngừng bên ngõ trông theo. Từng mảng mầu trên người Mẫn chìm dần vào nền xanh sẫm của xóm bên kia, chỉ có hai bắp chân trắng động đậy, nhỏ dần.

Nhớ đôi mắt là sự thường, sao tôi nhớ mãi cặp chân người yêu? Hôm kia đưa Mẫn đi giặt suối, tôi để ý xem vết đạn cũ. Nó đã lành hẳn, sẹo thu nhỏ và nhợt màu, nhưng trên chân Mẫn lại them hơn chục nốt tròn màu đen, tím, đỏ cuả vắt cắn. Hỏi mãi, Mẫn mới thú thực đã theo hai anh trinh sát đi băng rừng gần đồn Phước Lâm, đêm mưa lắm vắt, bùn phủ trơn không gỡ ra được. Là để được ở them một ngày ở với tôi … Bờ xóm sắp che khuất Mẫn. Hai đốm trắng dừng một phút, Mẫn nhìn lại mà không vẫy, rồi rẽ vào ngõ. Tôi đập nhẹ vào trán, xua một ý dại về những mảnh cối rạch đất khá dài trước khi bay ngang, mới chớm đã xóc đau. Những bông hạc hai cánh đung đưa bám đất kỹ lắm đừng lo gở.

Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM