Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:08:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc chiến tranh Punic: Roma, Carthage và sự tranh đấu vì Địa Trung Hải  (Đọc 13968 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« vào lúc: 07 Tháng Tám, 2009, 02:51:37 am »

THE PUNIC WARS

Roma, Carthage and the Struggle for the Mediterranean

------------------------

NIGEL BAGNALL

Nhà xuất bản PIMLICO

Sir Nigel Bagnall sinh tại Ấn Độ năm 1927, gia nhập quân đội Liên Hiệp Vương Quốc Anh năm 1945 và phục vụ tại Palestine, Malaya, Borneo, the Canal Zone, Cyprus, Singapore và Đức. Ông kết thúc sự nghiệp quân ngũ của mình sau khi giữ chức Chỉ huy trưởng hội đồng tướng lĩnh tại London. Nigel Bagnall là viện sĩ danh dự của Cao Đẳng Balliol, Oxford.
Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #1 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2009, 04:43:14 am »

CÁC NHÂN VẬT CHÍNH
Chiến tranh Punic lần thứ nhất 264-241 BC
Chiến tranh Punic lần thứ hai  218-201 BC
Chiến tranh Punic lần thứ ba 149-146 BC

ADUBAL đô đốc Carthaginian ,người bị hạm đội Roman dưới sự chỉ huy của Publius Claudius Pulcher đánh bại tại Drepana năm 249.
AGATOCLES 361-289 BC bạo chúa của Syracuse ,người đã thoát khỏi cuộc bảo vây thành phố của người Carthagian và mang chiến tranh tới vùng đất của họ ở Bắc Phi.
ARCHIMEDES nhà toán học nổi tiếng nhất cổ đại, người Syracuse với các cỗ máy chiến tranh của mình đã phá hủy hạm đội Roman trong suốt cuộc bao vây. Ông đã chết sau khi thành phố thất thủ vào năm 212 BC.
BOMILCAR đô đốc hạm đội Carthaginian , người đã thất bại trong việc giải cứu Syracuse trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2.
CATO nghị sĩ Roman, người đã chiến đấu tại Tây Ban Nha. Sự hận thù cao độ của ông là nguyên nhân chính dẫn tới cuộc chiến tranh Punic lần thứ 3 và sự hủy diệt của thành phố này.
DEMETRIUS của Pharus một kẻ cơ hội người Illyrian , người đã do dự trong việc gia nhập liên minh của Roman sau khi tán thành các lý do của họ năm 229 BC.
FABIUS MAXIMUS, QUINTUS CUNCTATOR là pháp quan tối cao người Roman, người đã giam chân Hannibal trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2 , hi vọng có thể tiêu hao lực lượng của Hannibal mà không phải chiến đấu.
FLAMINIUS, GAIUS là pháp quan tối cao người Roman, bị giết trong trận chiến hồ Trasimene năm 217 BC cùng hầu hết người của ông khi bị rơi vào bẫy của Hannibal.
HAMILCAR BARCA cha của Hannibal, chỉ huy trưởng các lược lượng Carthaginian tại Sicily trong chiến tranh Punic lần thứ nhất. Đã đàn áp cuộc nổi dậy của lính đánh thuê tại châu Phi( 240-237 BC). Đã tạo nên một căn cứ độc lập tại Tây Ban Nha nơi mà ông chết trong chiến đấu năm 228 BC.
HANNIBAL , con trai của Hamilcar Barca. Đã bảo vệ gia đình sau khi cha chết và dẫn đầu quân đội của ông từ Tây Ban Nha vượt Alps tiến vào đất Ý bắt đầu cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2.Sau khi rút lui về Bắc Phi, ông bị đánh bại bởi Scipio Africanus trong trận Zama năm 202BC.
HANNO tướng người Carthaginian người được gửi tới Sicily sau khi chiến tranh Punic lần thứ nhất bùng nổ. Bị đánh bại trong trận thủy chiến Ecnomus năm 256 BC.
HANNO (The Great) lãnh đạo đảnh quí tộc ở Carthage từ năm 240 tới 200 BC. Chủ trương tập trung phát triển các tỉnh ở châu Phi và là lãnh đạo đối lập của hannibal và đảng Barcid , những người chủ trương mở rộng lãnh thổ ra hải ngoại.
HASDRUBAL BARCA là chỉ huy trưởng tại Tây Ban Nha sau khi anh trai Hannibal vượt dãy Alps thực hiện chiến dịch ở Ý.Sau đó cố gắng ra nhập với quân đội của Hannibal nhưng bị giết trong trận chiến Metaurus năm 207 BC.
HASDRUBAL GISCO là tướng Carthaginian người đã có những chiến thắng cùng Hasdrubal Barca tại Tây Ban Nha tới tận khi thất bại trong trận Ilipa năm 206 BC. Cuối cùng bị đánh bại bởi Scipio Africanus tại châu Phi năm 203 BC.
HASDURUBAL HANNO lãnh đạo của đảng bình dân tại Carthage và là con nuôi của Hamilcar Barca. Đã ký hiệp ước Ebro với người Roman trong đó qui định việc hạn chế các lãnh thổ tại Tây Ban Nha của đế chế Carthaginian. Bị ám sát năm 221 BC.
HIERO vua của Syracuse, tham gia với người Carthaginian trong vấn đề Mamertine năm 254, nhưng sau đó bị đánh bại bởi người Roman và đã thay đổi lòng trung thành theo người Roman.Về sau luôn là đồng minh trung thành với Roma tới tận khi ông chết vào năm 214 BC.
MAGO BARCA anh trai của Hannibal, người đã đi cùng Hannibal khi bắt đầu cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2.Trở lại Tây Ban Nha nơi mà ông đã đánh bại hai anh em nhà Scipio trước khi mà ông bị đánh bại tại trận Ilipa năm 206 BC. Được gọi trở lại Ý nơi mà ông bị tử thương vào năm 203 BC.
MAHARBAL tướng kỵ binh người Numidian người đã vượt Alps cùng Hannibal và chiến đầu dưới sự chỉ huy của ông trong trận Trasimene năm 217BC và Cannae năm 216.
MARCELLUS, MARCUS CLAUDIUS bốn lần là pháp quan tối cao Roma là chỉ huy tối cao của quân Roman tại Sicily và Ý trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2.Chỉ huy cuộc đánh chiếm Syracuse nhưng bị giết trong trận chiến năm 208 BC.
MASINISSA hoàng tử người Numidian người đã chiến đấu bên cạnh quân đội Carthaginian tại Tây Ban Nha nhưng sau đó chuyển lòng trung thành sang phía người Roman, chiến đấu bên cạnh Scipo Africanus tại Bắc Phi và sau đó nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Roma cho ngôi vua của người Numidian.
PAULLUS, LUCIUS AEMILIUS pháp quan tối cao người Roman, đồng chỉ huy cùng với Varro trong trận Cannae nơi mà ông ngã xuống năm 216 BC.
PHILIP V vua của Macedonia người đã ra nhập liên minh cùng với Hannibal trong chiến tranh Punic lần thứ 2.Bị người Roman đánh đuổi khỏi Illyria và bị thất bại cuối cùng trong cuộc chiến tranh Macedonian lần thứ 2 năm 192 BC.
REGULUS, MARCUS ATILIUS pháp quan tối cao người Roman, người đã đánh bại hạm đội Carthaginian tại Ecnomus năm 256 BC. Xâm chiếm Bắc Phi nơi mà ông bị đánh bại bởi Xathippus trong năm tiếp theo.
SCIPIO, GNAEUS CORNELIUS bác của Scipio Africanus, bị giết cùng với em là Publius Cornelius Scipio tại Tây Ban Nha năm 211 BC.
SCIPIO, PUBLIUS CORNELIUS pháp quan tối cao của Rome và là cha của Scipio Africanus.Tròn chiến tranh Punic lần thứ 2 ,đã chỉ huy chiến dịch tại Tây ban Nha nơi mà ông bị đánh bại và bị giết năm 211 BC.
SCIPIO, PUBLIUS CORNELIUS( AFRICANUS) sau cái chết của cha và bác trong chiến trận, đã được giao chỉ huy quân đội tại Tây Ban Nha năm 209 BC và chiến được New Carthage. Đổ bộ lên Africa năm 204 BC và đánh bại Hannibal trong trận Zama 2 năm sau đó.
SCIPIO,AEMILIANUS PUBLIUS CORNELIUS được nhận nuôi bởi Publius Scipio ( con trai của Scipio Africanus), người đã chiếm Carthage trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ 3.
SPENDIUS người Roman bị ruồng bỏ , đã cùng với Matho người libyan lãnh đạo cuộc nổi dậy của lính đánh thuê năm 240.
SYPHAX vua của Numidia người đã kề vai cùng người Carthaginian và bị đánh bại trong trận the Great Plain bởi Scipio Africanus và Masinissa năm 203 BC.
VARRO, MARCUS TERENTIUS  là pháp quan tối cao của Rome, người là đồng chỉ huy cùng với Lucius Aemilius Paullus nhưng chịu sự chỉ huy trong trận Cannae năm 216 BC.
XANTHIPPUS chỉ huy lính đánh thuê người Spartan người đã huấn luyện và lãnh đạo quân đội Carthaginian đánh bại quân đội của Marcus Atilius Regulus tại Bắc Phi năm 255 BC.
Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #2 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2009, 10:31:39 pm »

LỜI GIỚI THIỆU

Một trong những điều khó khăn nhất đang ám ảnh nhiều thế hệ nay là việc chấp nhận một sự thật là chúng ta chưa từng có một nhà tiên phong trong lĩnh vực này, nhưng chúng ta là những người kế thừa những kinh nghiệm của những người khác. Như nhà sử học người Roman Polybius đã từng viết, " chỉ có duy nhất hai thứ từ bất cứ lợi ích nào mà chúng ta có thể nhận được; bất hạnh của bản thân chúng ta và những điều đang xảy ra với những người đàn ông khác." .Từ những ý nghĩa trong lời nói nhắc nhở của Polybius , chúng ta có thể trở lại một cách thuận với nhất trong ba khía cạnh bất hạnh lớn nhất của con người được biết đến trong các cuộc chiến tranh Punic: trong khía cạnh tin thần họ nhắc đến những nối ám ảnh rõ rệt đáng chú ý.Sự đối mặt của hai nền văn minh lớn đối chọi nhau , một sự kình địch mà sẽ nhanh chóng phát triển thành một cuộc tranh đấu sống chết giành ưu thế, và bài học từ cuộc đấu hoàn toàn rõ ràng: điều cần thiết hiển nhiên là một sự chủ động và một sự điều hành chính trị quốc gia một cách kiên định, hệ quả cuộc sự thất bại là sự thích ứng về cấu trúc các lực lượng quân sự và cách nghĩ thay đổi theo từng tình huống, và chiến trường trở thành nơi áp dụng cơ bản nơi mà vẫn luôn tồn tại sự bền bỉ kiên định và công bằng trong suốt mọi thời điểm.
Cũng như thời cổ đại, gần đây đã có một khối lượng lớn các tác phẩm lịch sử viết về các cuộc chiến tranh Punic tuy nhiên chúng không có một sự nhiên cứu đầy đủ và đã làm cho các cuốn sách này trở nên nghèo nàn hơn. Tôi phải nhấn mạnh rằng mục đích của tôi là nhìn vào cuộc chiến bằng con mắt của một quân nhân chuyên nghiệp và miêu tả nó và đưa ra các nhận xét kèm theo. Tôi không đòi hỏi phải nỗ lực đưa ra tất cả những bài học từ các cuộc chiến cũng như không hẳn chỉ tập trung vào việc định nghĩa xem ai là người quan trọng nhất. Tôi hi vọng rằng sẽ là tốt hơn khi những người khác sẽ đọc nó với một sự cẩn thận và nếu có thể thì tự bản thân họ đưa ra các ý kiến.Đây là những gì mà nghiên cứu lịch sử quân sự yêu cầu. Có hai cách viết cơ bản khác nhau được sử dụng trong cuốn sách này: đó là tôi cố gắng miêu tả các sự kiện theo thứ tự thời gian hoặc tôi cố gắng đi sâu vào các chiến dịch , đi sâu vào từng chiến dịch một cách trọn vẹn. Mặc dù có những thuận lợi và những điểm không thuận lợi khi sử dụng đồng thời hai phương pháp nhưng tôi cuối cùng tôi đã chọn cách sử dụng cả hai phương pháp đồng thời vì tôi muốn thể hiện các sự kiên theo thời gian đồng thời cũng muốn tận sụng những khả năng có thể để phát triển sâu hơn vào các chiến dịch riêng lẻ mà không bị đứt mạch.và tôi cố gắng giảm một cách tối thiểu sự không thuận lợi bằng cách tóm tắt lại các sự kiện ở những thời điểm và vị trí mà sự suất hiện của chúng là có ích nhất.
Khi phân tích các chiến dịch quân sự khác nhau , tôi đã suy nghĩ về chúng trên phương diện chiến lược và quá trình tổ chức cũng như các chiến thuật.Bởi chân dung bên khác của chính trị - các mục đích quân sự, chúng được thực hiện một cách đầy đủ nhất ở mức độ chiến dịch sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn, kết hợp với sự phát triển trong bình diện chiến thuật.Tôi đã cố gắng miêu tả nhân vật , đưa ra các bài học và suy luận những gì có thể rút ra, và lột tả những vấn đề rõ rệt từ đó.Tôi muốn tỏ lòng biết ơn tới " The Fellows of Balliol" , đã cho phép tôi có được một năm hợp tác cùng với họ, đặc biệt là Giáo sư Jasper Griffen đã đưa ra những nhận xét hữu ích và sự hiệu chỉnh chi tiết mà ông đã đóng góp cho cuốn sách này.Tôi cũng cảm ơn Giáo sư Michael Howard vì nhưng lời khuyên ông dành cho tôi trong suốt thời gian này.Tôi đã được cung cấp một nơi làm việc tuyệt vời trong suốt mười hai tháng, cùng với những giá trị không thể tính toán được.Tôi cũng tỏ lòng biết ơn tới " Pimlico of Random House" đã tạo mọi điều kiện cho quyển sách này được xuất bản.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Quân đội liên hiệp vương quốc Anh , đã giúp tôi có được một kho tàng những kinh nghiệp quí báu mà giờ đây tôi có thể dâng tặng cho cuốn sách này.

NIGEL BAGNALL
Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2009, 01:06:56 am »

PHẦN MỘT

TỔNG QUAN CHUNG

---------------------------------------------------

CHƯƠNG MỘT
 
CARTHAGE

Sự thành lập

Nó được những người thực dân Phoenician tới từ Tyre thành lập vào khoảng năm 814 BC, không xa phía bắc của Tunis hiện đại , lấy tên là Carthage.Tổ tiên của họ tới từ châu Á vào khoảng những năm 1200 BC tới 1000 BC, là một trong những dân tộc vi đại và lớn nhất thời cổ đại, trong trường hợp này đã cung cấp hai cuộc di dân lớn tới bắc Ý và phía đông Địa trung hải.Những người thực dân thành Tyre đã từ bỏ cái tên Phoenician do người Hi Lạp đặt cho họ , có nghĩa là làn da tối.Trong khi đó, những người Roman gọi họ là Poeni , và đây là nguồn gốc của từ Punic.Họ có một khuôn mặt Semitic và của một người đi biển, tương xứng với nguồn gốc từ vinh Ba Tư của họ. Theo Herodotus, sau khi vua của người Ai Cập là Neco trong việc tổ chức kênh đào nối sông Nile và vịnh Arap, ông đã gửi một hạm đội của người Phoenician tới vùng Vịnh với mệnh lệnh đi vòng quanh châu Phi và trở về Ai Cập và Địa Trung Hải bằng cách đi vòng qua eo biển Gibraltar. Người Phoenician bắt đầu lên đường khi mùa thu tới với vài sự thuận lợi di chuyển dọc theo bờ biển, và gieo hạt giống tại vài nơi họ đi qua và chờ đợi cho tới vụ mùa năm sau khi mà họ tiếp tục lên đường.Và họ đã trở lại Ai Cập hai năm sau đó.Nó dường như trái ngược với những người đã định cư tại vùng bờ biển Syrio-Palestine, xung quanh vùng trung tâm của Lebanon và bắc Isreal, làm nên một chuyến đi mạo hiểm và kéo dài. Nhưng điều đó có vẻ còn dễ chấp nhận hơn sự thành lập của những căn lều ở những vùng đất xung quanh bờ biển phía đông của Địa Trung Hải.Tuy nhiên , tại nơi đây giữa những rặng núi Lebanon và bờ biển đã thành lập những khu định cư đầu tiên mà sau đó đã phát triển thành các thành phố của người Phoenician như Aradus( Ruad) , Byblos, Berytus, Sidon, Serepta và Tyre.Với một vùng nội địa có chiều sau chỉ khoảng vài dặm ở nhiều nơi,được bao quanh bởi núi non ,mà thỉnh thoảng có những mũi đất chạy dài ra tới tận biển,các thành phố không bị chia rẽ với một thành phố nào.Với cùng một khu vực sinh sống, chia sẻ ngôn ngữ chung,tôn giáo chung ,cùng một phong cách nghệ thuật, chính trị và cách quản lý tổ chức, các thành phố được chăm sóc để phát triển một cách tự nhiên và trên một bình diện lớn tạo nên một ưu thế vượt trội hơn những dân tộc khác trong những giai đoạn khác nhau trong lịch sử của họ.Là những người đi biển, người Phoenician đã tận dụng những mỏm núi đá xung quanh khu định cư , tạo nên nhưng khu vực che chở cho những con thuyền của họ và kết hợp với việc phát triển các hải cảng ở cả hai hướng bắc và nam.Bằng cách này họ có thể che chở cho những con thuyền và tận dụng thuận lợi theo chiều gió hầu hết các mùa trong năm.Thêm vào đó các hòn đảo nhỏ nằm dọc ven biển có thể được dùng để củng cố sức mạnh phòng thủ của thành phố- như trường hợp Tyre, Alexander the Great đã phải xây dựng , đắp một con đường vượt biển khi mà ông chiếm nó, trong khi đó gỗ mọc sum suê trên các sườn núi và cung cấp một khối lượng gỗ dồi dào cho việc đóng thuyền.Trong quá trình thành lập, người Phoenician bắt đầu tiến hành việc trao đổi thương mại với các khu vực khác của Địa Trung Hải.Quá trình này càng dễ dàng hơn cùng với sự sụp đổ của các thành thị Minoan và Mycenaean khoảng những năm 1200 BC, cùng đồng thới với các thành phố của người Hittities ở phía bắc của Tyre và Ai Cập ở phía Nam.Các tộc người sống ở khu vực bờ biển Bắc Phi có rất ít mối quan hệ sơ khai để phát triển,bị thời tiết khắc nghiệt ít nước ở phía nam sa mạc Sahara hạn chế, bị bao bọc bởi biển ở phía tây và phía băc, đã tạo cơ hội cho người Phoenician trao đổi buôn bán và xâm nhậm vào khu vực này từ bước.Vào những thế kỉ trước công nguyên, Bắc Phi có diện mạo hoàn toàn khác ngày nay,bị bao phủ bởi rừng rậm dày đặc và là nguồn cung cấp cho các trận đấu như voi ,sư tử, báo và gấu, là những loài đã rời khỏi khu vực đó ngày nay.Và như chúng ta có thể thấy, bờ biển bản thân nó được các nhà buôn người Phoenician sử dụng như một nơi tập trung để trung chuyển hàng hóa đã dần dần hình thành các hải cảng và cả các khu định cư xung quanh chúng. Vùng đất nội địa chỉ là những khu vực không thể ở , nhưng chứa đựng nhiều vàng và các khoáng sản khác được các thợ mỏ xuất thân từ những bộ lạc nghèo khổ và thường làm việc như những nô lệ khai thác.Một trong những cảng lớn nhất được thành lập là Carthage, gần trung tâm một bán đảo được hình thành từ các ngọn đồi sa thạch trải dài ra tận bờ biển Địa Trung Hải, và cung cấp chỗ trú cho thuyền bè khỏi gió từ phía bắc và phía tây.Có hai bến cảng đã được xây dựng, một trong đó cho các chiến thuyền và cái còn lại cho việc sửa chữa tàu thuyền,, và hai dải đất kết nối nơi kết thúc của bán đảo với đất liền trong đó hồ Lake of Tunis ở giữa chúng.



Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #4 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2009, 01:58:06 am »

Dải đất ở phía Bắc , cách phía tây của thành phố đúng ba dặm, được ngăn cách bằng một khoảng đất rộng với khoảng ba ngàn yards rộng,sau đó là khu vực được bảo vệ rất chắc chắn với bà lớp phòng thủ.Đầu tiên là một rãnh sâu với lũy đất ở phía sau, một bức tường thấp được đắp bằng đất, và chỉ mang ý nghĩa cảnh báo ngăn chặn, và sẽ nhanh chóng bị rút bỏ khi phải đối mặt với lực lượng lớn.Bức tường thứ hai, được xây bằng đá, cao trội hơn hẳn các khu vực phong thủ khác bên ngoài và không kết nối với chúng, những người phòng thủ có thể tạo nên những trận mưa đá lên đầu những kẻ tấn công trong quá trình chiến đấu, khi tới tầm gần hơn những người phòng thủ sẽ sử dụng một số lượng lớn lưỡi câu cá được quảng xuống nhằm làm rối loạn toàn bộ đội hình tấn công.Ngay đằng sau bức tường thứ ba được xây dựng chắc chắn nhất với bốn mươi lăm feet chiều cao và ít nhất là ba mươi feet chiều rộng,được xen lẫn bằng mười lăm tháp canh cách khoảng hai trăm yard.Đằng sau bức tường này được đánh giá là có thể chứa tới 300 voi chiến và 4000 ngựa cùng các dự trữ cung cấp cho chúng, cùng với đó là một trại lính được đánh giá là có thể chứa vào khoảng 20,000 lính.Bức lũy bao quanh thành phố được ngăn cách với biển bởi trên hướng dải đất phía bắc là một bức tường đơn ,không bao giờ bị thấp hơn mực nước biển.Nó được củng cố rất chắc chắn trong cuộc nổi dậy của lính đánh thuê -một hậu quả của chiến tranh Punic lần thứ nhất.Dải đất phía nam thực chất chỉ là một eo đất hẹp khoảng một trăm yards với một ít cát ngăn cách hồ Lake of Tunis với biển.Dải đất phía Nam này đã được người Roman tính toán và sử dụng một cách xuất sắc trong cuộc tấn công cuối cùng chiếm và hủy diệt thành phố Cathage.

Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #5 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2009, 11:30:20 pm »

Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Salammbo của mình , Gustave Flaubert - người đã dành một thời gian dài để nghiên cứu, đo đạc địa hình và khảo sát khảo cổ trong các chuyến thăm Bắc Phi của mình, đã vẽ lên một bức tranh như sau về toàn cảnh thành phố Carthage:
 Đằng sau (các lỗ châu mai) bức tường phòng thủ cao của thành phố, những ngôi nhà hình khối xếp cao dần theo theo bậc thang giống như các lớp ghế ngồi bậc thang trong một giảng đường. Chúng được tạo nên từ đá , đá cuội, vỏ ốc, ván và đất đắp nên. Các khu rừng điểm thêm vào đó nhưng nhu rừng nhỏ của các đền thờ phô bày đủ loại màu sắc cây cỏ.Những quảng trường công cộng được sắp xếp theo những khoảng cánh không theo qui tắc nào,và được giao nhau với những con đường đi có cây trồng hai bên, cùng với những đài nghỉ mái vòng , một nửa được che phủ bở hoa cùng với những đường vòng và đường xọc nơi mà rác được bỏ xuống. Còn các con đường giao nhau tại các điểm giống như những dòng sông dưới các cây cầu.
 Ngọn đồi Acropolic , ở trung tâm của Byrsa, nơi đặt một vài đài tưởng niệm và một vài đền thờ  với những cây trụ kiểu vòng xoắn, những đầu cột bằng đồng, và những chuỗi xích bằng kim loại,những hình khối chóp bằng đá với các dải trang trí màu xanh da trời,những vòm nhà màu đồng, những kiến trúc theo kiểu Acsitrap xây bằng đá cẩm thạch, trụ ốp tưởng kiểu Babylonian, các đài tưởng niệm được sắp xếp cân bằng để thuận tiện cho việc châm sáng các ngọn đuốc. Phong cách Ba Tư được thể hiện trên trán tường, những đường xoắn cuộn được trang trí giữa các ban công, trong khi những bức tường bằng đá granite chia các căn phòng.Phía sau Acropolic là một dải đất đỏ, Maplian Way với những ngôi mộ có những kích cỡ khác nhau, xếp dọc từ bờ biển tới các hầm mộ.Rồi tới những khoảng trú ngụ lớn ở giữa các khu vườn. Khu thứ ba, Megare, một tòa tháp mới, ở rìa của vách đá, nơi mà có ngọn hải đăng đứng sừng sững và chiếu sáng trong đêm tối.

Sự miêu tả của Flaubert dựa trên bản khảo cổ được viết năm 1858.Những gì ông cung cấp là một bức tranh toàn cảnh về một xã hội nhập cư đông đúc , một thành phố hối hả , có sự biến đổi và du nhập của nhiều nền văn hóa và nhiều phong tục qua con đường thương mại và qua sự nhập cư và sự đa dạng về dân cư của thành phố.Để miêu tả trọn vẹn hơn, từ khi không có hệ thống cống nước, việc cung cấp nước luôn là vấn đề lớn, nhất là mùa xuân khi lượng nước thường chảy ít nhất trong năm , thường không đủ cung cấp cho nhu cầu của dân cư thành phố được đánh giá khoảng 700,000 người khi thành phố bị hủy diệt năm 148 BC. Một loạt hệ thống dự trữ nước lớn đã được xây dựng , để dự trự nước trong những trận mưa lớn vào mùa đông.
Ban đầu , trong khu vực đất liền, lượng đất có thể cày cấy là tương đối nhỏ , nhưng thương mại và sự thịnh vượng đã mang lại những nguồn tài sản ngày càng lớn cho thành phố cùng với sự tăng lên về dân số qua nhiều thế kỷ, kèm theo cả sự tăng lên về nhu cầu lương thực cho dân cư.Những khu vực có thể trồng trọt , như một hệ quả đã được cố gắng mở rộng bao gồm cả những nơi mà ngày nay là phía bắc của Tunis, chủ yếu cung cấp lúa mạch, lúa mỳ, nho và được trồng trọt bởi bàn tay cảu những người da đen và người Berber. Carthage là thành phố lớn nhất trong khi những thành phố khác như các thị trấn ven biển Utica, Hippo Acra (Bizerta)  và Tunis như các thành phố vệ tinh cung cấp cho nó.Bên kia bờ Địa Trung Hải, các cảng biển thương mại cũng được thành lập tại Tây Ban Nha, Sardinia, Cyprus, Malta và Sicily và phất triển thành các thuộc địa , các lãnh thổ bị chiếm đóng. Sau đó, khoảng năm 500 BC người Carthaginian bắt đầu khai thác tại phía Nam của Tây Ban Nha những mỏ bạc, vàng , đồng với trữ lượng lớn, trong khi tại Sicily sự bành trướng của người Carthaginian cuối cùng cũng dừng lại khi gặp nhứng khu định cư Hi Lạp ở phía đông của đảo.Tình trạng của Sicily sẽ được phản ánh chi tiết hơn trong quá trình nghiên cứu các thành phố Hi Lạp trong chiến tranh Punic lần thứ nhất.Một đặc điểm khác biệt rất lớn giữa họ với những người Carthaginian là cách thức sống và sự kế thừa các di sản văn hóa, đó là sự độc lập với các thành phố Hi Lạp khác, trong khi các khu định sư Phoenician lại giống như cá thuộc địa.Mặc dù họ có chính phủ riêng nhưng họ phải đóng góp quân đội cho Carthage trong khi bản thân họ không có lực lượng quân sự riêng.Ngược lại , những khu vực lãnh thổ chính của người Carthaginian chịu trách nhiệm đóng góp phần lớn chi phí và kiểm soát .Điều này đã tạo nên những sự oán hận nặng nề và dẫn tới tình trạng đào ngũ cũng như nổi loạn trong nhiều đội quân.
Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #6 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2009, 02:00:03 am »

Quân đội và hạm đội

Carthage chủ yếu là một dân tộc dựa vào thương mại, cố tìm kiếm và mở rộng các nguồn trao đổi thương mại, tạo nên các khu vực ảnh hưởng và đế chế.Việc cung cấp các lực lượng quân sự từ quá trình mở rộng lãnh thổ này cho phép Carthage có thể duy trì và giữ vững vị thế độc quyền của mình trong suốt ba thế kỷ, chủ yếu dựa trên hạm đội hùng mạnh của mình, hạm đội mà không có một sự cạnh tranh nào có thể sánh được trong với đội thuyền buôn của họ, phản ánh sự ít quan tâm tới các hoạt động chiến tranh,đặc biệt là từ khi nhiều người trong số họ bị chết trong các thảm họa tự nhiên , những người mà không thể có mặt để xác nhận điều ngược lại.
Quân đội Carthaginian chủ yếu được tạo nên từ các đội quân đánh thuê, được chiêu mộ từ các vùng lãnh thổ khác nhau, những người mà hiếm khi phục vụ cho chính đất nước của họ và những người bị cách ly bởi các nhóm người khác bởi sự khác biệt về ngôn ngữ và tôn giáo.Họ bị phụ thuộc vào hạm đội của người Carthaginian trong việc cung cấp và chịu sự huấn luyện quân sự dưới hình thức bắt buộc một cách tàn nhẫn bao gồm cả những hình phạt vô cùng tàn nhẫn. Mỗi một lãnh thổ cung cấp một kỹ năng quân sự đặc biệt: Numidia cung cấp một đội kỵ binh nhanh nhẹn, dũng cảm , mạnh mẽ và ko biết mệt mỏi trong chiến đấu với lao , mộc và giáp nhẹ cho những kỵ sĩ bẩn sinh , những người có thể cưỡi ngựa không cần yên và dây cương.Đây là những kỵ binh tuyệt vời trong chiến đấu ở những vùng đồi núi, hoặc những vùng đồng bằng bằng phẳng, cơ động nhanh và thay đổi một cách linh hoạt trong chiến đấu theo bản năng, đe dọa cũng như dử kẻ thù vào bẫy, gây nên sự ngạc nhiên với những cuộc đột kích bất thình lình của họ, đó là những phẩm chất mà không một đội kỵ binh nào khác có thể sánh được.Tới từ bán đảo Balearic là những người lính ném đá , được tổ chức thành đội quân hai nghìn người với các loại ná, một số có tầm chiến đấu rất xa, thường được dùng để chống lại những khối quân dày đặc của kẻ thù và những khu doanh trại khép kính, thường là các mục tiêu mang tính riêng lẻ.Họ thường dùng các loại đạn đá hoặc đạn chì, thứ mà có thể xuyên thủng mũ bảo vệ và các loại giáp nhẹ, hiệu quả chiến đấu thường là tương đương với các cung thủ cả về tốc độ bắn và dộ chính xác.Họ thường được huấn luyện để quay tít chiếc ná của họ trên đầu và quẳng chúng thành từng bó được bó trong rơm hay thành từng cụm, thông thường có thể đạt tới 600 feet. Họ là những chiến binh man rợ thường thích nhận thù lao là phụ nữ hơn là bằng vàng hay bạc. Những lính bộ binh cứ cỏi được mộ từ những cộng đồng Tây Ban Nha sống trong các khu vực đồi núi, suốt đời chỉ biết chiến đấu với các bộ lạc khác, sự không hòa hợp lại càng trở nên đơn giản bởi sự thất bại của họ trong cuộc chiến xâm lược Tây Ban Nha của người Carthaginian.Họ đã từng tiến hành chiến tranh du kích nhưng sau đó lại đột ngột chấp nhận phục vụ cho người Carthaginian.Và họ thường không tổ chức tốt để tham gia các cuộc chiến đấu liên tục kéo dài và mãnh liệt.Vũ khí cơ bản của họ là một thanh kiếm ngắn có hai lưỡi thuận thiện cho việc chém và đâm, hiệu quả của nó trong thực tế đạt tới mức mà người Roman đã sao chép lại và sử dụng nó trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2.Và một loại kỵ binh nhẹ cũng khá hiệu quả cũng được tuyển mộ tại Tây Ban Nha, đó là những kỵ binh mà trong các điều kiện cụ thể có thể xuống ngựa và chiến đấu như những lính bộ binh. Tuy nhiên , nhóm quân đánh thuê lớn nhất phục vụ cho người Carthaginian lại là những người Libyan ở Tunisia.Cứng rắng và dày dạn bởi điều kiện sống khắc nghiệt trên đất nước của mình,  họ là những chiến binh linh hoạt, có các kỹ năng chiến đấu như bộ binh nhẹ trong các trận giao tranh nhỏ cũng như trở thành bộ binh nặng, chiến đấu trong hàng ngũ của một cuộc tấn công tập trung và ồ ạt.Cũng có một vài người Gaul nhưng không đáng kể chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Carthaginian cho tới tận chiến dịch xâm lược bán đảo Ý của Hannibal, đã khuyến kích họ tham gia với một số lượng lớn , chiến đấu chống kẻ thù truyền kiếp của họ, người Roman.Họ chiến đấu không có giáp, và thường tiến công kiên quyết nhưng không thực sự đáng tin cậy, đặc biệt là trong các trận hỗn chiến khó khăn.
Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #7 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2009, 03:24:52 am »

Những con voi dùng trong quân đội Carthaginian, thông thường người Carthaginian chỉ sử dụng những con voi châu Phi được bắt tại những khu rừng ở xung quanh Carthage tới chân dãy núi Atlas và bờ biển Morocco, nhưng sau này , dường như Hannibal đã sử dụng vài con voi Ấn Độ, có thể là được mua tại Ai Cập. Cho tới tận khi có các chiến thuật chống lại chúng, những con voi luôn là nỗi khiếp sợ cho binh lính và cũng tương tự với ngựa,mặc dù chỉ có một số lượng nhỏ nhưng thường vô cùng hiệu quả trong chiến đấu.Tuy nhiên chúng cũng có thể trở thành con dao hai lưỡi khi trong chiến đấu chúng thỉnh thoảng bị mất tinh thần và quay trở lại, khi đó chúng trở thành nỗi khiếp sợ của của chính những người chủ của chúng.
Mặc dù có một số người Carthaginian chiến đấu trong quân đội nhưng số lượng của họ thường không bao giờ đáng kể, điều này thể hiện quan điểm của người Carthaginian về tính hiệu quả kinh tế trong việc thuê lính đánh thuê hơn là sử dụng nguồn nhân lực có hạn, đặc biệt khi nguồn nhân lực này được sử dụng chủ yếu để mở rộng các hoạt động thương mại.Vào thế kỉ thứ 4 BC, chỉ có một số lượng nhỏ trong quân đội người Carthaginian ,khoảng 3000 lính chủ yếu phục vụ như bộ binh nặng. Một nhóm quyền lực nhất và giàu có nhất của Carthage được gọi là Sacred Band,xuất thân từ những gia đình lãnh đạo quân sự truyền thống lâu đời hoặc đã phục vụ lâu dài cho đế chế.Theo cách này người Carthaginian sử có thể đảm bảo rằng các tướng lĩnh của họ , những người chỉ huy các đội quân đánh thuê tới từ khắp các lãnh thổ và thành phố thuộc địa sẽ trung thành với Carthage, và đó là cách thức mà nhiều nhà lãnh đạo quân sự xuất thân từ các đạo quân đánh thuê trở thành tướng lĩnh Carthaginian. Tuy nhiên , việc trở thành tướng lĩnh của Carthage cũng mang lại cho họ những sự đố kị và nguy hiểm to lớn. Giống như  Diodorus Siculus, nhà sử học người Hi Lạp đã viết:
 Họ đề bạt những con người có tiếng tăm nhất trở thành tướng lĩnh trong chiến tranh, bởi vì những người này chiến đấu với một sự kiên quyết hơn những người khác, khi mà tất cả đang trong tình cảnh lâm nguy, nhưng sau chiến tranh mọi việc đều kết thúc, và nền hòa bình , cái mà họ chiến đấu vì nó sẽ mang lại cho họ những sự chống đối, sự đe dọa, đố kị , bị dồn tới cái chết và đối với một số tướng lĩnh ở ngoài nỗ sợ hãi của những người khác thì hoặc phải từ bỏ quyền lực quân sự của họ hoặc trở thành những ông vua chuyên chế.

Trường hợp đặc biệt một chỉ huy trưởng không phải người Carthaginian: Xanthippus là một ví dụ, là một người Spartan đã chỉ huy quân đội cứu Carthage khỏi thất bại khi người Roman đổ bộ lên Bắc Phi trong chiến tranh Punic lần thứ nhất. Có rất ít hiểu biết về ông , nhưng ông chắc chắn không chỉ là một người lính dũng cảm mà còn là một nhà cầm quân tài ba ngay khi ông đánh bại người Roman ngay trước thành Carthage và cứu nó khỏi bị hủy diệt.Nhưng ngay sau đó ông đã phải trở về quê hương Sparta trước khi mà sự đố kị, ghen ghét và các âm mưu có thể làm mờ đi danh tiếng của ông.Di sản ông để lại cho quân đội Carthaginian là hệ thống quân sự theo kiểu Hi Lạp. Đó là hệ thống quân sự mà cơ bản dựa vào sự chiến đấu trong đội hình Phalanx, một khối binh lính chắc chắn gồm 4000 bộ binh nặng đứng vai kề vai trong một đội hình chiều dài gồm 256 người và chiều sâu 16 hàng được vũ trang bằng giáo và được che chở bằng một chiếc mộc nặng.Khi tác chiến, năm hàng đầu tiên được trang bị loại giáo dài, tới mức mà giáo của người đứng ở hàng thứ năm có thể vươn tới hàng thứ nhất, khi đó giáo của những người lính ở đằng sau sẽ tỳ lên vai người đứng ở phía trước họ theo chiều xiên chéo lên, đây là cách thức mà họ tạo nên một dạng thành lũy ở phía trên đấu họ , thứ mà sẽ che trở cho họ khỏi những vật có thể được phóng đi bởi kẻ thù.Bất cứ một sự di chuyển nào không theo mệnh lệnh có thể dẫn tới sự hỗn loạn trong toàn bộ khối quân, đội hình Phalanx được coi là một đội hình chuẩn mực cho các trận chiến khốc liệt , khi mà nó được triển khai một cách thuận lợi trên các địa hình bằng phẳng và cho tới khi tạo được đà phá vỡ khối quân đối diện.Nhưng nó không thể được sử dụng khi gặp phải các địa hình phức tạp hoặc khi có sự thay đổi mệnh lệnh khiến phải thay đổi đội hình trong chiến đấu.
Nhiều nhà sử học khác đã đưa ra ấn tượng của quân đội đánh thuê của người Carthaginian theo chiều hướng ngược lại.Họ bị ảnh hưởng theo cái nhìn từ Rome đưa ra giả định rằng, những đội quân đánh thuê ấy không phải được kết nối bằng những điều thông thường,mà là những lợi ích trái ngược nhau và không có mối quan tâm nào tới những kẻ mà họ phục vụ, những kẻ mà cũng chả quan tâm và chăm sóc họ theo bất kỳ cách nào.Lính đánh thuê thường không được đáp lại lời thỉnh cầu từ phía trên hoặc phải đối mặt với nhưng sự nguy hiểm cho nhiệt huyết của họ, thảm họa cho sự kiên quyết của họ, đó là kết quả duy nhất mà họ nhận được từ khi quyết định phục vụ cho người chủ duy nhất, đó là tiền.Một ấn tượng khác nữa là sự băng hoại quân đội đánh thuê của Carthage bị gây nên bởi sự hè nhát và đào ngũ, trở nên phổ biến hơn sau cuộc nổi loạn đẫm máu của lính đánh thuê người Libyan năm 240 BC, khi họ không được trả công cho cuộc chiến Punic lần thứ nhất. Với những kỹ năng quân sự khéo léo của mình, những người Roman đã coi thường và giả định những đội quân đánh thuê ấy như những kẻ thù quá ít sự can đảm và quyết tâm so với bản thân người Roman, và cuối cùng những khuyết điểm và thiếu sót của hệ thống quân đội đánh thuê của Carthage bị thổi phồng lên rất nhiều.Trong thực tế , giống như phần lớn những người lính khác, các đội quân đánh thuê ấy chỉ giành lòng trung thành của mình cho đội trưởng của mình, mà ví dụ lớn nhất là Hannibal, người mà phần lớn quân đội đánh thuê đã giành lòng trung thành của mình cho ông mà không đòi hỏi bất kì một phần thưởng nào.
Logged
dem_den
Thành viên
*
Bài viết: 10


« Trả lời #8 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2009, 10:54:13 pm »

Hạm đội là một bộ phận quan trọng mang tính sống còn trong bộ máy chiến tranh của người Carthaginian và hoàn toán không giống như quân đội, nó được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn là người Carthaginian. Có ba kiểu thuyền chính trong hạm đội của họ, thuyền vận tải, thuyền chiến và các thông tin hạng nhẹ. Tàu vận tải với thân tàu được làm rộng, thường thì chiều dài gấp bốn lần chiều rộng của thân tàu, cung cấp một khoảng rộng để chở hàng hoá. Các thuyền chiến thì thường cần tốc độ lớn hơn là khả năng chứa hàng, thường thon và dài đủ cung cấp một khoảng chứa cho lượng lớn nhất các tay chèo, chiều dài gấp bảy lần chiều rộng và có hai cột buồm.Cột buồm ở trung tâm chính của chiếc thuyền là nơi cung cấp sức đẩy bằng gió chính, cột buồm nhỏ hơn nằm về phía mũi thuyền, tạo cho thuyền khả năng cơ động cao khi có các cơn gió thổi ngang.mỗi một thuyền chiến có ít nhất ba sĩ quan chỉ huy, một người là hoa tiêu ,và từ ba mươi tới bốn mươi thuỷ thủ những người kéo buồm và làm việc trên boong tàu.Số lượng tay chiềo thì thuỳ thuộc vào kiểu thuyền: với lớp thuyền ba tầng mái chèo là 150, bốn tầng mái chèo thường là 240 và lớp năm tầng mái chèo là 300. Những chiếc buồm thường được dùng trong các chuyền đi bình thường và để tiến nhanh vào khu vực trận chiến, nhưng trước khi trận chiến bắt đầu,buồm thường được hạ xuống và các thuyền chỉ sử dụng mái chèo.Đơn vị tác chiến chiến thuật cơ bản nhất thường bao gồm 12 chiến thuyền tạo thành, tiếp theo là các nhóm thuyền hợp vào nhau tạo nên một hạm đội lớn khoảng 120 chiếc chiến thuyền hoặc mười đơn vị tác chiến chiến thuật cơ bản, đây là số lượng thông thường.
Các thuyền thông tin hạng nhẹ thường là nhỏ , nhanh và dễ dàng cơ động, và thường được sử dụng cho nhiệm vụ trinh sát và liên lạc .Hai chiếc thuyền được tìm thấy ở bờ biển phía tây đảo Sicily đã cung cấp cho chúng ta ngày nay cái nhìn về việc người Phoenician đã cấu tạo những con thuyền của họ như thế nào.Cả hai chiếc đều được làm từ những miếng gỗ rời được làm sẵn và lắp ghép lại dễ dàng với nhau sau đó.Đây là một khám phá giúp cho việc miêu tả bằng cách nào mà người Roman có thể sao chép lại mẫu thuyền này và sử dụng nó sau khi họ bắt được một chiếc thuyền của Carthage,việc này sẽ được miêu tả chi tiết ở các chương sau.Các trận chiến thường diễn ra ở những nơi gần bờ biển , nơi mà các tàu chiến có thể tận dụng được mặt nước lặng sóng.Có hai chiến thuật chiến đấu cơ bản, trong cả hai chiến thuật, hạm đội được triển khai nhanh ngay từ ban đầu nhưng các hành động sau đó tuỳ thuộc vào bố trí đội hình của kẻ thù.Nếu có đủ khoảng trống, các chiến thuyền Carthaginian sát bên kẻ thù và bất chợt quay ngang tàu đâm mũi nhọn vào hông thuyền của kẻ thù.Nếu không đủ các khoảng trống để tiến hành các hành động như trên, các tàu chiến Carthaginian sẽ chọc thủng tuyến hạm đội của kẻ thù và vòng lại đâm mạnh vào hậu tuyến của kẻ thù.Đồng thời trong thời gian đó các tàu cơ động nhỏ sẽ vận động xung quanh khu vực và sẵn sàng giúp đỡ các tàu bị phá huỷ hoặc kéo tàu của kẻ thù bị bắt. Cuối cùng, ưu thế trên biển của những người Carthaginian có tầm quan trọng đặc biệt trong sống còn trong việc vận chuyển hàng hoá của họ đưa họ không chỉ ngang dọc Địa Trung Hải mà còn từ " the Pillar of Hercules" tới bờ biển Đại Tây Dương của châu Phi và châu Âu.Việc sử dụng một chiến lược cơ động đã giúp cho họ có những ưu thế vượt trội để vượt qua bất kỳ kẻ thù nào, đặc biệt là khi những thách thức xuất hiện trong giới hạn của khu vực địa lý giới hạn nghiêm ngặt của chính bản thân người Carthaginian.
Logged
Trang: 1   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM