Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:45:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam  (Đọc 54093 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #50 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:19:39 pm »

Tuy không biết liệu báo cáo của Cooper có đến tay các nhận vật trong giới lãnh đạo chóp bu của Chính quyền Johnson, ngoài ông Harriman hay không, nhưng đã có nhũng ý kiến khác nhau bên trong các quan chức cao cấp ở Washington. Đặc biệt, ngày càng có nhiều ý kiến nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược "gây sức ép có mức độ" đối với Bắc Việt Nam, được coi là một bộ phận của chính sách "vừa đánh vừa đàm". Một vài người đề xưởng chiến lược giờ đây coi nó là phản tác dụng, vì nó làm tăng quyết tâm của Bắc Việt Nam chống lại sức ép của Mỹ, và tăng cường ý chí giành thắng lợi quân sự của Hà Nội đối với Mỹ. Trong số những người hoài nghi chính sách với Việt Nam có William Bundy, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách vấn đề Viễn Đông, và John Mc Naughton, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nhưng Chính quyền Johnson vẫn chưa sẵn sàng từ bỏ chiến lược của mình và vẫn nuôi hy vọng Liên Xô sẽ giúp Mỹ đi đến giải pháp đàm phán cho cuộc chiến này. Ví dụ, vào tháng tư, Canada gợi ý rằng cả hai bên một lần nữa thoả thuận tôn trọng khu phi quân sự dọc theo Vĩ tuyến 17. Điều này có thể đưa tới việc xuống thang chiến tranh. Bộ Ngoại giao đã sử dụng ý tưởng này đưa ra việc hai bên cùng rút quân ra xa cách khu vực này 10 dặm. Sáng kiến mới này cơ bản tương tự như sáng kiến của Cooper nêu trong báo cáo.
Theo Cooper, đây sẽ là bước đầu tiên tiến đến đàm phán về việc tiếp tục xuống thang chiến tranh và đạt đến một hiệp định toàn diện. Sáng kiến của Bộ Ngoại giao Mỹ được một số các quan chức Mỹ hoan nghênh. Harriman dự kiến sẽ gặp gỡ một đại diện của Đại sứ quán Liên Xô để giải thích về đề nghị này. Trong một báo cáo gửi Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ, ông giải trình "Trước hết cần phải làm cho Liên Xô thấy rằng việc cùng rút quân khỏi khu phi quân sự là một đề nghị nghiêm túc, và phải thúc đẩy Liên Xô dùng ảnh hưởng của mình thuyết phục Hà Nội xem xét kỹ đề nghị này và có phản ứng tích cực". Harriman cũng đã gặp một nhà ngoại giao Liên Xô để chuyển đề nghị trên của Mỹ về Matxcơva. Sau. đó, nhà ngoại giao Liên Xô này nói rằng Kremlin đã thấy rõ mặt công khai của những cố gắng của Mỹ. Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau, 21 tháng 4, Nhà máy điện Hải Phòng lần đầu tiên bị ném bom. Sau đó, nhà ngoại giao Liên XÔô này vô cùng thất vọng đối với một hành động như vậy (hỏi Harriman): "Giờ đây, làm thế nào mà Matxcơva có thể bảo đảm với Bắc Việt Nam rằng Mỹ quan tâm một cách nghiêm túc đến việc xuống thang chiến tranh?".
Không chỉ Liên Xô mới thấy bối rối về tính thiếu nhất quán trong chính sách của Mỹ. Trong một bức điện gửi về Washington, Đại sứ Thompson đã yêu cầu chính phủ ông phải xem xét "trong bối cảnh hiện nay, việc tiếp tục các biện pháp vì hoà bình ở Việt Nam liệu có thực sự tăng cường khả năng đàm phán vì hoà bình không".
Bức điện của Thompson dựa trên cuộc trao đổi quan điểm với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh George Brown về chuyến thăm Matxcơva sắp tới của ông ta. Cuộc viếng thăm này tạo ra một cơ hội mới cho Washington để tranh thủ sự ủng hộ của Matxcơva về các hoạt động vì hoà bình của Mỹ. Nhưng vị Đại sứ Mỹ này hoài nghi liệu hành động như vậy có thể tạo ra được những điều kiện thuận lợi hay không. Ông khẳng định: Trong bối cảnh hiện tại, tôi tin rằng Liên Xô đã nắm bắt được những gì chúng ta đưa ra, và cơ hội thắng lợi rất mong manh. Điều đó có thể rất tai hại và làm tăng mối hoài nghi của Liên Xô về tính trung thực của Mỹ. Do vậy, việc chúng ta phải cố gắng lôi kéo họ vào cuộc là hoàn toàn đúng đắn". Thompson thừa nhận rằng Liên Xô có thể gây sức ép đối với Bắc Việt Nam qua việc đe doạ cắt giảm hoặc
thực sự cắt viện trợ vũ khí cho họ. Nhưng Đại sứ Mỹ khuyến cáo rằng một biện pháp như vậy có thể đẩy Bắc Việt Nam về phía Bắc Kinh, trái ngược với mục tiêu của Liên Xô ở Đông Nam Á. Như vậy, sáng kiến hoà bình của Mỹ là phản tác dụng vì Hà Nội coi nó không chỉ như một thủ pháp tuyên truyền mà còn là dấu hiệu của sự tuyệt vọng.
Đồng thời, Thompson cũng phê phán việc Mỹ leo thang chiến tranh. Ông không xem nó là lời giải của bài toán Cuộc chiến Việt Nam. Đại sứ Mỹ nói: "Trên thực tế, tôi tin chắc rằng ít nhất trong thời gian sắp tới, từng đợt tăng cường ném bom sẽ làm giảm đi các cơ hội để bên kia chấp thuận đàm phán. Không một chính phủ nào muốn ngồi vào đàm phán trực tiếp trong khi phía bên kia tăng cường sử dụng vũ lực chống lại họ".
Thompson đề nghị tăng cường mạnh mẽ lực lượng Mỹ ở Nam Việt Nam, kết hợp với giảm ném bom miền Bắc hoặc tập trung tấn công các đường tiến quân vào Nam của Bắc Việt Nam. Ông kết luận: "Điều này khác hàn với ý kiến cho rằng tôi có thể gợi ý hơn là qua George Brown để tiếp tục làm rùm beng lên vì hoà bình ở Matxcơva. Ông ta phải làm cho Liên Xô thấy rõ quyết tâm của Mỹ muốn việc này được hoàn tất".
Mối hoài nghi của Thompson có thể được củng cố vì ông thấy rõ các nhà lãnh đạo Liên Xô đang xem" xét chính sách đối ngoại riêng của mình, đặc biệt là sau chuyến viếng thăm Matxcơva của đoàn đại biểu Bắc Việt Nam. Rõ ràng là tiến trình này không chỉ liên quan đến vấn đề Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ quan hệ Xô-Mỹ. Đó chính là lý do tại sao Dobrynin được triệu hồi về nước để tham khảo ý kiến hồi cuối tháng 4. Ông ta thổ lộ với Thompson sau khi về đến Matxcơva rằng ông ta biết Chính phủ Liên Xô có ấn tượng mạnh mẽ về Việt Nam nhưng không nhận định mức độ đó như thế nào cho đến khi tham khảo ý kiến ông.
 
Mỹ biết chắc rằng chính sách này được Điện Kremlin xem xét lại, qua một nhà ngoại giao Liên Xô ở Washington. Trong một buổi chiêu đãi tại Đại sứ quán Liên Xô ngày 27 tháng 4, Tướng Valentin Meshchẹryakov, Tùy viên quân sự Liên Xô, thông báo cho phía Mỹ biết rằng việc Mỹ leo thang chiến tranh đã buộc Ban lãnh đạo Liên Xô phải đánh giá lại tình hình. Tin tức của ông tướng Liên Xô này có thể không trấn an được Chính quyền Johnson.
Meshcherykov nói bóng gió rằng Hội đồng tướng lĩnh Liên Xô đã đề nghị tăng cường các hoạt động quân sự của Liên Xô để hỗ trợ Bắc Việt Nam. Các biện pháp trả đũa được cho là Matxcơva dự định thực hiện bao gồm việc từ chối phê chuẩn Công ước lãnh sự với Mỹ và ngừng vô thời hạn việc thực hiện một Hiệp định hàng không. Theo Meshcheryakov, Dobrynin người sẽ trở lại Washington vào đầu tháng 5 có thể bị giữ lại Matxcơva tới khoảng ngày 10 tháng 5, đó là điều kiện để Brezhnev chỉ thị cho vị Đại sứ Liên Xô tại Mỹ này theo đường lối cứng rắn mới và "để đảm bảo chắc chắn rằng ông đã hiểu các quan điểm của Liên Xô". Giới quân sự Liên Xô cũng đòi hỏi rằng tất cả các bước tiến tới hoà hoãn đều bị đình lại và tăng cường viện trợ cho Bắc Việt Nam. Những bước này, theo Tuỳ viên quân sự Liên Xô, sẽ trở nên rõ ràng trong vòng hai hoặc ba tuần tới và ngay cả chính quyền Sài Gòn cũng cảm thấy ảnh hưởng của chúng, Meshcheryakov khẳng định là "ông ta nói hoàn toàn nghiêm túc và không hề đe doạ xuông. Mỹ hẳn không đánh giá thấp quyết tâm của Liên Xô muốn duy trì củng cố Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, ngay cả khi xảy ra đối đầu”.
Song, các nhà vạch chính sách của Mỹ thấy rõ một số thực tế khác lại mâu thuẫn với những nhận xét của viên tướng Liên Xô nói trên. Theo hồ sơ nhân vật của CIA, mười ngày trước đó, Averell Harriman đã gặp gỡ Yuri Zhukov, "một trong những nhà báo nổi tiếng của Liên xồ, một người tin cậy của giới lãnh đạo Kremlin". Tuy Zhukov đã kịch liệt lên án thái độ của Mỹ trong vòng hội đàm Kosygin-Wilson, và bác bỏ việc thuyết phục Liên Xô làm người trung gian trong Cuộc chiến Việt Nam, nhưng ông ta ủng hộ việc nhanh chóng chấm dứt chiến tranh và bảo đảm với đồng nghiệp rằng "điều Kosygin đã tuyên bố ở Luân Đôn vẫn còn hiệu lực".
Tuy nhiên, vì khả năng Liên Xô giữ quan điểm cứng rắn, chính quyền Johnson cho rằng Mỹ phải cố gắng làm giảm căng thẳng ở Matxcơva, thăm dò lập trường của Liên Xô, làm rõ cho Kremlin các mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam. Chuyến thăm của Brown đến Matxcơva vào tháng 5 là nhằm mục đích này.
Ngay trước chuyến viếng thăm của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, ông Rusk hỏi ý kiến ông Thompson về hoạt động của Mỹ nên như thế nào đối với chuyến thăm này. Đại sứ Thompson giải thích rằng Matxcơva vẫn chưa hoàn tất việc xem xét đánh giá lại chính sách, nên khó có thể đề xuất xem Brown nên hoạt động theo phương hướng nào. Tuy nhiên, Thompson tính rằng điều đó có lợi cho Brown là cần phải hướng chú ý của các đối tác Liên Xô vào (sức ép mạnh nhất đối với chính quyền" xuất phát từ quan điểm của phái "Diều hâu”. "Có thể ông ta không nắm được đường hướng có lợi nhất. Điều này sẽ làrn cho Liên Xô thấy rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thắng lợi quân sự đối với Bắc Việt Nam là không thể có được và cho rằng họ sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình để đạt cho được việc dần dần giảm: các hoạt động quân sự từ hai phía".
Bức thông điệp của Rusk gửi cho Luân Đôn gồm cả những đề nghị của Đại sứ Thompson. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Rusk yêu cầu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, chuyển lời tới các nhà lãnh đạo Liên Xô rằng Mỹ sẵn sàng xếp sắp lại lợi ích của Liên Xô trong khi vẫn đảm bảo toàn vẹn cho chế độ của Bắc Việt Nam. Chính phủ cũng thừa nhận rằng các hoạt động quân sự của Mỹ chống Bắc Việt Nam gây ra nhiều khó khăn cho Chính phủ Liên Xô. Nhưng Liên Xô cũng phải thừa nhận quyền lợi của Mỹ trong khi vẫn bảo toàn chế độ ở Nam Việt Nam và khả năng cho người Nam Việt Nam lập chính phủ riêng của mình. Rusk tuyên bố. "Chắc chắn là nếu chúng ta và Liên Xô đều công nhận quyền lợi quan trọng của nhau ở đây thì chúng ta phải tìm ra một phương thức nào đó tách riêng hai miền Bắc, Nam về mặt quân sự”. Theo Rusk, Washington vẫn sẵn sàng ngừng các hoạt động quân sự chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà "vào bất cứ lúc nào", nhưng Hà Nội phải có hành động đáp ứng lại cử chỉ thiện chí đó. Rusk yêu cầu Brown thúc đẩy Liên Xô thăm dò giới lãnh đạo Bắc Việt Nam sẽ phản ứng như thế nào đối với các đề nghị của Mỹ, bao gồm toàn bộ các sáng kiến trước đây đã được điều chỉnh.
Để đảm bảo cho tiến trình đánh giá lài tình hình ở Matxcơva có kết quả thuận lợi, Chính quyền Jonhson quyết định ngừng ném bom trong phạm vi 10 dặm thuộc Hà Nội.
Quyết định này phần nào là kết quả của tâm lý lo ngại ngày càng tăng trong nội bộ chính quyền về các hoạt động quân sự của Mỹ chống Bắc Việt Nam. Mặc dù trên thực tế, sáng kiến của Mỹ chỉ là một việc làm xoa dịu tình hình mà không có một ảnh hưởng nào đáng kể đối với tiến trình chiến tranh, một số quan chức Mỹ vẫn cho đây là việc làm có lợi ít nhất là trong thời gian trước mắt. Harriman ủng hộ mạnh mẽ việc ném bom trong khi cho rằng việc này có thể khuyến khích những người ủng hộ Kosygin với những hành động mềm dẻo hơn.
Harriman yêu cầu Bộ Ngoại giao Mỹ phải chỉ thị ngay cho Đại sứ Thompson tìm gặp quan chức cao cấp nhất của Liên Xô, đặc biệt là Gromyko hoặc ít ra là Thứ trưởng Kuznetsov, để thông báo bí mật cho Liên Xô về quyết định này và việc Chính quyền Mỹ mong muốn Liên Xô dùng ảnh hưởng của mình thuyết phục Hà Nội ngồi vào bàn đàm phán. Ngược lại, Harriman khuyến cáo: "Chúng ta cần phải biết rằng không có sự tiếp cận của chúng ta, quyết định của Liên Xô nhất định sẽ là một quyết định theo đường lối cứng rắn đối với vấn đề Việt Nam". Thompson ở Matxcơva cũng nhất trí với ý kiến của Harriman. Trong công điện ngày 18 tháng 5, Rusk thông báo cho Đại sứ Thompson về quyết định ngừng ném bom nói trên và nhấn mạnh rằng quyết định này có thể được thực hiện sau cuộc oanh kích vào nhà máy điện Hà Nội, nhưng có thể Chính quyền Mỹ sẽ bỏ qua mục tiêu này. Rusk hướng dẫn Thompson các thông báo bí mật cho phía Liên Xô về việc hạn chế ném bom này. Rusk tin tưởng: "Những hành động mà chúng ta đang tính toán sẽ ngầm làm cho Liên Xô thấy hưởng hành động sắp tới của chúng ta là kiềm chế trong nhiều tháng việc tấn công hàng loạt các mục tiêu quân sự quan trọng nhằm đạt được các khả năng làm thay đổi thái độ của Hà Nội, các nỗ lực và lợi ích của Liên Xô”. Rusk nói rằng trong tương lai Washington dự định không ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, nếu không có mục tiêu quân sự mới hoặc các mục tiêu cũ không tiếp tục hoạt động. Theo ý kiến đề xuất của Harriman, Rusk yêu cầu Thompson liên hệ với các quan chức cao cấp nhất của Liên Xô, Gromyko hoặc ít nhất cũng là Kuznetsov nhằm thông báo cho Kremlin biết về quyết định này.

Thompson "nhiệt liệt hoan nghênh" kế hoạch trên. Ông thấy quyết định này phù hợp với nhận định của mình rằng các hoạt động quan hệ của Mỹ phải gắn liền với việc giành phần thắng ở Nam Việt Nam, và các hoạt động quân sự ở phía Bắc vĩ tuyến 20 phải giảm tối đa và theo đúng những đòi hỏi ở Nam Việt Nam. Trong bối cảnh này, Thompson coi việc ném bom những mục tiêu còn lại trong phạm vi Hà Nội trước khi ngừng oanh kích hạn chế trên đây có hiệu lực là việc làm "bất lợi", đặc biệt là trong trường hợp các cuộc oanh kích này trùng hợp với những chuyến viếng thăm Matxcơva của Brown. Vì Liên Xô "đang tiến gần đến những quyết sách quan trọng không chỉ đối với Việt Nam mà trong quan hệ với Mỹ". Thompson thấy cần đề nghị Tổng thống Jonhson gửi một bức thư ngắn cho Kosygin. Nhưng mãi đến khi các mục tiêu nói trên ở Hà Nội bị oanh tạc thì Thompson mới nhận được bức thư này, và lập tức chuyển tới cho lãnh đạo Liên Xô "trước khi Liên Xô quyết định chính sách và các cam kết đối với Việt Nam". Thompson luôn tin rằng "Kosygin ủng hộ việc có giải pháp cho cuộc chiến và bức thư này sẽ giúp ông ta và đồng sự quyết định vấn đề".
Những diễn biến tình hình nghiêm trọng đầu tháng 6 có nguy cơ làm đổ bể những cố gắng "xoa dịu” các nhà lãnh đạo Xô Viết và tác động đến quá trình xác định chính sách của Liên Xô. Tình hình căng thẳng nghiêm trọng giữa các nước Ảrập và Ixraen ở Trung Đông đã bùng nổ thành chiến tranh. Sáng ngày 5 tháng 6, quân đội Ixraen mở cuộc tấn công bất ngờ và xoá sổ lực lượng không quân Ai Cập. Cuộc chiến chấm dứt trong vòng 6 ngày với việc Ixraen chiếm các vùng đất ở Ai Cập, Syria, và Jordan. Điều này làm căng thẳng quan hệ Đông-Tây, và đặc biệt là quan hệ Xô-Mỹ. Tuy không có nước nào muốn thay đổi chính sách và bạn đồng minh, nhưng cả hai nước đều thấy rõ nhu cầu phải tìm ra một giải pháp hoà bình cho vấn đề Trung Đông.
Ngoài ra, có một sự kiện khác không kém quan trọng và quy mô nhỏ hơn cuộc xung đột Trung Đông thông lại có ảnh hưởng tiềm tàng đối với quan hệ Xô-Mỹ. Ngày 3 tháng 6, báo Pravda đưa tin rằng trước đấy một ngày, máy bay Mỹ đã tấn công một tàu buôn Liên Xô "Turkestan" ở ngoài khơi thuộc cảng Cẩm Phả, phá hỏng tầu và làm bị thương hai thuỷ thủ. Trong một Công hàm gửi Washington, Chính phủ Liên Xô tuyên bố rằng cuộc tấn công này là sự "vi phạm thô bạo" quyền tự do trên biển, “một hành động ăn cướp" với "những hậu quả lâu dài". Chính phủ Liên Xô kiên quyết đòi nghiêm trị những kẻ phạm tội trong cuộc tấn công nói trên, và đòi Mỹ phải đảm bảo những hành động tương tự không xẩy ra.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #51 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:21:20 pm »

Tờ Pravda còn đăng bài bình luận với tựa đề "Những kẻ khiêu khích đùa với lửa". Đại sứ quán Mỹ ở Liên Xô đã điện báo cáo nội dung chính của bài báo về Bộ Ngoại giao Mỹ, và nhận xét rằng mặc dù giọng văn rất gay gắt song tờ ''Pravda nói bóng gió cho thấy Liên Xô chỉ coi việc trên của Mỹ là một sự kiện riêng lẻ chứ không phải là một biểu hiện leo thang chiến tranh. Đại sứ quán Mỹ kết luận: "Sự kiện này buộc Liên Xô phải đương đầu với những lời buộc tội rằng Liên Xô không đủ quyết tâm để thách thức Mỹ. Do đó, việc Liên Xô quyết định công khai hoá vấn đề trên có thể muốn tránh đương đầu với những lời buộc tội của dư luận về sự câu kết Xô-Mỹ và Liên Xô đầu hàng Mỹ, cũng như nhiều khó khăn khấc có thể xảy ra về mặt đối nội khi bưng bít sự kiện trên".
 
Nhưng dù thế nào đi nữa thì Matxcơva cũng đã quyết định thể hiện thái độ phản ứng quyết liệt đối với Mỹ. Một công hàm trên của Liên Xô chỉ đổ thêm dầu vào lừa. Washington tỏ thái độ rất lấy làm tiếc về việc chiếc tàu buôn Turkestan bị hư hỏng và một số thuỷ thủ bị thương, nhưng nhấn mạnh rằng Chính phủ Mỹ có những tin tức khẳng định máy bay Mỹ không gây ra thiệt hại đó. Lời đáp này ngụ ý rằng pháo phòng không của Bắc Việt Nam có thể phải chịu trách nhiệm về việc này.
Ngày 6 tháng 6, tờ Pravda đăng tải một thông cáo mới của Liên Xô bác bỏ lời biện giải của Mỹ về sự kiện trên và cho đó là một mưu đồ để trốn tránh trách nhiệm về vụ tấn công thô bạo này. Liên Xô tuyên bố rằng cuộc oanh tạc xảy ra giữa ban ngày, vào lúc trong cảng không có một chiếc tầu nào. "Không hề nghi ngờ rằng máy bay Mỹ đã nhằm trúng tàu Turkestan mà bắn và bỏ bom". Bản thông cáo phê phán ý kiến của Mỹ nói rằng các hoạt động trên không của Mỹ tấn công các mục tiêu trên không của Việt Nam tất yếu tạo ra hiểm hoạ đối với giao thông quốc tế tự do trên biển. "Việc Mỹ can thiệp chống Việt Nam là hành động vi phạm trắng trợn nhất đối với tất cả các chuẩn mực luật pháp quốc tế và là một tội ác chống loài người".
Kremlin rõ ràng đã thắng điểm trước Kỳ họp toàn thể của Đảng Cộng sản Liên Xô để hoàn thiện việc tái xem xét chính sách dài dòng của Ban lãnh đạo Liên Xô. Kỳ họp được tổ chức vào giữa tháng 6 và đặc biệt tập trung vào việc xem xét các vấn đề chính sách đối ngoại. Washington quan tâm đến kết quả Hội nghị này cua Đảng Cộng sản Liên Xô, và lo ngại trước giọng điệu khá cứng rắn trong các văn kiện chính thức. Theo yêu cầu của Rusk, Thompson đã chuẩn bị một báo cáo phân tích về bản tuyên bố của kỳ họp, và bày tỏ mối lo ngại trước mắt, Mỹ có thể lại rơi vào bối cảnh chiến tranh Lạnh thực sự. Đối với các nhà làm chính sách của Mỹ thì rõ ràng là trong Bộ Chính trị Liên Xô ngày càng có nhiều các nhà lãnh đạo thực dụng, chịu tuân phục các thành viên có tư tưởng chính thống hơn.
Trong khi tiếp tục xem xét để xác định chính sách, Kremlin tuyên bố Thủ tưởng Kosygin sẽ tham gia phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp quốc chuyên bàn về cuộc khủng hoảng Trung Đông. Tin này làm náo loạn Washington, vì đó sẽ là cuộc viếng thăm Mỹ đầu tiên của một số nhà lãnh đạo Liên Xô, dưới thời Tổng thống Johnson nó mở ra một thời cơ lớn cho Tổng thống gặp gỡ và đàm phán với Kosygin nhiều vấn đề về quan hệ giữa hai nước cũng như vấn đề quốc tế. Matxcơva nhấn mạnh rằng Kosygin sẽ đến thăm Liên Hiệp Quốc chứ không phải đến thăm Mỹ, nhưng điều này không làm nản lòng các cố vấn của Tổng thống Johnson.
Các nhà ngoại giao Mỹ ở Matxcơva là những người đầu tiên quan tâm đến các mục tiêu được đưa ra trong cuộc viếng thăm của Kosygin. Ngày 6 tháng 6, Đại diện John Guthrie đã báo cáo về Washington thành phần đoàn đại biểu Liền Xô đến dự họp Đại hội đồng Liên Hiệp quốc. Ông cho rằng đoàn này có "rất ít người" là chuyên gia về vấn đề Trung Đông. Những người vắng mặt là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vladimir Semenov chịu trách nhiệm theo dõi khu vực này, và danh sách chỉ gồm có hai cán bộ trung cấp của Bộ Ngoại giao. Mặt khác, Guthrie nhấn mạnh rằng phái đoàn gồm các quan chức chuyên gia về các lĩnh vực khác chứ không phải về vấn đề Trung Đông. Đại diện Mỹ kết luận: "Thành phần đoàn đại biểu Liên Xô có thể chuẩn bị hội đàm song phương với Mỹ, có thể bàn về các chủ đề không hề liên quan gì đến vấn đề Trung đông. Việc phiên dịch cấp cao Viktor Sukhodrev đi cùng đoàn đã minh chứng cho điều đó”.

Guthrie cho rằng nếu Kosygin thậm chí không gặp Tổng thống Mỹ thì chuyến viếng thăm của ông vẫn có thể vẫn rất có lợi. "Kosygin chưa bao giờ đến Mỹ, về nhân cách ông ta có thể rút ra kết luận từ những gì nhìn thấy ở Mỹ tốt hơn cả Khrushchev hoặc bất kỳ đồng sự nào của ông ta trong bộ ba lãnh đạo. Chúng ta hy vọng điều này không bị mất đi vì các hoạt động tuyên truyền cứng rắn của Kosygin mà chúng ta đã thấy khi xem xét lập trường hiện tại của Liên Xô".
Những phân tích đánh giá của Guthrie được khẳng định qua các cuộc tiếp xúc bí mật với các nhà ngoại giao Liên Xô trước khi Kosygin đến Mỹ. Ngày 14 tháng 6, Walt Rostow, Phụ tá về vấn đề an ninh quốc gia của Tổng thống đến thông báo cho Johnson về một cuộc gặp gỡ giữa Giám đốc Cơ quan thông tin của Mỹ Carl Rowan và Tuỳ viên báo chí Đại sứ quán Liên Xô ở Washington-Oleg Kalugin. Oleg Kalugin nói với Carl Rowan sứ mạng chính của Kosygin ở Mỹ là "thúc đẩy sự ủng hộ của Liên XÔ đối với các nước Ảrập"-nhưng nhiệm vụ thứ hai của ông là thảo luận tay đôi với Tổng thống Mỹ."
Dẫu việc Kosygin đến Mỹ có tạo ra những cơ hội gì đi nữa thì Chính quyền Mỹ cũng phải đối mặt với những vấn đề lúc đầu có vẻ là không thể giải quyết được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô không muốn đến Washington để gặp Tổng thống Mỹ, vì ông đến Mỹ một cách chính thức để tham dự họp Đại Hội đồng Liên Hợp quốc, chứ không để hội đàm với Johnson. Trong khi nói chuyện với Rowan Kalugin bóng gió rằng có thể là khó khăn cho Kosygin khi phản đối Washington vì Trung Quốc và thế giới Ảrập chắc chắn sẽ rất hoài nghi về bước đi này.''''
Về phần mình, Johnson sẽ không tự hạ uy tín của mình mà vội vã trở về New York để gặp gỡ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Do lo ngại cuộc gặp này không thành; các cố vấn của Tổng thống đã cố gắng thuyết phục ông đây là một cơ hội lớn và cần dàn xếp về vấn đề nơi gặp.
 
Như thông lệ, Averell Harriman kiên trì thuyết phục Johnson thấy mặt lợi của hội đàm cá nhân với Kosygin về vấn đề Việt Nam. Trong báo cáo về “những cuộc hội đàm có thể với Kosygin về giải pháp Việt Nam", Hạrriman lập luận: "Việc gặp gỡ của Tổng thống với Kosygin tạo ra cơ hội duy nhất để tiến tới hội đàm vì một giải pháp hoà bình ở Việt Nam, vì sự hợp tác trực tiếp hay gián tiếp của Liên Xô là mấu chốt để tiếp tục các cuộc hội đàm".
Tuy chính quyền Johnson thường bỏ qua ý kiến của Harriman nhưng lần này nhận định của ông được Dean Rusk ủng hộ mạnh mẽ. Ngày 17 tháng 6, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ gửi cho Tổng thống một báo cáo, trong đó nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất phải xem xét đối với Tổng thống là làm gì đối với cuộc gặp gở Kosygin? Rusk thông báo cho Tổng thống Mỹ rằng hầu như tất cả cá nhân vật chủ chốt trong chính quyền Mỹ (Mc.Namara, Mcholas Katzenbach, Cyrus Vance, Bundy, Walt Rostow, Thompson, Harry Mc.Pherson) đều cho rằng có thể có thiệt hại lớn về chính trị đối với Tổng thống nếu Kosygin trở về Matxcơva mà không có cuộc gặp gỡ giữa hai người.
Rusk lưu ý Johnson rằng nhiều lần Tổng thống đã thề "sẽ đi bất cứ đâu, gặp bất cứ ai", vì mục đích hoà bình. "Nếu mọi người biết rằng Tổng thống đã từ chối gặp Kosygin ở New York thì chúng tôi tin là Tổng thống khó tránh khỏi sự phê phán quyết liệt ở trong nước-chưa kể đến dư luận quốc tế nói chung". Rusk khuyên rằng Tổng thống nên đi đến khu vực New York. Để tránh mất uy tín của mình, Johnson có thể gặp Thống đốc các bang, thông báo trước về cuộc gặp như vậy. Rusk kết luận: “Nếu Tổng thống đồng ý với chúng tôi rằng gặp gỡ Kosygin là điều quan trọng trước khi ông ta rời Mỹ, thì tốt hơn cả là thu xếp cho cuộc gặp để khỏi phải đương đầu với sức ép của Liên Hợp quốc hay Quốc hội Mỹ".
Kosygin cũng không kém phần quan tâm đến cuộc gặp với Tổng thống Mỹ-Tuy chúng tôi không có thông tin trực tiếp cụ thể nào, song những hoạt động của các quan chức Liên Xô trong khi ông ta đang ở Mỹ đã chứng tỏ điều này. Khi nói chuyện riêng không chính thức với một quan chức Nhà Trắng, Tham tán Đại sứ quán Liên Xô Yulii Vorontsov đã đề cập đến việc Liên Xô rất quan tâm đến khả năng tổ chức một cuộc gặp cấp cao. Nhưng Tham tán Liên Xô chỉ rõ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô không thể vượt "khoảng cách chính trị 220 dặm" đến Washington vì sợ các nước Ảrập phê phán. "Nếu Tổng thống Mỹ có thể đến New York hoặc ngoại vi New York" thì có thể tổ chức cuộc gặp gỡ một cách dễ dàng. Khi được hỏi về phạm vi "ngoại vi New York", Vorontsov không hề phản đối một nơi xa như Philadelphia. Ngoài ra, Vorontsov còn khẳng định rằng: "Kosygin là một nhà lãnh đạo thẳng thắn và bộc trực và sẵn sàng bàn luận về hàng loạt các vấn đề đáng quan tâm, không chỉ vấn đề Trung Đông”.
Một báo cáo khác thông qua cuộc "gặp gỡ cấp cao thu nhỏ" về mối quan tâm của Liên Xô cũng được gửi từ New York về Washỉngton. Một thành viên của phái đoàn Liên Xô tại Liên Hợp quốc Svened Evteev hỏi một thành viên trong phái đoàn Mỹ liệu có cuộc gặp giũa Kosygin và Tổng thống Mỹ hay không. Vì câu hỏi không được trả lời nên Evteev đã nói rằng nếu cuộc họp không được tổ chức thì đó là sai lầm của Mỹ.
Bộ Ngoại giao Mỹ tổng hợp các báo cáo đi đến kết luận rằng mục đích chính của Kosygin trong gặp gỡ Johnson nhằm thăm dò thái độ của Johnson và qua "cuộc gặp mặt đối mặt" bổ xung thêm vào đánh giá của ông ta về nhà lãnh đạo nước Mỹ. Mặt khác, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô không thể chỉ hạn chế trong khuôn khổ một cuộc gặp đơn thuần. Chắc chắn, ông ta đã sẵn sàng thảo luận nhiều vấn đề quốc tế cũng như vấn đề Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ không hề có tin tức gì về việc Kosygin có thể sẽ nói tới “những vấn đề rất mới mẻ" về Đông Nam Á. Khi được gọi về Mỹ để tham khảo ý kiến, Đại sứ Thompson cũng đồng ý về điểm này.
Trong khi các cuộc thảo luận (về thực chất cuộc hội đàm có thể diễn ra giữa các nhà lãnh đạo Liên Xô và Mỹ), đang diễn ra ở Washington thì vấn đề mấu chốt của việc này vẫn chưa được giải quyết. Ngày 22 tháng 6, sau khi Kosygin đến New York, Rusk đã gặp ông và đề nghị nơi có thể gặp gỡ được là căn cứ: không quân Mc.Guire ở bang New Jersey. Kosygin từ chối thẳng thừng. Rusk lập luận rằng căn cứ này là nơi an toàn và yên tĩnh với những phương tiện cần thiết. Đồng thời, Johnson còn dự kiến có cuộc nói chuyện ở California, do vậy, ngay sau khi gặp gỡ, Johnson có thể bay từ căn cứ đến Califorma. Nhưng những lý lẽ của Rusk không thuyết phục được Kosygin. Còn đối với Kosygin thì điều quan trọng là phải xem xét dư luận chung. Kosygin biện lý rằng "Người ta có thể xem xét việc chúng ta làm là chỉ để phô trương", "Có thể họp ở một nơi khác ở ngoài căn cứ này". Tuy Kosygin không bác bỏ khu vực đó nhưng ông nhấn mạnh rằng theo ý kiến của ông thì "Tổng thống Mỹ cũng không muốn gặp tại một căn cứ quân sự", "Cả hai nước đều đang phấn đấu cho một giải pháp hoà bình, nên chỉ cần có một buồng họp trong khoảng bốn giờ hay thậm chí một phòng khách sạn cũng đủ”. Kosygin nhấn mạnh rằng nếu chọn cặn cứ quân sự trên làm nơi họp bàn thì thiên hạ có thể cho là Mỹ muốn phô trương cho ông ta những súng ống và tên lửa Mỹ.
Quan điểm của Kosygin không phải là không có lý. Các nhà lãnh đạo Liên Xô phải lường trước được phản ứng của Hà Nội và Bắc Kinh đối với một cuộc họp vì hoà bình lại tổ chức ở một căn cứ quân sự Mỹ. Rõ ràng là việc định nơi gặp gỡ hội đàm có thể sẽ làm nảy sinh những lời lên án về việc thông đồng giữa Mỹ và Liên Xô và khó có thể tiên đoán được phản ứng của các đồng minh của Liên Xô sẽ ra sao. Kosygin càng không thể làm ngơ trước phản ứng của các thành viên Bộ Chính trị, như nhà tư tưởng Mikhail Suslov-người bảo vệ tính thuần khiết của chủ nghĩa cộng sản và cảnh giác cách mạng rất cao.
Cuối cùng, nơi được thoả thuận chọn làm địa điểm gặp gỡ là Glassboro-một thành phố nhỏ thuộc bang New Jersey, nơi ít người Mỹ biết đến chứ đừng nói là một người Liên Xô. Trong một vài ngày, Glassboro trở thành trung tâm chú ý của thế giới, và vĩnh viễn đi vào lịch sử quan hệ Xô-Mỹ: Trong khi việc chuẩn bị cho cuộc gặp gở ở Glassboro được tiến hành khẩn trương thì Kosygin tham dự phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc. Ngày 19 tháng 6, Kosygin đọc bài diễn văn chủ yếu là cuộc khủng hoảng ở Trung Đông. Mặc dù vậy, vấn đề Việt Nam cũng được ông chú ý. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô lặp lại những lời tố cáo và lên án Mỹ tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Ông lên án Washington muốn áp đặt một chế độ đối với nhân dân Việt Nam theo những tham vọng của "bè lũ đế quốc nước ngoài" và nhấn mạnh rằng con đường duy nhất để giải quyết vấn đề là phải rút quân đội Mỹ ra khỏi khụ vực này. Nhưng trước hết, Mỹ phải chấm dứt ngay và không điều kiện việc ném bom bắn phá miền Bắc việt Nam. Kosygin khẳng định: "Không một tuyên bố nào về việc sẵn sàng tìm giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam có sức thuyết phục, nếu điều này không được thực hiện. Các tuyên bố của Mỹ không được trái với những hành động của Mỹ". Kosygin một lần nữa bày tỏ mối quan ngại của ông và các đồng nghiệp rằng cuộc chiến ở Việt Nam đã làm tăng thêm nguy cơ của "một cuộc đồi đầu quân sự lớn giữa các cường quốc" nhằm ám chỉ giữa Liên Xô và Mỹ.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #52 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:22:03 pm »

Theo một nhà ngoại giao Mỹ, tuy lời lẽ diễn văn mạnh mẽ nhưng bài diễn văn không tạo được "điều gì mới mẻ". Đồng thời, nó xác định vị thế đàm phán của Kosygin về vấn đề Việt Nam trong các cuộc hội đàm với Tổng thống Johnson. Một dấu hiệu khác về quan điểm của Liên Xô mà Rusk phát hiện được, trong tiệc chiêu đãi Gromyko trước khi có cuộc gặp gỡ ở Glạssboro. Chủ đề Việt Nam thực tế được đưa ra sau bữa tiệc tối, khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ hỏi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô liệu có thể áp dụng các bước sau đây để đưa cuộc xung đột ở Đông Nam Á đi đến kết thúc được không: hội đàm tay đôi, một Hội nghị Geneve mới, hội đàm dưới sự giám sát của Liên Hợp quốc, và v.v... Gromyko lần đầu tiên lên tiếng thông qua phiên dịch: ông ta nói rằng quan hệ giữa hai bên có thể tạo ra những bước tích cực. Nhưng cần phải tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho các cuộc hội đàm và điều này có nghĩa là phải ngừng ném bom vô điều kiện đối với miền Bắc Việt Nam. Gromyko nói thêm rằng Liên Xô không đàrn phán thay Hà Nội. Ông ta nhắc lại nhiều lần rằng: "Cách duy nhất để tìm ra giải pháp là phải chấm dứt vô điều kiện việc ném bom mà không đếm xỉa đến việc Rusk phàn nàn về việc quân đội Bắc Việt Nam thâm nhập vào miền Nam giữa những đợt ngừng ném bom và tập trung quân Bắc Việt Nam gần khu phi quân sự. Rõ ràng là Gromyko chỉ nói có mức độ vì có mặt nhà lãnh đạo Liên Xô là người có quyền nói chi tiết hơn về vấn đề này. Nhưng đồng thời Gromyko cũng chỉ rõ quan điểm của Liên Xô đã được định ra ở Matxcơva từ tháng 6 năm 1967 có tính đến thái độ của Việt Nam.
Bắc Việt Nam không ủng hộ sáng kiến hoà bình. Sau cuộc viếng thăm của Phạm Văn Đồng đến Matxcơva vào hồi tháng 4, Hà Nội không hề thay đổi việc từ chối duy trì mối quan hệ với Mỹ, không theo lời kêu gọi của Liên Xô. Shcherbakov báo cáo nêu rõ trong khi nói chuyện, các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đều trả lời nhát gừng rằng những lời khuyên của Liền Xô đang được nghiên cứu, song cần phải chờ thời điểm thích hợp thì mới đưa ra sáng kiến ngoại giao hoặc chính trị. Hà Nội không thấy trước được thời điểm đó trong tương lại gần nên không có hy vọng Bắc Việt Nam có phản ứng đối với một sáng kiến nào của Mỹ, hoặc với một cử chỉ nào từ phía các nước thứ ba. Bất chấp những tình hình đó, Matxcơva vẫn hy vọng thuyết phục các đồng chí Việt Nam của họ ngồi vào bàn đàm phán.
Ngày 23 tháng 6 năm 1967, lần đầu tiên Johnson và Kosygin gặp nhau. Hầu hết các cuộc hội đàm của hai người tập trung vào các vấn đề quan hệ song phương và tình hình ở Trung Đông. Ngay trong phiên họp đầu, Johnson đã cố lôi kéo Kosygin vào việc đàm phán về Việt Nam. Nhưng không có kết quả. Sau khi nghe lập luận của Tổng thống Mỹ trong việc ủng hộ ném bom Bắc Việt Nam, Kosygin chuyển chủ đề bàn sang những vấn đề về Trung Đông.
Nhưng Kosygin không phải muốn lảng tránh vấn đề mà còn phải đòi trả lời của Hà Nội. Khi gặp lại sau bữa trưa, Kosygin tự đề cập đến tình hình ở Đông Dương. Ông tâm sự rằng trước khi tham gia cuộc hội đàm này, ông đã gặp Phạm Văn Đồng ở Hà Nội để hỏi xem ông ta có thể làm được gì khi gặp Tổng thống Mỹ nhằm làm chấm dứt chiến tranh. Trong bữa trưa, ông đã nhận được câu trả lời của Hà Nội.
Nội dung trả lời của Phạm Văn Đồng là chấm dứt ném bom và Bắc Việt Nam lập tức sẽ ngồi vào bàn đám phán. Kosygin kêu gọi Tổng thống nên tôn trọng lời đề nghị này. Ông nhấn mạnh rằng câu trả lời trên "lần đầu tiên tạo cơ hội đàm phán trực tiếp với Hà Nội mà không nguy hiểm gì cho Mỹ". Nhà lãnh đạo Liên Xô cố gắng làm tiêu tan sự bi quan thực sự của Johnson. Ông đưa ra ví dụ của Pháp đã tiến hành chiến tranh ở Algéne suốt bảy năm và rồi cũng chấm dứt trên bàn đàm phán. Ông ta khẳng định rằng cuộc quyết chiến sẽ còn tiếp tục trong nhiều năm nữa nếu cần thiết. "Và Tổng thống Mỹ có thể làm được gì?", "Tổng thống có thể tiếp tục chiến tranh mười năm hoặc lâu hơn nữa, giết chết nhiều thanh niên ưu tú của dân tộc".
Kosygin ca ngợi lòng dũng cảm của quân đội Mỹ và so sánh với những thanh niên Liên Xô "trong những hoàn cảnh tương tự cũng dũng cảm chiến đấu không quản hy sinh". Kosygin nhắc lại rằng, mặc dù vậy, đã đến lúc phải chấm dứt chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán, và Tổng thống Mỹ có thể thấy những gì sẽ xảy ra.
Một trong những lập luận mạnh nhất trong việc ủng hộ đề nghị này có thể là việc ông đề cập đến Trung Quốc. Nhà lãnh đạo Liên Xô quả quyết rằng: bằng việc tiếp tục chiến tranh, Johnson "đang thực sự giúp Trung Quốc thực hiện được những mưu đồ xấu xa nhất của họ". Cuối cùng, Kosygin nhấn mạnh "tính cấp bách" của đề nghị này và thúc giục Johnson cân nhắc lại và chuẩn bị trả lời trong hai này tời để Kosygin có thể chuyển về cho Hà Nội trước lúc rời Mỹ.
Rõ ràng là Johnson xem xét đề nghị của Kosygin với một cảm giác lẫn lộn. Tuy có thể được khích lệ bởi quan tâm của Kosygin đối với một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh đối với tình hình thế giới nói chung và quan hệ Xô-Mỹ nói riêng, song Johnson dường như không hào hứng về việc Mỹ có lập trường mới đối với Bắc Việt Nam như Kosygin đề.nghị, đặc biệt là vì Kosygin không đảm bảo kết quả diễn ra. Lần cuối cùng, Johnson cố thuyết phục Kosygin hứa ủng hộ Mỹ trên bàn đàm phán. Nhưng Kosygin chỉ đồng ý chuyển đề nghị của Mỹ cho Hà Nội và nhắc lại lập trường của Liên Xô rằng Liên Xô không thể quyết định vấn đề này "một cách độc lập mà không có ý kiến của Bắc Việt Nam".
Mặc dù rất bi quan Johnson nói rằng ông “nghiên cứu bức thông điệp của Hà Nội rất kỹ lưỡng". Ông đã thảo luận thông điệp này với Rusk và Mc.Namara. Rusk gợi ý chuyển cho Kosygin, cùng với thư trả lời Hà Nội, một thông điệp miệng mà trong đó Johnson sẽ thừa nhận trách nhiệm cực kỳ đặc biệt của Mỹ và Liên Xô về các vấn đề liên quan đến hoà bình. Bức thông điệp này sẽ thông báo cho Kosygin biết rằng Washington sẵn sàng chấm dứt ném bom như là một bước tiến tới hoà bình. Nhưng Mỹ cũng sẽ bảo lưu quyền "hoàn toàn tự do hành động" nếu các cuộc hội đàm không đem lại hoà bình, hoặc nếu Hà Nội kéo dài các cuộc đàm phán để giành lợi thế quân sự cho mình. Chính phủ Mỹ có thể nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất là Kosygin và Johnson không hiểu lầm nhau và không có vấn đề gì nghi ngờ giữa hai người”.
Trong cuộc gặp gỡ với Kosygin ngày 25 tháng 6, Johnson đã thông báo về vấn đề này cùng thư trả lời Hà Nội. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô tỏ vẻ hài lòng với lời đáp rằng Mỹ sẵn sàng chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, và nhấn mạnh sau khi chấm dứt ném bom phải lập tức đàm phán giữa đại diện của Mỹ và Bắc Việt Nam ở Giơnevơ, Matxcơva, Vientiane hoặc bất kỳ một nơi nào đó thích hợp. Theo bức thư trả lời này, nhũng cuộc đàm phán phải đi liền với việc cả hai bên cùng hạn chế các hoạt động quân sự ở miền Nam, như việc chấm dứt đưa quân miền Bắc vào miền Nam, và việc đưa các lực lượng của Mỹ và của Nam Việt Nam Bắc tiến.
 
Việc Kosygin hài lòng với kết quả các cuộc đàm phán với Tổng thống Mỹ thể hiện rõ trong lời kết của ông. Ông tuyên bố. "Tổng thống Mỹ có thể yên tâm rằng dù tình hình và dư luận chung như thế nào, Liên Xô luôn mong muốn hoà bình. Liên Xô không muốn đối đầu với Mỹ ở bất cứ đâu và hai nước không hề có xung đột ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Mỗi khi có tình hình nghiêm trọng nổi lên ở đâu, hai nước cần phải bàn bạc". Kosygin không thể bỏ lỡ một dịp may nào để vạch rõ bản chất nguy hiểm trong chính sách của Trung Quốc. Ông cho rằng: "Mỹ không nên tin vào những kẻ đang cố tình tạo ra những bất hoà giữa hai nước chúng ta. Bắc Kinh rõ ràng đang là một trong những kẻ đó". Khi ông ta viết thư cho Tổng thống Mỹ, thực tế đã có một số người muốn làm gia tăng vấn đề vướng mắc giữa hai nước. Ông ta không loại trừ khả năng xảy ra việc này. Sau cùng, Tổng thống Mỹ đã thấy những trò mà họ đã tạo dựng lên ở Bắc Kinh có liên quan tới chuyến đi của ông ta đến New York; Bắc Kinh nói rằng ông ta đến đây để bán rẻ một vài người, nhưng rõ ràng cả ông và Tổng thống Mỹ chẳng bán đứng hay phản bội bất kỳ ai.
Những lời lẽ này bộc lộ một cách rõ ràng những mục tiêu chính của Kosygin trong hội đàm với Tổng thống Mỹ. Thực tế, Kosygin cũng như các đồng nghiệp của ông ở Matxcơva rất quan tâm xem xét các quan hệ đang dần dần cải thiện giữa hai nước mặc dù lúc này bối cảnh thế giới hoàn toàn không thuận lợi ở trong nước, một nền kinh tế Liên Xô trì trệ đòi hỏi phải tranh thủ cho được các thành tựu công nghệ Mỹ đưa vào phát triển các ngành công và nông nghiệp Liên Xô, và nảy sinh nhu cầu phải hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực văn hoá và khoa học. Trong nền chính trì quốc tế, mục tiêu của Kremlin còn phức tạp hơn nhiều. Chắc chắn là Liên Xô mong muốn tránh đối đầu với Mỹ, vì họ thấy rõ hiểm hoạ mà nó tạo ra. Nhưng điều này không có nghĩa là Liên Xô từ bỏ kế hoạch giành ưu thế đối với "bè lũ đế quốc" trong cuộc đấu tranh trong phạm vi toàn thế giới. Do đó, Liên Xô cố gắng giành lợi thế đối với Mỹ và cố tăng cường ảnh hưởng của mình ở nhiều khu vực trên thế giới bằng việc khai thác tối đa những điểm yếu của đối thủ và ngăn chặn khả năng lợi dụng các yếu điểm của Liên Xô. Vào cuối những năm 60, một yếu điểm của Liên Xô là cuộc xung đột với Trung Quốc. Vì các nhà lãnh đạo Liên Xô sợ có sự liên minh giữa Washington và Bắc Kinh, nên Liên Xô kiên quyết ngăn chặn sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc với Mỹ.
Do đó, chiến lược của Liên Xô gồm hai mục tiêu mâu thuẫn nhau. Tranh thủ viện trợ của Mỹ để giải quyết các vấn đề đối nội, mặt khác cố giành lợi thế đối với Mỹ trong cuộc tranh giành quyền lực trên phạm vi quốc tế, và không để Mỹ lợi dụng những yếu điểm của Liên Xô. Tại Hội nghị ở Glassboro, Kosygin đã tích cực hoạt động thẹo những mục tiêu này.
Tổng thống Johnson cũng quan tâm làm rõ lập trường của Liên Xô về nhttng vấn đề quốc tế khác nhau, và các cuộc hội đàm với Kosygin đã giúp Tổng thống làm được điều này. Nhưng vấn đề chính là Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Liên Xô trong vấn đề Việt Nam vẫn không được sáng tỏ. Việc Johnson kêu gọi Hà Nội không hề được phía Bắc Việt Nam đáp lại cũng như toan tính của Tổng thống tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô trong việc tìm giải pháp cho Cuộc chiến Việt Nam không thành công.
Khi xem xét lập trường của Hà Nội, khó có thể có sự thay đổi nào khác. Nhưng Kosygin có thông báo cho Mỹ biệt về lập trường của Bắc Việt Nam không? Chắc chắn là ông ta đã thông báo. Ông ta không hề giấu giếm Tổng thống Mỹ về việc ông ta đã liên hệ với Phạm Văn Đồng trước khi diễn ra cuộc gặp gỡ ở Glassboro. Các tài liệu của Liên Xô đã xác nhận sự liên hệ nói trên. Kosygin có thể đã thổi phồng tầm quan trọng đề nghị của Bắc Việt Nam và không để ý đến cơ sở gốc rễ của nó đã được Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội tổng hợp phân tích. Đại sứ quán Liên Xô báo cáo rõ ràng là Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam không muốn đàm phán với Mỹ vào mùa xuân và mùa hè 1967.
Một khả năng khác không thể loại trừ là Kósygin chỉ thăm dò khi nói với Johnson rằng một khi chấm dứt ném bom thì Hà Nội lập tức sẽ ngồi vào bàn đàm phán. Ý đồ của ông ta có thể nhằm thuyết phục Mỹ chấm dứt ném bom bằng việc hứa hẹn sẽ sớm đi đến bàn đàm phán; và nhằm thuyết phục được Hà Nội đồng ý đàm phán khi chấm dứt ném bom. Dù vậy, trong tháng giêng và tháng hai, "cánh cứa đi tới hoà bình vẫn bị đóng chặt". Dù cuộc gặp gỡ Glassboro có lợi như thế nào đi nữa trong các quan hệ quốc tế, thì vấn đề Việt Nam không có gì thay đổi.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #53 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:22:43 pm »

Chương VII: Con đường dẫn đến Paris
Nửa sau của năm 1967 là một giai đoạn khó khăn đối với cả Mỹ và Việt Nam. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam không thể tiếp tục cùng với quy mô và cường độ như trước, vì cả hai bên tham chiến hầu như đã cạn kiệt ý chí và sức lực hòng tránh tổn thất và hoang mang. Kết cục cuộc chiến giờ đây phụ thuộc vào sự lựa chọn sáng suốt giữa những khả năng hiện hữu và các nguy cơ không thể tránh khỏi.
Phương cách lô-gich để thoát khỏi sự bế tắc về quân sự vào mùa thu năm 1967 là đàm phán hoà bình trên cơ sở một số thoả hiệp ít bất hợp lý hơn đối với cả hai bên tham chiến. Nhưng mặc dù thấy rõ nhu cầu phả đạt được giải pháp đó, cả Washington và Hà Nội đều không sẵn sàng từ bỏ hy vọng giành thắng lợi về mặt quân sự. Các nhà lãnh đạo ở cả hai nước dường như chỉ cố gắng tìm cho được một cơ hội giành thắng lợi dù mong mah nhất nhằm tiêu diệt kẻ thù bằng cuộc tấn công toàn diện.
Vị thế của Mỹ không chắc chắn bằng vị thế của Bắc Việt Nam. Mỗi ngày chiến tranh qua đi mà không giành được thắng lợi quyết định càng làm mất dần sự ủng hộ trong nước đối với việc Mỹ tham chiến trong Cuộc chiến tranh Đông Dương xa xôi. Những dấu hiệu đầu tiên về quá trình diễn biến này lan truyền trong các cố vấn thân cận nhất của Tổng thống Mỹ. Đây là những người có đầy đủ mọi thông tin để tổng hợp, tạo dựng lên toàn bộ bức tranh về Cuộc chiến ở Đông Nam Á, không chỉ là những mảnh vụn đã được đưa ra công luận nhằm tránh được các vấn đề phức tạp không đáng có xảy ra. Vào mùa thu 1967, có một người đã ủng hộ và thiết kế cuộc chiến tranh ngay từ những buổi đấu, đã từng hàng ngày, hàng giờ chỉ đạo tiến trình chiến tranh và tên tuổi người này chỉ đứng sau tên tuổi Tổng thống để phát lệnh- chiến đấu trong suốt Cuộc chiến tranh Việt Nam thì nay đứng trên tuyến đầu của những người phản đối cuộc chiến này. Người đó chính là bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert S.Mc Namara.
Sự vỡ mộng của Mc Namara về cuộc chiến tranh, việc ông bất mãn với những thành tựu của Mỹ trong cuộc chiến chống những người Cộng sản Việt Nam và ông hiểu rõ những âm mưu hòng đập tan ý, chí của Bắc Việt Nam bằng bom đạn là vô bổ, tất cả những điều này đã làm ông tin rằng cần phải từ bỏ những mục đích quân sự và chuyển cuộc chiến thành cuộc đấu tranh chính trị có hoặc không có đàm phán. Tháng 8 năm 1967, ông ta đã đưa ra một số biện pháp nhằm dần dần hạn chế sự tham gia và nhằm cuối cùng chấm dứt can dự của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
Những lập luận của Mc Namara trái ngược với các báo cáo lạc quan của quân đội Mỹ về triển vọng của cuộc chiến. Trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1967, tham mưu trưởng liên quân Mỹ cũng như các tướng lĩnh Mỹ ở Việt Nam trong đó có William C.Westmoreland đang trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến đã thuyết phục chính quyền và nhân dân Mỹ rằng Mỹ đang lập nên những bước tiến triển mạnh mẽ "cho cuộc chiến tranh, rằng bất kỳ báo cáo nào nói tình hình bế tắc đều là "một chuyện hoang tưởng hoàn toàn" và rằng thắng lợi cuối cùng đã nằm trong tầm tay chúng ta".
Những lập luận của các tướng lĩnh Mỹ có sức thuyết phục hơn lý lẽ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã mệt mỏi với chiến trận. Họ không những thuyết phục được Johnson, những người luôn tỏ ra quá hăng hái, mà còn cả những gì được gọi là những người thông thái, các cựu chiến binh của nền chính trị và ngoại giao Mỹ. Những người này theo yêu cầu của Tổng thống đã họp lại trong hai ngày đầu tiên của tháng 11 để bàn về chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Dean Acheson, cựu ngoại trưởng Mỹ, Tướng lục quân Omar Bradley, cựu chiến binh của Chiến tranh thế giới II; George Ball và Mc George Bandy, đều là thành viên của chính quyền Johnson, Anthlr Dean, nhà đàm phán trong Cuộc chiến tranh Triều Tiên; cựu Bộ trưởng Bộ Tư pháp Abe Fortas-bạn thân của Tổng thống; và cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Robert Murphy-tất cả đều nói với Tổng thống Johnson rằng ông cần phải giữ vững lập trường và bác bỏ bất cứ một gợi ý nào về từ bỏ cuộc chiến tranh.
Chỉ có Averell Harriman vẫn giữ im lặng, mặt lạnh như tiền trong lúc "bày tỏ sự nhất trí này", muốn thể hiện ý kiến bảo lưu nghiêm túc của mình về cuộc chiến. Theo Clark Clofford-một luật sư và bạn thân của Tổng thống, sau là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khi Mc Namara từ chức thì chỉ khi thảo luận về khả năng đàm phán, Harnman kiên quyết tỏ thái độ ủng hộ một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột ông nói đàm phán là "tất yếu và cần thiết".
Harriman là một trong những người ở Washington nghi ngờ sâu sắc về tính hiện thực trong chính sách tiếp tục tham chiến của Mỹ.
 
Vào mùa hè và mùa thu năm 1967, như thường lệ, ông quan tâm đến từng dấu hiệu về những cuộc hội đàm có thể được tiến hành với Hà Nội, coi sự ủng hội của Matxcơva là một phần chủ yếu của tiến trình giải quyết cuộc xung đột. Ngay sau cuộc gặp gỡ Glassbore, ông nhận được tin tình báo cho biết Bắc Việt Nam đã rút bốn trung đoàn chủ lực ra khỏi khu vực phía Nam khu phi quân sự. Trong một báo cáo gửi cho Rusk, Harriman nhận định rằng đây là dấu hiệu Hà Nội bắt đầu quá trình giải quyết xung đột và đề nghị chỉ thị cho Đại sứ Mỹ ở Matxcơva tìm gặp ngay Gromyko để làm rõ hành động trên và yêu cầu lãnh đạo Liên Xô "tìm hiểu chính xác hơn về ý nghĩa của việc rút quân nói trên". Ít lâu sau, Harriman kiến nghị rằng Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ nên sử dụng chuyến thăm của Gromyko đến Liên Hợp quốc như một cơ hội "để thuyết phục Liên Xô hợp tác tìm kiếm giải pháp với Bắc Việt Nam".
Nỗ lực của những người như Harriman cũng như sự nhất trí ở Washington đang bị xói mòn dần dần đã thúc đẩy chính quyền Johnson chấp nhận những biện pháp phi quân sự mới nhằm giải quyết cuộc xung đột này. Trong khi không từ bỏ hy vọng giành chiến thắng trên chiến trường, Washington cố gắng giải quyết xung đột bằng biện pháp ngoại giao. Ngày càng có nhiều biện pháp đáp ứng được đòi hỏi của thời đại và của tình hình, chứ không phải những biện pháp tuyên truyền nhằm làm dịu dư luận trong và ngoài nước. Trong những tháng cuối năm 1967, một số biện pháp nữa được tiến hành, một thông qua các nhà khoa học Pháp là Raymond Anbrae và Herbert Marcovich do Henry Kissinger móc nối liên hệ, và một giáo sư Trưởng Đại học Harvard, còn biện pháp khác thực hiện thông qua những người Rumani. Cũng giống như những toan tính trước đây, các biện pháp này không đạt được kết quả gì.
Mặc dù không đạt được thắng lợi thực sự nào trong quan hệ với Hà Nội, song những nỗ lực của Washington suốt mùa hè và mùa thu năm 1967 đã thể hiện sự chuyển biến dần dẩn về lập trường của Mỹ theo hướng đàm phán với Bắc Việt Nam. Sự chuyển biến này phản ánh tình hình chiến sự ở Việt Nam cũng như không khí chính trị ở trong nước, và ngay cả các thành viên trong chính quyền Johnson cũng ngày càng nhận ra rang không thể thuyết phục Việt Nam ngồi vào bàn đàm phán mà không đáp ứng được một số điểm trong hàng loạt các điều kiện đặt
ra cho các cuộc hội đàm.
Một thay đổi trong lập trường của Mỹ được phản ánh qua Bài diễn văn của Tổng thống tại San Antonio, Texas ngày 29 tháng 9 năm 1967. Trong khi đưa ra những nguyên nhân chiến tranh và lý do để Mỹ tham chiến, Bài diễn văn còn đề cập đến một đề nghị hoà bình là mấu chốt trong sáng kiến của Mỹ đã được truyền đi qua Kissinger. Việc Tổng thống tuyên bố công khai có thể nâng ý nghĩa quan trọng của nó trong con mắt của Bắc Việt Nam.
Tại San Antonio, Johnson cố gắng thuyết phục nhân dân Mỹ rằng có "một tiến triển" ở miền Nam Việt Nam. Ông quả quyết: "Có tiến bộ trong bản thân cuộc chiến tranh, tiến bộ vững chắc trong cuộc chiến mà chúng ta đang theo đuổi...". Theo Tổng thống thì Việt cộng đã chịu thất bại trên toàn miền Nam. Ông khẳng định rằng: “Các chiến dịch năm ngoái đã đẩy lùi kẻ thù khỏi nhiều căn cứ của chúng. Thắng lợi quân sự hầu như trong tay Hà Nội trong năm 1965, thì giờ đây về tay chúng ta. Gông cùm Việt cộng đối với nhân dân đã bị đập tan".
Trong khi tuyên bố thắng lợi như vậy, Johnson đã chuyển đề nghị hoà bình của mình đến cho Hà Nội mà chẳng bao lâu sau đã thành "Công thức San Antonio". Ông ta nói: "Như chúng ta đã nhiều lần nói cho Hà Nội biết trọng tâm thực sự của vấn đề là: Mỹ sẵn sàng chấm dứt mọi hoạt động ném bom bắn phá Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân nếu việc này lập tức đưa đến đàm phán xây dựng. Tất nhiên, chúng ta cho rằng trong tiến hành đàm phán, Bắc Việt Nam sẽ không lợi dụng việc hạn chế hoặc ngừng ném bom nói trên".
Thế là Johnson đã từ bỏ lời thề rằng ông sẽ không đánh đổi việc ném bom Bắc Việt Nam chỉ để lấy việc đàm phán. Washington cũng điều chỉnh đáng kể lập trường của mình đối với việc Bắc Việt Nam thâm nhập vào Nam Việt Nam trong khi ngừng ném bom. Giờ đây, các nhà lãnh đạo Mỹ không đòi hỏi việc thâm nhập này phải chấm dứt. Đoạn, Johnson nói: “Chúng ta... cho rằng... Bắc Việt Nam sẽ không lợi dụng việc ngừng ném bom" có ngụ ý rằng Mỹ sẵn sàng đồng ý với khối lượng và quy mô thâm nhập như thường lệ, nhưng không được tăng hơn. Sau đó, Clark Clifford đã khẳng định điều này trong phiên họp Thượng viện Mỹ hồi tháng 1 năm 1968, khi ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi ông Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà hỏi câu: "Không được lợi dụng việc ngừng ném bom" có nghĩa là Bắc Việt Nam dừng tất cả mọi hoạt động quân sự của họ? Clifford trả lời rằng: "Các hoạt động quân sự của họ sẽ tiếp tục ở Nam Việt Nam cho tới khi có một cuộc ngừng bắn được thực hiện. Họ sẽ tiếp tục vận chuyển như thường lệ những hàng hoá, đạn dược và con người vào Nam Việt Nam. Tôi cho rằng chúng ta sẽ tiếp tục duy trì lực lượng của mình và yểm trợ họ (chính quyền Sài Gòn) trong suốt thời kỳ đó. Vậy thì điều tôi sắp nói-theo ngôn ngữ của Tổng thống Mỹ-quả quyết rằng họ sẽ không lợi dụng việc ngừng ném bom nói trên".
 
Tuy nhiên về cơ bản, "Công thức San Antonio" mâu thuẫn với quyết tâm của Chính phủ Mỹ, không bỏ lỡ một cơ hội nào để giành thắng lợi về quân sự, nhưng nó thể hiện một trong những giải pháp mà các nhà lãnh đạo Mỹ đã chọn lựa vào cuối năm 1967, song đây không phải là sự lựa chọn duy nhất của Mỹ. Trong lúc đó, ở Hà Nội, Bắc Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn gay gắt. Nền kinh tế Bắc Việt Nam đang phải chịu nhũng gánh quá nặng vì nhưng nhu cầu quân sự, đã bị tàn phá nghiêm trọng vì những đợt bom của Mỹ. Quan hệ với đồng minh và nhũng người ủng hộ-không chỉ với Trung Quốc, Liên Xô mà còn với Mặt trận Dân tộc Giải phóng đang ngày càng bị tách rời độc lập hơn là các quan chức Mỹ tưởng-đang trở thành những khó khăn cho Bắc Việt Nam. Trong khi ra sức tuyên truyền vận động tranh thủ dư luận trong nước hơn cả các nhà lãnh đạo Mỹ, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam hoàn toàn không bỏ qua nhu cầu phải quan tâm đến những nguyện vọng cơ bản của nhân dân họ.
Tất cả các mối quan tâm này dường như thúc đẩy Hà Nội xem xét lại các kế hoạch đấu tranh chống "bè lũ đế quốc Mỹ và nguỵ bù nhìn Nam Việt Nam" và phải đi đến một giải pháp đàm phán về cuộc chiến. Nhưng cũng giống các nhà lãnh đạo Mỹ, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam không sẵn sàng từ bỏ hy vọng giành thắng lợi về mặt quân sự. Họ không thể "lãng quên" “cơ hội cuối cùng" để đập tan quân thù bằng những đòn quyết định trên chiến trường. Do đó, vào mùa hè năm 1967, một trong nhũng giải pháp của Hà Nội đối với những khó khăn ngày càng nghiêm trọng trên các mặt trận đối nội, ngoại giao và quân sự là chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc Tổng tiên công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam không thể không thấy rõ rằng kế hoạch Tổng tiến công này đi ngược lại với quan điểm của các đồng minh lớn của họ là Liên Xô và Trung Quốc. Hầu như ngay từ lúc đầu, Liên Xô coi Cuộc chiến tranh Việt Nam là điều không mong muốn và cố thuyết phục Hà Nội giải quyết vấn đề trên bàn đàm phán. Trung Quốc cũng không hoan nghênh chủ trương tổng tiến công này, vì Trung Quốc cho đó là một cuộc chiến tranh hao người tốn của, một cuộc chiến tranh du kích chỉ hạn chế trong các cuộc đột kích riêng lẻ của các lực lượng không chính qùy chống lại một kẻ thù siêu cường về quân sự.
Nhưng Hà Nội vẫn ấp ủ những Kế hoạch Tổng tiến công vì tin rằng thậm chí một thắng lợi cục bộ cũng có thể làm xoay chuyển tình hình ở miền Nam có lợi cho những người cộng sản Việt Nam, giáng một đòn chí mạng vào chế độ Sài Gòn, và buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh chống miền Bắc Việt Nam, qua đó tăng cường uy tín của Hà Nội đối với Liên Xô và Trung Quốc cũng như phong trào cộng sản quốc tế. Càng giành được nhiều thắng lợi nổi bật, những người cộng sản Việt Nam càng chiếm được nhiều lợi thế hơn.
Hà Nội không hy vọng đánh bại Mỹ, nhưng Hà NộI có đủ lý do để hy vọng thắng lợi đập tan chế độ Sài Gòn. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện tình cảm và nhận thức thống nhất trong các nỗ lực ở miền Nam; những kế hoạch Tổng tiến công là tổng hợp tất thẩy các cuộc nổi dậy đồng loạt của quần chúng "bị áp bức" ở miền Nam chống lại chế độ Sài Gòn và đế quốc Mỹ. Ở đây, nhận thức thống nhất là cơ sở vững chắc cho lý luận của những người cộng sản, xoá bỏ mọi hoài nghi về sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân đối với người đại diện cao nhất cho tự do và hoà bình là Đảng cộng sản Việt Nam. Giới lãnh đạo miền Bắc Việt Nam thậm chí tin tưởng chắc chắn rằng không thể không có sự ủng hộ này một khi họ bắt đầu Cuộc Tổng tiến công ở miền Nam. Và rõ ràng là họ đã xác định thắng lợi của toàn bộ cuộc tổng tiến công gắn chặt với sự nổi dậy của quảng đại quần chúng chống lại "chế độ bù nhìn" Sài Gòn.

Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #54 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:23:48 pm »

Cứ coi như giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã thực sự tính đến một Cuộc tổng tiến công vào đầu năm 1967. Những hoạt động tương đối thành công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (NLF) và bộ đội chính quy của Bắc Việt Nam ở miền Nam Việt Nam đã thúc đẩy tham vọng mở rộng quy mô hoạt động quân sự, kết hợp vơi nổi dậy của quần chúng rộng rãi. Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội đã lưu ý đến thái độ này của Bắc Việt Nam và cho đó là "lạc quan "tếu’ về kết quả của cuộc chiến tranh quân sự". Các nhà ngoại giao Liên Xô không thể hiểu hết được nguyên nhân của thái độ này, vì Hà Nội đã làm Liên Xô lẫn lộn. Nhưng Đại sứ quán Liên Xô đã có đủ bằng chứng trực tiếp để dự đoán rằng không phải đến sau khi có các hoạt động quân sự mùa xuân 1968 thì mới có những thay đổi quan trọng đi đến một giải pháp cho cuộc xung đột.
Rõ ràng là quá trình vạch Kế hoạch tổng tiến công đã được đẩy mạnh sau cái chết của ông Nguyễn Chí Thanh, một trong những quan chức cao cấp nhất của Bắc Việt Nam. Tướng Thanh, Đại diện quân sự cao cấp của Hà Nội ở Nam Việt Nam, từ 1965 đã biết rõ tình hình chiến trường hơn bất cứ một quan chức nào khác trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Với những hiểu biết của mình, ông đã nhiều lần hoài nghi về các Kế hoạch tổng tiến công. Ngoài ra, theo Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, Tướng Thanh là một trong những nhà lãnh đạo Việt Nam thuộc phái thân Trung Quốc trong Đảng Lao động Việt Nam, điều đó làm ông trở thành đối thủ tất nhiên của bất kỳ một kế hoạch nào đi ngược lại học thuyết của Trung Quốc về chiến tranh nhân dân. Dù sao đi nữa, trong khoảng tháng 7 năm 1967, một Nghị quyết về cuộc Tổng tiến cong và nổi dậy đã được Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam thông qua. Và từ ngày đó, Hà Nội bắt đầu chuẩn bị cho một sự kiện đối ngoại được coi là bước ngoặt trong Chiến tranh ở Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu của cuộc tổng tiến công, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam phải tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ của các đồng minh cộng sản. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam là phải ký kết cho được các hiệp ước tăng thêm viện trợ với Matxcơva và Bắc Kinh. Mùa thu năm 1967, một phái đoàn kinh tế do Lê Thanh Nghị dẫn đầu đã thực hiện một chuyến công tác dài ngày sang các nước bạn hữu.
Những yêu cầu mới của Bắc Việt Nam là phải làm sao cho Matxcơva thấy rằng Hà Nội đang chuẩn bị một việc đặc biệt trong các hoạt động quân sự sắp tới. Thông cáo chung được ký kết ngay sau hội đàm giữa các đại diện Bắc Việt Nam và cấp phó của Kosygin, Vladimir Norika không chỉ xác nhận viện trợ cho Bắc Việt Nam bao gồm cả viện trợ quân sự mà lần đầu tiên xác nhận viện trợ toàn diện của Liên Xô cho Hà Nội, thậm chí còn cụ thể hoá các loại viện trợ quân sự. Đáp lại những yêu cầu của Bắc Việt Nạm, Matxcơva sẽ cung cấp "máy bay, vũ khí phòng không, pháo, súng phun lửa, đạn dược và các phương tiện quân sự khác" trong năm 1968. Bản thông cáo còn nói thêm rằng Liên Xô sẽ giúp Bắc Việt Nam các phương tiện giao thông vận tải, các sản phẩm dầu mỡ, sắt thép, lương thực thực phẩm, phân bón, thuốc men và các hàng hoá khác "cần thiết cho sự tăng cường khả năng quốc phòng của Bắc Việt Nam và phát triển nền kinh tế quốc dân của Bắc Việt Nam".
Một tuyên bố công khai về việc ủng hộ toàn diện như vậy là chưa từng có đối với Matxcơva trong quan hệ với các đồng minh và bạn bè của Liên xô. Điện Kremlin muốn tránh để lộ khối lượng và quy mô giúp đỡ "bạn bè", nhưng việc Liên Xô cung cấp cho họ vũ khí và phương tiện quân sự là việc mà ai cũng biết. Có thể là qua việc thừa nhận thực tế này, cũng như ý muốn khuyến cáo Mỹ một cách gián tiếp những ý đồ nghiêm trọng của Bắc Việt Nam đã làm Chính phủ Liên Xô thấy phải cụ thể hoá bản chất của viện trợ quân sự cho Bắc Việt Nam.
Ngay sau khi hiệp định viện trợ kinh tế được ký kết giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Lê Duẩn đã tới thăm Matxcơva và gặp gỡ các nhà lãnh đạo Liên Xô. Một trong những cuộc gặp gỡ của ông ở Điện Kremlin diễn ra ngày 31 tháng 10, và có mặt của cả 3 nhà lãnh đạo cao nhất Liên Xô là Leonid Brezhnev, Alexei Kosygin và Nikolai Podgornyi. Nội dung cuộc gặp gỡ này đến nay chưa ai biết nhưng có thể đoán chừng là nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã cho các nhà lãnh đạo Liên Xô biết đánh giá của mình về tình hình ở Việt Nam.
Không thể cho rằng ông Lê Quẩn đã tiết lộ hết các kế hoạch của Bắc Việt Nam. Bản chất của quan hệ giữa Hà Nội với Matxcơva không cho phép bộc lộ hết như vậy. Nhưng ông có thể đã cố làm cho Liên Xô thấy rõ rằng đòn quyết định cuối cùng có thể đập tan sự kháng cự của kẻ thù. Và các nhà lãnh đạo Liên Xô có thể đã hiểu được tác động của một việc làm như vậy nhằm tiến gần đến kết thúc Chiến tranh ở Việt Nam.
Vào cuối năm 1967, rõ ràng là Hà Nội đã chuẩn bị lực lượng cho một đòn quyết định ở Nam Việt Nam, vì tháng 1 năm 1968, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã nhóm họp Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam để chính thức thông qua kế hoạch của họ. Kỳ họp thứ 14 của Đảng Lao động Việt Nam đã kết luật rằng các nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao. Theo nhưng người cộng sản Việt Nam, từ những thời điểm đó trở đi, người Mỹ có khả năng chiếm được những vị thế quyết định và họ có thể từ bỏ nhưng sáng kiến của mình. Kỳ họp trên đã xác định rằng những người cộng sản Việt Nam đã giành thắng lợi cả về chiến lược lẫn sách lược. Ban lãnh đạo cộng sản tuyên bố rằng tình hình giờ đây đang có lợi cho các lực lượng của nhân dân Việt Nam và thuận lợi cho một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh cách mạng. Kỳ họp trên đã thông qua một nghị quyết phải bắt đầu Tổng tiến công và nổi dậy trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968.
Hà Nội thấy rõ được ba khả năng xảy ra của cuộc Tổng tiến công trong dịp Tết 1968. Tại kỳ họp trên, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã nói về thắng lợi hoàn toàn và kết thúc chiến tranh, nhưng họ cũng biết chắc điều này không thể xảy ra. Hơn thế nữa, họ dường như sẵn sàng chấp nhận những kết quả khiêm tốn hơn nhiều, như việc giành ưu thế trên hầu hết các khu vực của Nam Việt Nam trong khi chiến tranh vần tiếp tục và lực lượng chống cộng sản được củng cố. Nhưng Hà Nội cũng không loại trừ khả năng xấu thứ ba, Mỹ sẽ tăng cường lực lượng và xâm lược miền Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Kỳ họp trên cũng tuyên bố dù sao thì những người cộng sản Việt Nam cũng quyết tâm tiếp tục tấn công quân sự cho tới khi nào đánh bại kẻ thù.
Một sự kiện đáng nhớ xảy ra trước khi tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy ở Nam Việt Nam. Khi sắp bước sang năm 1968, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã xuất hiện trong buổi tiếp đoàn đại biểu Mông Cổ tại Hà Nội. Sau khi đề cập tới "thắng lợi của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Mỹ", ông Trình đã nói đến vấn đề giải pháp cho cuộc xung đột. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh rằng: "Chính phủ Mỹ nói rằng họ muốn đàm phán với Hà Nội nhưng không hề được đáp ứng. Nhưng nếu Chinh phủ Mỹ thực sự muốn đàm phán, thì trước tiên Mỹ phải ngừng vô điều kiện ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Narn Dân chủ Cộng hoà. Sau khi Mỹ ngừng vô điều kiện cáo cuộc ném bom và các hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ đàm phán với Mỹ về những vấn đề liên quan".
Các nhà quan sát tham dự buổi tiếp ngay lập tức đã nắm bắt được sắc thái mới trong những nhận xét chính thức trên của nhà lãnh đạo Việt Nam này. Lần đầu tiên Hà Nội trả lời đầy đủ trong bản tuyên bố về những cuộc hội đàm có thể thực hiện với Mỹ. Sự hiện diện của ông Phạm Văn Đồng trong buổi lễ đứng sau ông Trinh và mỉm cười đầy ý nghĩa dường như đã làm tăng thêm phần quan trọng cho những lời nhận xét của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Và đài Hà Nội sau đó đã phát đi bản tuyên bố của ông Trinh bằng tiếng Anh trên băng tần sóng ngắn quốc tế nhằm đảm bảo chắc chắn là Mỹ nhận được tin này. Rõ ràng Washington không biết nên đánh giá lời tuyên bố của ông Trinh như thế nào. Chính quyền Johnson còn đang đợi kết quả cuộc tiếp xúc với Bắc Việt Nam thông qua người Rumani. Nhưng cố gắng này không có kết quả. Thậm chí trước khi việc này kết thúc, Bắc Việt Nam đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, vì vậy sau này Washington đã kết luận rằng lời tuyên bố của ông Trinh chẳng là cái gì ngoài mục đích tuyên truyền.
 
Lời kết luận này không hề sai sự thật. Ngay sau khi ông Trinh xuất hiện trong cuộc tiếp đón đoàn Mông Cổ, một nhà ngoại giao Liên Xô ở Bắc Việt Nam, Sergei Devilkovskii đã gặp Trương Công Đồng, một thành viên của Phái đoàn đại diện thường trú của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ở Hà Nội. Ông Đồng thừa nhận rằng tuyên bố của ông Trinh chỉ nhằm mục đích tuyên truyền mà thôi, mặc dù nó đã được thêu dệt dưới hình thức mới. Quan điểm của Bắc Việt Nam về cơ bản vẫn như trước. Nếu Mỹ ngừng ném bom Bắc Việt Nam, Bắc Việt Nam vẫn không ngừng viện trợ cho cho miền Nam. Hà Nội không đưa ra lời hứa hẹn nào về việc này. Các hoạt động quân sự ở miền Nam sẽ vẫn tiếp tục. Theo ông Đồng, lời tuyên bố của ông Trinh là một "trò tuyên truyền" gửi đến cho phía Mỹ để đáp lại những “trò tuyên truyền" mà Johnson đã dành cho phía Bắc Việt Nam.
Cuộc gặp gỡ này tái khẳng định những ý đồ của những người Cộng sản Việt Nam đầu 1968 là tập trung cho một cuộc tấn công chính trị. Ông Đồng đã lưu ý với Devilkovskii một thực tế là Hà Nội và các đồng minh ở miền Nam giờ đây coi các cuộc hội đàm với Mỹ là không thực tế. Ông Đồng cho rằng: "Các cuộc hội đàm sẽ bắt đầu khi Mỹ giáng đòn chí tử đối với chúng tôi hoặc khi chúng tôi đánh bại. Mọi vấn đề sẽ được giải quyết trên chiến trường". Mặc dù tuyên truyền như vậy, nhưng Hà Nội vân mong muốn không phá bỏ những khả năng đi đến đàm phán bất cứ lúc nào nếu cuộc tấn công quân sự thất bại.
Do đó, vào đầu năm 1968, Cuộc chiến Việt Nam đã đi đến bước ngoặt và cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã trở thành sự kiện có tính quyết định. Không hề nghi ngờ gì rằng cuộc tấn công này không bất ngờ đối với Mỹ. Ngay từ đầu Mỹ tham gia Cuộc chiến Việt Nam-hàng năm, mùa khô là thời gian tăng cường các hoạt động quân sự của Việt cộng và các lực lượng Bắc Việt Nam chống lại quân Mỹ và quân nguỵ. Ông Westmoreland cùng giới tình báo và quân sự đã sớm dự đoán được hoạt động của Cộng sản Việt Nam sau hoặc trong dịp Tết Nguyên đán. Nhưng không một người Mỹ nào thấy trước được tầm cỡ và quy mô đặc biệt, tác động tâm lí của cuộc Tổng tiến cống Tết 1968. So với tinh thần lạc quan bao trùm trong các thành viên của chính quyền Johnson và giới quân sự Mỹ suốt mùa thu năm 1967 thì ảnh hưởng của cuộc tiến công này thật là to lớn hơn nhiều.
Cuộc Tổng tiến công bắt đầu vào ngày 31 tháng 1, lớn chưa từng thấy về số lượng của Cộng sản Việt Nam cũng như về phạm vi hoạt động. Các lực lượng vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng được sự hỗ trợ của Bắc Việt Nam, đã đồng loạt tấn công trên một trăm thành phố và thị xã gồm cả Thành phố Sài Gòn, 39 trong 44 thành phố thuộc tỉnh và 71 thị trấn thuộc quận, huyện. Các mục tiêu bao gồm cả các cơ quan quan trọng nhất của Chính phủ, các cơ sở quân sự, các căn cứ quân sự và nhiều trung tâm chỉ huy của Mỹ.
Việc Mặt trận Dân tộc Giải phóng tấn công vào Sài Gòn, một thành phố được coi là không bị Việt cộng đánh vào, đã để lại một ấn tượng to lớn không chỉ ở Mỹ mà còn trên toàn thế giới. Dinh Tổng thống và Bộ tổng chỉ huy liên quân đã bị các đơn vị đặc công Việt cộng vây hãm trong nhiều giờ. Tại khu vực, Sài Gòn, Bộ chỉ huy Việt cộng đã huy động tới 35 trung đoàn cho cuộc tấn công này. Các lực lượng Cộng sản nhỏ hơn đã chiếm giữ Thành phố Huế, Cố đô của Việt Nam, trong suốt 35 ngày.
Tuy các lực lượng của Mỹ và Nam Việt Nam đã đập tan được cuộc Tổng tiến công của Cộng sản và giành lại quyền kiểm soát đối với hầu hết các thành phố, thị xã và các khu vực khác, nhưng đòn tấn công tháng 2 và tháng 3 tháng 1968 là không thể bù đắp lại được đối với Mỹ. Hà Nội và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam có thể chịu thất bại về quân sự, nhưng họ đã giành được thắng lợi quan trọng về tâm lí, tư tưởng. Họ đã chứng tỏ cho thế giới và quan trọng nhất là cho nhân dân Mỹ biết rõ rằng nhưng báo cáo của Mỹ về quân sự đã bóp méo tình hình thực tế ở Việt Nam. Rằng, dù Mỹ và đồng minh đã hy sinh nhiều nhân tài, vật lực, nhưng cuộc chiến tranh còn lâu mới kết thúc. Thực tiễn này đã làm phương hại nghiêm trọng uy tín của chính quyền Johnson. Nhiều năm sau Clifford đã nhận xét: “Thiệt hại Tết Mậu Thân 1968 là sự mất lòng tin của công chúng Mỹ đối với giới lãnh đao Mỹ. Cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã làm phương hại chính quyền Johnson ở những nơi mà nó cần đến sự ủng hộ, nhất là ở Quốc hội và công chúng Mỹ...".
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #55 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:25:30 pm »

Tuy vậy, cái giá phải trả cho thắng lợi này của Cộng sản Việt Nam cũng vô cùng to lớn. Hà Nội đã mất đi hơn 50.000 cán bộ quân sự ưu tú. Quan trọng hơn nữa là Cuộc Tổng tiến công không đẩy được một cuộc nổi dây ở miền Nam. Thất bại to lớn này thể hiện yếu điểm của Cộng sản Việt Nam ở Nam Việt Nam và đập tan luận điệu của Hà Nội cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là Cuộc chiến tranh nhân dân chống lại chế độ Sài Gòn được "Chủ nghĩa đế quốc Mỹ" giúp đỡ. Như mọi người đều biết rõ, hầu hết nhân dân miền Nam đều chán ghét chiến tranh và ghê tởm chế độ Thiệu phản dân chủ tham nhũng.
 
Mặc dù trên thực tế, hậu quả của sự kiện Tết 1968 đã tạo ra những thay đổi tình hình, nhưng cả Washington lẫn Hà Nội đều không ai sẵn sàng hành động một cách tích cực. Chính quyền Johnson bị chia rẽ, phân hoá nghiêm trọng. Phái này muốn mở rộng quy mô cuộc chiến tranh bằng cách đánh chiếm lãnh thổ Bắc Việt Nam cũng như những tiền đồn Bắc Việt Nam ở Campuchia, Lào và muốn tang cường mạnh mẽ sức mạnh quân sự ở đây. Phái kia lại lập luận rằng vấn đề Cuộc chiến tranh Việt Nam không thể giải quyết bằng các biện pháp quân sự; rằng cần phải ngừng ném bom lãnh thổ Bắc Việt Nam và bắt đầu hội đàm với Hà Nội; và nhân dân Mỹ sẽ không ủng hộ việc đẩy mạnh chiến tranh hơn nửa.
Bản thân Tổng thống Johnson cũng do dự. Trọng tâm cuộc đấu lí trong chính quyền Mỹ đã trở thành nội dung bài diễn văn trên truyền hình của Tổng thống Mỹ dự định đọc vào cuối tháng ba. Bản thảo đầu tiên phản ánh quan điểm cứng rắn, đưa ra đủ lý do phải gửi thêm quân cho Westmoreland và huy động các lực lượng dự bị. Không hề có việc đề cập đến việc ngừng ném bom hoặc đề nghị đàm phán.
Nhưng Tổng thống Mỹ vẫn tiếp tục xem xét đánh giá lại tình hình trong suốt tháng ba. Trong một cuộc họp khác, bác bỏ hoàn toàn lập trường đưa ra trong tháng 11 năm 1967, các cố vấn Tổng thống đã tuyên bố phản đối cuộc chiến tranh. Ảnh hưởng của việc này thế nào, Tổng thống Mỹ không bộc lộ cho đến cuối tháng 11 năm 1967.
Giới lãnh đạo Bắc Việt Nam trải qua một quá trình xem xét, đánh giá tình hình không kém phần phức tạp, mặc dù không hề có một bằng cớ cụ thể nào ở Hà Nội về việc này. Nhưng kết quả những tháng đầu của cuộc Tổng tấn công đòi hỏi phải xem xét lại chính sách của Bắc Việt Nam đối với cuộc chiến tranh. .
Ảnh hưởng của việc không giành được mọi thắng lợi quyết định trong dịp Tết 1968 đã làm cho Ban lãnh đạo Bác Việt Nam có một thay đổi trong việc huy động các lực lượng của họ cho một chiến dịch kéo dài hơn nữa trong vòng "ba hoặc bốn tháng”. Đến cuối tháng 2, Bộ chỉ huy Cộng sản Việt Nam ở miền Nam đã quyết đình giảm mức độ hoạt động quân sự xuống chỉ còn là các hoạt động nhỏ của các đơn vị du kích hoặc quấy phá đối phương. Cuộc chiến hầu như đã trở lại mức độ trước đây.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 còn chỉ ra cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam thấy rằng chỉ bám vào một giải pháp quân sự ở Việt Nam là không thể chấp nhận được. Đã đến lúc phải vận dụng chiến lược "Vừa đánh vừa đàm", nghĩa là vừa hội đàm trên bàn đàm phán, vừa tấn công vũ trang chống kẻ thù trên chiến trường. Theo các nhà hoạch định chính sách của Bắc Việt Nam, sự kết hợp đánh và đàm này có thể đưa đến thắng lợi, nếu chỉ dùng nguyên biện pháp quân sự không thể đạt được thắng lợi trong cuộc chiến tranh này.
Sách lược "Vừa đánh vừa đàm” được Hà Nội đưa ra trước tháng 3 năm 1968. Trong một bài diễn văn trước Hội nghị cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng hồi tháng 4 năm 1966, Tướng Nguyễn Văn Vịnh đã thừa nhận rằng: "Tình hình sắp tới có thể đưa đến đàm phán. Tuy nhiên, ngay cả khi có đàm phán, thì đàm phán cũng phải được tiến hành đồng thời với tấn công kẻ thù trên chiến trường. Trong khi đàm phán, chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu chống kẻ thù một cách mạnh mẽ hơn (điều này có thể cho thấy rằng miền Bắc vẫn tiến hành đàm phán trong khi miền Nam tiếp tục chiến đấu, và rằng miền Nam cũng tham gia đàm phán trong khi đang chiến đấu). Những người chịu trách nhiệm chiến đấu thì tiếp tục chiến đấu, và nhân tố quyết đinh thắng lợi là chiến trường.
Các quan chức Bắc Việt Nam không hề giấu giếm Liên Xô về ý đồ của họ sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh quân sự ở miền Nam trong khi tiến hành đàm phán với Mỹ. Việc họ khẳng định dù bắt đầu đàm phán vẫn sẽ không làm thay đổi tiến trình chiến tranh ở miền Nam đã phản ánh nhận định của các nhà làm chính sách của Hà Nội rằng sự kết hợp hai phương thức đấu tranh này có thể đưa lại thắng lợi cho Bắc Việt Nam. Ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hoãn việc thông qua sách lược "vừa đánh vừa đàm" cho tới sau những đợt công kích đầu tiên của cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã thể hiện hy vọng mong manh vào thắng lợi quân sự của Hà Nội. Các nhà nghiên cứu của Đảng Cộng sản Liên Xô tại Hà Nội đã kết luận rằng: "''Các đòn chiến tranh và cuộc chiến tranh chính trị của các đồng chí Việt Nam ở miền Nam trong "mùa khô" thứ ba đã không giành được những kết quả tối đa như đã tính toán. Chính phủ và quân đội Sài Gòn không hề bị xoá sổ, về cơ bản Mỹ vẫn giữ được chỗ dựa, cơ sở chính trị ở miền Nam Việt Nam; các điều kiện để Mặt trận Dân tộc Giải phóng và đồng minh giành chính quyền không được tạo ra và Mỹ đã giành được những khả năng tương đối lớn trong việc mặc cả về chính trị". "Những kết quả này một lần nữa chỉ cho hai bên tham chiến thấy rõ không thể giải quyết vấn đề Việt Nam bằng chiến tranh”.
Việc thừa nhận thực tế này là kinh nghiệm đau đớn cho cả hai bên. Có thể không bao giờ có một thời gian lí tưởng cho đàm phán trong một bối cảnh tình hình như Việt Nam, cũng như trong hầu hết các tình huống có thể đàm phán khác. Trong một báo cáo gửi Tổng thống Johnson hồi giữa tháng ba, trong khi nhận định về tính khống nhất quán trong các nhà chính trị ở cả Washington và Hà Nội, Arthur Goldberg-Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp quốc viết: “Nếu mọi việc về mặt quân sự diễn biến trôi chảy, thì xu hướng tất yếu sẽ xem việc đàm phán là không cần thiết. Ngược lại, nếu mọi việc về mặt quân sự diễn biến xấu, thì có khuynh hướng xem đàm phán “là bất lợi". Goldberg khẳng định rằng thời cơ đàm ohán đã đến và chính quyền Mỹ phải nắm bắt cho được thời cơ đó.
Nhiều cố vấn thân cận của Tổng thống đã lập luận và thuyết phục ông phải thay đổi giọng bài diễn văn ngày 31 tháng 3. Tổng thống đã quyết định nói với nhân dân Mỹ không phải về "thử thách nghiêm trọng" của cuộc Tổng tiến công của Cộng sản Việt Nam, không nói về phản ứng thích hợp của Mỹ mà nói về "triển vọng hoà bình ở Việt Nam và Đông Nam Á". Hơn thế nưa, Tổng thống còn ra một tuyên bố mạnh mẽ cho thấy những dấu hiệu quan trọng đối với nền chính trị của nước Mỹ.
Ngay khi mọi người biết rằng Johnson có thể đưa ra một số các biện pháp quyết định để đi vào đàm phán với Bắc Việt Nam, Hariman gợi ý Mỹ nên quan hê trước với các nhà lãnh đạo Liên Xô nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ trong các cuộc hội đàm với Hà Nội là điều rất có lợi. Hariman thừa nhận rằng: "Thật khó có thể dự đoán được kết cục của những cuộc đàm phán với các nhà lãnh đạo Liên Xô nhưng tôi hài lòng nhận thấy rằng việc thông báo trước cho họ biết bất kỳ tuyên bố nào và đàm thoại với họ càng nhiều vấn đề càng tốt, điều đó có thể gây được ảnh hưởng có lợi đến quan điểm và hành động tương lai của họ". Và ông đã kết luận: "Khi xem xét các mối nghi ngờ tồn tại giữa Hà Nội và Washington, chúng ta cần tranh thủ những ảnh hưởng bên ngoài trong việc tìm kiếm một giải pháp và không ai có tác động hiệu quả bằng Liên Xô". Theo lời khuyên của Harriman, ngay trước khi đọc diễn văn ngày 31 tháng 3 của mình, Johnson đã giải thích đề nghị của ông cho đại sứ Liên Xô Dobrrynin biết và nhấn mạnh những cố gắng vì hoà bình. Một thời gian ngắn sau đó ông đã đọc diễn văn trên truyền hình toàn quốc.
Tổng thống Mỹ đã nhấn mạnh nguyện vọng "phải tìm được cơ sở cho đối thoại hoà bình". Ông nhắc lại đề nghị ở San Antonio và lưu ý rằng Hà Nội đã bác bỏ đề nghị đó. Vì hy vọng một sáng kiến mới của Mỹ có thể đưa đến hội đàm sớm, Johnson đơn phương tuyên bố xuống thang chiến tranh. Tổng thống nói: "Tới nay, tôi đã ra lệnh cho các máy bay, tàu chiến Mỹ không tiến hành một cuộc tấn công nào chống Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía Bắc khu phi quân sự". Ông chỉ rõ rằng khu vực mà Mỹ sẽ chấm dứt tấn công sẽ bao gồm gần 90% dân số Bắc Việt Nam và hầu hết lãnh thổ của Bắc Việt Nam.
Johnson hứa rằng ngay cả việc ném bom hạn chế cũng chấm dứt nếu Bắc Việt Nam đáp lại sáng kiến này của Mỹ. Ông nhắc lại một lần nữa: “Mỹ sẵn sàng phái các đại diện của mình đến bất kì diễn đàn nào, vào bất kì lúc nào, để đàm phán về các biện pháp đưa cuộc chiến tranh bẩn thỉu này đến kết thúc". Khi cừ đại diện riêng của mình đến đàm phán, Tổng thống đã chọn Averell Harriman và Đại sứ Mỹ ở Matxcơva Llewellyn Thompson, vừa từ Matxcơva về để tham kiến. Johnson kết thúc bài diễn văn bằng lời tuyên bố làm mọi người giật mình rằng ông sẽ không tiếp tục theo đuổi và cũng không chấp nhận Đảng của ông tiến cử làm Tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Ông sẽ không tham gia chiến dịch tranh cử Tổng thống để giành toàn bộ thời gian của mình phục vụ những nhu cầu của đất nước.
Bài diễn văn ngày 31 tháng 3 của Johnson có tiếng vang lởn trên thế giới. Tại Màtxcơva, tờ Pravda số ra ngày 2 tháng 4 đưa tin về bài diễn văn, giọng điệu bài bình luận của tờ báo này rất thận trọng, dè dặt. Bài báo mô tả bài diễn văn của Tổng thống Mỹ là một "bằng chứng mới về thất bại hoàn toàn của chính sách của Mỹ ở Việt Nam". Đối với việc Johnson không tham gia chiến dịch tranh cừ Tổng thống, Pravda cho rằng điều đó có thể vẫn chỉ là một kiểu "vận động bầu cử". Trên chính trường nước Mỹ, đã nhiều lần các ứng cử viên Tổng thống từ chối việc tiến cử của các Đảng, nhưng sau đó lại lao vào chiến dịch tranh cừ mạnh mẽ hơn".
Tờ báo Izvestiia, cũng tỏ ra hoài nghi về tuyên bố của Johnson. Trong khi thừa nhận việc ngừng ném bom là một bước tiến đáng hoan nghênh, tờ báo này vẫn khuyến cáo rằng không hề có một bảo đảm nào cho việc tiếp tục ngừng ném bom nói trên.
Sự thận trọng của báo chí Liên Xô phản ánh thái độ của Kremlin đối với sáng kiến mới của Mỹ. Các nhà lãnh đạo Liên Xô rõ ràng vẫn hoài nghi về tính trung thực của những bước đi của Mỹ. Dobrynin đã hỏi Harriman liệu quyết định của Tổng thống Mỹ là quyết định tối hậu hay không và tại sao ông ta lại chọn đêm 31 tháng 3 để tuyên bố chút. sách của ông ta đối với Việt Nam. Vài tuần sau đó, Dobrynin đã giải thích cho Eugene Rotow, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ phụ trách vấn: đề chính trị rằng: "Vẫn còn nhiều hoài nghi và do dự trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đối với việc nếu Mỹ có thực sự quan tâm đến một giải pháp chính trị ở Việt Nam... hay không?”.
Matxcơva có đủ lí do để lo lắng. Trước hết, những sáng kiến vì hoà bình của Mỹ trước đây đều đi đôi với một đợt leo thang chiến tranh mới của Mỹ. Trong những trường hợp như vậy, mọi cố gắng của Liên Xô thuyết phục Hà Nội ngồi vào đàm phán đều trở thành vô tác dụng. Trong khi nói chuyện với Harriman, Dobrynìn đặc biệt lưu ý đến cuộc hội đàm đáng buồn của Kosygin ở Luận Đôn tháng 2 năm 1967
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #56 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:26:05 pm »

Thứ hai là, những hoài nghi của Liên Xô có thể bắt nguồn từ thực tế năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống ở Mỹ. Hầu hết các nhất nghiên cứu Liên Xô đều có chung quan điểm rằng Việt Nam sẽ là vấn hàng đầu trong chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống và họ ngờ rằng các nhà chính trị Mỹ thay đổi lập trường về cuộc chiến tranh chỉ vì cuộc bầu cừ này. Những vấn đề về lập trường của Johnson về cuộc chiến tranh trước bầu cử năm 1964 là bằng chứng cho các nhà lãnh đạo Liên Xô thấy những lời lẽ khoa trương trước bầu cử không nhất thiết thể hiện trung thực chính sách sau bầu cử, do đó, những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam có thể là không trung thực.
Cuối cùng là tuyên bố của Johnson không phản ánh được thay đổi mạnh mẽ vì thái độ của Mỹ so với chính sách của Mỹ trước đây đối với Việt Nam. Tuy vào tháng ba ấy, Tổng thống Mỹ đã đồng ý gửi quân sang Việt Nam ít hơn nhiều so với số lượng mà các cố vấn của ông đề nghị và đảm bảo giảm mức độ thù địch và đưa ra một hình thức mới mà sau này người ta gọi là "Việt Nam hoá chiến tranh", nhưng ông ta không hề thay đổi chiến lược căn bản của cuộc chiến tranh và sang tháng tư thậm chí còn kín đáo ra lệnh cho quân đội Mỹ phải "đánh mạnh trong khi tiến hành đàm phán".
Các nhà Lãnh đạo Liên Xô đã lưu ý mặt tích cực trong tuyên bố của Johnson và cho rằng không loại trừ khả năng Mỹ thậm chí còn tiến xa hơn nếu Hà Nội bắt đầu ngồi vào đàm phán-sẽ ngững toàn bộ việc ném bom Bắc Việt Nam. Đây chính là thoả hiệp chính mà Bắc Việt Nam luôn thúc giục Liên Xô thuyết phục Mỹ. Hơn nữa, bằng việc cử hai chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Liên Xô là Harriman và Thompson làm những người đàm phán chính trong các cuộc hội đàm với Bắc Việt Nam, Chính phủ Mỹ muốn nói lên một điều rằng Mỹ sẵn sàng xem xét đến quyền lợi của Liên Xô trong giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Tuy Liên Xô muốn tránh đưa ra công khai về vai trò của họ trong vấn đề Việt Nam, nhưng họ vẫn tích cực tìm kiếm một giải pháp có lợi cho tham vọng của Liên Xô ở Đông Nam Á và hy vọng sẽ có vai trò trong việc quyết định tương lai của khu vực này.
Dobrynin đã nêu rõ mối quan tâm của Liên Xô trong khi nói chuyện với Harriman ngày 1 tháng 4: Ông giải thích rằng Matxcơva sẽ không chống lại bất kì một hoạt động nào của Mỹ ở miền Nam Việt Nam một khi Mỹ "để cho Bắc Việt Nam yên thân". Điều đáng quan tâm không kém là ngay sau khi bàn bạc với Harriman về “khu vực quyền lợi" của Matxcơva và Washington, Dobrynin liền xoay sang vấn đề quan hệ Mỹ-Trung và hỏi "Liệu đã có tiến triển nào mới trong vấn đề đó". Đối với Liên Xô, nhân tố Trung Quôc luôn đóng vai trò trong vấn đề Việt Nam.
Trong khi Nhà Trắng thấy phản ứng của Liên Xô phần nào có thể chấp nhận được thì phản ứng của của Hà Nội "không lường được". Đáng ngạc nhiên hơn là phản ứng này được thể hiện sớm hơn rất nhiều so với dự kiến. Ngày 3 tháng 4, đài Bắc Việt Nam đã phát đi lời tuyên bố với Chính phủ Mỹ như sau: "Tuy nhiên, về phần mình, Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố sẵn sàng phái các đại diện của mình đến bàn đàm phán, với điều kiện Mỹ chấm dứt vô điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam để các cuộc hội đàm có thể bắt đầu”.
Mức độ phản ứng nhanh của Hà Nội đối với các sáng kiến vì hoà bình của Mỹ dường như đã làm ngạc nhiên không chỉ Washington mà còn cả Mạtxcơva, trừ Bắc Kinh là người chủ trương tiếp tục chiến tranh. Có nhiều khả nàng là Hà Nội đã không thông báo cho Liên Xô biết trước về quyết định của họ sẽ tiến hành đàm phán với Mỹ. Việc không tham kiến này là không bình thường đối với giới lãnh đạo Bắc Việt Nam. Nhưng rõ ràng Matxcơva cho rằng việc này đã được chuẩn bị. Ngoài các nhận xét, đánh giá của Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội về những thay đổi chiến lược của Bắc Việt Nam và ý đồ muốn trì hoãn các cuộc hội đàm với Mỹ đến sau mùa xuân 1968, Kremlin chắc chắn đã có các tin tình báo của các nhà ngoại giao Liên Xô khẳng định chiều hướng phát triển đó. Ngay từ 16 tháng 2 năm 1968, Cơ quan tình báo Liên Xô (KGB) đã báo cáo Kremlin về việc Giơi lãnh đạo Bắc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã thực hiện các biện pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam trong năm 1968. Tài liệu này vẫn được giữ bí mật và chúng tôi không biết các biện pháp này như thế nào. Nhưng chính sự tồn tại của tài liệu này đã khẳng định rằng Ban lãnh đạo Liên Xô biết được đôi điều về các ý đồ của bạn Việt Nam.
Hơn thế nữa, Matxcơva rõ ràng biết rõ về nội tình Ban lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động. KGB đã cung cấp cho Kremlin nội dung các cuộc thảo luận của Bộ chính trị Bắc Việt Nam trong những ngày từ 2 đến 6 tháng 4, bàn về phản ứng của Bắc Việt Nam đối với bài diễn văn của Johnson ngày 31 tháng 3. Do đó, Ban lãnh đạo Liên Xô đã hiểu được chiều hướng tư duy của Hà Nội đối với đề nghị của Tổng thống Mỹ.
Cộng đồng tình báo Mỹ cố gắng phân tích làm rõ thực chất chính sách của Bắc Việt Nam trên cơ sở những sự kiện thực tế của tình hình. Theo CIA, Hà Nội tin rằng họ có thể giành được thắng lợi quân sự mặc dù cái giá phải trả rất cao. Bắc Việt Nam còn hy vọng sẽ đập tan ý chí hiếu chiến của kẻ thù. CIA lập luận rằng, trong hoàn cảnh đó, những người Cộng sản Bắc Việt Nam coi việc kiên định trên bàn đàm phán kết hợp chặt chẽ với liên tục gây sức ép quân sự trên chiến trường sẽ tạo ra khả năng đưa đến kết quả có lợi cho họ. CIA kết luận rằng Hà Nội thực sự muốn đàm phán và không hề muốn kiếm cớ để từ bỏ việc thiết lập được các quan hệ với Mỹ.
Tình báo Mỹ cũng đánh giá thái độ của hai đồng minh lởn nhất và những nước ủng hộ Bắc Việt Nam đối với tiến trình đàm phán, nhưng họ có thể cố chỉ rõ cho Bắc Việt Nam thấy lợi thế của việc phải thể hiện tính năng động hơn nữa về mặt ngoại giao. Các nhà nghiên cứu Bộ Ngoại giao lạc quan cho rằng: "Thậm chí nếu Matxcơva không thuyết phục được Hà Nội đáp ứng lại bài diễn văn của Tổng thống thì ít ra Bắc Việt Nam cũng biết rằng họ có thể tin cậy hoàn toàn vào sự ủng hộ của Liên Xô đối với bước tiến này".
Đối với Trung Quốc, ảnh hưởng đối với chính sách của Bắc Việt Nam được CIA đánh giá là giảm đi một cách căn bản. Trung Quốc chỉ có hai cách gây sức ép đối với Bắc Việt Nam. Họ có thể cắt cung cấp gạo và bột mì, nhưng Hà Nội có ít nhất ba tuần dự trữ gạo và Liên Xô có thể cung cấp gạo: bằng đường biển cho họ. Hoặc Trung Quốc có thể triệu hồi các trung đoàn lao động quốc tế của họ khỏi Bắc Việt Nam-nhưng việc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc có thể làm những lực lượng này không còn có vai trò quan trọng nữa. CIA báo cáo rằng tất cả các quan
chức Bắc Việt Nam đều đồng ý việc Trung Quốc không thể áp đặt ý chí của họ đối với Bắc Việt Nam một cách có hiệu quả. Họ thậm chí còn nói Trung Quốc là một "đại cường quốc!”.
Tuy cả Washington và Hà Nội đều tuyên bố quyết tâm đi đến đàm phán, nhưng họ cùng phải đương đầu với một khó khăn to lớn đang có nguy cơ trở thành một cản trở chính không thể vượt qua nổi trên đường đi đến đàm phán. Đó là việc lựa chọn nơi gặp gỡ. Nhưng gợi ý ban đầu của Mỹ và Bắc Việt Nam đều bị bác bỏ. Mỹ phản đối họp ở Phnôm Pênh. Hà Nội không chấp nhận họp ở Geneve vì gợi nhớ về những hậu quả không tốt lành của Hội nghị 1954 về Đông Dương. Sau đó Mỹ đề nghị bốn nơi sau: Vientiane, Rangoon, Djakasta hoặc New Dehli. Sau một thời gian Hà Nội im lặng, ngày 11 tháng 4 hãng thông tấn Liên Xô TASS thông báo rằng Bắc Việt Nam muốn gặp tại Vac-sa-va, thủ đô Ba Lan.
Thủ đô Ba Lan dường như có thể được một số thành viên trong chính quyền Mỹ chấp nhận, trong đó có Harriman và Cyrus Vance (người đã thay Lìewellyn Thompson làm người đại diện đàm phán của Mỹ cùng với Harriman). Harriman coi đề nghị này như "một cái tát vào mặt Trung Quốc". Ông ta lập luận rằng các nước Đông Âu "rất sợ cuộc chiến này kết thúc" cũng vì một nguyên nhân họ không muốn thấy đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô", và đó là lý do xác đáng để chọn Vác-sa-va làm nơi gặp gỡ.
Nhận thấy rõ sự miễn cưỡng của Tổng thống Mỹ khi chấp nhận Vác-sa-va làm nơi hội đàm, Harriman quyết định gọi cho Johnson và thử xem có thể thuyết thuyết phục được Tổng thống không, nhưng Johnson vẫn không thay đổi ý kiến. Ông ta tuyên bố, tới chừng nào ông còn ở cương vị Tổng thống, nước Mỹ sẽ không đi đến Vác-sa-va để đàm phán. Ông ta muốn chọn một nơi hoàn toàn trung lập và có đường thông tin liên lạc thuận lợi. Để đáp lại sự khẳng định của Harnman rằng đàm phán ở một nước Cộng sản chẳng phiền toái gì cho ông, Tổng thống phản đối lại lập tức rằng điều đó làm ông khó chịu. Ông nói: "Tôi không muộn họp ở bất kỳ nơi nào ở Vác-sa-va, Tiệp Khắc hoặc bất kỳ ở một nước Đông Âu khác. Tôi nghĩ nơi đó phải là ở châu Á, một lãnh thổ trung lập nào đó. Chúng ta không bị sai khiến thông qua cái loa TASS của Liên Xô!. Trong trường hợp này, Tổng thống Mỹ đã nghe theo lời khuyên của Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker và trợ lý an ninh quốc gia, một người theo đường lối cứng rắn, ông Walt Rostow.
Rostow đã giải thích động cơ của Johnson trong một bức điện gửi cho Rusk. Rostow viết: "Điều rõ ràng là Tổng thống coi nơi họp là một vấn đề mấu chốt và vấn đề đấu trí có thể ảnh hưởng xấu đến nội dung của các cuộc hội đàm. Tất cả mọi người phải thấy rõ chủ trương về nơi gặp gỡ là vấn đề do Tổng thống quyết định, không một ý kiến nào có giá trị nếu chưa qua Tổng thống xem xét và kiểm tra".
Cuộc tranh luận về nơi gặp gỡ kéo dài là nguy cơ đe doạ ngay cả trước khi xảy ra các cuộc hội đàm. Rõ ràng là Matxcơva đã theo dõi một cách chặt chẽ những diễn biến tình hình giữa Mỹ và Bắc Việt Nam trong tháng 4 và thấy rõ sự bế tắc về vấn đề nơi gặp. Kremlin biết ý đồ của Hà Nội không từ bỏ các mục tiêu quân sự, đặc biệt là vì Bắc Việt Nam không hề giấu giếm ý đồ của mình. Thậm chí, ông Phạm Văn Đồng trong hai lá thư ngày 30 tháng 3 và ngày 10 tháng 4 còn yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm.
 
Do sợ những hy vọng mong manh vì một giải pháp hoà bình ở Việt Nạm bị tan vỡ, các nhà lãnh đạo Liên Xô tích cực tìm kiếm một giải pháp có thể chấp nhận được cho vấn đề chọn nơi gặp gỡ. Có thể Vác-sa-va là do Kremlin gợi ý cho Bắc Việt Nam. Thực tế, đề nghị này do hãng TASS công bố đã chứng tỏ được giả thiết trên. Ngày hôm sau 12 tháng 4, Chính phủ Ba Lan, có thể được Liền Xô khuyến khích, đã tuyên bố sẵn sàng tạo những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho các cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Bắc Việt Nam được diễn ra một cách tốt đẹp.
Bất chấp việc Mỹ đã nói rõ lập trường của mình về nơi gặp mà Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ thông báo cho Dobrynin theo chỉ thị của Johnson, trong một cuộc nói chuyện với Harnman, Đại sứ quán Liên Xô một lần nữa đã cố thuyết phục Mỹ thay đổi quan điểm, và Nhà Trắng chấp nhận nơi gặp là Vác-sa-va. Dobrynin bảo đảm rằng một đoàn đại biểu Nam Việt Nam có thể được hoan nghênh ở Ba Lan.
Trong khi đó, Matxcơva tiếp tục tìm kiếm một nơi thay thế thích hợp khác. Các nhà lãnh đạo Liên Xô hẳn đã nhận thấy rằng một thành phố duy nhất có thể làm nơi gặp gỡ mà cả Mỹ và Bắc Việt Nam không tính đến là Paris. Theo quan điểm của Liên Xô, thủ đô nước Pháp của De Gaulle có thể là nơi lý tưởng cho các cuộc hội đàm. Tổng thống Pháp đã từ lâu là người phê phán Mỹ dính líu vào Đông Nam Á và được Hà Nội tôn trọng. Hơn thế nữa, Bắc Việt Nam tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp và đại diện là ông Mai Văn Bộ đã được cử sang Pháp nhằm tiếp tục giữ quan hệ đó.
Liên Xô rõ ràng đã cho rằng giữ liên hệ giữa Matxcơva và đoàn Bắc Việt Nam ở Paris dễ dàng hơn ở bất cứ thủ đô châu Á nào mà Mỹ đưa ra. Ở Pháp, Liên Xô có đại sứ là ông Valrrian Zorin, một nhà ngoại giao dày dạn đã từng nổi tiếng ở Mỹ. Điều này có thể giải quyết được vấn đề thông tin liên lạc giữa Mỹ và Bắc Việt Nam, không kể đến Pháp. Matxcơva có thể cũng hy vọng rằng Washington sẽ không bác bỏ thẳng thừng nơi họp là Paris, dù quan hệ vẫn còn căng thẳng giữa Johnson và De Gaulle. Paris có thể là nơi lựa chọn tốt nhất. Đúng lúc Matxcơva bắt đầu gợi ý thăm dò chọn nơi gặp là Paris đối với Bắc Việt Nam, Pháp không có gợi ý rõ rằng. Có thể điều này xảy ra sau khi Mỹ không chấp thuận Vác-sa-va. Phản ứng đầu tiên của Washington đối với gợi ý về Paris là không rõ ràng. Khi Arthur Goldburg nhận xét với Rusk rằng việc bỏ Paris không đưa vào trong danh sách của Mỹ có thể tự nó khiến Hà Nội phải chọn Paris và đặt chính quyền Mỹ vào "thế lúng túng”. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nhất trí với ý kiến này. Trong trường hợp như vậy "hầu như không thể giải thích li do tại sao chúng ta không chấp nhận, nhất là khi các quan chức của Nam Việt Nam đã tuyên bố rõ ràng với báo chí rằng Nam Việt Nam chấp thuận Paris". Do đó vào giữa tháng tư, khi Rusk thông báo cho Walt Rostow về nhận xét của Goldburg, chính quyền Mỹ đã không coi Paris là một lựa chọn có thể được.
Mặt khác, Harriman đã nhanh chóng nhận thấy những lợi thế chọn thủ đô Pháp làm nơi gặp gỡ cho Mỹ và Bắc Việt Nam. Ông lưu ý trong một bản tin của hãng UPI rằng Ngoại trưởng Pháp Couve De Mawill đề nghị chọn Paris làm nơi hội đàm và đã viết thư thuyết phục Rusk ủng hộ đề nghị đó. Harriman lập luận: "Trước khi bác bỏ việc chọn Paris, tôi hy vọng cần phải cân nhắc những lợi thế của Paris, dường như đã rõ rằng rằng người Pháp từ De Gaulle trở xuống đều muốn những quan hệ đầu tiên này thành công, ít nhất là đi đến thoả thuận từ các quan hệ sang các cuộc hội đàm". Ông lưu ý Rusk rằng các quan chức Pháp rất có ích trong việc khuyến khích thúc đẩy các mối liên hệ hoà bình giữa các bên tham chiến. Ông đi đến kết luận: "Nếu Hà Nội thể hiện sẵn sàng muốn đi đến Paris, tôi không nghĩ có một lí do "thoả đáng" để chúng ta không chấp nhận điều đó".
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #57 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:27:11 pm »

Tình báo Mỹ ủng hộ việc chọn Paris làm nơi gặp gỡ. Ngày 1 tháng 5, CIA đã báo cáo Nhà Trắng về lập luận của một trong những quan hệ bí mật rằng "Cuối cùng thì các cuộc hội đàm sẽ xảy ra ở Paris". Theo quan hệ này, "Paris là một nơi gặp gỡ tuyệt vời vì hai lí do: Trước hết là Bác Việt Nam có thể chấp nhận nó, vì họ biết rằng việc De Gaulle chống Mỹ có thể bảo đảm bất kỳ cuộc hội đàm nào ở Pháp cũng sẽ được thực hiện trong một bầu không khí và những điều kiện có lợi cho Bắc Việt Nam". Thứ hai, một số Việt kiều sống ở Pháp có thể tham gia vào hội đàm với tư cách đại diện không thuộc Mặt trận dân tộc Giải phóng của "Chính phủ Quốc gia" là thành phần thứ ba trong các cuộc hội đàm.
Năm ngày sau đó, nhằm khuyến khích chính quyền tán thành quyết định đến Paris, CIA đã đưa ra thêm nhiều lập luận ủng hộ việc lựa chọn Paris. Báo cáo của CIA đã làm cho De Gaulle quan tâm đến thắng lợi của các cuộc gặp ban đầu giữa hai đoàn đại biểu và nguyện vọng của ông ta muốn chọn thủ đô nước Pháp làm nơi gặp gỡ cho các cuộc hội đàm tiếp theo. Các báo cáo tình báo đánh giá rằng các quan chức Pháp có thể sẽ giữ vai trò tương đối trung lập trong một quá trình hội đàm vì lí do nhằm tạo cho De Gaulle một cơ hội làm người trung gian hoà giải. CIA cũng chỉ rõ rằng cảnh sát Pháp có khả năng duy trì trật tự an ninh cần thiết cho các cuộc hội đàm.
Trong khi chính quyền Mỹ đang xem xét các ý kiến về việc lựa chọn Paris, Liên Xô đã mở đường đưa đến một giải pháp cho vấn đề này. Ngày 2 tháng 5, Lê Duẩn gặp Tham tán Sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, V.Chivilev và thông báo cho ông rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, sau khi xem xét, tham khảo ý kiến của Liên Xô, dự định đề nghị chọn Paris làm nơi gặp gỡ đàm phán. Lê Duẩn nói: "Ở Hà Nội, mọi người đều biết rõ ràng rằng các đồng chí Liên Xô đã tiến hành một số việc với Pháp về vấn đề này, và ngược lại họ cũng thuận ý chọn Paris làm nơi gặp gỡ".
Lê Duẩn nói rõ những thuận lợi của Paris. Thứ nhất là, đoàn đại biểu Bắc Việt Nam ở đó sẽ có thuận lợi giữ liên hệ chặt chẽ với Matxcơva. Và khi xem xét mối quan hệ giữa Pháp và Nam Việt Nam, bất kì sự kiện nào ở Paris cũng có thể nhanh chóng gây ra một phản ứng nào đó ở Sài Gòn. Thậm chí, thực tế khi Mỹ và Bắc Việt Nam ngồi ở bàn đàm phán có thể làm suy yếu thế mạnh của “bè lũ bù nhìn". Kết thúc câu chuyện, Lê Duẩn yêu cầu Chính phủ Liên Xô thuyết phục Mỹ chấp thuận Paris làm nơi hội đàm. Nhưng Matxcơva không cần thiết phải làm như vậy. Ngay sau khi Hà Nội tuyên bố đề nghị ngày 3 tháng 5 gặp gỡ tại Paris và tên của nhà đàm phán chính-ông Xuân Thuỷ, Nhà Trắng đã chấp nhận.
Ngày hôm đó, Tổng thống Johnson đã thông báo cho báo chí rằng ông gửi một bức thư thông điệp cho Hà Nội chấp nhận ngày bắt đầu đàm phán, ngày 10 tháng 5 và nơi gặp gỡ là Paris. Ông bày tỏ hy vọng rằng thoả thuận này sẽ dẫn đến hoà bình ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, Tổng thống còn khuyến cáo rằng đây mới chỉ là bước đầu, "còn rất nhiều khó khăn, trở ngại phía trước".
Liên Xô tỏ ra lạc quan hơn. Họ coi việc bắt đầu đàm phán là một thắng lợi về ngoại giao và một dấu hiệu đáng hy vọng và khẳng định rằng cuộc xung đột nguy hiểm trong nhiều năm qua đã đe doạ an ninh thế giới này cuối cùng sẽ được giải quyết. Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội chỉ rõ: "Không chỉ hành động như một người hoà giải chính thức mà Liên Xô còn đã tạo ra cơ hội quan trọng cho cả hai bên cùng ngồi vào đàm phán và bắt đầu các cuộc đàm phán chính thức. Liên Xô không ngừng nỗ lực thuyết phục dư luận thế giới và Chính phủ các nước tán thành việc chấm dứt oanh tạc miền Bắc Việt Nam và gây sức ép đối với Mỹ. Đồng thời Liên Xô đã làm cho các đồng chí Việt Nam thấy rõ năm 1968 là năm thuận lợi nhất vì nhiều lý do để thúc đẩy tiến trình đi đến một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam".
Rõ ràng các nhà lãnh đạo Liên Xô rất phấn kích khi đã vượt qua bao chướng ngại trên con đường dẫn đến Paris. Nhưng không một ai ở Washington, Matxcơva hoặc Hà Nội có thể đoán trước được con đường dẫn đến hoà bình còn lâu dài và khó khăn như thế nào.
 


Chương VIII: Cuộc đàm phán “đầy hóc búa”

Những cuộc đàm phán đầu tiên giữa đại diện hai nước tham chiến dường như đã kháng định sự nghi ngờ của Tổng thống Johnson là đúng. Trước khi phái đoàn Mỹ rời Washington đi Paris, Tổng thống đã gặp huấn thị và nhắc lại sự nghi ngờ của mình đối với tương lai của cuộc đàm phán. Tổng thống nói với Harriman và các thành viên trong đoàn rằng: "Chúng ta sắp đàm phán, tôi vui mừng vì điều đó, nhưng tôi không quá hy vọng. Tôi nghĩ đàm phán sẽ hóc búa, đầy hóc búa...".
Mặc dù các phiên họp sơ bộ diễn ra trôi chảy và thậm chí hy vọng đạt được tiến bộ quan trọng, nhưng khi hội đàm chính thức vào ngày 13 tháng 5 tại Khách sạn Majestic Paris-nơi mà Gestapo đã dùng làm căn cứ chỉ huy trong suốt Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, thì niềm lạc quan đã biến thành mây khói. Các nhà đàm phán của cả hai bên đã công kích lẫn nhau, cả Harriman và Xuân Thuỷ đều không nhận được chỉ thị phải mềm dẻo, phù hợp trong đàm phán.
Do vậy, Rusk đã nhấn mạnh với Harriman rằng sứ mệnh của ông ta ở Paris chỉ tập trung tìm ra những gì Bắc Việt Nam chuẩn bị làm để đáp lại kế hoạch ném bom hạn chế của Mỹ. Không có cuộc đàm phán nào mà Mỹ chịu nhân nhượng. Đại diện Mỹ ở bàn Hội nghị hầu như chấp hành nghiêm túc chỉ thị từ Washington. Các chỉ thị này nói rõ mục tiêu cơ bản của đàm phán là: "Dàn xếp với đại diện Bắc Việt Nam đàm phán ngay và đi vào những vấn đề thực tế tìm kiếm hoà bình ở Việt Nam. Trong quá trình dàn xếp phải làm cho phía Việt Nam hiểu rõ Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam là có điều kiện, chứ không phải là sự thất thế quân sự của Mỹ". Cuối cùng muốn nói rằng Hà Nội chấp nhận tôn trọng vùng, khu phi quân sự, không đưa thêm linh Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam và chứng nhận hoà giải tham gia đàm phán với Nam Việt Nam tức Chính phủ Sài Gòn.
Hà Nội không đi nhanh hơn Washington. Việc Hà Nội cử Xuân Thuỷ làm trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris cho thấy Hà Nội ít hy vọng giải quyết nhanh một số vấn đề cơ bản. Đảng Lao động Việt Nam chọn Xuân Thuỷ là việc làm thận trọng.
Các nhà ngoại giao xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội nghi ngờ rằng việc cừ Xuân Thuỷ đến Paris chứng tỏ Hà Nội chỉ mong làm vừa lòng Bắc Kinh-người kịch liệt phản đối đàm phán với Hoa Kỳ mà khắp thủ đô Hà Nội ai cũng biết. Xuân Thuỷ, đã từng làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Trung và là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ông bị mất chức khi quan điểm thân Trung Quốc chưa phải là phổ biến ở Bắc Việt Nam. Mặc dù sau này Xuân Thuỷ trở thành người có quan điểm dân tộc hơn là thân Trung Quốc nhưng việc Xuân Thuỷ được cử làm Trưởng đoàn đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể làm yên lòng Trung Quốc. Quyết định phái Xuân Thuỷ đến Paris, Hà Nội đạt được hai mục đích. Trước hết là tránh được sự rủi ro không cần thiết trong quan hệ với đồng minh khổng lồ Trung Quốc. Thứ hai là dựa vào sự cứng rắn không thoả hiệp của ông để tìm hiểu ý đồ của Washington đối với Hội nghị Paris. Vì vậy cuộc đàm phán đã nhanh chóng đi vào bế tắc-chỉ gặp nhau hai lần trong một tuần và chủ yếu là để luận chiến và tuyên truyền. Cả hai bên đều bám giữ quan điểm của mình, không có dấu hiệu thoả hiệp. Harriman đọc một bải diễn văn chứa đầy chỉ thị của Tổng thống Johnson, yêu cầu Bắc Việt Nam phải có những bước đi đáp lại việc ngừng ném bom từng phần của Mỹ. Xuân Thuỷ đáp lại bằng một bài điển văn dài hơn tố cáo sự xâm lược của Mỹ. Các cuộc đàm phán kéo dài lê thê không mang lại kết quả chỉ-tập trung chọc tức lẫn nhau: Chất lượng thông tin của các cuộc đàm phán không còn, giới báo chí ở Paris chạy toán loạn để săn tin. Các quan chức ở Washington bắt đầu thất vọng với kết quả đàm phán. Họ lại còn thất vọng hơn khi nghe tin chính quyền Bắc Việt Nam mở một cuộc tấn công mới vào lính Mỹ ở Đường 9 Nam Lào. Chính quyền Washington bắt đầu phải tính đến biện pháp trả đũa các hoạt động leo thang quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Không khí giới lãnh đạo Mỹ thất vọng về kết quả đàm phán của Hội nghị hoà bình Paris mà ở Matxcơva giới lãnh đạo cao nhất của Liên Xô cũng rất quan tâm đến diễn biến của tình hình. Báo chí-luôn là cái loa tuyên truyền của Kremlin-đã thay đổi giọng điệu từ lạc quan, thận trọng sang ngày càng nghi ngờ. Một ngày trước khi diễn ra cuộc "trao đổi chính thức giữa phái đoàn Mỹ và phái đoàn Bắc Việt Nam, báo Pravda đăng một bài dài về cuộc đàm phán sắp diễn ra cùng với tiểu sử của Harriman và Xuân Thuỷ. Bài báo này cung cấp cho độc giả những chi tiết về cuộc đàm phán, phản ánh vai trò quan trọng của Kremlin vượt qua mối quan tâm của độc giả.
Tuy nhiên, gần đến ngày đàm phán, giọng điệu của Pradva thay đổi. Ngày 17 tháng 5, Pradva lưu ý độc giả rằng hai phiên họp đầu tiên đã chẳng mang lại được lí do "để tin tưởng vào thái độ thiện chí của các nhà lãnh đạo Mỹ, sẵn sàng không leo thang xâm lược Việt Nam". Hai ngày sau, báo Pradva lại đăng một bài chỉ trích gay gắt và thậm chí nghi ngờ thái độ của phái đoàn Mỹ. Bài báo viết: "Rõ ràng thái độ của Mỹ là muốn cuộc đàm phán càng dài càng tốt để có thời gian chuẩn bị cho các hoạt động quân sự với quy mô lớn hơn và khi đó họ mới lấy lí do "thái độ không thoả hiệp" của Việt Nam để ném bom trở lại trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và cố gắng giành lại thắng lợi bằng quân sự".
Bài báo do Yun Zhuko viết đã thể hiện sự hoài nghi sâu sắc nhất của Ban lãnh đạo Liên Xô. Matxcơva lo ngại rằng sự bế tắc trong đàm phán có thể làm đổ vỡ toàn bộ tiến trình tìm kiếm một giải pháp hoà bình ở Việt Nam. Tuy Matxcơva công khai lên án Mỹ, nhưng giới lãnh đạo Liên Xô cũng thấy rằng Hà Nội cũng phải chịu trách nhiệm về sự bế tắc này. Họ nắm chắc diễn biến tình hình trong các cuộc hội đàm và trước hết Bắc Việt Nam đã rõ từng chi tiết về các cuộc đàm phán với nhóm đàm phán của Harriman. Chính Harriman còn có các nguồn tin khác vì sau khi đến Paris, ông đã cố gắng bằng mọi cách để duy trì quan hệ với Matxcơva qua Đại sứ quán Liên Xô. Do tin rằng chỉ có Liên Xô mới có thể giúp Mỹ tìm cách giảng hoà với Bắc Việt Nam, Harriman trước lúc đến Paris đã xác định trách nhiệm phải tranh thủ sự ủng hộ của Liền Xô qua đối thoại với Đại sứ Liên Xô Dobrynin ở Washington. Chẳng hạn, ngày 8 tháng 4 khi Dobrynin nhấn mạnh Chính phủ Liên Xô muốn có một giải pháp hoà bình ở Nam Việt Nam thì Harriman "đã cố gắng thuyết phục ông ta rằng Liên Xô phải thực sự ra tay nhằm giành được mục tiêu trên". Về vấn đề này, trước khi đến Paris, trong bữa cơm trưa với Đại sứ Liên Xô ngày 5 tháng 5, Harriman đã nói thẳng thắn rằng phía Mỹ cần đến sự hợp tác của Liên Xô.
 
Tại Paris, Harriman làm nhiệm vụ liên lạc giữa đoàn Mỹ và đại sứ quán Liên Xô. Ngày 18 tháng 5, đúng ngày diễn ra các cuộc trao đổi giữa hai phái đoàn, ông đã liên hệ với Đại sứ quán Liên Xô, mời Đại sứ Zorin đến trụ sở đoàn Mỹ gặp gỡ, làm việc. Sau đó hai ngày, Zorin trả lời sẽ chờ Harriman đến Đại sứ quán Liên Xô làm việc chứ không đến Đại sứ quán Mỹ. Sergei Bogomcov, Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Liên Xô đã thông báo cho phái đoàn Mỹ như vậy và giải thích rằng trưởng đoàn Bắc Việt Nam thường đến Đại sứ quán Liên Xô làm việc với Zorin do vậy cũng mong trưởng phái đoàn Mỹ cũng làm như thế.
Harriman từ chối việc này. Ông ta không muốn đến trình diện bất cứ một đại sứ nào khác và cho biết Đại sứ Anh và đại sứ các nước khác tới thăm ông ta, do đó mong rằng đại sứ Zorin sẽ tới trong một vài ngày tới. Nhưng Zorin viện cớ đang có các cuộc gặp khác, và mời Harriman tới Đại sứ quán Liên Xô.
Trò mèo vờn chuột này tiếp diễn trong hai ngày cho tới lúc cả hai ông nhất trí gặp nhau tại Tư dinh Đại sứ Mỹ Slivor, ngày 19 tháng 5. Valentin Oberemko, Tham tán trong Sứ quán Liên Xô đã đến làm việc với Harriman để dàn xếp cho cuộc gặp này và tìm hiểu tình hình các cuộc hội đàm sau phiên khai mạc. Trưởng đoàn đàm phán Mỹ đã tỏ rõ thất vọng về "sự thiếu chính xác, sai trái trong các tuyên bố của phía Bắc Việt Nam đang biến các cuộc hội đàm thành một hoạt động tuyên truyền". Harriman hy vọng sẽ sớm có thể tiếp tục bàn tới các vấn đề mấu chốt, "nhưng phía Bắc Việt Nam vẫn ngạo mạn một cách quá đáng".
Lời đáp của Oberemko nói rõ vai trò quan trọng của Liên Xô đối với các cuộc hội đàm. Ông ta nhấn mệnh: "Việc đề xướng các cuộc đàm phán khởi đầu một tiến trình không thể đảo ngược được, phía Bắc Việt Nam cũng thấy rõ điều này và quyết tâm thực hiện một cách nghiêm tức". Ngay lập tức, Harriman sừ dụng tuyên bố này để khẳng định vai trò của Liên Xô trong việc thúc đẩy các cuộc hội đàm tiến triển. "Liên Xô giữ mốt vai trò chủ chốt trong các cuộc đàm phán" và "ông ta không tin rằng các cuộc đàm phán sẽ thắng lợi nếu thiếu sự hỗ trợ của Liên Xô. Do đó, Harriman hy vọng sẽ quan hệ chặt chẽ với các đại diện của Liên Xô" ở Paris.
Sau đó Harriman đã giải thích rõ các mục tiêu của Mỹ tại các cuộc hội đàm. Ông nói rằng để thuyết phục cả hai ông Kosygin và Dobrynin, ông đã nghiên cứu "kĩ lưỡng" cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và thấy tuy còn nhiều mâu thuẫn nhưng có thể chấp nhận được. Ông cho biết Chính phủ Mỹ mong muốn trong các cuộc đàm phán liên quan đến tương lai của Nam Việt Nam, phải có phía chính quyền Sài Gòn tham dự. Harriman còn lo ngại Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục chuyển lực lượng ở mức độ ngày càng cao vào miền Nam và chưa thấy có dấu hiệu kiềm chế nào từ phía Hà Nội.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #58 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:27:49 pm »

Cuộc gặp gỡ đầu tiên này đã xác định được những đường hướng chính cho cuộc hội đàm giữa các đại diện Mỹ và Zorin. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Harriman, theo chỉ đạo của Matxcơva, Zorin không có tuyên bố gì mới về lập trường đã quá rõ của Liên Xô đối với các cuộc hội đàm. Mục tiêu chính của ông ta là phải tìm hiểu cho được đánh giá tình hình của Washington và chính quyền Johnson sẵn sàng đi tới đâu trong cuộc hội đàm với Hà Nội, khi các đại diện Mỹ lên án thái độ cứng rắn của Bắc Việt Nam và việc Bắc Việt Nam tăng cường quân đội vào miền Nam sau khi Mỹ ngừng ném bom từng phần Zorin nói thẳng tưng rằng lập trường của Bắc Việt Nam là "Rõ ràng và kiên định". Thực chất, sẽ không thể có một bước tiến triển nào trong đàm phán nếu Mỹ không ngừng vô điều kiện việc ném bom Bắc Việt Nam. Zorin nhấn mạnh rằng về phần mình, Chính phủ Liên Xô hiểu rõ và ủng hộ việc đó. Đại sứ Liên Xô khẳng định lại điều này nhiều lần còn Harriman vẫn kiên định lập trường.
Đối với Mỹ, quan hệ đầu tiên này với Liên Xô dường như không có kết quả lắm. Tuy nhiên, Harriman cũng thấy được một số dấu hiệu đáng khích lệ. Chẳng hạn như việc Zorin không bác bỏ khả năng tiếp tục gặp gỡ Harriman. Thực vậy, ông ta đồng ý nhũng quan hệ này cần được đuy trì và vạch ra chương trình quan hệ. Ông nói có vẻ rất vui khi gặp riêng Harriman và chỉ rõ Oberemko và Bogomolov là những kênh liên lạc khác. Harriman còn có một cơ hội nữa để gợi ý tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa các phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam, "có thể có phía Liên Xô tham dự, nếu họ muốn". Vì không được lệnh từ Matxcơva về việc này, Zorin không nói gì và cho rằng điều đó thật "xa vời". Nhưng đối với phía Liên Xô, ý kiến này của Harriman là một khả năng có thể thực hiện được nhằm giải quyết bế tắc trong đàm phán và do đó sẽ được coi là một giải pháp tích cực.
Cuộc trao đổi đầu tiên giữa Zorin và Harnman có vẻ như đã được Matxcơva cân nhắc kĩ. Kremlin chỉ thị cho Zorin phải duy trì quan hệ với đoàn Mỹ, như Zorin đã thừa nhận trong cuộc trao đổi thứ hai của ông với Harnman, ngày 25 tháng 5 tại Đại sứ quán Liên Xô. Tinh thần của cuộc trao đổi này khác xa so với những gì xảy ra tại dinh Đại sứ quán Mỹ Shivew. Theo Harnman báo cáo thì "Zorin có phần ít tranh luận hơn và ít ra cũng lắng nghe một cách nhã nhặn". Mặc dù ông Zorin tuyên bố rằng lập trường của Liên Xô về những vấn đề chính trị của các cuộc hội đàm này vẫn kiên định trước sau như một, nhưng ông cũng tỏ ra quan tâm hơn đến lập luận của Harriman về những cuộc gặp gở bí mật giữa phía Bắc Việt Nam và Mỹ và cách nhìn nhận của Mỹ về các biện pháp có đi có lại của phía Bắc Việt Nam đối với việc Mỹ ngừng ném bom. Về khả năng tổ chức các cuộc hội đàm bí mật giữa người đại diện của hai đoàn đàm phán, Zorin hỏi thêm về thành phần của những cuộc gặp gỡ đó, liệu các cuộc họp này có thể bao gồm cả hai hay ba đoàn từ các phía đến tham dự hay không?
Bàn về vấn đề đáp ứng lại và kiềm chế của Hà Nội càng khó khăn hơn, vì mỗi bên đều tái khẳng định lập trường của mình về vấn đề này mà không hề có sự điều chỉnh đáng kể nào. Harriman đề cập đến bài diễn văn 31 tháng 5 của Johnson và nhắc lại mục đích của Mỹ muốn bàn về một cuộc ngừng ném bom, chứ không phải để tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Ông ta cũng lưu ý các đồng nghiệp phía Liên Xô rằng về các tuyên bố của Bắc Việt Nam hồi tháng tư chứng tỏ Hà Nội đã hiểu sự việc theo nghĩa trên. Theo quan điểm của Harriman, phía Bắc Việt Nam đã đi chệch hướng các cuộc Hội đàm tại Paris.
Zorin tỏ ra quan tâm đặc biệt đến tuyên bố của Harnman rằng: Mỹ hy vọng có một dấu hiệu kiềm chế từ phía Hà Nội và Mỹ không yêu cầu có một tuyên bố chính thức đáp lại-điều này phía Bắc Việt Nam nhất định sẽ phản đối. Đại sứ quán Liên Xô nói rằng phía Mỹ đã không nói trực tiếp vấn đề này cho phía Bắc Việt Nam biết. Harriman nói tới tính chất công khai của các cuộc trao đổi chính thức đã ngăn ông ta không làm việc đó. Nhưng ông ta hứa sẽ thông báo cho đoàn Bắc Việt Nam có thể làm một điều gì đó "bằng hoạt động hoặc bằng lời nói" thể hiện sự kiềm chế của mình đáp lại những biện pháp đơn phương của Mỹ.
Cuộc trao đổi tại Đại sứ quán Liên Xô chứng tỏ Matxcơva đang tích cực tìm kiếm giải pháp thoả hiệp tại Paris. Kremlin rõ ràng đã cho Hà Nội biết ý tưởng tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa khai phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam, cũng như việc kiềm chế hành động. Khi liên lạc với phía Bắc Việt Nam, các nhà lãnh đạo Liên Xô chắc chắn đã đề cập tới nguy cơ kéo dài vô tận các cuộc đàm phán, lưu ý Hà Nội về lới khuyến cáo của Harriman về ấn tượng không thuận lợi có thể ảnh hưởng đến công chúng Mỹ, và về ý đồ của chính quyền Johnson muốn tái ném bom toàn bộ Bắc Việt Nam.
 
Có thể những lập luận này thuyết phục được phía Bắc Việt Nam. Hai quyết định quan trọng của Hà Nội gửi cho đại diện có thế lực nhất-ông Lê Đức Thọ, đồng ý tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa hai phái đoàn-có thể đó là kết quả của việc gây áp lực đối với Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam từ phía các đồng chí của họ ở Kremlin. Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã khẩn trương thông báo cho Đại sứ của mình ở Paris về những thay đổi này trong lập trường của Hà Nội. Chỉ hai ngày sau cuộc gặp đầu tiên với Harriman tại Đại sứ quán Liên Xô, Zorìn đã trả lời: Không, khi Harriman hỏi liệu Zorin có cho việc tổ chức các cuộc hội đàm là "quá sớm" hay không. Harriman đề nghị đại sứ Liên Xô thông báo cho phía Bắc Việt Nam biết về việc đó để xem phản ứng của Việt Nam thế nào. Zorin cho rằng các cuộc hội đàm kín có thể diễn ra cùng với các cuộc gặp gỡ công khai mà họ "không thể trì hoãn được".
Lời lẽ và ý tứ của Đại sứ Liên Xô thận trọng. Zorin nói: “Theo ý kiến cá nhân tôi, phản ứng của họ (Bắc Việt Nam) vào thời điểm này có thể là tiêu cực... nhưng với kinh nghiệm ngoại giao của mình, ngài thống đốc chắc thấy rằng tình hình đang thay đổi và có thể sau này phản ứng của họ sẽ tích cực tuỳ thuộc vào sự tiến triển của các cuộc hội đàm công khai".
Zorin hầu như không thể chỉ đưa ra "ý kiến cá nhân của mình" về vấn đề này. Được đề bạt lên một chức vụ quan trọng trong bộ máy ngoại giao của Liên Xô dưới thời Stalin, ông không quen với việc có ý kiến riêng và truyền đạt cho các nhà ngoại giao nước ngoài mà không được cấp trên cho phép. Ông là một nhà ngoại giao của "Viện Molatov", một người thừa hành nghiêm túc các quyết định của lãnh đạo. Và Harriman đã biết điều này rất rõ.
Trong một cuộc trao đổi không chính thức với Dobrynin tại nhà ở phố N, Washington “Con sâu già" này (đồng nghiệp ở Washington thường gọi Harriman với cái tên này vì ông thường đặt ra những câu hỏi hóc búa và những nhận xét khó chịu) đã hỏi đồng nghiệp Liên Xô tại sao Chính phủ Liên Xô không bố trí một người khác nhạy cảm hơn Zorin ở Paris..". Trong báo cáo về cuộc trao đổi này, Harriman còn nói rõ: "Tôi nói cho ông ta rằng tôi hối tiếc việc Liên Xô không bố trí một người "tân tiến" hơn Zorin ở Paris...". Như vậy Harriman chắc chắn đã nhận thấy tuyên bố thận trọng của Zorin là đáng hy vọng.
Do những thay đổi điều kiện trong các cuộc Hội đàm Matxcơva rõ ràng đã muốn Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam quyết định cử Lê Đức Thọ đến Paris cùng đàm phán với Xuân Thuỷ. Khác hẳn với mục đích ban đầu của Bắc Việt Nam chỉ duy trì đàm phán suông, Cộng sản Việt Nam giờ đây có ý muốn chuyển hội đàm tay bo “gợi ý và bác bỏ", sang thành các cơ hội để đàm phán, nhượng bộ lẫn nhau. Với cương vị Uỷ viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam; không giống như Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ là người có khả năng ra quyết định và trong một số trường hợp có thể gây ảnh hưởng đối với lập trường của Hà Nội về các cuộc hội đàm.
Tuy Matxcơva biết rằng lãnh đạo Bắc Việt Nam coi các cuộc đàm phán chỉ là một phần của chiến lược chung "vừa đánh vừa đàm" của họ, nhưng phía Liên Xô cũng có tin về việc Bắc Việt Nam muốn đàm phán. Đầu tháng giêng năm 1968, Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội đã báo cáo rằng trong giai đoạn đầu đàm phán, phía Việt Nam cố đạt được việc Mỹ ngừng ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam cùng với việc rút hết lực lượng hải quân và không quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Giai đoạn này phải có các cuộc tiếp xúc trù bị giữa hai phía Bắc việt Nam và Mỹ nhằm xác định rõ toàn bộ phạm vi vêu cầu đàm phán. Các cuộc hội đàm sau đó có thể bắt đầu có sự tham gia của đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng mền Nam (NLF) và chế độ Sài Gòn ở giai đoạn sau. Cuối cùng thì tiến trình này có thể được kết thúc với một hội nghị theo kiểu Hội nghị Geneve để có bảo đảm quốc tế về giải pháp cho Cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Dẫu mối hoài nghi của Matxcơva với quyết tâm của Bắc Việt Nam theo đuổi kế hoạch này như thế nào đi nữa; thì việc cử Lê Đức Thọ đến Paris có thế đã xua tan những nghi kị đó. Khi dừng chân tại Matxcơva trên đường đến Paris, Lê Đức Thọ đã được Kosygin đón tiếp thể hiện rõ quan tâm của Liên Xồ đối với sứ mệnh của ông ta. Cuộc gặp gỡ ba ngày sau khi Kosygin gửi thư cho Tổng thống Johnson. Trong đó Kosygin dùng lời lẽ mạnh mẽ và dứt khoát để mô tả việc khơi đầu các cuộc đàm phán chính thức giữa các đại diện của Mỹ và Bắc Việt Nam là một khả năng thực tế để tìm ra giải pháp cho tình hình hiện tại ở Việt Nam với mục đích chấm dứt cuộc chiến đẫm máu kéo dài nhiều năm qua ở Việt Nam. Kosygin nói rằng: "Nhân dân trên toàn thế giới mong đợi những kết quả tích cực của các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam tại Paris, và kết quả đó gắn liền với triển vọng làm giảm tình hình quốc tế căng thẳng".
Sau khi bày tỏ lo ngại rằng sự trì trệ trong đàm phán, có thể đưa đến việc Mỹ tiếp tục ném bom phá hoại Bắc Việt Nam, Kosygin đã chỉ trích việc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã lưu ý Tổng thống Mỹ rằng Chính phủ Liên Xô đã “hơn một lần" bày tỏ ý kiến của mình là “việc Mỹ chấm dứt toàn bộ và vô điều kiện ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam có thể mở ra con đường tới giải pháp hoà bình". Theo quan điểm của Kosygin thì việc ném bom là "trở ngại chính chặn đường tiến của hội đàm Paris".
Phần tiếp lá thư của Kosygin đã gây nhiều tranh cãi trong nội bộ chính quyền Johnson, nhất là trong số các cố vấn Tổng thống. Kosygin viết: "Tôi và các đồng nghiệp của mình tin rằng-và chúng tôi có cơ sở để nói điều đó, "việc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác liên quan đến Bắc Việt Nam", có thể đưa đến sự khai thông tình hình, mở ra triển vọng đạt tới một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến". Kosygin đảm bảo với Washington rằng một biện pháp như vậy sẽ "không thể gây hậu quả ngược lại đối với Mỹ, không thiệt hại về quyền lợi lẫn uy tín quốc tế của Mỹ". Kosygin kết thúc lời kêu gọi Washington của mình với một thông điệp rằng theo yêu cầu của Harriman, Chính phủ Liên Xô đã khuyến cáo các đại diện của phía-Việt Nam về lợi ích của các "cuộc đàm phán không chính thức giữa Mỹ và Bác Việt Nam, vì Matxcơva tin rằng "tất cả các hình thức quan hệ trao đổi giữa hai bên phải được tận dụng".
Chắc chắn lá thư này là kết quả các cuộc Hội đàm giữa Kosygin với Lê Đức Thọ. Có thể trong các cuộc hội đàm này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông báo cho Lê Đức Thọ về các cuộc trao đổi ở Paris, giữa Zorin và Harriman và đã làm rõ được quan điểm của Hà Nội về triển vọng đi tới một giải pháp cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Phải chăng Bắc Việt Nam chắc chắn sẽ không phản bác các cuộc hội đàm nghiêm chỉnh với phía Mỹ một khi việc ném bom chấm dứt nên ban lãnh đạo Liên Xô đã quyết định gây sức ép mạnh mẽ và đòi Washington chấm dứt ném bom.
 
Tuy nhiên, Johnson chưa hẳn tin ngay những tín hiệu đó của Matxcơva, Johnson viết trong nhật ký rằng: "Tôi vẫn nhớ rõ đảm bảo Matxcơva cuối năm 1965 rằng nếu chúng tôi ngừng ném bom Bắc Việt Nam trong mười hai hoặc hai mươi ngày thì điều tốt lành sẽ đến. Trên cơ sở đó, chúng ta đã ngừng ném bom không phải trong mười hai hay hai mươi, mà ba mươi bảy ngày nhưng không hề có gì tốt đẹp xảy ra... cái mà Matxcợva nói lúc này là điều họ đã không nói ra hai năm rưỡi trước đây. Cả Rusk và Rostow đều nhất trí vơi Johnson về việc này. Trong cuộc gặp của Tổng thống với các cố vấn về chính sách đối ngoại ngày 9 tháng 6, Rusk đã mô tả bức thông điệp của Kosygin là "khó hiểu”. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ cần phải làm rõ hơn, thậm chí phải đảm bảo chắc chắn rằng Hà Nội "sẽ làm một việc gì đó cụ thể để đáp lại việc Mỹ ngừng ném bom”.
Lập luận này mâu thuẫn với lập luận của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Clark Clifford, Harriman và Vance (lúc này cả Harriman và Vance đã đề nghị Washington). Clifford coi lá thư của Liên Xô là: "Một cử chỉ tích cực có thể đặt Matxcơva đúng chỗ để phát huy tác dụng". Ông đề nghị Tổng thống "hãy vui vẻ nhận thư" và tuyên bố ngừng ném bom trên toàn lãnh thổ Bắc Việt Nam, nói rõ cho cả Matxcơva và Hà Nội biết rằng nếu phía Bắc Việt Nam không có hành động đáp lại tượng ứng thì Mỹ sẽ huỷ bỏ lệnh ngừng ném bom. Clifford thay đổi căn bản quan điểm về chiến tranh từ khi ông được bổ nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông tin rằng việc ném bom không thể kết thúc chiến tranh. “Muốn chấm dứt chiến tranh thì phải dàn xếp với Liên Xô để họ sử dụng ưu thế của mình mà Mỹ không có-buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh". Đối với việc ngừng ném bom ba mươi bảy ngày của Mỹ, ông cho rằng bối cảnh tình hình đã thay đổi và không cần phải có việc đó sớm như vậy.
Trong khi thảo luận về cách đáp lại lời đề nghị của Matxcơva, không một ai ủng hộ Clifford. Harriman đồng ý với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ rằng lá thư này của lãnh đạo Liên Xô là "cực kỳ quan trọng" và việc Mỹ có phản ứng tích cực đáp lại đảm bảo của Kosygin "có thể là một bước khai thông tình hình", nhưng ông ta không dám đương đầu chống lại ý kiến của Tổng thống Johnson vì thấy rõ vị trí, vai trò của mình và thái độ của Tổng thống đối với Rusk. Nhưng sau này trong một báo cáo "hoàn toàn mang tính chất cá nhân", ông ta cho rằng phản ứng như vậy của chính quyền Mỹ lúc đó trước bức thông điệp của Kosygin đã làm mất đi cơ hội đạt được một giải pháp có thể chấp nhận được đối với Bắc Việt Nam vào hè 1968.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #59 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 03:30:13 pm »

Johnson trả lời Kosygin rất dè dặt. Ông ta thông báo cho Kosygin biết Mỹ sẵn sàng chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam chỉ khi nào được thông báo các bước giảm các hoạt động vũ lực của Bắc Việt Nam. Tổng thống đảm bảo với Kosygin rằng ông ta rất vui lòng bàn bạc trực tiếp các vấn đề trên với Chính phủ Liên Xô. Ông viết: "''Nếu ngài khẳng định với chúng tôi rằng sẽ không có một hậu quả xấu nào về mặt quân sự đối với các lực lượng của Mỹ và đồng minh của Mỹ, thì chúng tôi sẵn sàng chấp nhận tuyên bố của ngài và sẽ ban bố những mệnh lệnh cần thiết".
Ngày 11 tháng 6, Rusk chuyển thư phúc đáp của Johnson cho đại sứ Liên Xô, Dobrynin. Sự thất vọng của Liên Xô đối với một bức thư như vậy mãi sau này mới được biết qua cuộc trao đổi giữa Dobrynin với các nhà ngoại giao Mỹ rằng Matxcơva hy vọng có lời đáp tích cực hơn của Washington. Dobrynin cho biết Liên Xô hy vọng Chính phủ Mỹ sẽ chấp nhận lời đề nghị của Kosygin. Khi trao đổi với Lewellyn Thompsom ngày 13 tháng 6, Dobrynin cho rằng Mỹ đã bỏ lỡ một cơ hội. Hoàn toàn thận trọng để không sa vào thế phải làm trung gian hoà giải và ông nhấn mạnh trong trường hợp này, "họ đã đi quá xa". Trong khi Thompson bao biện cho sự nghi ngại của Tổng thống Johnson vì những ấn tượng không tốt sau những lần ngừng ném bom trước đây, Dobrynin chỉ rõ sự khác biệt giữa lá thư mới nhất của Kosygin với những thông điệp trước đây của Liên Xô. Dobrynin cho biết tuyên bố của ông !à "bản viết tay của người đứng đầu Chính phủ và hơn nữa ông ra lời tuyên bố đó dưới danh nghĩa Chính phủ Liên Xô".
Người ta có thể tự hỏi liệu Ban lãnh đạo Liên Xô có các mục tiêu kín đáo nào, nhằm thuyết phục Mỹ đồng ý ngừng ném bom vô điều kiện, ngoài ý muốn thường thấy của Liên Xô là thúc đẩy các kế hoạch của các "bạn" Việt Nam.
Tại một cuộc gặp gỡ với Tổng thống Mỹ ngày 9 tháng 6 để thảo luận lá thư của Kosygin, Charles Bohlen cho rằng nếu Mỹ ngừng ném bom toàn Bắc Việt Nam thì sẽ làm tăng vị trí, vai trò của Liên Xô đối với Hà Nội và cho phép Liên Xô có lập trường quyết định hơn đối với Hà Nội.
Bohlen giãi bày suy nghĩ này, với Dobrynin vài ngày sau đó xin ý kiến của Dobrynin thế nào. Ông nói với Dobrynin rằng ông cảm thấy điều mà Liên Xô đang cố tỏ cho Mỹ biết rằng Liên Xô cam kết với Bắc Việt Nam chủ yếu vì các cuộc tấn công của Mỹ đối với Bắc Việt Nam, nếu các cuộc tấn công hoàn toàn chấm dứt thì trách nhiệm của Liên Xô trong vấn đề này có thể sẽ giảm đi đáng kể. Dobrynin tán thưởng về kinh nghiệm của Bohlen về các vấn đề Liên Xô và tránh trả lời trực tiếp câu hỏi của Bohlen. Tuy nhiên, trong cuộc tráo đổi với Harriman ngày 22 tháng 6, Dobrynin tỏ ra tin tưởng nhà ngoại giao lão thành này hơn đồng nghiệp trẻ khác và đã nói gần giống như lời của Bohlen rằng: "Chính phủ Liên Xô có thể dễ dàng nói rõ ý kiến của mình hơn đối với Bắc Việt Nam khi việc ném bom đã chấm dứt hoàn toàn".
Bằng việc không chấp nhận lời đảm bảo của Kosygin, Chính phủ Mỹ đã làm Liên Xô mất đi uy tín đối với Hà Nội. Nhưng rõ ràng những suy nghĩ đó mới chỉ là một phần của bài toán. Toàn bộ sự thật là Liên Xô muốn giải quyết chiến tranh ở mức độ ít nhiều có thể chấp nhận phù hợp theo cách nhìn nhận của họ, với tình hình thế giới và thế của Liên Xô cũng như phù hợp với các kế hoạch của Hà Nội. Các cuộc hội đàm ở Paris thể hiện hy vọng thực hiện được những mục tiêu đó mà không ngại phải chịu những tổn thất lớn hơn nữa.
Khi Johnson từ chối ngừng ném bom, vì sợ rằng hành động này của Mỹ sẽ làm Bắc Việt Nam thất vọng, đồng thời hy vọng tìm được một thoả hiệp nào đó thì Matxcơva vội vã thuyết phục Hà Nội không bỏ cuộc. Ngày 13 tháng 6 trong thư gửi Hà Nội, các nhà lãnh đạo Liên Xô đã khẳng định lại tầm quan trọng của các cuộc hội đàm ở Paris để đi đến một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Thời điểm quyết định phụ thuộc vào mặt trận ngoại giao và quan trọng là phải hiểu rõ cách làm thế nào để giải quyết vấn đề Việt Nam. Kremlin đã dành cho các đồng chí Việt Nam toàn bộ sức mạnh quốc tế của Liên Xô để đạt được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao càng sớm càng tốt. Các nhà lãnh đạo Liên Xô còn viết trong lá thư đó rằng Harriman đã nhấn mạnh đến nhu cầu đàm phán các vấn đề nằm ngoài vấn đề ngừng ném bom của Mỹ như vấn đề phi quân sự (DMZ), lịch trình đôi bên cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và việc Chính phủ Sài Gòn tham gia vào các cuộc hội đàm.
 
Hà Nội đáp lại lời kêu gọi của Matxcơva chẳng lấy gì mặn mà hơn phản ứng của Washington. Như Đại sứ quán Liên Xô báo cáo rằng phải mất gần một tháng sau mới có trả lời của Hà Nội, trong đó không hề có "một luận điểm nào mang tính xây dựng nhằm đạt tới một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam phù hợp với tình hình thuận lợi hiện nay". Báo cáo này còn kết luận rằng Ban lãnh đạo Liên Xô có thể đã không đánh giá hết được vai trò quan trong của các khía cạnh chính trị trong giải pháp đó.
Cũng theo các nhà ngoại giao Liên Xô tại Hà Nội cho biết thì nhân tố Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vạch chính sách của Bắc Việt Nam. Phản ứng của Bắc Kinh đối với các cuộc Hội đàm ở Paris không hề có dấu hiệu tích cực nào. Rõ ràng, Hà Nội đã nhất trí phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ mà không hề hỏi ý kiến phía Trung Quốc trước. Thậm chí, sau khi Bắc Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đàm phán, trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh của lãnh đạo Bắc Việt nam hồi tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc còn nói rằng, chưa phải lúc, Việt Nam ngồi vào đàm phán với Mỹ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh: "Chúng ta đã quá vội đi đến nhân nhượng”.
Khi các cuộc Hội đàm bắt đầu ở Paris, thì Bắc Kinh phủ nhận các cuộc hội đàm này. Bào chí Trung Quốc đều bỏ qua những tin về hội đàm và lớn tiếng phê phán Pháp đã bố trí tổ chức các cuộc hội đàm. Đồng thời Bắc Kinh đã tiến hành biện pháp thực tế nhằm phá hoại giải pháp cuộc chiến ở Đông Nam Á.
Ban lãnh đạo Trung Quốc đã gây sức ép buộc Hà Nội từ bỏ quyết tâm đàm phán bằng việc tạo ra những khó khăn cho hàng loạt lĩnh vực hoạt động của Bắc Việt Nam. Họ ngăn trở việc cung cấp viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam, tiến hành các hoạt động khiêu khích đối với các tàu Liên Xô ghé các cảng của Trung Quốc trên đường đến Bắc Việt Nam và gây khó dễ cho Bắc Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Số các vụ khiêu khích như vậy trước đây đã xảy ra, nhưng nay tăng lên đáng kể. Theo báo cáo của Đại sứ quán Liên Xô tại Trung Quốc hồi tháng 5 và tháng 6, phía Trung Quốc đã giữ lại trên lãnh thổ của mình khoảng tám trăm toa xe lửa chở vũ khí và trang thiết bị quân sự và khoảng bảy đoàn tàu hoả đặc biệt chở tổ hợp phòng không cho Bắc Việt Nam.
Rõ ràng, hành động này nhằm vào Liên Xô và Hà Nội vì ban lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Matxcơva phải chịu trách nhiệm đối với những hành động của Bắc Việt Nam trong việc đàm phán với Mỹ. Việc chặn các tàu vận tải Liên Xô đến Việt Nam, đi cùng với hoạt động khiêu khích tại biên giới Xô-Trung, nơi đã xảy ra ngày càng nhiều cuộc xung đột, từ chín mươi vụ trong tháng giêng, tháng hai năm 1968, lên một trăm sáu mươi tư vú trong tháng 5.
Ngoài các kế hoạch ngăn trở Bắc Việt Nam ngồi vào hội đàm với Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn ra sức lợi dụng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Bắc Kinh bắt đầu mở rộng các quan hệ riêng rẽ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, thuyết phục các nhà lãnh đạo Mặt trận tiếp tục "trường kỳ kháng chiến". Matxcơva cũng có tin về âm mưu của
Bắc Kinh tổ chức các đơn vị người Hoa ở Nam Việt Nam nhằm đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở đây.
Đồng thời Ban lãnh đạo Trung Quốc cố gắng tiếp tục thuyết phục các bạn Bắc Việt Nam rằng, đàm phán với Mỹ là sai lầm và nguy hiểm. Tháng 10 năm 1968, khi triển vọng đi đến một Hiệp định và việc Mỹ ngừng ném bom sắp có kết quả tại Hội đàm Paris, một quan chức cao cấp Trung Quốc đã nói với một đồng nghiệp Việt Nam tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc coi việc đó là "sự thoả hiệp giữa Việt Nam và Mỹ, một thất bại nghiêm trọng và tổn thất to lớn đối với nhân dân Việt Nam". Ông ta so sánh việc đó với Hiệp định Geneve 1954 và tuyên bố rằng Việt Nam "cần phải cho phép Mỹ tái ném bom và tấn công trên lãnh thổ Việt Nam". Theo phía Trung Quốc, Mỹ sẽ phải giảm bớt các cuộc không kích bắn phá Bắc Việt Nam để giảm căng thẳng tình hình ở miền Nam.
Đại sứ quán Liên Xô ở Bắc Kinh đã báo cáo, phân tích lý do tại sao lãn đạo Trung Quốc kiên quyết chống lại các cuộc Hội đàm tại Paris. Theo báo cáo thì việc tiếp tục Cuộc chiến ở Việt Nam cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục đặt Trung Quốc trong tình trạng căng thẳng, nhân dân càng sợ chiến tranh xâm lược. Đại sứ quán Liên Xô kết luận rằng về mặt tư tưởng, một giải pháp cho Cuộc chiến Việt Nam sẽ giáng một đòn mạnh vào chiến lược quân sự "trường kỳ kháng chiến" của Mao và có thể dẫn đến làm suy sụp các tư tưởng khác của "Người cầm lái vĩ đại". Theo những người Mao-ít, về mặt chiến lược, cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ làm suy yếu cả Mỹ và Liên Xô, và làm tăng cơ hội đối đầu quân sự trực tiếp giữa hai đối thủ chính của Trung Quốc. Ngoài ra, Đại sứ quán Liên Xô tin rằng Trung Quốc đang cố sử dụng các chiến thuật chiến tranh và lợi dụng sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Aự nhằm tăng cường vị trí của mình ở khu vực này.
Sự phân tích có tính toán này của Bắc Kinh làm tăng mối lo ngại của Liên Xô về ảnh hưởng nguy hiểm tiềm tàng của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán ở Paris. Mặc dù hồi tháng sáu đã xuất hiện một số dấu hiệu tích cực tại các cuộc hội đàm bí mật giữa các đại diện của hai phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam. Nhưng vẫn chưa có một bước tiến đáng kể nào dung hoà được lập trường của Hà Nội và Washington.
Phải mất vài tuần phía Bắc Việt Nam mới đồng ý gặp gỡ bí mật. Quyết định của Bắc Việt Nam có thể là kết quả cuộc trao đổi ngày 13 tháng 6, giữa Zorin, Harriman và Vance. Khi Đại sứ Liên Xô Zorin thông báo cho phía Mỹ biết lập trường chính của Bắc Việt Nam là sẽ không bàn bạc các vấn đề nào khác hoặc không bắt đầu các cuộc đàm phán bí mật cho tới khí nào Mỹ chấm dứt ném bom, Harriman và Vance đã cảnh báo Zorin rằng tình trạng bế tắc này đe doạ nghiêm trọng đối với hy vọng có được các cuộc hội đàm thắng lợi. Cả hai quan chức này cho rằng "sức ép hiện nay đối với Tổng thống đang gia tăng và nếu các cuộc tấn công của chế độ Sài Gòn càng kéo dài, cũng như tình trạng bế tắc ở Paris vẫn tiếp tục thì sức ép đó ngày càng quyết liệt". Harriman tin rằng ảnh hưởng của Matxcơva đã thuyết phục được Hà Nội đến hội đàm ở Paris, đi ngược lại ý muốn của Bắc Kinh. Nếu các cuộc hội đàm tan vỡ thì đó chính là thất bại của Matxcơva và là thắng lợi của Bắc Kinh.
 
Harriman nhấn mạnh rằng giữa Liên Xô, Bắc Việt Nam và Mỹ đều có những mục tiêu chung. Ông nói: "Cả ba phía đều muốn bắc Việt Nam thoát khỏi sự kiềm toả của Bắc Kinh. Hơn nữa, Mỹ "hoàn toàn vui lòng" thừa nhận Bắc Việt Nam vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa. Còn đối với Nam Việt Nam, tương lai của nó phải do chính nhân dân Việt Nam quyết định lấy". Harriman vận động Matxcơva giữ vai trò quyết định trong việc dàn xếp các cuộc hội đàm bí mật-“phải được giấu kín nếu cần thiết, trong Đại sứ quán Liên Xô hoặc một nơi nào đó hoặc ngay tại trụ sở đoàn Bắc Việt Nam... có thể là hai ông Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ" sẽ hội đàm với Harriman và Vance. Zorin trả lời rằng hiện tại không thể ảo tưởng rằng Hà Nội nhất trí gặp bí mật chỉ sau khi ngừng ném bom. Mặc dù vậy, chắc chắn các đại diện đàm phán của Bắc Việt Nam đủ suy nghĩ để đi đến một bước quyết định. Cuộc gặp kín đầu tiên giữa các thành viên cấp thấp của hai đoàn diễn ra ngày 17 tháng 6. Tám ngày sau, Vance đã bí mật gặp Hà Văn Lâu. Cũng ngày đó, Shcherbakov đã thông báo cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam về nội dung cuộc trao đổi ngày 13 thảng 6 trong Đại sứ quán Liên Xô ở Paris. Các nhà lãnh đạo Hà Nội có thể đã hài lòng vì họ theo đúng lời khuyên của các đồng chí Liên Xô.
Ngay từ đầu, các cuộc gặp gỡ bí mật giữa các thành viên hai đoàn Việt Nam và Mỹ đã không có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ tiến triển của các cuộc đàm phán trong các cuộc gặp gỡ bí mật này, phía Bắc Việt Nam vẫn giữ nguyên lập trường cũ như họ đã nêu ra trong các cuộc trao đổi chính thức. Nhưng phía Mỹ cũng không đưa ra các thoả hiệp khác nhau khi mà họ cảm thấy không thể thực hiện được.
Trong một lần trao đổi bí mật với ông Hà Văn Lâu vào cuối tháng 6, ông Vance đưa ra một giải pháp có thể giải toả bế tắc về việc Mỹ ngừng ném bom và các bước đi tương ứng của Bắc Việt Nam. Vance vạch ra kế hoạch "giai đoạn một-giai đoạn hai" với nội dung là phía Mỹ sẽ bí mật thông báo cho phía Bắc Việt Nam về ngày Mỹ chấm dứt ném bom trước khi tuyên bố công khai nếu Hà Nội sẵn sàng thực hiện các hành động tương xứng đã được thoả thuận trong các cuộc Đàm phán tại Paris. Như vậy kế hoạch này đã tạo ra vẻ ngoài của một bước đi đơn phương của Mỹ và giúp phía Bắc Việt Nam có thời gian suy nghĩ mà không có ấn tượng rằng các hành động đáp lại của mình gắn liền với việc ngừng ném bom của Mỹ. Đó là thoả hiệp có lợi nhưng phía Bắc
Việt Nam không từ bỏ lập trường kiêm quyết đòi Mỹ trước hết phải chấm dứt ném bom phá hoại thì Hà Nội mới đàm phán về các biện pháp phải thực hiện.
Trở ngại tưởng trừng không thể vượt qua được khi Tổng thống Johnson từ chối chấm dứt ném bom mà không biết gì về các biện pháp đáp lại từ phía Hà Nội. Trong tình thế bế tắc này, với một thoả hiệp gần như trong tầm tay, phía Liên Xô đã đảm nhận vai trò như nhiều lần trước đây cho tới khi đàm phán chính thức bốn bên bắt đầu từ tháng 1 năm 1969. Đó là vai trò trung gian không chính thức nối hai bên tham gia đàm phán. Tính chất không chính thức này đã giúp Liên Xô tự rũ bỏ mọi trách nhiệm và thực hiện chức năng môi giới khi Liên Xô nhận thấy có cơ hội đạt được thoả hiệp và thái độ tích cực từ phía Hà Nội.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM