Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:54:36 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một chiến thắng bị bỏ lỡ  (Đọc 56021 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #120 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 08:18:57 pm »


22. Một thất bại kép

Trong thời kỳ ấy, tôi ít có điều kiện tiếp xúc với những gì đang diễn ra tại các cuộc đàm phán. Một hôm tôi dừng lại ở Paris để hỏi phái đoàn Mỹ về những tiến triển trong công cuộc bình định ở Nam Việt Nam, nghĩ rằng có thể góp với họ một số ý kiến và muốn thuyết phục họ là không nên “buông tay”. Nhưng lúc đó tôi đang giữ chức giám đốc điều hành C.I.A., phụ trách các vấn đề quân sự của cơ quan và trực thuộc giám đốc C.I.A. Richard Helms và phó giám đốc là tướng Vernon Walters. Vị trí đó về nguyên tắc đã cắt tôi khỏi các công việc mật của cơ quan, mà tôi chỉ còn có thể liên hệ nhờ vào việc dự trù ngân sách và bảo vệ nó trước những yêu cầu của chính phủ và quốc hội. Tuy nhiên, nhiều năm làm việc ở Việt Nam đã khiến tôi không thể không quan tâm tới nó, và qua những báo cáo của các cơ quan mật, tôi vẫn chăm chú theo dõi những diễn biến tình hình ở đất nước đó và ở Paris.

Những gì tôi đọc được đã không làm thay đổi niềm tin căn bản của tôi, đó là Nam Việt Nam cần phải chiến đấu để tiếp tục tồn tại và sự ủng hộ của Hoa Kỳ là yếu tố quyết định của sử tồn tại ấy. Năm 1972, Nam Việt Nam đã thực sự chứng tỏ nó có thể tự nó vượt ra khỏi tình thế với sự giúp đỡ của chúng tôi về hậu cần và các trận ném bom bằng không quân. Nhưng nếu chúng tôi bỏ cuộc, thì chắc chắn nó sẽ không thể chống trụ được nổi.

Một sự thật hiển nhiên khác, đó là thắng lợi của Nam Việt Nam trên mặt trận chính trị. Cộng sản đã không còn sức hấp dẫn nữa. Chính quyền Thiệu đã có một chương trình cải thiện kinh tế và chính trị, hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp hơn đối với nhân dân Việt Nam. Có một số người Mỹ và người nước ngoài vẫn tiếp tục công kích chế độ độc đoán và nạn tham nhũng của chính quyền Nam Việt Nam, nhưng từ khi người Mỹ rút đi, sự quan tâm của họ đối với những công việc của Nam Việt Nam đã giảm đi rất nhiều.

Cùng với những chiến binh dũng cảm được trả tự do từ Hà Nội trở về, người dân Hoa Kỳ cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng và đối với họ vấn đề Việt Nam chìm vào quên lãng. Ở Nam Việt Nam, phù hợp với quy định của hiệp định, Bắc Việt đặt một phái đoàn liên lạc ở Sài Gòn, nhưng Nam Việt Nam vẫn tìm cách ngăn được họ đi ra vùng nông thôn. Coi thường các điều khoản của hiệp định, Bắc Việt tiếp tục xây dựng một mạng đường sá đi dọc tuyến Trường Sơn, vòng qua khu phi quân sự và đổ về khu vực phía Bắc Sài Gòn, nơi mà trước đây trong cuộc tiến công lớn xuân 1972, họ đã mở mũi tiến công chủ yếu. Một phái đoàn quốc tế gồm đại diện bốn nước được thành lập để giám sát việc thi hành hiệp định, nhưng giống như tình trạng của phái đoàn quốc tế được lập sau hiệp định Genève 1954, phái đoàn này đã nhanh chóng bị làm tê liệt. Các thành viên Cộng sản Ba Lan và Hunggari của nó đã chẳng bao giờ tố cáo các hành động vi phạm của Bắc Việt, đơn giản là do Bắc Việt hoàn toàn không biết là họ bắt buộc phải làm báo cáo.

Cả Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam đều có một cố gắng cuối cùng để mở rộng lãnh thổ của họ trước khi hiệp định có hiệu lực. Vào tháng Một năm 1973, Nam Việt Nam đã thành công khi họ kìm chân được Bắc Việt, không để cho địch thủ phát triển được ra xa khỏi vùng núi và vùng biên giới, giành lại được tỉnh Quảng Trị đã bị Bắc Việt chiếm được trong cuộc chiến 1972.

Điều khoản duy nhất của hiệp định được tôn trọng là Mỹ chấm dứt sự dính líu. Người lính cuối cùng đã rời Việt Nam trong thời gian hạn định là sáu mươi ngày. Mỹ chỉ để lại ở Sài Gòn văn phòng của tuỳ viên quân sự và vài lính thuỷ đánh bộ để canh gác toà đại sứ. Mỹ cũng còn để lại tám nghìn năm trăm nhân viên dân sự, chủ yếu họ là những nhân viên chuyên môn phụ trách duy trì bảo quản các khí tài công nghệ sẽ chuyển giao cho các tổ chức dân sự và quân sự Nam Việt Nam. Mỹ tiếp tục ném bom Campuchia chống lại các cuộc tấn công liên tục của quân Khơme đỏ của Pôn Pốt bởi chúng không nằm trong khuôn khổ của hiệp định và Bắc Việt thì nói họ không thể kiểm soát được chúng. Những ngày trước khi hiệp định có hiệu lực một khối lượng lớn dụng cụ quân sự được Mỹ đưa vào Nam Việt Nam, bảo đảm cho Nam Việt Nam có một lực lượng dự trữ quan trọng để có thể thay thế cho những dụng cụ bị hỏng theo nguyên tắc một đổi một đúng như quy định của hiệp định Paris. Nhưng sự thay thế đó đương nhiên còn tuỳ thuộc vào ý muốn của Mỹ, mà ý muốn này trước hết còn tuỳ thuộc vào ngân sách do Quốc hội chuẩn chi.

Thế nhưng ý muốn đó lại có sự trục trặc. Chính quyền Nixon muốn duy trì một cách trung thực một mức độ viện trợ thích hợp với Nam Việt Nam phù hợp với giới hạn mà hiệp định cho phép, nhưng nó đã vấp phải sự chống đối ngày càng tăng của những người cho rằng làm như thế là lại tiếp tục dính líu vào Việt Nam. Tháng Sáu năm 1973, Thượng viện và Hạ viện thông qua những dự luật ngăn cấm mọi tài trợ cho những hoạt động quân sự của Mỹ ở Đông Dương. Còn việc, hai viện đồng ý gia hạn cho đến ngày cuối cùng là 15 tháng Tám, thì điều đó duy nhất chỉ vì chính phủ đã cố gắng đề nghị cho phép mình được tiếp tục ủng hộ Campuchia, tạo một áp lực có lợi cho việc thương lượng một cuộc đình chỉ chiến sự ở đó. Tháng Mười năm 1973, quốc hội biểu quyết luật quyền hành động chiến tranh (War Powers Act), hạn chế trong vòng sáu mươi ngày việc cho phép tổng thống có quyền đưa quân ra nước ngoài mà không cần có sự đồng ý đặc biệt của quốc hội, do đó đã làm giảm khả năng giữ lời hứa của tổng thống Nixon đối với Thiệu là “đáp lại một cách mạnh mẽ” mọi vi phạm hiệp định của Bắc Việt. Tháng Mười một, quốc hội xoá bỏ quyền phủ quyết của tổng thống Nixon.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #121 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 08:19:17 pm »


Trong khi viện trợ Mỹ giảm đi thì tỷ lệ nghịch với nó là lực lượng Bắc Việt vào Nam Việt Nam và các vùng biên giới của Lào và Campuchia ngày càng gia tăng. Tháng Mười năm 1973, Bắc Việt đã đưa vào Nam Việt Nam khoảng sáu mươi nghìn quân với hàng trăm xe tăng cơ giới, pháo mặt đất, pháo phòng không và xây dựng một tuyến đường chạy tới vùng Sài Gòn, bảo đảm thông xe trong mọi điều kiện thời tiết. Dọc theo tuyến đường ấy, họ còn đặt được một đường ống dẫn dầu cung cấp đủ nhiên liệu cho một lực lượng quân sự được hiện đại hoá mà họ đang xây dựng ở miền Bắc và các vùng xung quanh. Đối với chúng tôi, những người ở tổng hành dinh của C.I.A., khi đọc báo cáo và nghiên cứu các tấm không ảnh, chúng tôi không còn hoài nghi gì nữa đối với các ý đồ của Bắc Việt: họ sẽ tấn công Nam Việt Nam khi nào có thời cơ thuận lợi, nhưng lần này sẽ là một cuộc tiến công quân sự với thế áp đảo.

Tháng Năm năm 1973, tổng thống Nixon báo cáo ông sẽ cử tôi làm giám đốc C.I.A. thay cho James Schlesinger giữ chức bộ trưởng Quốc phòng. Khi Thượng viện làm thủ tục để phê chuẩn chức vụ mới của tôi thì việc làm ấy lại tạo cho phong trào hoà bình một cơ hội để họ khuấy động lên bóng ma của chương trình Phượng hoàng. Lần này, họ trưng khắp Washington một tấm hình không mấy sáng sủa của tôi in trên nền một con bài pích, kèm theo một ghi chú buộc tội tôi là tên sát nhân của hai mươi nghìn sinh mạng Việt Nam trong khuôn khổ chiến dịch Phượng hoàng. Tuy nhiên việc bổ nhiệm tôi vẫn được thượng viện phê chuẩn và ngày 5 tháng Chín năm 1971 tôi đã làm lễ tuyên thệ.

Vai trò mới của tôi đòi hỏi tôi phải điều hành các công việc liên quan đến sự phát triển tình hình Việt Nam, dù rằng chúng tôi cũng còn phải quan tâm đến nhiều điểm nóng khác trên thế giới, ví dụ như cuộc chiến tranh Arập - Israen ở Trung Đông. Nhưng tôi vẫn cảm thấy tôi phải đặc biệt quan tâm đến Việt Nam, vì tôi có cảm giác lý do chủ yếu khiến tổng thống Nixon cử tôi vào chức vụ mới, là do ông và Alexander Haig đã nghe nói nhiều về tôi khi tôi tham gia chương trình bình định. Những thông tin của tôi trước quốc hội như rơi vào tai những người điếc. Quan tâm trước hết của các nghị sĩ bây giờ là Mỹ hãy giảm bớt những cam kết với nước ngoài.

Điều đó đã thể hiện một cách hiển nhiên trong việc giảm dần những khoản viện trợ của chúng tôi cho Nam Việt Nam vào những năm 1973, 1974 và 1975. Quốc hội đã giảm số 2,8 tỷ đô la viện trợ quân sự Nam Việt Nam dự kiến cho năm 1973 xuống còn 700 triệu cho năm 1974. Thể hiện rất rõ cho tâm trạng của nước Mỹ là việc năm 1973, khi mời tổng thống Thiệu sang thăm vào tháng Tư, tổng thống Nixon đã phải tiếp Thiệu ở San Clemento, bởi lúc ấy việc tiếp Thiệu một cách chính thức ở Washington sẽ dấy lên một làn sóng phản đối dữ dội về chính trị. Khi Thiệu tới Washington, ông chỉ được phó tổng thống Agnew tiếp và ông này đã phải vất vả lắm mới tập họp được một số người để lập ra một ban có vẻ như là ban đón tiếp.

Tinh thần của người Nam Việt Nam và những hy vọng về tương lai của họ bị tác động mạnh bởi sự ủng hộ của Mỹ đối với họ ngày càng sa sút. Tâm sự với khách hay bè bạn Mỹ của họ, các tướng lĩnh đã không úp mở khi họ tỏ ra nghi ngờ rằng quân đội của họ sẽ khó có khả năng đương đầu với quân cộng sản khi giờ đây người Mỹ đã bỏ họ ra đi. Tổng thống Thiệu đã bãi bỏ việc bầu ở nông thôn, mà tự ông sẽ chỉ định những trưởng thôn trưởng xã, vì ông cho rằng nông thôn vẫn bị cộng sản đe doạ. Ông áp đặt đảng dân chủ của ông và loại trừ các đảng phái khác, tạo nên một quang cảnh gì đó về đời sống chính trị nhưng lại trống rỗng nội dung. Các viên chức chính quyền nắm giữ những chức vị chủ chốt trong đảng, gạt bỏ những đóng góp của các tầng lớp nông dân trước đây. Nếu sự hoá thân của Phong trào cách mạng quốc gia của anh em họ Ngô ấy có tạo ra một vẻ bề ngoài của việc “toàn dân” tham gia chính trị thì thực ra nó cũng chẳng dựa trên một thực tế nào hết.

Phải đương đầu với việc cắt giảm viện trợ, quân đội bắt đầu quản lý một cách dè xẻn các nguồn cung cấp của họ, giảm việc cấp đạn dược, xăng dầu cho những hoạt động phòng ngự phản công chống lại cộng sản ở miền rừng núi, và giới hạn sự can thiệp về địa phương cũng thấy sức mạnh hoả lực của mình bị giảm sút và tính chủ động trong việc mở rộng an ninh của họ đã phải nhường nguy cơ và rủi ro. Nhiều dấu hiệu khác chứng tỏ thái độ ngày càng thận trọng e dè đó của quân đội Nam Việt Nam, chẳng hạn, việc cắt giảm dần số lượng đạn bắn của pháo binh, hay các phi vụ xuất kích của máy bay trực thăng trong những cuộc chiến đấu. Được huấn luyện trước đấy theo tài sản chiến thuật của Hoa Kỳ, thì nay họ lại phải vận dụng chiến thuật ấy trong điều kiện thiếu thốn đạn dược, máy bay khác hẳn với những gì họ đã học.

Sự chủ động về chính trị, từng là đặc điểm của thời kỳ bình định và Việt Nam hoá được Mỹ khuyến khích và ủng hộ tuyệt đối, giờ đã bị xóa mờ đi bởi việc quay trở lại của cách cai trị do giới quân sự chi phối. Thiệu cho rằng sự gia tăng của lực lượng chính quy cộng sản đã không cho ông một lựa chọn nào khác. Ông cần phải dựa vào hệ thống tôn ti của quân đội để đương đầu với một cuộc tiến công có thể xảy ra. Giờ đây tin chắc mình đã bị các ông thầy Mỹ bỏ rơi, giới quân sự Nam Việt Nam, trước viễn cảnh của một trận chiến đấu cuối cùng đầy tuyệt vọng, đã bắt đầu quan tâm nhiều đến sự sống còn của gia đình mình hơn là quan tâm đến lợi ích chung. Tuy nhiên ở nông thôn, mặc dù các lực lượng an ninh địa phương giảm đi song những hoạt động cộng sản không thấy gia tăng. Có vẻ như cộng sản đã giảm những hoạt động “Chiến tranh nhân dân” của họ để tập trung sức vào chuẩn bị cho một cuộc tổng tiến công ồ ạt khi thời cơ đến.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #122 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 08:19:53 pm »


Một sự kiện nữa đã tác động một cách quyết định đến sự trả đũa đối với những vi phạm hiệp định của Bắc Việt. Với sự vỡ lỡ của vụ Watergate nhơ nhớp, nhiều khía cạnh chưa từng được biết về chiến tranh Việt Nam đã được phơi bày. Như việc Howard Hunt, một cựu quan chức C.I.A. đã dự định làm mất uy tín tổng thống Kennedy bằng cách viết lại vai trò của ông ta trong việc loại bỏ Diệm. Tác động đầu tiên của Watergate đến tấn thảm kịch Việt Nam là tổng thống Nixon rồi sau ông là Gerald Ford đã ít còn cơ may hơn nữa để viện trợ cho Nam Việt Nam. Việc Richard Nixon từ chức tháng Tám năm 1974 đã đánh dấu cho thời kỳ hoàng kim của quốc hội khi quốc hội chi phối mạnh vào quyền hành pháp, và đối với Nixon, đã đưa sự hoài nghi có từ vài năm nay của công luận đối với ông lên tới đỉnh cao.

Tháng Mười hai năm 1974, rõ ràng Bắc Việt đã tập trung một lực lượng áp đảo ở biên giới Nam Việt Nam. Người ta có thể tự hỏi các nhà lãnh đạo cộng sản có ý định sẽ làm gì, và đó là đề tài của những cuộc thảo luận quan trọng ở Hà Nội, trong khi nhà phân tích của các cơ quan mật của chúng tôi cũng chăm chú tìm hiểu vấn đề đó ở Washington. Ở cả hai bên, người ta đều cùng đi đến một kết luận: Hà Nội sẽ tung ra một cuộc tiến công lớn vào Nam Việt Nam vào năm 1976 để lợi dụng được sức ép do các cuộc tranh cử tổng thống Mỹ gây ra. Nhưng ngay từ xuân 1975, cộng sản đã mở những cuộc tiến công sơ bộ để duy trì tình trạng căng thẳng ở Nam Việt Nam và đối với công luận Mỹ. Nhưng đương nhiên, nếu có thời cơ thì Hà Nội sẽ không bỏ qua và sẽ đẩy lợi thế của mình càng xa càng tốt.

Tháng Một năm 1975, để đương đầu với những sức ép ngày càng tăng, chính quyền Ford xin quốc hội cấp cho một ngân sách bổ sung ba trăm triệu đô la để viện trợ quân sự cho Thiệu. Quốc hội gần như không cần che giấu sự phản đối của mình. Về phần tôi, tôi cũng cố sức ủng hộ đề nghị ấy của tổng thống Ford, bằng cách chứng minh Bắc Việt đang ồ ạt tăng quân vào miền Nam nhưng chẳng ai buồn để tâm. Hơn nữa, tôi cũng không thể tập trung toàn bộ sức lực của tôi cho công việc của Việt Nam, bởi cá nhân tôi, từ Noel 1974, tôi cũng đang mắc vào chuyện phải bảo vệ C.I.A. trước một đòn công kích dữ dội của quốc hội. Vụ việc này rắc rối rất nhiều chuyện mà trong đó C.I.A. bị tố cáo là trong hai mươi lăm năm từ ngày nó được thành lập đến nay, nó đã vượt quá những giới hạn cho phép. Sự việc đã bị cường điệu và bi kịch hoá tới mức C.I.A. có nguy cơ không thể được phép tồn tại nữa. Không khí cuộc khủng hoảng này có cái gì đó giống với không khí khi người ta lên án chương trình Phượng hoàng.

Tháng Một năm 1975, Bắc Việt bất ngờ mở một cuộc tiến công dữ dội vào tỉnh Phước Long, nằm cách Sài Gòn khoảng một trăm hai mươi kilômét về phía Bắc. Nói “tỉnh” ở đây thì hơi khí quá, bởi đây chỉ là một vùng đồi bị rừng cây xâm lấn, dân cư thưa thớt, có chăng thì chỉ là một số làng nhà cửa tồi tàn nối liền với nhau bằng những con đường đất. Sở dĩ tổng thống Thiệu đặt thành tỉnh là vì ông muốn buộc chính phủ phải quan tâm đến nó nhiều hơn, và ông đã cho xây dựng ở đây một số khu di dân Bắc Việt để bảo vệ cho một cửa ngõ của vùng Sài Gòn, mà cộng sản nhất định phải khai thác. Nhưng Bắc Việt, trước khi mở cuộc tiến công Xuân 1975, lại chọn đây là hướng để đánh một đòn thăm dò, thử xem Nam Việt Nam và Mỹ sẽ phản ứng ra sao trước sự vi phạm hiệp định của họ. Hơn nữa, đây cũng là nơi ở gần các kho tàng, khu vực nghỉ ngơi tập kết, nằm cạnh các đầu mút giao thông và đường ống dẫn dầu của họ từ miền Bắc vào.

Đòn “nắn gân” này đã thành công. Tổng thống Thiệu quyết định không mạo hiểm đưa các trực thăng của mình vào cuộc phản kích, trong khi lẽ ra muốn phản kích được hữu hiệu thì phải sử dụng đến nó. Và phía Mỹ, có vẻ như họ cũng không phản ứng gì hết. Đề nghị viện trợ bổ sung tháng Một của tổng thống Ford cũng như báo cáo của ông nói về sự có mặt của hai trăm tám mươi chín nghìn quân cùng hàng trăm xe tăng, pháo binh nặng, pháo phòng không của Bắc Việt ở miền Nam cũng chẳng tác động gì hơn nhau đối với sự chú ý của quốc hội. Biết rằng Mỹ sẽ không can thiệp và Thiệu thì chỉ có thể chống đỡ với một sức mạnh hoả lực hạn chế, Bắc Việt từ nay có thể yên tâm chuyển sang giai đoạn tiếp theo của cuộc tiến công.

Vậy là Bắc Việt có thể chuẩn bị cho một tiến công quy mô lớn dựa trên những căn cứ mới đó: tức là, không có sự yểm trợ của ông bạn đồng minh hùng mạnh Hoa Kỳ và với một sức mạnh hoả lực kém hơn đối phương, Nam Việt Nam sẽ lại gặp thêm nữa những khó khăn nghiêm trọng về tinh thần trong quân đội của nó.

Bắc Việt mở cuộc tiến công cuối cùng vào những hướng cũng gần giống như trước đây họ đã mở trong năm 1972. Những sai lầm về chiến lược và chiến thuật đã kéo theo sự thất bại của quân đội Nam Việt Nam ở nhiều nơi. Tư lệnh vùng cao nguyên, theo đúng chỉ thị của tổng thống Thiệu, đã ra lệnh cho binh lính triệt thoát khỏi nơi đây và bỏ mặc cho bộ tham mưu và các chỉ huy cấp dưới của ông ta tiến hành cuộc rút lui. Bị bỏ rơi, binh sĩ và gia đình họ tháo chạy theo những con đường khó đi, đã bị đối phương tiêu diệt và tan vỡ. Trên phía Bắc, tổng thống Thiệu tung ra cho các đơn vị dù thiện chiến của ông những mệnh lệnh hoàn toàn trái ngược: mới đầu là chống đõ với tiến công của đối phương, rồi sau đó lại rút lui về phòng thủ ở mặt Nam và cuối cùng là tử thủ ở cố đô Huế.

Kết quả là sự sụp đổ hoàn toàn của sức kháng cự của quân đội Nam ở Bắc phần và Trung phần Nam Việt Nam. Trên đường tiến quân áp dụng chiến lược cơ bản của mình, Bắc Việt đã khai thác tất cả các điểm yếu của Nam Việt Nam. Các lực lượng này, trước khi họ bị tiến công, họ đã biến thành một mớ hỗn loạn những con người, chỉ biết tìm cách tự cứu lấy thân và gia đình họ. Ở Hội đồng an ninh quốc gia tại Washington, hoàn toàn bất lực, chúng tôi chỉ còn biết ghi nhận tình hình trong khi tôi trình trước Hội đồng các báo cáo của các cơ quan tình báo mô tả cuộc tiến quân không thể ngăn cản nổi của quân đội Bắc Việt dọc theo đất nước về phía Nam và báo trước sự tan rã của các tuyến phòng thủ của Nam Việt Nam.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #123 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 08:20:32 pm »


Điều đó khiến tôi nhớ lại rất rõ sự sụp đổ của nước Pháp năm 1940 trước cuộc tiến công chớp nhoáng của các sư đoàn thiết giáp Đức, khi các lực lượng phòng thủ Pháp, được chuẩn bị rất tồi, đã không chỉ bị đánh bại mà còn tan rã thành những khối người hỗn loạn chạy trốn trước xích sắt xe tăng và ách chiếm đóng của Đức quốc xã. Tuy nhiên, người ta cũng phải thừa nhận trong quân đội Nam Việt Nam, vẫn có một số chỉ huy quân sự và thậm chí toàn bộ cả một đơn vị, ví dụ như sư đoàn 18 ở Xuân Lộc, phía Bắc Sài Gòn đã chống cự đến cùng trước một lực lượng áp đảo của quân địch.

Sự so sánh với tình hình nước Pháp năm 1940 còn tỏ ra đúng ở một điểm nữa: đó là sự “trung lập” của Hoa Kỳ khi họ chứng kiến diễn biến của cuộc chiến và kết cục cuối cùng của sự dính líu kéo dài của họ ở Nam Việt Nam. Tổng thống Ford và chính quyền của ông đã không thể làm gì hơn để cứu vãn tình thế, bởi cả Quốc hội và nước Mỹ đều chống lại việc đó.

Trong những ngày cuối cùng ấy đã có những nỗ lực tuyệt vọng hòng vớt vát một cái gì đó trước sự sụp đổ không thể tránh khỏi của Nam Việt Nam. Lúc bấy giờ chỉ huy C.I.A. ở Sài Gòn là Thomas Polgar, một người gốc Hung, được cử vào chức vụ này do các cống hiến đặc biệt của ông ở một số nơi. Ông đã tạo được một mối liên hệ với trưởng đoàn Hung của Ủy ban quốc tế có nhiệm vụ giám sát việc thi hành các điều khoản của hiệp định Paris. Từ đó giữa Sài Gòn với Washington, người ta liên tục điện đi điện lại để thử xem người Hung có thể can thiệp với Bắc Việt và thuyết phục Bắc Việt chấp nhận một cuộc ngừng bắn hay mọi giải pháp không bạo lực khác để giải quyết chiến tranh. Theo ý tôi, như tôi đã trình bày trong những cuộc họp kéo dài ở Washington, thì việc làm trên sẽ chẳng có mấy hy vọng đem lại kết quả, thậm chí chẳng hy vọng nào, giống như trước đây chúng tôi cũng đã từng định, qua sự can thiệp của Liên Xô, đạt tới sự thoả thuận với Bắc Việt. Và điều này lại càng hiển nhiên hơn khi mà giờ đây, cán cân lực lượng trên chiến trường đã chỉ rõ một cách không thể chối cãi được rằng, họ sẽ chẳng mấy chốc mà giành được thắng lợi cuối cùng, thắng lợi mà họ đã ao ước từ bấy lâu nay và vì nó, họ đã phải hy sinh biết bao sinh mạng.

Nhưng tôi kiên quyết phản đối ý kiến của một người Việt Nam ở Sài Gòn, cho rằng người ta sẽ có thể dàn xếp với Bắc Việt nếu như Hoa Kỳ ủng hộ cuộc đảo chính lật đổ Thiệu và thay Thiệu bằng một nhân vật dễ chấp nhận hơn đối với cộng sản. Tôi trả lời ngay lập tức chúng tôi không muốn dính dáng gì đến cái trò kiểu ấy. Nếu Nam Việt Nam sụp đổ, thì nó sẽ phải sụp đổ, nhưng chắc chắn sẽ không phải với nỗi nhục nhã cuối cùng khi nó bị đẩy ngã bởi bàn tay của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Chúng tôi không thể lại là kẻ tòng phạm của một âm mưu lật đổ một tổng thống thứ hai của Nam Việt Nam.

Có một vấn đề được tranh cãi kịch liệt, đó là việc di tản những người Việt Nam trước đây đã hợp tác với Mỹ. Người ta buộc tội chúng tôi đã bỏ rơi nhiều người Việt Nam mà lẽ ra chúng tôi phải giúp họ ra đi, và đã để lại đằng sau chúng tôi nhiều chứng cớ cụ thể tố cáo họ là đã làm việc với C.I.A. hay một số cơ quan khác. Đúng là trong số những người lẽ ra phải ra đi đã có nhiều người ở lại, song cũng có nhiều người đã ra đi. Trong số những người ra đi ấy có một số người đã sớm được đi nhờ sự giúp đỡ của người Mỹ, hoặc bằng những chuyến bay đặc biệt hoặc bằng cách thu xếp thế nào đó để lách qua được những thủ tục chính thức. Qua tiếp xúc của cá nhân tôi với Tom Polgar, tôi đã nhờ được ông tổ chức giúp cho di tản được một số nhân vật quan trọng, trong đó có hai cô gái trẻ người Việt Nam trước đây đã làm phiên dịch cho C.I.A. Tuy nhiên một trong những biện pháp ấy đã kết thúc bằng một thảm hoạ, khi một trong những chiếc máy bay của không lực Hoa Kỳ có trách nhiệm di tản một số trẻ mồ côi, bị văng mất một cánh cửa trong khi bay và rơi xuống ngoại ô Sài Gòn...

Dù sao người ta cũng không thể cứu được hết những người Việt muốn trốn tránh chế độ cộng sản để ra đi. Điều đáng kể là sau đó có rất nhiều người tìm được cách để di tản, hoặc bằng tự lực bản thân, hoặc bằng sự trợ giúp của bè bạn. Con số đó thật ấn tượng: Khoảng ba trăm ba mươi người Việt và toàn bộ số người Mỹ còn lại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #124 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 08:20:49 pm »


Còn về các tài liệu thì nhân viên sứ quán và cơ quan: C.I.A. đã dồn tất cả nỗ lực cuối cùng của họ vào để đốt hết, không để cho nó rơi vào tay kẻ địch. Nhiều người Việt Nam sau đó đã phải đưa vào các trại cải tạo, hoặc vì họ trước đây đã chiến đấu hay làm việc trong hàng ngũ “quốc gia”, hoặc bị lộ do những tài liệu tìm thấy được trong các cơ quan của Nam Việt Nam, chứ chắc chắn không phải trong các cơ quan của Mỹ. Bổ sung thêm cho việc di tản là những hoạt động do chủ động của một số sĩ quan hay cựu sĩ quan mà trong đó nhiều người, ví dụ như Gage Mc Afee, đã từng làm việc cho C.O.R.D.S. Họ tự mình trở lại Việt Nam để tìm kiếm những bạn đồng nghiệp Việt Nam cũ và thu xếp sao đó để những người này khỏi bị lãng quên. Tucker Gougleman, một cựu sĩ quan của C.I.A. đã kém may mắn hơn: xâm nhập Nam Việt Nam bằng đường biển, anh đã bị bắt và một thời gian sau đã chết trong nhà giam.

Đánh dấu chấm hết cho mọi hy vọng hão huyền, 3 giờ 45 phút rạng sáng 30 tháng Tư năm 1975, tổng thống Ford hạ lệnh di tản toàn bộ đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Chỉ huy C.I.A. ở đấy, Tom Polgar, điện cho tôi ông sẽ chấm dứt mọi liên lạc và huỷ hết mật mã và điện đài, kết thúc bức điện, Polgar viết:

Đó là một cuộc chiến lâu dài, ác liệt và chúng ta đã thua cuộc. Trải nghiệp này, duy nhất trong lịch sử nước Mỹ, không nhất thiết có nghĩa là vai trò cường quốc của Hoa Kỳ đã chấm dứt. Tuy nhiên, tính nghiêm trọng của thất bại và những hoàn cảnh trong đó nó xảy ra có vẻ như đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại những chính sách hạn hẹp nửa vời, những chính sách từng là đặc điểm của cái chủ yếu nhất trong sự tham gia của chúng ta ở đây, mặc dù chúng ta đã đưa vào đây một số lượng rất lớn người và của. Kẻ nào không biết học bài học của lịch sử, kẻ đó sau này sẽ phải lặp lại. Hy vọng chúng ta sẽ gặp lại một Việt Nam nào khác nữa và chúng ta đã thực hiện được bài học. Sài Gòn từ biệt ông.

Ở Washington, biết rằng liên lạc sắp chấm dứt, tôi nghĩ tôi nên biểu thị lòng biết ơn của chúng tôi đối với những nỗ lực mà C.I.A. đã bỏ ra trong biết bao năm ở đấy. Tôi liền gửi đi một bức điện:

Vào lúc liên lạc với Sài Gòn sắp chấm dứt, tôi muốn biểu thị niềm tự hào và sự hài lòng của cục đối với công việc mà những người đại diện của nó ở đấy đã thực hiện, và chưa bao giờ trong hơn hai chục năm của nó, cục lại có gì xứng đáng hơn so với những gì các anh đã làm được trong mấy tuần cuối vừa qua. Lòng dũng cảm, sự tận tâm và khả năng đặc biệt tinh thông nghề nghiệp mà cục đã thể hiện trong nhiều tình huống của mấy chục năm qua đã chỉ ngang bằng hoặc thậm chí đã bị các thành tích của các anh trong giai đoạn khó khăn cuối cùng vừa rồi vượt qua. Hàng nghìn người Việt Nam đã nhờ có các anh mà được cứu mạng và có được hy vọng về tương lai, chính phủ Mỹ đã được hưởng lợi rất nhiều từ độ chính xác và tầm rộng lớn của các báo cáo của các anh và đất nước sẽ một ngày nào đó, với lòng khâm phục, phát hiện ra cách mà các anh đã thể hiện những thiện chí và những lý tưởng tốt đẹp của nó. Chúc may mắn và nghìn lần cảm ơn.

Ít giờ sau đó, Bắc Việt tiến vào Sài Gòn. Một nhóm truyền hình của hãng N.B.C. đã quay được một trong những hình ảnh có ý nghĩa nhất của sự kiện. Đó là một chiếc xe tăng đồ sộ của Bắc Việt, với nòng pháo khủng khiếp của nó, đã húc đổ cánh cổng lớn của dinh tổng thống. Đây không còn là công việc của một đội du kích đi chân đất nữa, mà là công trình của một lực lượng chính quy đúng như cái nghĩa chính quy nó phải có. Đại tá Harry G.Summers kể rằng, trong những ngày cuối cùng khi Nam Việt Nam sắp sụp đổ, lời bình luận cay đắng nhất ông nghe được lại là câu thốt ra từ cửa miệng một phi công của hải quân. Sau một chuyến bay để bảo vệ cuộc di tản bằng trực thăng, viên phi công này đã sôi nổi kêu lên khi anh ta đáp xuống tàu Coral Sea: “Bắc Việt đang làm cuộc chiến tranh của chúng ta!”. Điều trớ trêu của lịch sử muốn rằng cuộc chiến tranh nhân dân mà cộng sản tung ra từ năm 1959 thì thất bại, trong khi với cuộc chiến tranh chính quy mà người Mỹ chúng tôi dốc sức vào trong những năm 60 với những lực lượng khổng lồ thì cuối cùng cộng sản lại giành phần thắng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #125 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 09:20:58 pm »


PHẦN TÁM
MỘT CON ĐƯỜNG TỐT ĐẸP HƠN


Sau khi Nam Việt Nam sụp đổ, nhiều điều được tiết lộ về bản chất thực sự của cuộc chiến đã làm những ai trước đây từng chỉ trích nó phải bối rối. Trong bài báo đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 1 tháng Tư năm 1976 ở Hà Nội nói về chiến dịch cuối cùng năm 1975 của quân đội Bắc Việt, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy chiến thắng, đã nói không úp mở rằng đây là một cuộc đại tiến công quân sự mà trong đó có thể nói là chiến tranh du kích đã không đóng một vai trò nào1. Ông lấy làm mừng khi đội quân của Thiệu, vì thiếu sự hỗ trợ của Mỹ, đã phải tiến hành một cuộc chiến tranh theo kiểu “con nhà nghèo” để chống lại mười bốn sư đoàn thiết giáp Bắc Việt. Với một sự quan tâm đặc biệt, các nhà phân tích của C.I.A. đã thấy trong bài báo nói rằng chiến lược của Bắc Việt là tung ra một cuộc tiến công vào đầu 1975, nhưng coi đó chỉ là sự khởi đầu một chiến cuộc hai năm và chiến cuộc này sẽ đạt tới đỉnh cao vào dịp nước Mỹ bầu tổng thống năm 1976 (trừ phi có một thời cơ nào đó đến sớm hơn). Mà đó lại đúng với phán đoán của C.I.A. về ý đồ của địch trong mùa đông 1974 - 1975.

Vào những năm sau này nữa, nhiều tiết lộ khác đã xác nhận cho sự đúng đắn của những đánh giá của chính phủ Mỹ và Nam Việt Nam mà những người hoà bình ở Hoa Kỳ lúc đó đã coi thường. Một trong những đánh giá ấy đã chỉ ra là từ cuối 1958, cộng sản đã quyết định sẽ tiến hành chiến tranh nhân dân để chống lại tổng thống Ngô Đình Diệm và năm sau sẽ thực hiện. Hai biện pháp đầu tiên sẽ tiến hành năm 1959 là đưa vào miền Nam số người đã tập kết ra Bắc 1954 để xây dựng cơ sở chính trị cho cuộc nổi dậy, và tổ chức một bộ chỉ huy để phụ trách việc mở một con đường sau này sẽ trở thành “đường mòn Hồ Chí Minh”. Một tiết lộ khác xác nhận rằng vào cuối năm 1964, những đơn vị chính quy đầu tiên của Bắc Việt đã được đưa vào miền Nam để khai thác tình trạng hỗn loạn do việc Diệm bị lật đổ gây ra, với ý định là nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

Cũng có những lời công nhận rằng trong tất cả các hoạt động do chính quyền Nam Việt Nam tiến hành thì chương trình Phượng hoàng là nguy hiểm nhất cho chiến lược cộng sản và nó gần như đã hoàn toàn cô lập bộ máy chính trị của cộng sản đối với nhân dân Nam Việt Nam. Theo tôi, sẽ là cường điệu nếu nói rằng kết quả đó là do chỉ một mình Phượng hoàng thực hiện. Nhận thức đó có nguyên nhân là do một sự pha trộn lầm lẫn giữa Phượng hoàng với chương trình bình định, một chương trình rộng lớn hơn mà người điều hành là chính quyền Thiệu. Ngoài những hoạt động đích thực riêng của Phượng hoàng, chương trình bình định còn bao quát cả những vấn đề về an ninh lãnh thổ ở nông thôn và tăng cường các chính quyền địa phương. Nó đã đạt được những kết quả mà Bắc Việt gán tất cả cho Phượng hoàng.

Sau khi Nam Việt Nam sụp đổ, những người chịu trách nhiệm và các nhà bình luận, Mỹ cũng như Nam Việt Nam, đã đưa ra những giải thích khác nhau. Tất nhiên có một số người đã nhìn thấy trong cuộc thử nghiệm này - tức cuộc chiến ở Việt Nam - một tấm gương quái gở của thói ngạo mạn và chủ nghĩa thực dân của Hoa Kỳ, khi họ can thiệp vào một cuộc xung đột giữa một bên là chế độ cũ chuyên quyền độc đoán của chủ nghĩa thực dân và một bên là lực lượng cách mạng quốc gia đích thực, mà thắng lợi của lực lượng này là không thể tránh khỏi. Nhưng không một ai giải thích cho thất bại của Nam Việt Nam bởi sự chấm dứt của sự ủng hộ của dư luận Mỹ, gây ra bởi những lời chỉ trích quá đáng và thiên vị của thông tin báo chí Mỹ, những chỉ trích đã cố tình dẫn công chúng tới lầm lẫn. Một số người khác thì chê trách các nhà lãnh đạo Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh này mà không tiết lộ những ý định của họ cũng như nêu rõ những khó khăn vấp phải, mà lẽ ra nếu được thảo luận công khai thì những cái đó sẽ được làm sáng tỏ. Một số nhà quân sự đã chỉ trích cách làm dần dần từng bước của chính phủ khi họ thi hành chính sách leo thang trong việc tăng quân cũng như đánh phá miền Bắc, trong khi theo họ thì đúng ra Mỹ cần phải đánh cho địch “thẳng cánh”, nói như tướng Curtis Le May, là phải “ném bom miền Bắc để bắt họ phải quay về thời đồ đá”. Với một số người khác nữa, thì họ thấy tốt hơn cả là Mỹ nên dùng quân lập một con đập chắn chạy theo vĩ tuyến 17 từ Đông Dương sang Thái Lan để ngăn chặn mọi con đường chi viện tiếp tế của Bắc Việt vào miền Nam. Việc chống du kích ở miền Nam thì giao cho người Nam Việt Nam, vì chắc chắn họ quen với kiểu chiến đấu này hơn người Mỹ da trắng hay da đen, những người chỉ ở Việt Nam trong một năm.

Như có lần Robert Kennedy đã nói, người ta đã biết quá đủ những sai lầm ở Việt Nam để từng người một thấy được phần trách nhiệm của mình ở trong đó. Cho dù trong lời xem xét này có một phần chân lý thì cũng không vì thế mà nó có thể giúp chúng tôi từ cuộc thử nghiệm bi thảm này những bài học có thể hướng dẫn chúng tôi trong những thử thách tương lai.
____________________________________
1. Tác giả đã xuyên tạc ý của Đại tướng. Thực tế trong Tổng tiến công xuân 1975, quân chủ lực của ta đóng vai trò nòng cốt nhưng vẫn kết hợp chặt chẽ với lục lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng (N. D).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #126 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 09:21:32 pm »


Đương nhiên không làm gì có sẵn những “công thức pha chế” học được trong chiến tranh Việt Nam, để cứ thế áp dụng nguyên xi vào các hoàn cảnh khác nhau về chiến tranh, về văn hoá xảy ra nơi này, nơi khác trên thế giới. Nhưng hẳn cũng vẫn có những bài học tích cực cũng như tiêu cực, mà người ta cần phải rút ra trong cuộc thử nghiệm đặc biệt lâu dài và rộng lớn này của cuộc chiến tranh kéo dài ở Việt Nam từ 1959 đến 1975 mà Mỹ đã từng biết. Để vận dụng được những bài học đó, chúng tôi cần phải xác định những bước ngoặt quyết định trong thời kỳ mười sáu năm ấy, những lựa chọn mà chúng tôi đã làm, tính lôgíc và những hậu quả của nó.

Bài học đơn giản nhất là bài học thấy được từ sự khác nhau giữa hai cuộc đối phó của Mỹ và của Nam Việt Nam đối với hai cuộc tiến công năm 1972 và 1975 của Bắc Việt. Như ở trên chúng tôi đã lưu ý, hai cuộc tiến công đó đều tương tự giống nhau - Bắc Việt cũng đánh gần như ở cùng những hướng đó với những lực lượng mạnh và không có những hoạt động du kích đáng kể. Phản ứng ban đầu của Nam Việt Nam cũng giống nhau - quân đội chính quy chống đỡ và thất bại chiến thuật có tính chất địa phương của một số đơn vị cô lập - nhưng kết quả lại hoàn toàn khác và dẫn đến thảm họa: đó là sự sụp đổ cuối cùng của Nam Việt Nam năm 1975. Thực vậy, sự khác nhau thực sự là ở chỗ: sự có mặt của Mỹ. Năm 1972, đối với Nam Việt Nam, Mỹ đã có sự hỗ trợ rất lớn về hậu cần, giúp cho họ cố vấn và trinh sát (mặc dù không có binh sĩ Mỹ tham chiến, bởi năm trăm nghìn lính Mỹ đã về nước trong ba năm trước), đã yểm trợ cho họ rất mạnh về hoả lực không quân đánh trực tiếp vào các mục tiêu quân sự của Bắc Việt. Năm 1975, cả ba yếu tố đó đều đã biến mất và khi chỗ dựa chủ yếu đó mất đi, thì nó đã làm cho quân đội Nam Việt Nam sụp đổ về tinh thần, về kỷ luật và kết quả cuối cùng là thất bại hoàn toàn.

Việc khước từ chi viện hậu cần và hoả lực không quân cần thiết cho Nam Việt Nam phải được coi là một trong ba sai lầm cơ bản nhất mà Mỹ đã phạm phải ở Việt Nam. Thiếu một sự tăng thêm một cách tương đối khiêm tốn về viện trợ của chúng tôi, bao nhiêu năm đổ máu và chấp nhận hy sinh của người Mỹ và Nam Việt Nam đã trở nên vô ích. Tôi không muốn nói rằng nếu không thế thì kết quả nhất định sẽ phải khác đi, nhưng có nhiều cơ may nó sẽ có thể khác, cứ xem như kinh nghiệm năm 1972 thì đủ rõ. Nếu không thì ít ra thất bại năm 1975 cũng có thể hoàn toàn quy cho Nam Việt Nam, chứ không phải do Mỹ đã từ chối giúp đỡ bạn bè trong cơn nguy khốn. Chưa nói các bạn đồng minh cũng như kẻ thù của chúng tôi sẽ có thể rút ra được điều gì từ sự từ chối ấy...

Cũng không phải quá dễ dàng để xác định tại sao Mỹ đã thay đổi vai trò của mình trong những năm 1972 đến 1975. Một trong những lý do chủ yếu là việc Richard Nixon từ chức sau vụ Watergate, trong khi ông đã cam kết sẽ dùng “mọi sức mạnh của mình” để giáng trả lại những vi phạm Hiệp định 1973 của Bắc Việt. Nhưng việc thay đổi tổng thống không phải là một lý do đủ để giải thích, bởi người kế vị ông là Gérald Ford, ông ta cũng đã làm tất cả những gì ông ta có thể làm được để viện trợ cho Nam Việt Nam. Lý do rõ ràng nhất là sự chống đối của quốc hội. Nó đã được thể hiện bởi những cắt giảm nghiêm khắc của quốc hội đối với những khoản ngân sách viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam, và qua Luật quyền hành động chiến tranh, quốc hội đã hạn chế quyền điều động quân ra nước ngoài của tổng thống. Quốc hội làm vậy là có một phần do quốc hội nghĩ rằng hoà bình đã thực sự lập lại ở Đông Dương bởi hiệp định 1973 (ít ra cũng đối với người Mỹ). Tuy nhiên việc từ chối sự tham gia nữa của Mỹ còn có những nguồn gốc sâu xa hơn.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào hoà bình sau Tết 1968, được sù ủng hộ ngày càng rõ rệt của công chúng là xuất phát từ nỗi bất bình của người Mỹ trước những gì họ coi là một sự sử dụng vừa không hiệu quả, vừa tàn bạo, đẫm máu các binh sĩ của chúng tôi vào một sự nghiệp bất công. Những hình ảnh bi thảm của cuộc tổng tiến công Tết đã làm cho người Mỹ ghê tởm. Tiếng vang quá yếu ớt của những thành công mà sau đó chính phủ Nam Việt Nam đã làm được ở nông thôn đã không bác bỏ được hình ảnh của sự thất bại của Mỹ trong ý thức của công chúng. Trách nhiệm về điều đó còn cần phải quy kết cho một sai lầm nghiêm trọng khác nữa của người Mỹ: đó là họ đã quá chú trọng đến việc tiến hành cuộc chiến tranh quân sự theo kiểu Mỹ để chống lại một kẻ địch mà lúc bắt đầu, kẻ địch này đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân theo kiểu của họ - một kiểu chiến tranh phù hợp với trình độ của người dân. Rất hiếm khi các binh sĩ Mỹ phát hiện ra kẻ địch ở đâu, và vấp phải kẻ địch vô hình đó, thì thường họ chỉ còn biết chống trả lại địch khi bị tiến công, chứ họ không thể chủ động tiêu diệt địch theo đúng như quy cách của truyền thống quân sự. Vì vậy, binh sĩ Mỹ đâm ra dễ bực tức, nóng nảy và công chúng Mỹ thì cho rằng những nỗ lực của họ chỉ là uổng công, vô ích.

Người ta khó hiểu không biết tại sao người Mỹ lại có thể quên những gì đã xảy ra cho người Pháp ở Đông Dương và Angiêri, cho người Anh ở Mã Lai, và làm ngơ trước những lời khuyến cáo của Mao Trạch Đông, của Khrusov, của Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông. Những người này đã nói với Mỹ rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam khác xa với những cuộc chiến tranh mà Mỹ đã tiến hành ở Đức và Triều Tiên. Tuy nhiên, về mặt quan điểm, thái độ ấy chỉ là đặc điểm của Mỹ cho đến khi Kower sinh ra C.O.R.D.S. Song rủi thay những thành công C.O.R.D.S. trong thời kỳ sau Tết 1968 đã không thể địch nổi với ý thức ngày càng mạnh lên trong công chúng Mỹ, đó là họ cho rằng chiến tranh Mỹ làm ở Nam Việt Nam là một sự nghiệp thất bại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #127 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 09:22:25 pm »


Khuynh hướng “quân đội hoá quá đáng” của Mỹ cũng có thể tìm thấy lời giải thích trong cách nhìn nhận vấn đề chính trị của họ. John Kennedy đã gắng khuyến khích các nhà quân sự hãy trao một vai trò quan trọng hơn nữa cho các lực lượng đặc biệt và cho cuộc chiến chống nổi dậy nhưng cái chết của ông đã chấm dứt sự thúc đẩy đó. Sau đó, Lyndon Johnson nhấn mạnh việc các lực lượng quân sự Mỹ cần phải trông cậy hơn nữa vào “chiến lược chiến tranh làm hao mòn” được Robert Mc Namara ủng hộ, một chiến lược dựa vào ưu thế quân sự của Mỹ để đè bẹp các lực lượng yếu kém của cộng sản. Song ông nhấn mạnh điều đó đến nỗi thế nào rnà Hoa Kỳ lại áp dụng không do dự chính sách leo thang từng bước, nhằm làm cho Hồ Chí Minh hiểu rằng việc làm của ông ta để chống lại sức mạnh của Hoa Kỳ là vô ích, rồi cứ thế lại tích cực leo thang hơn nữa mà không hề nhận thấy ông Hồ chẳng nao núng chút nào. Khi quân Mỹ ở Nam Việt Nam đạt tới con số nửa triệu người mà chẳng có tác động gì cụ thể đối với ý chí và quyết tâm của kẻ thù (và có vẻ như ngay cả với lực lượng của họ) thì đến lượt mình, dân chúng Mỹ đâm ra hoài nghi.

Năm 1965, việc Mỹ quyết định triển khai tất cả sức mạnh của mình có một nguyên nhân riêng của nó, đó là sự sụp đổ trông thấy trước của Nam Việt Nam và Lyndon Johnson không còn cách nào khác để ngăn chặn điều đó. Khi mà John Kennedy có thể tìm ra một cách khác để giải quyết vấn đề khó xử đó, với điều kiện là ông được tái đắc cử năm 1964 và từ bỏ lời cam kết năm 1961 trước đây của ông là “trả bất kỳ giá nào để bảo đảm sự sống còn và thành công của tự do” thì rõ ràng việc lật đổ tổng thống Diệm đã đẩy lùi Nam Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn mà Johnson phải thừa kế. Cần phải thừa nhận cuộc đảo chính lật đổ Diệm là sai lầm đầu tiên của Mỹ ở Nam Việt Nam và có lẽ là sai lầm tồi tệ nhất. Hai sai lầm tiếp theo lựa chọn một kiểu chiến tranh không thích hợp và từ chối cứu giúp một đồng minh trong lúc khốn nguy chỉ là những hệ quả không thể tránh khỏi của nó. Như trước chúng tôi đã nói, ít ra thì vẫn có cơ may là Diệm có thể lặp lại được thành tích năm 1954 - 1955 của ông tức là trấn áp được cuộc nổi loạn của giới Phật giáo cũng như ông đã làm đối với các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo. Rồi sau đó ông đã tập trung vào thực hiện chương trình “ấp chiến lược”, một chương trình tỏ ra là phương pháp hữu hiệu nhất để chống lại kiểu chiến tranh nhân dân của cộng sản.

Chúng tôi cần rút ra những bài học, nhưng không phải vì thế mà chúng tôi muốn nói: Hoa Kỳ cần phải tránh tất cả mọi sự cam kết trong những tình huống cách mạng, hay việc chống nổi dậy là một nghệ thuật nguy hiểm và không thể làm được đối với Hoa Kỳ. Ngược lại, tôi nghĩ rằng đó lại chính là cách thức dễ dàng nhất và ít bạo lực nhất để bảo vệ những lợi ích của chúng tôi và các đồng minh của chúng tôi. Nhưng để làm cơ sở cho những hành động đó, thì một mặt chúng tôi cần hiểu rõ kẻ thù với những chiến lược chiến thuật của họ, và mặt khác, hiểu rõ đồng minh với nền văn hoá, mặt mạnh và mặt yếu của họ. Một cơ sở như thế là cần thiết cho Hoa Kỳ để Hoa Kỳ có thể đề ra những chương trình có khả năng đương đầu với thách thức của kẻ thù, trong khi vẫn tôn trọng những lợi ích và nền văn hoá của đồng minh và đồng thời liên kết, thống nhất được công luận của Hoa Kỳ.

Để vui lòng ủng hộ, người Mỹ cần được biết những kết quả thu được có xứng với công sức của Mỹ bỏ ra không. Khuynh hướng ưa thích tự nhiên của họ là muốn những vụ cam kết nhỏ và ngắn hạn. Tuy nhiên, họ cũng chấp nhận những vụ cam kết quan trọng và ngắn hạn, hay nhỏ nhưng dài hạn, nếu họ tin rằng cuộc chơi ấy cũng bõ công. Là những người thực dụng nên cái mà họ không chấp nhận là một vụ cam kết vừa quan trọng lại vừa dài hạn nhưng chẳng mang lại được một kết quả nào thiết thực và cụ thể. Nhưng dù có lớn, nhỏ hay dài, ngắn ra sao, thì trong những vụ cam kết ấy, người ta vẫn cần phải có một tổ chức bảo đảm thống nhất hành động cho một chương trình rõ ràng chính xác, chứ không phải là một mớ lộn xộn những nỗ lực khiến chúng tôi và các bạn đồng minh phải hoang mang bối rối và chỉ có lợi cho kẻ thù.

Việc quyết định ai sẽ là người lãnh đạo những đất nước xa xôi, nhỏ bé có nền văn hoá khác biệt với chúng tôi không phải là thuộc quyền của người Mỹ. Nhưng để trung thành với những giá trị của mình, tư tưởng dân chủ và quyền con người, chúng tôi cần phải sử dụng ảnh hưởng của mình để làm cho những giá trị ấy thắng thế, song không phải vì vậy mà áp đặt quyền lực của chúng tôi trong những công việc không phải của Mỹ.

Việc chính quyền Reagan lập ra Quỹ trợ cấp quốc gia cho nền dân chủ (N.E.D. = National Endowment for Democracy) là một minh chứng cho sự nhận thức ấy. Được cấp những khoản kinh phí chính thức của quốc hội và hoạt động công khai, tổ chức này chịu trách nhiệm về việc đồng ý cấp những khoản cho vay cho những ai trên toàn thế giới này muốn tìm cách phát triển những chương trình và những thiết chế dân chủ - ví dụ như công đoàn đoàn kết ở Ba Lan hay phong trào chống đối Pinôchê nắm chính quyền ở Chilê.

Trên thực tế, tổ chức N.E.D. đã công khai đem lại cho hành động chính trị sự trợ giúp của C.I.A., mà trước kia, sự giúp đỡ ấy chỉ có thể tiến hành bí mật (bởi lúc ấy, người ta không còn có cách nào làm khác).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #128 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2009, 09:24:20 pm »


Nếu N.E.D. không giải quyết vấn đề cho nhập những viện trợ quân sự và bán quân sự vào những chương trình “dân sự” về viện trợ kinh tế và xã hội, thì không phải vì thế mà giờ đây ý nghĩa chính trị của các vấn đề sẽ kém đi. Nó cũng có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ giúp cho những người trong tiến trình chính trị quốc gia để đạt tới những mục tiêu dân chủ được dư luận Mỹ thừa nhận, thay vì cho việc trước đây Mỹ cứ cố điều khiển những công việc nước ngoài theo chiều hướng mà chính quyền Mỹ mong muốn và qua trung gian của bộ máy bí mật của C.I.A. Tất nhiên trong một số tình huống nào đấy mà Mỹ không thể công khai giúp đỡ do bị những chính quyền độc đoán kiên quyết từ chối thì có lẽ người ta cần phải nhờ cậy vào tài năng hoạt động bí mật của C.I.A. Nhưng do có N.E.D. nên người ta chỉ cần phải nhờ cậy vào giải pháp đó khi không còn giải pháp nào khác nữa. Vì vậy, do tính chất bí mật của C.I.A. là thách thức đối với quyền tự do của quốc hội cho nên từ nay việc sử dụng nó vào những nhiệm vụ kiểu như trên sẽ thuộc về quá khứ.

Rõ ràng là trong một số trường hợp, vũ khí và những đội quân đặc biệt hùng mạnh cũng không thể giải quyết được những vấn đề mà Hoa Kỳ đã từng gặp. Việc sử dụng nó trong những hoàn cảnh không thích hợp đã hạ thấp đi giá trị của một hình ảnh về ý chí, về sự khôn ngoan và thông minh mà Hoa Kỳ muốn thể hiện. Đó cũng là trường hợp lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Libăng, ở sa mạc Môt ở Iran, là những sai lầm tai hại trong cuộc xâm chiếm Grônađa và thảm họa tàu Vincennes tại vịnh Ba Tư.

Mặc dù có sự ngập ngừng, nhưng quốc hội đã buộc Lầu Năm góc phải quan tâm hơn nữa đến những chiến dịch đặc biệt, song ở đây người ta vẫn luôn luôn thấy có một sự bất cập về phân tích, về tổ chức và học thuyết khi cần phải đưa vào một chiến lược tổng thể những yếu tố chính trị mà đó lại là điều hết sức quan trọng đối với những cuộc xung đột hiện đại.

Cái yếu của Mỹ đối với vấn đề này thể hiện đặc biệt rõ trong việc loại bỏ vai trò của những hoạt động cảnh sát, mà nhờ vào nó, người ta có thể sử dụng một lực lượng thích nghi với công việc trong khi vẫn nằm trong những giới hạn cho phép của luật pháp. Song với truyền thống không muốn chấp nhận những hoạt động cảnh sát trong hoạt động quân sự của Mỹ, thì việc đưa hoạt động cảnh sát vào chiến lược của Lầu Năm góc là một điều khó. Quốc hội, trong khi cấm Hoa Kỳ không được tham gia vào những chương trình cảnh sát của Mỹ Latinh với cái cớ ở đấy quyền con người bị chà đạp, đã phản ứng một cách đơn giản quá mức: tức tốt hơn là cứ khuyên bảo, lôi kéo họ vào việc thay đổi những phương pháp của họ.

Thí dụ đau đớn nhất về sự bất lực của chúng tôi, khi chúng tôi muốn kết hợp những nỗ lực dân sự và quân sự của mình vào nỗ lực chung của Mỹ ở nước ngoài, là đài tưởng niệm những người hy sinh ở Việt Nam dựng bên đài tưởng niệm Lincoln ở Washington. Mặc dù xây thấp một cách lạ lùng, bức tường gây xúc động ấy mang tên năm mươi tám nghìn người Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam. Bức tường ấy tôn vinh những người đã chết cho dù họ có chết cho một sự nghiệp như thế nào. Nhưng trên bức tường ấy người ta chỉ thấy ghi tên những binh sĩ chết trận. Còn những nhân viên dân sự, những người đã ngã xuống trong khi họ làm nhiệm vụ sát cánh với bên quân sự trong khuôn khổ của C.O.R.D.S. hay một số chương trình khác, thì họ đâu có quyền được hưởng vinh dự đó. Chứng cớ cụ thể là John Paul Vann không có tên trong danh sách, mặc dù anh chính là người chỉ huy tất cả các người Mỹ, cả dân sự và quân sự, ở Vùng chiến thuật một chống lại cuộc tiến công 1972 của cộng sản. Điều đó đã chứng tỏ sự tồn tại dai dẳng của một quan điểm Mỹ: người ta đã tiến hành ở Việt Nam một cuộc chiến tranh của những người lính, chứ không phải một cuộc chiến tranh nhân dân.

Nếu đó là kết luận rút ra được từ mười sáu năm đánh dấu bằng thảm họa tháng Tư năm 1975, thì tôi nhìn thấy ở đấy một thất bại kép. Thất bại này có nghĩa là, chúng tôi và đồng minh của chúng tôi không thể chỉ thất bại trước sự đe doạ của cộng sản, mà chúng tôi còn thất bại trong cả một quá trình hiểu biết tình hình. Sau nhiều năm thử thách với biết bao sai lầm, chúng tôi cuối cùng đã học được cách kết hợp các nỗ lực quân sự, chính trị và kinh tế của chúng tôi để theo đuổi một chiến lược duy nhất và bảo đảm thực hiện nó. Nhưng cứ sau mỗi năm mang lại hy vọng - như 1962, 1967, 1972 thì chúng tôi lại có những chập chờn, dao động không xứng đáng với một cường quốc lớn, và những chập chờn dao động ấy đã kết thúc bằng những năm tai hoạ, như 193, 1968 và 1975.

Khi tôi bắt tay vào suy nghĩ về những bài học ở Việt Nam, dần dần một ý nghĩ xuất hiện trong tôi là, những cương vị công tác mà tôi phụ trách trong mười sáu năm đó đã giúp cho chúng tôi có được cái nhìn đặc biệt để phân tích cuộc trải nghiệm của chúng tôi ở Việt Nam. Điều đó diễn ra như thế nào và tại sao nó lại có thể khác nhau. Nếu tôi có thể góp phần vào việc tìm ra một con đường tốt hơn cho những hành động của Mỹ ở nước ngoài trong tương lai, thì những đau khổ mà biết bao người đã phải chịu đựng trong bấy nhiêu năm sẽ không phải hoàn toàn vô ích. Một công việc như thế không nên dẫn tới việc chê trách ai hay tìm cách để tự thanh minh. Thậm chí ngay cả khi nếu tôi có vài ý kiến hay về cách điều hành chiến tranh nhân dân, thì tôi cũng không thể vận dụng nó vào thời cơ và đúng với quy mô nó cần phải có. Cũng như Robert Kennedy đã nói rất chí lý rằng, trong cuộc chiến tranh của chúng tôi ở Việt Nam, mỗi người chúng tôi đều có một phần trách nhiệm.

Thách thức đối với Mỹ là đề cập vấn đề quan hệ với bạn bè cũng như với kẻ thù như thế nào, trong khi phải chú trọng đến những bài học thực sự đã có được ở Việt Nam. Điều đó đương nhiên chẳng thể làm cho những người chết sống lại và cũng chẳng thể xoá đi được những cơn hấp hối cuối cùng là sự thất bại. Nhưng nó cũng có thể ngăn chặn được, không thể cho một kết cục giống như thế lại tái diễn ở một nơi nào khác nữa.

Trong khi tôi đang viết cuốn sách này, nhiều đảo lộn rất ấn tượng đã diễn ra trên thế giới. Có cái thì hứa hẹn sự giảm bớt căng thẳng trong quan hệ quốc tế và trong những ngân sách quân sự. Có cái thì chứng tỏ những cảm tình của con người đối với những thiết chế và những quá trình dân chủ... Và cũng có những cái chứng tỏ một sự cải thiện rõ rệt về chiều hướng và ý thức trách nhiệm trong những công việc quốc tế, và sự thừa nhận một nhu cầu ngày càng tăng đối với việc cần phải hợp tác với nhau để giải quyết những vấn đề trên toàn cầu. Nhưng trong những thay đổi ấy, không có một thay đổi nào bảo đảm cho nền an ninh, cũng như sự thịnh vượng của nước Mỹ. Sự bảo đảm ấy, chúng tôi chỉ có thể có được bằng cách dựa vào chính mình và trong một thế giới mà giờ đây quyền lực bị phân tán hơn bao giờ hết, chúng tôi cũng có thể dựa vào các đồng minh của chúng tôi. Và với tinh thần ấy, chúng tôi sẽ vô cùng có lỗi nếu chúng tôi không coi trọng những gì mà Việt Nam đã dạy cho chúng tôi: đó là tầm quan trọng hàng đầu của “quyền lực nhân dân”, ở nước Mỹ chúng tôi cũng như ở các nước khác trên thế giới.






Het!

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM