Xin tặng bác lixeta một bài của Tây đánh giá về chiếc T-54/T-55, thông tin trên mạng có thể nhiều, nhưng bài này là em tự tay dịch và chọn lọc, bác thấy sai chỗ nào xin nói cho đàn em biết ạ
T54/T55 Main Battle TankTổ lái: 4
Khối lượng: 40,5 tấn
Dài: 6,2m
Cao: 2,32m
Rộng: 3,6m
Động cơ: V-55 diesel 580 hp
Tầm hoạt động: 311km
Tốc độ tối đa (Đường tốt/đường xấu): 50/35 (km/h)
Tốc độ trung bình trên đường địa hình: 25 km/h
Vũ khí: Pháo 100mm D-10T2S, PKT 7,62mm và AA DShKM 12,7mm
Tốc độ bắn: 5-7 viên/phút
Góc nâng: -5 đến +18 deg
T-54 là loại tăng được thiết kế theo kiểu qui ước, với vũ khí chính là một khẩu pháo 100mm. T-54 được sử dụng nhiều hơn bất kì một loại tăng nào trên thế giới từ sau WW2 ( hơn 57 000 chiếc đã được xuất xưởng). Nó gồm có 5 bánh xích mỗi bên và có tháp pháo dạng vòm tròn gắn trên khung thân thấp.
Series T-54 đầu tiên ra mắt năm như là một sự thay thế cho loại tăng T-34 của WW2. Mẫu T-54 đầu tiên được hoàn thành năm 1946 để cho việc sản xuất hang loạt bắt đầu từ năm 1947. Chiếc T-54 liên tục được cải tiến và chỉnh sửa trong thời gian sau đó, và khi việc cải tiến đã được thực hiện đầy đủ, nó được đặt tên là T-55. Chiếc T-55 được giới thiệu năm 1958 và nó kết hợp những cải tiến tốt nhất của thế hệ T-54 mà không có sự thay đổi nhiều về thiết kế hay hình dáng bên ngoài chiếc tăng. Chiếc T-55A ra mắt vào đầu những năm 1960, việc sản xuất T-55 ở Liên Xô được kéo dài tới tận năm 1981 và nó còn được sản xuất ở những quốc gia khác như Trung Quốc, Tiệp Khắc và Ba Lan.
Cho đến nay, một số lượng lớn T-54/T-55 vẫn còn được sử dụng mặc dù đến những năm 1980 nó đã được thay thế hầu hết bởi T-62, T-64, T-72 và T-80 trong vai trò tăng chủ lực của các lực lượng tăng và các đơn vị bộ binh cơ giới Liên Xô. Được sử dụng trong các cuộc can thiệp ở Hungagy năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, Sirya năm 1970 và là loại tăng chủ lực của các quốc gia Arab trong những cuộc chiến tranh 1967 và 1973 với Israel. Trong những năm 1970, T-54 còn tham chiến ở Việt Nam, Cambodia và Uganda.
Xe tăng hạng trung T-55 là loại tăng sử dụng bánh xích với 5 bánh dẫn động mỗi bên, nó có một khoảng trống giữa bánh dẫn động thứ nhất và thứ hai, bên cạnh đó nó cũng không có các con lăn hỗ trợ, thiết kế khung thân thấp với tháp pháo dạng vòm tròn đặt ở vị trí bánh dẫn động thứ 3. Khẩu pháo 100mm có một cái bọc hút khói ở đầu nòng, bên cạnh đó là một khẩu PKT 7,62mm đồng trục và một khẩu 7,62mm ở vị trí lái xe. Những mẫu T-55 sau này đã bỏ khẩu 7,62mm ở vị trí lái xe đi. T-55 có thể phân biệt với T-54 ở chỗ T-55 không có vòm ở bên phải và quạt thông gió của tháp pháo được lắp phía trước so với quạt thông gió của T-54, hầu hết những chiếc T-55 khác T-54 ở chỗ nó không có súng trọng liên DShKM 12,7mm trên vị trí pháo hai và tất cả các mẫu T-55 đều có một kính hồng ngoại dành cho pháo thủ lắp bên phải pháo chính. Tuy nhiên, bộ phận tìm kiếm ánh sáng này không phải là một đặc điểm phân biệt, bởi vì nó cũng được trang bị trên nhiều mẫu T-54 và T-54A.
Đại liên 12,7mm trên T-55:
T-55 là sự kết hợp giữa một khẩu pháo sơ tốc cao với một khung xe cơ động cao, chiều cao thấp với một khẩu pháo nòng dài. Những cải tiến từ T-54 bao gồm động cơ diesel V-12 làm mát bằng nước lớn hơn với 580hp thay vì 520hp, tăng quãng đu7òng hành trình lên 500km ( sẽ là 715km với hai thùng dầu phụ 200L đặt ở đuôi xe ) so với 400km ( 600km với thùng dầu phụ ở bản cũ ). . T-55 cũng có hai cái ổn định hai cánh (two-plane) chứ không chỉ có cái ổn định dọc, số đạn dự trữ sẽ là 43 viên thay vì 34 viên của T-54.
T-55 có thể lội nước sâu 1,4m mà không cần chuẩn bị, với ống thông hơi chuyên dụng thì nó có thể di chuyển ở độ sâu 5,5m với vận tốc 2km/h, thiết bị này cần 15-30 phút để lắp đặt nhưng có thể được vứt bỏ ngay lập tức khi xe rời khỏi mặt nước. Tất cả các xe T55 đều có hệ thống dò tìm bức xạ PAZ, và T-55A cũng có thiết bị chống bức xạ. Một số chiếc T-55 được trang bị một hệ thống bảo vệ NBC đầy đủ (lọc không khí và điều chỉnh áp suất). Một màn khói có thể được tạo ra bằng cách phun dầu diesel bay hơi vào một cái ống xả.
T-54 của quân đội Việt Nam:
T-55:
T-55 có thể lắp thêm lớp giáp bán nguyệt phía trước, với lớp giáp tháp pháo tăng lên tới 330 mm (KE) và 400-450 mm (CE). Những cải tiến khác bao gồm giáp gầm chống mìn, động cơ mạnh hơn, các miếng lót cao su ở xích. Kính 1K13 là loại kính dùng để nhìn đêm và kính ngắm bắn ATGM, tuy vậy thì nó không thể sử dụng hai chức năng này cùng 1 lúc. Kính ngắm quang học và hệ thống kiểm soát hỏa lực có thể sử dụng thiết bị El-Op Red Tigervà Matador FCS của Israel, kính NobelTech T-series của Thụy Điển, kính Atlas MOLF của Đức. Các hệ thống kiểm soát hỏa lực SUV-T55A FCS của Serbia, Marconi Digital FCS của Anh, Tiger của Nam Phi, SABCA Titan của Bỉ là nhũng cấu hình có thể được nâng cấp.
Thế hệ APS (active protection system) đầu tiên, được đặt tên là Drozd, được phát triển ở LX giữa những năm 1977 và 1982, nó được lắp đặt lên chừng 250 chiếc T-55A của Hải quân đánh bộ ( được đặt tên là T-55AD ) vào đầu những năm 1980, được thiết kế để chống lại các loại ATGM và súng phóng lựu chống tăng. Nó sử dụng các rada cảm biến sóng milimet ở mỗi bên của tháp pháo để phát hiện những viên đạn đang tới, dĩ nhiên là sẽ có một thiết bị kiểm tra trong một bộ xử lý để đảm bảo là các mục tiêu này đang bay tới với vận tốc của các loại ATGM. Nó sẽ kích hoạt một hoặc nhiều rocket tầm ngắn mang những đầu đạn mảnh ( kiểu như đạn súng cối ), đạn được phóng từ một cái ống phóng 4 viên đạn trong đó ( mỗi bên tháp pháo có 1 ống ), Drozd cung cấp khả năng bảo vệ của 2 ống phóng hướng 60 độ về phía trước, trong khi đó hông và đuôi xe thì hoàn toàn không được bảo vệ. Nếu muốn, tổ lái có thể định hướng các gọc được bảo vệ bằng cách quay nòng pháo về hướng đó.
Hệ thống Drozd vẫn mắc nhiều thiếu sót. Radar của nó không thể xác định rõ các mối nguy hiểm ở các góc nâng một cách thỏa đáng, và đạn rocket phóng ra, cũng như ERA, đều gây ra những mối nguy hiểm đáng kể cho binh lính xung quanh, đặc biệt là những binh sĩ đang thoát li ra khỏi xe.
T-54 ở Prague, Tiệp Khắc năm 1968:
Những điểm hạn chế
T-55 hiệu quả nhất khi dùng để chống lại các loại xe bọc giáp hạng vừa. Cơ số đạn dự trữ thông thường cho pháo chính là 43 viên. Những thùng nhiên liệu gắn vào đuôi xe rất dễ bị tổn thương với các loại đạn bắn vào nó, bởi vì lớp vỏ rất mỏng. T-55 cũng không thể hạ thấp nòng tốt như các xe của phương Tây, điều đó khiến cho nó phải nhô hẳn thân xe ra khi khai hỏa từ trong công sự trên các điểm cao. Mặc dù tháp pháo dạng nửa quả trứng của T-55 có những ưu điểm của nó, thì nó cũng khiến chon không gian làm việc của tổ lái rất chật hẹp, dẫn đến việc tốc độ bắn thấp, khả năng bảo vệ của kết cấu khung thấp ( thấp hơn 1m so với loại M60 của Mĩ ) lại là đối trọng với lớp giáp bảo vệ khá yếu của nó ( mỏng hơn so với tiêu chuẩn phương Tây ). Cũng trong tiêu chuẩn ấy, khả năng kiểm soát hỏa lực cũng khá là tệ. Nó cũng là khuyết điểm chung của các loại tăng Soviet ở khả năng hạ góc bắn, chiếc xe không thể lòi mộĩ nòng pháo ra để bắn mà phải nhô nguyên thân ra. Vị trí đặt đạn dược và nguyên liệu rất nguy hiểm.
Chiếc T-55 không hề kín. Mặc dù tổ lái sẽ được bảo vệ bởi phóng xạ thì họ cũng phải đeo mặt nạ phòng hóa và mặc đồ bảo hộ để chống lại các tác nhân sinh học và hóa học, chiếc tăng phải chạy qua những vùng ô nhiễm nhanh chóng rồi phải được tẩy rửa trước khi có thể hoạt động tiếp.
T-55 nâng cấp:
Một số biến thể
• T-54: Mẫu chế tạo đầu tiên, có tháp pháo với đuôi xe khác nhiều các mẫu sau này
• T-54A: Có bọc hút khói cho pháo 100mm và thiết bị lội nước
• T-54AK: Phiên bản xe chỉ huy với radio tầm 100 dặm
• T-54M: T-54 nâng cấp lên chuẩn T-55M
• T-54B: Mẫu đầu tiên được trang bị đèn hồng ngoại
• T-55: Đã nói ở trên
• T-55M: Lắp hệ thống kiểm soát bắn Volna ( với thiết bị phóng ATGM ), nâng cấp hệ thống ổn định pháo, nâng cấp động cơ , radio mới và tăng khả năng bảo vệ, gồm ống phóng đạn khói, giáp hông….
• T-55AD Drozd: Phiên bản với hệ thống Drozd nhưng không có Volna FCS và ERA.
T-55AD:
T-55 nâng cấp:
T-55 nâng cấp của Việt Nam: