hodacthanh
Thành viên
Bài viết: 8
|
|
« Trả lời #29 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2009, 11:00:38 am » |
|
(Tiếp) Một đêm nằm bên cạnh tôi, anh Quang tâm sự: “Từ hôm được tin cấp trên báo cho mình đi theo tàu cậu về lại quê hương chiến đấu mình mừng quá không sao ngủ được”. Tôi nói khích vào: “Chớ không phải nhớ người yêu không ngủ được à?” “Cái đó cũng có” - anh Quang nói. “Phải chăng lúc này mình cũng như cậu chưa đụng đến chuyện yêu đương thì sướng biết bao nhiêu. Tập “công văn tình cảm” của cô ấy cất kỹ dưới đáy ba lô và theo mình đi khắp nơi mãi đến chiều hôm qua sau một cuộc đấu tranh dằn vặt mình đã đốt hết rồi. Bây giờ mình thật sự yêm tâm. Khi nào gặp lại cô ấy cậu hãy nói giúp mình vì sao mình ra đi mà không để lại cho cô ấy một tín hiệu gì. Tất cả vì sự an toàn và thắng lợi của chuyến đi”. Mùa gió chướng về, mùa hoạt động của những con “tàu không số” đã tới. Buổi giao nhiệm vụ chính thức chuyến đi mở đường vào bến Vũng Rô cho tàu 41 được tiến hành ngắn gọn. Sau khi nghe tôi báo cáo tình hình chuẩn bị chuyến đi và báo cáo bổ sung của Trưởng phòng Quân báo về tình hình địch ở khu vực bến, Tư lệnh quyết định phương án và thời gian xuất phát của tàu. Đồng chí nhấn mạnh “Đây là bến mới, có thể lực lượng địa phương tổ chức đón và bốc hàng có khó khăn. Để bảo đảm bí mật sử dụng lâu dài bến mới này, thời gian cho phép tàu vào bến khoảng từ 23 đến 24 giờ và nhất thiết phải rời bến trước 3 giờ sáng.” Buổi giao nhiệm vụ kết thúc, mọi người ra về. Tôi và anh Quang được Tư lệnh Quân chủng gặp riêng. Đi bách bộ dọc hành lang Sở chỉ huy đồng chí ân cần dặn chúng tôi phải hết sức cố gắng tập trung lãnh đạo chỉ huy để chuyến đi thắng lợi. Siết chặt tay, đồng chí chúc chúng tôi lên đường thắng lợi. Gặp anh Sáu và các anh ở bến gởi lời thăm.” Buổi chiều cuối cùng tàu chuẩn bị xuất phát, cấp trên cho xe chở đến 3 người khách. Anh Võ quê ở Bình Định, anh Long, anh Kiến quê ở Quảng Nam. Các anh nhận nhiệm vụ vào tăng cường cho bến. 24 giờ ngày 16/11/1964 tàu rời bến Bãi Cháy. Các đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và chính ủy Đoàn ôm hôn thắm thiết cán bộ chiến sĩ của tàu. “Chúc tàu 41 hành trình thuận buồm xuôi gió. Bộ Tư lệnh chờ tin thắng lợi của các đồng chí báo về”. Tình cảm hậu phương lớn làm ấm lòng các chiến sĩ trên đường về tiền tuyến lớn. Trăng trung tuần tháng 11 tỏa sáng một vùng bát ngát mênh mông. Sau trận gió mùa Đông Bắc biển lặng sóng, con tàu lướt nhẹ êm ru. Giữa cảnh trời nước mênh mông trăng thanh gió mát, trừ các cán bộ và thủy thủ trực canh còn lại tập trung trên boong tàu uống trà trò chuyện và ca hát. Các đồng chí khách trải chiếu nằm trên hầm hàng nói cười sảng khoái. Anh Kiến nói với tôi: “Mình đi ra trận như là đi du lịch thế này thì còn gì bằng. Các ông lính hải quân thật là sướng”. Đúng là như thế, giữa mùa Đông, mùa của gió chướng cấp 7 cấp 8 mà có một đêm biển lặng như thế này là hiếm. Riêng chúng tôi những người lính biển hiểu rất rõ biển lặng hôm nay là giao thời của những trận gió mùa Đông Bắc, nó chỉ có trong chốc lát. Và trong hoạt động của Đoàn “tàu không số” chúng tôi thì ngược lại, “biển lặng là thời tiết xấu” khó tránh các trạm rađa và các tàu tuần tiễu của địch. Gần sáng, biển bắt đầu lên tiếng. Con tàu được sóng biển nâng lên và đột nhiên hạ xuống giữa 2 đợt sóng của gió mùa. Tốc độ tàu giảm, tàu lắc lư như người say chao đảo. Trong khoang ngủ thủy thủ, đồ đạc văng tung tóe. Đó đây một vài người nôn mửa. Không chỉ có khách mà có cả người của tàu. Càng về trưa, sóng càng lớn không nấu cơm được phải ăn bằng lương khô. Tàu hành trình được 2 ngày thì có điện của Sở chỉ huy: “Dừng lại ở vùng đảo của bạn chờ lệnh”. Tranh thủ thời gian chúng tôi tiếp tục huấn luyện các phương án chiến đấu. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi. 18 giờ ngày 26/11/1967 tàu vượt qua “giới tuyến tạm thời” trên biển. Tuy là giới tuyến tạm thời nhưng với chúng tôi thì đây là tuyến chiến đấu. Tôi ra lệnh nâng cấp sẵn sàng chiến đấu và tăng cường quan sát. Thuyền phó Hồng Lỳ trực tiếp đến từng giường của các đồng chí khách phổ biến tình hình. Tôi đang loay hoay đo đạc xác định vị trí tàu thì nghe phía sau có người hô to: “Xin tạm biệt hậu phương lớn hẹn ngày trở lại”. “Xin chào miền Nam tiền tuyến lớn chúng tôi đang về theo tiếng gọi của quê hương”. Đó là anh Võ - người khách duy nhất trên tàu không say sóng. Anh đang giơ tay vẫy chào tạm biệt miền Bắc và giang tay ôm lấy miền Nam trong giây phút bồi hồi xúc động khi biết tàu qua giới tuyến tạm thời. Tàu vẫn hành trình theo kế hoạch, thông tin liên lạc giữa tàu và chỉ huy sở vẫn được giữ vững. Khoảng 12 giờ trưa đồng chí cơ yếu đưa cho tôi bức điện, nội dung: “Bộ Tư lệnh vùng 1 Duyên hải Ngụy phái 2 tàu chiến hộ tống một phái đoàn Mỹ đi thị sát rađa cù lao Ré, tàu 41 khi qua vùng biển Đà Nẵng - Lý Sơn phải chú ý. Tình hình bến rất êm”. Đêm trên vùng biển miền Trung, ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc có giảm chút ít nhưng vẫn còn sóng cấp 5 cấp 6. Xa xa một vài chiếc ghe lưới chuồn chập chờn trên sóng biển. Ngày 28/11/1964 ngày hành trình cuối cùng của tàu. Ba ngày đêm qua, ngoài sự chịu đựng sóng gió, tàu 2 lần cơ động tránh tàu tuần tiễu của địch. Khoảng 5 giờ sáng 1 máy bay của Ngụy từ 1 căn cứ trên đất liền (có lẽ Phù Cát hoặc Đông tác) bay đến lượn trên tàu nhiều lần ở độ cao 50 - 100m. Sau khi hội ý cán bộ tàu, tôi cho một thủy thủ mang cờ ba que kéo lên đỉnh cột, đồng thời cho anh em mang những con cá ướp đá và những bó mực khô đã chuẩn bị sẵn cùng với những chai rượu giơ cao như vẫy gọi như mời chào “người bạn đường trên biển” xuống nhậu. Sau mấy lần quần lượn trên tàu, lúc cắt ngang lúc bay dọc theo tàu - có lẽ để xác định hướng đi của tàu - rồi bay thẳng về hướng đất liền. Không khí trên tàu sôi động hẳn lên. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Số anh em mới đi chuyến đầu và khách rất lo lắng. Cảm giác “đi chiến trường như đi du lịch không còn nữa”. Tôi nói với anh Võ: “ở trên bộ khi gặp địch còn có thể tìm chỗ ẩn nấp hoặc khi không thể tránh được thì nổ súng và chẳng may phải hy sinh không sớm thì muộn đồng đội sẽ tìm đến đưa thi hài về chôn cất. Còn ở đây trên biển cả mênh mông, con tàu như chiếc lá trên mặt nước, tìm chỗ ẩn nấp chỉ bằng cách tự giấu tung tích của mình để đạt đến đích cuối cùng là đưa vũ khí vào đến chiến trường và trong trường hợp buộc phải chiến đấu thì phải đánh đến cùng và khi có nguy cơ rơi vào tay địch thì sử dụng khối bộc phá ngàn cân làm nổ tung tàu sao cho không còn một dấu vết”. -“Báo cáo thuyền trưởng, mạn phải 300 có hai tàu xuất hiện!” tiếng đồng chí trực canh trên đài quan sát cắt ngang câu chuyện chúng tôi. Tôi cầm chiếc ống nhòm của đồng chí trực canh trao cho và quan sát. Hai chấm đen rõ nét dần ở cuối đường chân trời. Một ý nghĩ thoáng trong đầu. Sau phát hiện của máy bay chúng có thể cho tàu chiến tiếp cận kiểm tra. Phải cảnh giác sẵn sàng đối phó. Tôi cho anh em thay số hiệu tàu, sửa lại vàng lưới đánh cá ngụy trang đồng thời bí mật chuẩn bị vũ khí khi cần chủ động đánh địch. Hai tàu địch tiếp cận tàu ta cách một hải lý thì giảm tốc độ. Boong tàu lố nhố một đám sĩ quan binh lính địch đang chỉ chỏ nói cười. Trên cabin tàu một tên sĩ quan đang dùng ống nhòm quan sát tàu ta. Khoảng 10 phút sau một chiếc tách đội hình tăng tốc độ chạy vòng phía sau, sang mạn trái tàu rồi cả hai chạy song song với tàu ta một khoảng cách nhất định. Thời gian trôi đi, căng thẳng và chờ đợi, sự chờ đợi của 2 khả năng: đánh nhau nếu chúng phát hiện tàu ta chở vũ khí tiếp tế cho Việt cộng ở miền Nam hoặc bỏ đi nếu ta thành công trong chiếc vỏ ngụy trang giả dạng tàu đánh cá nước ngoài. Rốt cuộc phần thắng thuộc về người chủ động. Sau 2 giờ hộ tống kèm cặp xác minh, 2 tàu Ngụy đã kéo còi tăng tốc độ quay về hướng khác. Không khí trên tàu như bị nén chặt giờ đây được mở val giảm sức căng mặt ngoài của bình chứa. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. -Phải tranh thủ ăn chút ít gì để lấy sức đêm nay vào bến! Đồng chí Lộc thuyền phó Hậu cần, người thường được anh em gọi là “thần giữ của” lúc này cũng xuôi lòng bởi những lời tán tụng của anh em. Có một điều thú vị phải qua nhiều lần khảo nghiệm mới nhận biết được: Đó là khi đang say sóng mà gặp tình hình căng thẳng như gặp địch, tàu gặp tai nạn hoặc tàu đi lâu ngày nhìn thấy đất liền … thì cơn say biến đâu mất nhường lại cho sự tỉnh táo bình thường. Các đồng chí say sóng nhất giờ đây cũng ăn được chút ít. Tàu tiếp tục hành trình. 12 giờ ngày 28/11/1964 tàu chuyển hướng vào bến. Không khí chuẩn bị trên tàu rất khẩn trương và bận rộn. 14 giờ thì phát hiện lờ mờ rặng núi phía đất liền. Tình hình vẫn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có một hai lần chiếc máy bay bay qua hướng đi của tàu. Trời tối dần. Lúc này tàu ta đã nằm trong bán kính chiếu sáng của đèn Mũi Nậy rồi mà vẫn chưa nhìn thấy ánh chớp. Bao nhiêu giả thuyết đặt ra: “có thể vị trí tàu ta sai lệch! Có thể đèn Mũi Nậy không có hoặc bị hỏng máy phát điện … Tàu vẫn tiếp tục đi theo hướng đã định. 22 giờ tàu cách bờ núi 1 hải lý. Chúng tôi dùng đèn pin phát tín hiệu nhận nhau. 5 phút rồi 10 phút vẫn không thấy tín hiệu trả lời. Bĩnh tĩnh, cảnh giác và thận trọng. Tôi cho tàu giảm tốc độ và tránh xa các mõm núi đá. Lưới ngụy trang trên các ụ súng máy được tháo gỡ ra để sẵn sàng chiến đấu. Phía mạn trái tàu một hòn đảo hiện ra rõ dần. Hòn Nưa! Đúng là Hòn Nưa rồi. Cửa Vũng Rô đã ở trước mặt. Tôi cho tàu chạy từ từ vào giữa vịnh và thả trôi. Bốn bề yên tĩnh. Phía Đèo Cả thỉnh thoảng một vài ánh đèn le lói rồi vụt tắt. Chiếc xuồng ba lá được thả xuống, đồng chí thuyền phó cùng 2 chiến sĩ mang theo vũ khí chèo vào phía bờ tìm bắt liên lạc với bến. Tàu thả trôi chờ đợi. Thời gian nhích dần chậm chạp. Mười phút, hai mươi phút rồi ba mươi phút trôi qua. Bỗng phía bờ có ánh đèn pin chớp lên rồi vụt tắc. Anh Quang dùng đèn pin phát tín hiệu nhận nhau và được phía bờ đáp lại đúng như quy định. Toàn tàu thật sự yên lòng mình đã vào đúng bến Vũng Rô. Một chiếc ghe máy kéo theo chiếc xuồng ba lá cập mạn. Các anh lên tàu. Phút gặp gỡ đầu tiên vui mừng xúc động. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau 2 hàng nước mắt chảy ròng nghẹn ngào không nói nên lời. Ôi rất gần mà bấy lâu xa cách Chỉ mấy ngày đường - vạch giới tuyến chia đôi Mà hôm nay tôi đã đến đây rồi Bằng con đường Hồ Chí Minh trên biển Chính trị viên Chiêu ngẫu hứng đọc mấy câu thơ. Anh Sáu và các anh ở bến bắt tay anh em trên tàu. Siết chặt tay anh mà lòng tôi không cầm được nước mắt. Không ngờ anh Sáu (ngoài kia tôi được chỉ thị vào gặp anh Sáu Râu) lại chính là anh Trần Suyền - ông Tú đầu tiên và duy nhất ở quê tôi và ở cách nhà tôi không quá 30 phút đi bằng xe đạp. Sau phút bồi hồi xúc động tôi trình bày với các anh là “theo lệnh cấp trên tàu tôi chỉ được ở lại đến 3 giờ sáng là phải rời khỏi bến”. Tàu trọng tải hàng 80 tấn vũ khí và một số trang bị khác làm sao huy động người bốc dỡ kịp để tàu ra. Cầm tay tôi, anh Sáu nghẹn ngào nói: “Chúng tôi tổ chức đón tàu các đồng chí từ mấy đêm nay, đêm nào cũng mong được gặp, đêm nay gặp rồi sao cứ bàng hoàng xúc động vừa mừng lại vừa lo, mừng vì ước mong đã thành sự thật, còn lo vì con tàu lớn quá, khối lượng hàng nhiều làm sao bốc dỡ trong mấy tiếng đồng hồ cho xong!” Thấu hiểu rõ nổi bâng khuâng suy nghĩ của các anh ở bến, tình cảm quê hương trong lòng chúng tôi thôi thúc phải tìm mọi cách để giải quyết. Chi ủy họp cùng cán bộ thuyền có đồng chí Quang tham dự. Vấn đề đặt ra là “Nếu cho tàu ra khỏi lãnh hải chờ tối mai vào hoặc ở lại bến ngụy trang thật kín, tối mai bốc hết hàng rồi tàu ra!” Ý kiến trao đổi khá sôi nổi, ý kiến tôi là ta cho tàu ở lại bến”. Điều quan trọng là làm sao ngụy trang che mắt được kẻ địch. Chi ủy viên - máy trưởng nói “Như vậy có trái lệnh của cấp trên là tàu phải rời bến trước 3 giờ sáng không?” Bây giờ chỉ có một điều duy nhất làm cơ sở cho việc quyết định cho tàu ở lại hay ra là căn cứ vào chỉ lệnh giao nhiệm vụ cuối cùng của cấp trên “cho phép chi ủy - chi bộ và cán bộ tàu tùy tình hình cụ thể mà quyết định và chịu trách nhiệm trước cấp trên.” Cuộc họp kết thúc. Tôi gặp anh Sáu báo cáo là tàu sẽ ở lại bến để tối mai bốc hết hàng rồi ra và đề nghị các anh tìm chỗ dấu và ngụy trang tàu. Tôi cho chuyển bức điện cuối cùng “Tàu ở lại bến bốc hàng xong tối mai ra” kết thúc liên lạc với Sở chỉ huy. 4 giờ sáng hoàn thành xong việc dấu và ngụy trang tàu kín đáo. Cùng với bến chúng tôi cho lực lượng chốt chặn các vị trí cần thiết. Lệnh chiến đấu được ban hành phong tỏa chặt các hướng ra vào Vũng Rô và nghiêm cấm việc đốt lửa nấu ăn trong khu vực tàu đậu. Tất cả ăn lương khô và uống nước suối. Việc khó khăn nhất là làm sao giải thích để ghe của ngư dân không vào suối lấy nước dễ bị lộ. Anh Sáu bảo tôi yên tâm, việc đó đã giao cho bảo vệ bến và xã đội trưởng Hòa hiệp rồi. Mặt trời đi qua chậm chạp trên đỉnh đầu. Không gian yên tĩnh. Thỉnh thoảng một vài chiếc máy bay bay qua vùng trời Vũng Rô theo hướng Nam - Bắc, tiếng xình xịch của một đoàn tàu hỏa, tiếng rú ga sang số của những đoàn xe quân sự nặng nề leo dốc Đèo Cả nghe chối tai. Trên tàu lúc này còn lại tôi, thuyền phó và máy trưởng - tổ rời tàu cuối cùng nếu phải chiến đấu, điểm hỏa phá hủy tàu.
|