Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:17:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vasily Grossman - Nhà văn nơi chiến trường  (Đọc 55380 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #20 vào lúc: 10 Tháng Bảy, 2009, 03:17:18 pm »

Thông điệp này nằm bên trong mặt dây chuyền của trung uý Miroshnikov đã hi sinh: "Nếu ai đó đủ can đảm gỡ thông điệp này khỏi mặt dây chuyền xin hảy gửi nó tới địa chỉ sau ... "Các con trai của ta, bố đang ở 1 thế giới khác. Hãy gặp bố ở đó nhưng trước hết hãy trút căm thù lên đầu giặc. Tiến lên, vì chiến thắng, các con và bạn bè hãy chiến đấu cho Đất Mẹ, cho Stalin vĩ đại." "

Câu chuyện của 1 chính uỷ lữ đoàn:

1 sĩ quan hậu cần cấp 2, người vừa thoát khỏi vòng vây bằng cách xuyên qua chiến tuyến địch, đã bất ngờ bắn chính uỷ và trung đoàn trưởng của mình vì họ nghi anh ta là gián điệp. Hắn lấy tư trang và tiền của họ và chôn các xác chết trong 1 chuồng gia súc. Tay sĩ quan hậu cần này đã bị bắn trước mặt các sĩ quan sư đoàn, người bắn là viên đại tá cao tuổi nhất sư đoàn.

Grossman không thể cưỡng lại thú vui mô tả chi tiết về con người địa phương, thậm chí cả những người chẳng có việc gì làm trong chiến tranh.

1 bà già có 3 người con trai câm, cả 3 đều là thợ cắt tóc. "Đứa lớn nhất đã hơn 50 tuổi rồi," bà nói. "Chúng vẫn đánh nhau như quỷ và cãi nhau như ngựa, chúng còn lấy dao phi nhau suốt."

Những thợ quét vôi và thợ đá khi cáu ông chủ thuê họ thường giấu vào trong tường 1 quả trứng hay 1 hộp đầy gián (với chút cám để chúng ăn). Quả trứng sẽ bốc mùi còn lũ gián sẽ kêu sột soạt để làm chủ nhà phải khổ sở.

Trong tuần cuối cùng của tháng 9, Grossman có mặt trong cuộc thẩm vấn có vẻ rất dớ dẩn và khôi hài với 1 lính lái mô tô người Áo. Viên sĩ quan quân báo đã bỏ lơ lời khoác lác của tên tù binh là có hàng trăm xe tăng Đức tại khu vực này. Chỉ sau này Grossman mới biết rằng chúng có lẽ là 1 phần của Cụm Thiết giáp 2 do Guderian chỉ huy đang tái bố trí cho cuộc tấn công tiếp theo sau khi vây Kiev. Hoàn toàn do may mắn, trong vài tuần tiếp theo Grossman và Troyanovsky đã nhiều lần đi ngay trước mũi những chiếc xe tăng của Guderian, 1 lần nữa ông lại vừa kịp thoát khỏi bị chúng bắt. Cương vị phóng viên chiến tranh sẽ không thể cứu Grossman nếu ông bị bắt, gần như chắc chắn ông sẽ bị coi là 1 "chính uỷ Do Thái" và bị bắn.

Trong nhóm của Ermakov đóng tại làng Pustogorod (*), tại ban chính trị có 1 cô gái Do Thái xinh đẹp, người đã thoát được khỏi vòng vây của bọn Đức, có đôi mắt sáng rực.

Tên lính mô tô phát xít bị thẩm vấn đêm trong ngôi nhà mà ban chính trị đóng. Hắn là 1 người Áo cao to đẹp trai. Mọi người ngắm nhìn chiếc áo khoác da màu ánh thép dài và mềm mại của hắn. Ai cũng sờ thử, lắc lắc gấu áo. Điều đó có nghĩa là: sao trên đời lại có thể có 1 tay chiến binh được mặc thứ áo khoác như này? Phi công lái máy bay chắc cũng chỉ có những chiếc áo khoác da như thế là cùng. Phiên dịch là 1 người Do Thái chỉ vừa đủ chữ nghĩa, anh ta đang nói bằng tiếng Yiddish (**). Tên người Áo cũng lẩm bẩm bằng thứ tiếng của hắn. Cả 2 đều cố đến vã mồ hôi để hiểu nhau nhưng mồ hôi có lẽ chỉ đem đến những kết quả hạn chế trong công việc này. Quá trình thẩm vấn diễn ra rất khó khăn. Tên người Áo loay hoay liên tục, lúc nhìn ra cửa, lúc đấm ngực kể lại rằng hắn đã thấy hàng đàn xe tăng của Guderian trong khu vực này, 1 con số khổng lồ - "500! Ở đây, ở đây, ngay gần các ông." Hắn giơ tay làm điệu bộ về khoảng cách gần đó là đến mức nào.

"Nó nói gì thế?" viên sĩ quan quân báo nôn nóng hỏi. Phiên dịch viên nhún vai 1 cách bối rối. "Hắn thấy 1 số lượng xe tăng lên tới 500 chiếc."

"Ồ, quỷ quái thật. Hắn phải nói tên những địa danh đơn vị hắn đã đi qua từ Đức tới mặt trận," viên sĩ quan quân báo to lớn vừa nói vừa xem bản câu hỏi. Ôi, những người tai to mặt lớn.(***)

Đêm trong căn nhà của các nữ giáo viên, 1 căn hộ của trí tuệ: có những cuốn sách tôi thường đọc làm gợi lên nhiều ký ức. Những cuốn sách tôi đọc thời thơ ấu và cả những vật dụng gắn với thời kỳ đó: gạt tàn làm bằng vỏ sò, giá nến, album, đồng hồ treo tường, 1 cây cọ trồng trong chậu ... Suốt đêm, Kolomeitsev và tôi bất ngờ cảm thấy 1 nỗi lo lắng điên rồ. Chúng tôi bật dậy như thể có lệnh báo động, mặc quần áo chạy ra sân. Chúng tôi lắng nghe trong im lặng thật lâu, phía tây vẫn im ắng. Bọn Đức đang ở cách đây 50km.

Grossman sau đó quay lại qua Sevsk (cách Bryansk 120km về phía nam) để trở lại Orel.

Sevsk. Chúng tôi được cho biết xe bọc thép Đức đã ở đây hôm qua. 2 sĩ quan đi ra, nhìn quanh rồi đi mất. Chỗ này được xem là quá xa chiến tuyến.

Grossman và Troyanovsky vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được mối nguy hiểm. Họ phóng xe về phía bắc tới Orel, tại đó họ dừng lại, chỉ 1 lúc thôi, cư dân địa phương hỏi tin họ.

1 cụ già hỏi: "Các anh rút từ đâu về thế?"

(*) Pustogorod nằm ở vùng Sumy cách Glukhov khoảng 50km về phía bắc - đông bắc.

(**) Yiddish: thứ tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu - Maseo.

(***) Thiết lập con đường chính xác các đơn vị Đức đã đi từ biên giới Soviet là 1 ưu tiên cao trong các cuộc thẩm vấn tù binh của quân Nga. Điều này giúp thiết lập mối liên hệ giữa các đơn vị phát xít với các cuộc thảm sát mà chúng gây ra. Thông tin thu được từ các cuộc thẩm vấn này chiếm phần lớn trong các phiên toà xét xử tướng lĩnh Đức sau chiến tranh.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Bảy, 2009, 04:55:52 pm gửi bởi danngoc » Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #21 vào lúc: 28 Tháng Bảy, 2009, 01:40:56 pm »

SÁU

QUÂN ĐỨC CHIẾM OREL



Vào thời điểm Grossman và Troyanovsky trở lại Orel, tình hình đã trở nên nguy hiểm. Chiến dịch Typhoon của quân Đức nhằm hướng Moscow đã bắt đầu vào ngày 30/9 với việc lực lượng đột kích của Guderian tấn công Phương diện quân Bryansk do tướng Yeremenko chỉ huy. Tập đoàn quân 50 của tướng Petrov mà Grossman vừa mới tới thăm đã bị Tập đoàn quân 2 Đức cắt rời. Bản thân Orel cũng bị Quân đoàn Thiết giáp 24 thuộc lực lượng của Guderian đe doạ.

Lời kể của Grossman bắt đầu từ ngày 2/10 về trận đánh chiếm Orel hơi khác với kiểu tường thuật thông thường. Nó cho biết xe tăng Đức đã ào ạt xông vào thành phố với số lượng đáng ngạc nhiên vào cuối buổi chiều ngày 3/10, chèn qua cả những chiếc xe điện trên phố. Mặc dù các giới chức quân sự vẫn tỏ ra tự tin đến mức đáng kinh ngạc, mô tả của ông đã chỉ ra rằng 1 số lượng lớn thường dân đã nhận thức rõ mối nguy và cố gắng chạy thoát trước khi lực lượng thiết giáp Đức tới.

Orel, lại là Orel. Máy bay vụt qua. Những chiếc xe tải. Người lớn bồng trẻ em trên tay. Những đứa trẻ ngồi trên những gói đồ. Tiếng gầm rú suốt đêm: cả thành phố đang trên đường di chuyển. Chúng tôi lại vào khách sạn cũ, 1 khách sạn tỉnh lẻ bình thường nhưng giờ đây nó có vẻ như 1 toà lâu đài vì nó vẫn giữ được sự bình lặng khi tất cả đang ra đi thế này.

Có 1 tấm bản đồ Châu Âu dành cho học sinh. Chúng tôi lại xem và kinh hoàng vì khoảng cách mà quân ta đã rút. Tôi ra ngoài hành lang tới bên 1 phóng viên ảnh tên là Redkin, tôi đã từng gặp anh ta ở nhiều sở chỉ huy tiền phương, trông anh ta có vẻ kích động: "Bọn Đức đang lao thẳng về phía Orel, chúng có hàng trăm xe tăng. Tôi chỉ vừa kịp thoát dưới làn đạn. Chúng ta phải rời khỏi đây ngay nếu ko sẽ bị chúng bắt sống ở đây." Rồi anh ta kể cho chúng tôi rằng anh ta đang ngồi trong 1 góc yên tĩnh bên cạnh sở chỉ huy để ăn tối thì bất ngờ nghe thấy 1 tiếng động. Mọi người nhìn ra cửa sổ và thấy 1 sĩ quan NKVD đang chạy qua, người anh ta phủ đầy bột mì. Thì ra anh ta đang phóng xe ở cách đó chỉ mấy cây số mà không hề biết mình đã ở gần bọn Đức đến mức nào, cho đến khi bất ngờ 1 chiếc tăng quay tháp pháo và nổ súng vào chiếc xe tải mà anh ta đang dùng để chở những bao bột mì. "Xe tăng ở khắp nơi!" Redkin lao ra xe phóng về Orel, xe tăng Đức cũng tiến theo con đường đó mà chẳng gặp sức chống cự nào. Redkin cho chúng tôi biết thông tin này 1 cách sợ hãi, hơi thở hổn hển.

Tôi vào phòng của 2 viên sĩ quan tôi biết: 1 thiếu tá rậm râu và 1 đại uý phụ trách hành quân. Tôi hỏi họ có biết gì về việc bọn Đức đã chọc thủng chiến tuyến không, họ nhìn lại tôi 1 cách đần độn, đầy vẻ tự tin ngu ngốc. "Điều đó là vô lý," họ nói và lại tiếp tục nhậu.

Cả thành phố nhốn nháo suốt đêm, ô tô chạy ko ngừng. Đến sáng thành phố đã đầy vẻ sợ hãi và thảm hại như thể đang có bệnh dịch. Tiếng kêu khóc và sự hỗn loạn lan cả vào khách sạn. Tôi cố gắng thanh toán tiền phòng, chẳng ai muốn nhận tiền, tôi phải bắt 1 phụ nữ chịu trách nhiệm ở đây cầm 7 rúp, tôi cũng chẳng biết sao mình phải làm thế. Mọi người tay sách nách mang chạy qua phố, 1 số mang theo con nhỏ. Viên thiếu tá "chiến lược gia vĩ đại" và tay đại uý cũng lao qua chỗ tôi, mặt đầy vẻ ngượng ngùng. Chúng tôi tới sở chỉ huy quân sự địa phương nhưng họ không cho vào nếu không có giấy phép. Đám văn thư và sĩ quan cấp thấp cứ trơ ra dù chúng tôi đã nói giấy phép chỉ có thể được phát sau 10h sáng. Chúng tôi phải chờ thêm 1 tiếng đồng hồ, các vị chỉ huy sẽ không tỏ ra nao núng đến trước 11h. Ôi, tôi biết quá rõ được những kẻ mặt trơ trán bóng tưởng như không gì lay chuyển nổi này, chúng chỉ là sản phẩm của sự ngu dốt và chúng có thể ngay lập tức chuyển sang sợ hãi và hoảng loạn đến điên cuồng. Tôi đã thấy tất cả những chuyện đó trước đây - ở Gomel, Bezhitsk, Shchors, Mena, Chernigov, Glukhov.

Chúng tôi chặn 1 đại tá quen lại: "Có thể tới sở chỉ huy Phương diện quân bằng đường cao tốc Bryansk ko?"

"Có thể," ông ta nói, "nhưng gần như chắc chắn xe tăng Đức đã tới chỗ đó rồi."

Sau đó chúng tôi tới banya (nhà tắm hơi) rồi phóng ra đường cao tốc Bryansk. Không bao giờ nói tới chết chóc! 1 nữ bác sĩ quân y người gốc Georgian cùng đi. Cô cũng phải tới hậu cứ sở chỉ huy Phương diện quân. Cô hát những bài tình ca suốt dọc đường bằng 1 giọng cực kỳ giả tạo. Cô ta vừa rời khỏi khu vực hậu cứ và chưa hề có chút ý niệm gì về mối nguy hiểm mà chúng tôi đang lao đầu vào. Tất cả chúng tôi, những thính giả của cô, suốt thời gian đó luôn nhìn kỹ phía trái, chú ý mọi chuyển động. Con đường trống, chẳng có cỗ xe nào, người đi bộ cũng không có, không có xe ngựa luôn, mọi thứ như đã chết! 1 không khí đáng sợ bao trùm vì con đường hoàn toàn trống không, đơn vị cuối cùng của quân ta đã rút và đơn vị địch đầu tiên có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Con đường trống không này giờ đây giống như 1 vùng cấm no-man-land nằm giữa 2 chiến tuyến.

Chúng tôi tới được rừng Bryansk an toàn, nơi đây gần như là nhà của chúng tôi. Xe tăng Đức tiến theo cùng con đường cao tốc chúng tôi vừa đi chỉ 2h sau đó. Bọn Đức tiến vào Orel vào 6h tối theo đường Kromy (từ hướng nam). Có lẽ chúng cũng tắm trong cùng banya đã hun nóng chúng tôi lúc sáng.

Trong căn nhà izba của chúng tôi đêm đó, tôi bất thần nhớ tới cuộc thẩm vấn tên người Áo mặc chiếc áo khoác da đắt tiền dưới ánh sáng đèn. Đây chính là hàng đống tăng mà hắn đã nhắc tới!

Vào đêm 3/10/1941 đó, Grossman vẫn chưa biết rằng 1 mũi thiết giáp của Guderian đã đánh bọc hậu cắt rời Phương diện quân Bryansk của tướng Yeremenko, vì vậy nhóm của ông trong rừng còn lâu mới an toàn. Trong vòng 2 ngày Phương diện quân Bryansk hầu như bị tiêu diệt. Yeremenko chờ gần suốt đêm 5/10 cho 1 cú phôn từ Stalin cho phép "vận động phòng thủ" - cách nói khác của rút lui. Và đến sáng sớm ngày 6/10 sở chỉ huy của ông đã nhận ra rằng mối đe doạ đã quá lớn, quân Đức đã gần như chặn được con đường thoát cuối cùng.

Chính uỷ ban tham mưu gọi chúng tôi đến bảo: "Đúng 4h sáng, ko chậm 1 phút, các anh phải đi khỏi đây theo đường kia." Ông ta không buồn cho chúng tôi lời giải thích nào, nhưng dù sao điều đó cũng chẳng cần thiết. Mọi thứ đã rõ ràng, đặc biệt là sau khi chúng tôi xem bản đồ. Sở chỉ huy quân ta đã lọt vào trong 1 cái túi. Quân Đức tiến từ bên phải tới Sukhinichi và từ bên trái tới Bolkhov từ Orel trong khi chúng tôi vẫn còn ngồi trong 1 khu rừng gần Bryansk. Chúng tôi quay về nhà và bắt đầu đóng gói đồ đạc: những tấm đệm, ghế, đèn, túi. Tay Petlyura bần tiện thậm chí còn cố mang theo 1 đống quả nam việt quất (cranbery) giấu trên gác mái. Chúng tôi chất tất cả mọi thứ lên chiếc xe tải mà tướng Yeremenko dành cho và ra đi vào đúng 4h dưới bầu trời quang đãng đầy sao và cái lạnh của mùa thu. Chúng tôi đang ở trong 1 cuộc đua, hoặc sẽ thoát khỏi cái túi trước khi nó khép miệng, hoặc bị bọn Đức nhét vào trong đó.

Tập đoàn quân 50 mà Grossman tới thăm ngay trước đó đã cố gắng đánh mở đường ra khỏi rừng Bryansk. Chính uỷ cấp lữ đoàn Shlyapin cũng giống như tướng Petrov đều lọt vào vòng vây. Xác Petrov được tìm thấy trong 1 hốc cây gẫy nằm sâu trong rừng gần Belev trong tình trạng thối rữa. Cái chết của Shlyapin đến nay vẫn còn chưa rõ ràng, ko nghi ngờ gì nữa, điều đó giải thích tại sao Grossman muốn đưa ông vào tác phẩm "Nhân dân bất diệt". Ngày 4/10, Grossman và các đồng sự khi thấy cả nhóm đang ở 1 mình tại 1 nơi rất xa mới xác định được là đã thoát.

Tôi nghĩ mình đang thấy cảnh rút chạy, nhưng tôi chưa từng thấy điều gì giống những điều tôi đang thấy, thậm chí chưa từng tưởng tượng ra chuyện gì giống thế này. 1 cuộc thiên di! 1 cuộc thiên di như trong kinh thánh! Xe chạy thành 8 làn, hàng tá xe tải đồng loạt gầm rú 1 cách hung dữ để cố làm quay bánh xe trong những vũng bùn. Những bầy cừu và bò khổng lồ được lùa qua cánh đồng. Chúng đi theo những cỗ xe ngựa kéo, có hàng ngàn cỗ xe như vậy phủ đầy quần áo vải vóc nhiều màu, đồ gỗ, đồ hộp. Trên đó là những người đang rời bỏ Ukraina. Cũng có cả những đám đông người đi bộ mang theo túi, hòm xiểng, vali.

Đó không phải 1 con suối mà là cả 1 dòng sông đang chầm chậm đổ ra biển, 1 dòng chảy rộng hàng trăm mét. Những đứa trẻ thò đầu ra khỏi những tấm bạt phủ xe ngắm nhìn những bộ râu của những cụ già Do Thái, khăn trùm của những phụ nữ nông dân, mũ của đàn ông Ukraina và mái tóc đen của những cô gái Do Thái. Ánh mắt họ mới câm lặng làm sao, buồn mênh mang làm sao, những ánh mắt như cảm nhận được số phận đầy tai ương!

Trời tối dần, mặt trời lặn sau những tầng mây xanh, đen và xám. Những tia sáng mở rộng ra, kéo dài từ trên trời xuống đất như bức hoạ của Doré mô tả cảnh tượng khủng khiếp trong kinh thánh khi bầu trời tấn công mặt đất. Sự di chuyển của những cụ già, những phụ nữ bồng con trên tay, những đàn cừu và những chiến binh trong ánh mặt trời vàng trông thật tráng lệ và bi kịch. Có những khoảnh khắc tôi cảm thấy những hình ảnh đó thật sinh động như thời gian quay trở lại kỷ nguyên của những thảm kịch trong kinh thánh.

Ai nấy đều chú ý quan sát bầu trời, không phải vì họ đang chờ đợi Messiah (*) mà là đang canh chừng những máy bay ném bom Đức. Bất đồ có tiếng thét: "Chúng đấy! Chúng đang tới, chúng hướng thẳng về phía chúng ta!"

Hàng tá máy bay lướt trên bầu trời 1 cách chậm rãi theo từng tốp tạo thành hình tam giác. Chúng đang tiến về phía chúng tôi. Hàng tá, rồi hàng trăm người leo ra khỏi thùng xe tải, nhảy khỏi cabin chạy vào rừng. Ai nấy đều bị lây nỗi sợ hãi, mọi người bỏ chạy thành từng đám ngày 1 lớn hơn. Sau rốt họ nghe thấy tiếng la hét của 1 phụ nữ: "Lũ nhát chết, lũ nhát chết, chúng chỉ bay qua thôi mà!" Thật là lộn xộn.

(*)Messiah: Người được lựa chọn hay Đấng tiên tri. Theo truyền thuyết Do Thái, Messiah được coi là vua tương lai của Do Thái, người sẽ dẫn dắt dân Do Thái lập ra nhà nước Israel và là tín sứ đưa họ đến với Kỷ nguyên Messianic - Maseo.
Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #22 vào lúc: 28 Tháng Bảy, 2009, 01:44:58 pm »

Nghỉ đêm ở Komarichi. Vài sĩ quan tham mưu đã tới đó từ trước, 1 viên đại tá khuyên chúng tôi đừng đi ngủ mà hãy tới thăm ông ta bất cứ lúc nào. Bản thân ông ta hoàn toàn không biết gì, không có phương tiện liên lạc nào, vậy đến chỗ ông ta thì chúng tôi có được tin tức gì? Troyanovsky nói anh ta sẽ lo vụ đến thăm viên đại tá nhưng bất ngờ anh ta biến mất, tất cả chúng tôi đều điên tiết vì điều đó nhưng sau đó bắt đầu lo: ông mãnh này đã biến mất không dấu vết. Lysov và tôi đành đi gặp viên đại tá và trong những lúc tạm nghỉ chú ý nhìn qua cửa sổ tìm kiếm, tưởng tượng ra hàng tá giả thuyết về sự biến mất của Troyanovsky. Tôi đi ra sân và bất thần nghe thấy những tiếng động tắc nghẹt phát ra từ chiếc Emka của chúng tôi. Tôi mở cửa, chàng trai mất tích đang ở đó vui vẻ cùng cô cháu gái bà chủ nhà. Cả tôi và hắn đều bối rối. Tôi lôi Troyanovsky ra khỏi xe đưa vào nhà, tại đó tất cả chúng tôi tổng sỉ vả anh ta. "Anh có biết tất cả chúng ta đang ở hoàn cảnh nào ko, đồ trẻ người non dạ, quân trơ trẽn!"

Vâng, hắn hiểu mọi thứ và đồng ý với mọi điều, hắn rất xin lỗi. Tuy vậy mặt hắn đầy vẻ sung sướng và thoả mãn, hắn lại còn ngáp và vươn vai nữa chứ. Điều đó đương nhiên làm chúng tôi tức điên lên. Chúng tôi chẳng có dù chỉ 1 nửa vụ vui vẻ của hắn. Cô cháu gái quay vào izba. Ồ, vẻ mặt cô ta thật bình thản và cam chịu. 1 khuôn mặt có thể vẽ thành bức tranh mang tựa đề "Vô tội", "Tinh khiết" hay "Thanh xuân". Thật là lộn ruột. Đến rạng đông chúng tôi lại ra đi.

Cuộc đua lại tiếp diễn: ai nhanh hơn, bọn Đức hay chúng tôi? Chúng tôi cho các nhân viên y tế ở bệnh viện địa phương đi nhờ xe tải. Các bác sĩ không quen đi bộ, họ đã hoàn toàn kiệt sức. Chúng tôi chở họ tới Belev, viên bác sĩ già nhất cám ơn chúng tôi thống thiết bằng những mỹ từ như thế này: "Các bạn đã cứu mạng chúng tôi." 1 cụ già cao quý, mấy cô "bác sĩ" thậm chí còn ko thèm chào từ biệt chúng tôi. Họ lấy đồ đạc rồi vội vàng chạy ra ga.

Belev, với 1 con dốc dẫn vào thị trấn, lầy lội kinh khủng, những con phố hẹp và không hẹp lắm ko thể chứa nổi những đám người đổ tới từ những con đường làng. Vô số lời đồn đại điên rồ loan truyền, chúng đều lố bịch và hoàn toàn do sự sợ hãi sinh ra. Bất ngờ, 1 cơn bão đạn điên cuồng nổ ra. Thì ra ai đó đã bật đèn đường, thế là lính tráng và sĩ quan nổ súng vào những bóng đèn đó để tắt chúng đi. Giá mà họ cũng bắn như vậy vào bọn Đức. Họ chẳng cần biết việc nổ súng bừa bãi đó gây kinh hoàng ở khắp nơi, mọi người đều nghĩ bọn Đức đã tấn công đến đây. Còn có thể là điều gì khác nữa chứ?
Chúng tôi ngủ trong 1 căn phòng tồi tàn đến mức quái dị. Thật đáng sợ, cảnh tồi tàn đen đủi là thứ duy nhất ở thị trấn này, khu ổ chuột này. Bà chủ nhà, 1 con voi răng mấu thực sự với giọng nói khàn đặc, bốp chát, tục tĩu, rít lên với trẻ con và mọi thứ. Tôi đã nghĩ - tất cả chúng tôi đều nghĩ thế - bà ta thật cặn bã, đúng là quân vô lại, nhưng sau đó thấy rằng bà ta cũng tốt, rộng rãi, chu đáo. Khi chuẩn bị cái giường giẻ rách bên cửa cho chúng tôi bà ta mới lo lắng làm sao, và bữa ăn mà bà ta thết đãi chúng tôi nữa chứ!

Đến đêm, trong bóng tối tôi nghe thấy tiếng ai đó thổn thức: "Ai thế?" Bà chủ nhà trả lời bằng giọng thì thào khàn khàn: "Là tôi. Tôi có 7 đứa con. Tôi đang khóc cho chúng nó." Sự nghèo nàn ở nơi thành thị này về mặt nào đó còn tệ hơn kiểu nghèo ở nông thôn. Nó sâu sắc hơn và đen tối hơn, sự thiếu thốn vây chặt thậm chí cả trong không khí và ánh sáng.

Trong 1 izba, có 1 tờ báo từ trước chiến tranh dán trên tường thay cho giấy dán tường. Chúng tôi xem nó và nói: "Nhìn này, tất cả đều nói về thời bình." Hôm sau chúng tôi thấy 1 ngôi nhà khác dán tường bằng báo thời chiến, nếu ngôi nhà sống sót được qua cuộc chiến này, 1 ngày nào đó người ta sẽ nói: "Xem này, 1 tờ báo thời chiến!"

Chúng tôi qua đêm gần Belev, trong ngôi nhà của 1 cô giáo trẻ. Cô ta rất đẹp và rất ngốc, đúng là 1 con cừu non. 1 cô bạn gái của cô cũng nghỉ đêm ở đó. Cô ta cũng rất trẻ nhưng không xinh lắm. Các cô gái thì thào suốt đêm, tranh cãi nhau nhiệt tình. Sáng ra chúng tôi được biết cô giáo đang chuẩn bị bỏ nhà sơ tán về phía đông, trong khi đó cô bạn lại quyết định đi về phía tây để gặp người họ hàng đang sống ở bên kia Belev. Điều đó có nghĩa là sang vùng địch tạm chiếm.

Cô giáo của chúng tôi xin đi nhờ, chúng tôi đồng ý. Tôi gọi chiếc xe tải 1 tấn rưỡi của mình là Chiếc Thuyền Nô Ê. Nó đã từng cứu hàng tá người khỏi cơn lũ đang tràn tới từ phía tây. Mắt 2 cô gái đỏ hoe vì khóc suốt đêm qua. Trong những ngày đó ai cũng khóc suốt đêm và cam chịu, dửng dưng, nhẫn nại vào ban ngày. Chúng tôi gói ghém đồ đạc, và cô chủ nhà trẻ trung của chúng tôi tới bên chiếc xe tải với 1 cái túi bé xíu. Cô không muốn mang đi những gương, những rèm, những lọ nước hoa, thậm chí không mang theo cả váy áo. "Tôi chẳng cần gì hết," cô nói. Tôi nghĩ tôi đã đánh giá thấp tinh thần và suy nghĩ của cô gái 18 tuổi này.

Chúng tôi cố thuyết phục cô bạn của cô đi cùng. Khuôn mặt cô ta lạnh băng, môi mím chặt, cô ta chẳng nói lời nào và cũng chẳng nhìn mặt chúng tôi. 2 cô gái tạm biệt nhau 1 cách lạnh lùng, thậm chí còn không vẫy tay với nhau.

"Nổ máy, đi thôi!" Vâng, những vấn đề xảy ra đã làm cho các cô gái 18 tuổi trở nên quyết tâm, không để ý đến những thứ lặt vặt nữa. Vào phút cuối, chúng tôi trở vào căn phòng nhỏ xinh xắn của cô gái, lúc này cô ta đã ngồi sẵn trong xe tải. Giờ chẳng còn ai trong phòng. Chúng tôi đánh bóng giầy bằng kem thoa mặt và cổ áo trắng. Tôi nghĩ chúng tôi làm điều đó để làm rõ với bản thân rằng cuộc sống đã và đang bị huỷ hoại.
Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #23 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 10:50:06 am »

BẢY

CUỘC RÚT LUI TRƯỚC MOSCOW




Stalin không có phản ứng gì trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của Phương diện quân Bryansk cho tới tận ngày 5/10. Hôm đó các máy bay tiêm kích tuần tiễu của không quân Hồng quân đã phát hiện 1 hàng thiết giáp Đức dài tới 12 mile tiến về Yukhno. Tổng hành dinh (Stavka) tức Bộ Tổng tham mưu Hồng quân tại Moscow, từ chối chấp nhận bản báo cáo này và các thông tin chứng thực gián tiếp khác. Beria thậm chí còn định cho bắt viên sĩ quan không quân dính líu đến việc này và kết tội anh ta phao tin chủ bại, thế nhưng Stalin đã bừng tỉnh trước mối đe doạ với Thủ đô.

Chỉ có 1 thứ duy nhất có thể làm chậm bước tiến của bọn Đức hướng về Moscow trong giai đoạn này, đó là rasputitsa, thời kỳ lầy lội trước mùa đông đang diễn ra vào thời gian này. Sau 1 trận tuyết rơi và băng giá ngắn vào ngày 6/10, tuyết đã tan nhanh vào sáng hôm sau. Grossman mô tả lại việc đó.


Tôi không nghĩ đã từng có ai thấy cảnh bùn lầy đến mức này. Trời mưa, tuyết rơi, mưa đá, tất cả biến thành 1 đầm lầy lõng bõng nước với bùn nhão đen sì được nhào trộn bởi hàng nghìn hàng vạn chiếc ủng, bánh xe, bánh xích. Và mọi người lại 1 lần nữa cảm thấy sung sướng. Bọn Đức sẽ phải sa lầy trong mùa thu địa ngục của chúng ta, cả trên trời lẫn dưới đất. Bằng bất kỳ giá nào, chúng tôi cũng phải thoát khỏi cái túi, ngày mai cúng tôi sẽ tới đường cao tốc Tula.

Ngôi làng gần Tula. Những căn nhà gạch. Đêm. Tuyết và mưa. Mọi người run cầm cập, đặc biệt là những người đang ngồi trên Chiếc Thuyền Nô Ê: Chính uỷ cấp trung đoàn Konstantinov, 1 thầy giáo, và Baru, phóng viên tờ Stalinsky Sokol (*). Lysov, Troyanovsky và tôi được ấm hơn: chúng tôi đang ngồi trong chiếc Emka. Những chiếc xe đỗ giữa 1 con đường làng tối thui. Petlyura, 1 nhà ảo thuật thực sự vì có thể kiếm được sữa và táo ngay dưới chiến hào, biến mất trong bóng đêm. Nhưng đây là lần đầu tiên anh ta thất bại. Chúng tôi bước vào 1 izba tối và lạnh, như 1 hầm mộ. Trong izba, 1 bà già 70 tuổi đang ngồi trong bóng tối và cái lạnh, bà đang hát. Bà vui mừng và thiết tha chào đón chúng tôi như thể đang còn trẻ, không hề càu nhàu hay than vãn mặc dù nhìn bề ngoài bà có đủ mọi lý do để phàn nàn về số phận của mình.

Con gái bà, 1 công nhân, đã đưa bà tới làng này để sống cùng con trai bà, bản thân cô ta thì đã quay về Moscow. Người con trai này là chủ tịch nông trang tập thể ở đây, không thể chấp nhận để bà sống cùng nhà vì vợ ông ta không chịu. Bà vợ này cũng cấm chồng mình giúp đỡ mẹ, vì vậy bà già phải sống nhờ lòng tốt của mọi người. Thỉnh thoảng anh con trai bí mật mang cho bà 1 ít kê hoặc khoai tây. Người con trai út, Vanya, làm việc trong 1 nhà máy ở Tula rồi đi lính tình nguyện. Anh ta đang chiến đấu gần Smolensk nhưng bà không nhận được 1 bức thư nào của anh đã từ 1 tháng nay. Vanya là đứa con được bà thương yêu nhất.

Bà kể cho chúng tôi toàn bộ câu chuyện bằng giọng chân thành và bình thản, không hề có vẻ chua xót, oán thán, đau khổ hay trách móc. Với lòng rộng lượng như 1 bà hoàng, bà cho đám người đói rét chúng tôi tất cả: số củi cuối cùng (chừng hơn chục thanh) đủ cho bà dùng trong 1 tuần, 1 vốc muối, bà cho đi hết không giữ lại 1 chút lúa mì nào, nửa xô khoai tây. Bà chỉ giữ lại hơn chục củ để trong cái túi bện bằng rơm đặt bên gối và cái chăn rách. Bà có 1 cái đèn dầu, khi người lái xe của chúng tôi định rót vào đó chút nhiên liệu bà đã không đồng ý: "Các anh sẽ cần số xăng đó cho mình." Và bà mang ra 1 cái chai nhỏ đựng số dầu dự trữ quý giá của mình đổ vào đèn.

Sau khi tiếp đãi chúng tôi bằng tình cảm nống ấm, cho chúng tôi ăn, cho ánh sáng và những cái giường mềm mại, bà quay lại với góc lạnh lẽo trong căn nhà izba của mình. Bà ngồi đó và lại bắt đầu hát.

Tôi tới bên bà nói: "Bà ơi, bà sẽ ngủ ở đây trong bóng tối, cái lạnh, trên tấm phản này sao?" Bà chỉ dùng tay xua tôi đi. "Bà sống 1 mình ở đây thế nào đây? Bà phải ngủ trong tối tăm lạnh lẽo suốt thế àh?"

"Àh ừ, ta ngồi trong bóng tối, hát hay tự kể chuyện cho mình nghe." Bà đun 1 nồi khoai tây, chúng tôi ăn rồi đi ngủ, bà bắt đầu hát cho chúng tôi nghe bằng giọng khàn khàn, giống giọng 1 ông già.

"Ồ, ta đã từng rất khoẻ mạnh, y như 1 con ngựa giống," bà nói với tôi. "Quỷ dữ đã đến gặp ta đêm qua và túm lấy tay ta bằng những móng vuốt của nó. Ta bắt đầu cầu Chúa: "Sáng danh Chúa, kẻ thù của Ngài hãy tan biến đi." Và ta chẳng còn chú ý gì tới Quỷ dữ nữa. Sau đó ta bắt đầu nguyền rủa nó và nó chuồn thẳng. Vanya của ta cũng đến với ta đêm qua, nó ngồi trên ghế nhìn ra cửa sổ. Ta gọi nó: "Vanya, Vanya!" Nhưng nó không trả lời."

(*) Stalinsky Sokol - Con chim ưng của Stalin, tờ báo của ko quân Hồng quân.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Bảy, 2009, 10:53:12 am gửi bởi danngoc » Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #24 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 10:55:31 am »

Nếu chúng ta chiến thắng được cuộc chiến khủng khiếp, tàn bạo này, đó là bởi đất nước ta có những trái tim cao quý như thế, những con người thiện lương như thế, những tâm hồn rộng lượng như thế. Những người mẹ, người vợ cao quý mà mộc mạc đó đang cho đi cả cuộc sống của mình vì đất nước giống như bà cụ Tula này đang rộng rãi trao cho chúng tôi tất cả những gì bà có. Nếu còn những người như vậy trên đất nước ta, chúng ta sẽ chiến thắng.

Sự rộng lượng cao quý của con người cùng khổ này làm tất cả chúng tôi rung động. Sáng ra chúng tôi trao cho bà tất cả đồ tiếp tế chúng tôi có, các bác tài của chúng tôi, trong 1 cơn tốt bụng đến rồ dại, đã đi cướp bóc khắp vùng vô số củi và khoai tây đủ để bà cụ dùng đến tận mùa xuân. "Ôi chao ơi bà lão này," Petlyura nói khi chúng tôi lên đường, vừa nói vừa lắc đầu.

Ngay sau khi tới được tuyến đường Orel - Tula, Grossman tạt qua Yasnaya Polyana, điền trang của Tolstoy, cách Tula khoảng 20km về phía nam. Ông thuyết phục các đồng sự rằng họ nên qua thăm chỗ đó. Khi đến nơi mọi thứ đã thay đổi, có thể người tiếp theo mà cả nhóm viếng thăm sẽ là tướng Guderian, hắn đã quyết định biến điền trang của nhà văn thành sở chỉ huy cho cuộc tấn công vào Moscow.

Yasnaya Polyana. Tôi đề nghị mọi người tạt qua đó. Chiếc Emka rời khỏi con đường cao tốc kinh hoàng và đau khổ, Chiếc Thuyền Nô Ê theo sau. Ai đó có thể nhìn thấy những mái xanh và tường trắng của những ngôi nhà nằm giữa những khu vườn mùa thu vàng óng. Cánh cổng mà Chekhov trong lần đầu tiên tới đây đã chỉ bước tới chỗ này rồi quay về vì lo rằng ông sẽ chỉ được gặp Tolstoy trong vài phút. Ông đã đi bộ trở ra ga và quay về Moscow. Con đường dẫn tới ngôi nhà phủ đầy lá đỏ, da cam và vàng, nó thật là đẹp. Nhưng khung cảnh xung quanh càng đáng yêu bao nhiêu thì mọi người lại càng cảm thấy buồn phiền vì những gì đang xảy ra lúc này bấy nhiêu.

Có 1 vẻ lộn xộn đáng sợ như thể sắp có 1 cuộc ra đi trong ngôi nhà này. Hàng đống hòm xiểng, những bức tường trống hoác, bất đồ tôi có 1 cảm giác mãnh liệt và khủng khiếp rằng chỗ này đã hoá thành Lysye Gory, nơi này lão công tước già cả ốm yếu đang chuẩn bị đi sơ tán (*). Mọi thứ hoàn toàn giống hệt, những sự kiện xảy ra 1 thế kỷ trước và những gì đang xảy ra hôm nay. Và những gì cuốn sách miêu tả về tình trạng sức khoẻ và tính chân thật của lão công tước Bolkonsky giờ có vẻ như đang tiếp tục xảy ra với bản thân vị bá tước già Tolstoy, hiện thực và hư cấu đã hoà làm 1.

(*)Công tước Bolkonsky trong tác phẩm "Chiến tranh và Hoà bình" đã phải rời dinh thự Lysye Gory của ông vì nó nằm trên đường tiến của Đại quân Napoleon.

Gặp Sofya Andreevna (*), bà vẫn bình tĩnh nhưng có vẻ chán nản. Bà nói Bí thư Đảng uỷ địa phương đã hứa giao cho bà vài toa tàu hoả để sơ tán khu bảo tàng nhưng bà không dám chắc lời hứa này còn thực hiện được, giờ bọn Đức đã ở quá gần và đang tiến rất nhanh. Chúng tôi nói chuyện về Moscow và những người bạn đã qua đời, sau đó im lặng suy nghĩ về số phận hẩm hiu của họ. Thế rồi chúng tôi lại thảo luận về đề tài mà mọi người lúc này đều đang nói tới với sự đau đớn, hoang mang và thất vọng: cuộc rút lui.

Mộ của Tolstoy. Máy bay gầm rú trên đầu, những tiếng nổ vang lên nhưng cảnh mùa thu ở đây vẫn bình yên lạ thường. Thật là khó chịu, tôi hiếm khi cảm thấy đau buồn như lúc này.

Tula như đang bị bao phủ bởi 1 bệnh dịch chết người, chúng tôi đã từng thấy thứ bệnh dịch đáng sợ này dày vò Gomel, Chernigov, Glukhov, Orel và Bolkhov. Điều đó thực sự cũng đang xảy ra với Tula? Mọi thứ trở nên hoàn toàn lộn xộn. 1 sĩ quan phát hiện ra tôi trong căng tin quân đội ở Voentorg, anh ta đề nghị tôi tới OBKOM (Tỉnh uỷ - Danngoc). 1 đặc phái viên của Tổng hành dinh (Stavka) đang ở đó, ông ta đang muốn hỏi tôi sở chỉ huy Phương diện quân Bryansk lúc này đang ở đâu vì ông cần gửi 1 số đơn vị tới đó. Những mảnh vụn của các sư đoàn đang đổ về. Họ nói chỉ 1 phần Tập đoàn quân 50 thoát được khỏi vòng vây. Petrov và Shlyapin đang ở đâu? Valya, cô y tá đã chơi domino và bật máy hát cho chúng tôi nghe bài "Chiếc khăn xanh nho nhỏ", đang ở đâu?

Trên các con phố đầy người, họ đi trên vỉa hè lát đá và cả dưới lòng đường, vậy mà cũng vẫn không đủ chỗ. Mọi người mang theo hòm xiểng, xô chậu, vali. Chúng tôi tìm được 1 phòng trong 1 khách sạn, tại đây chúng tôi chạm mặt với tất cả các nhóm phóng viên khác. Krylov, người đã chạy trốn cùng chúng tôi từ Phương diện quân Trung tâm, cũng ở đây. Các phóng viên đều đã tìm được chỗ trú chân trong khách sạn này, 1 số còn lao vào thực hiện vài phi vụ chớp nhoáng.

Chúng tôi tạm biệt người bạn đồng hành, cô giáo mà chúng tôi đã dùng kem bôi mặt và cổ áo của cô để lau ủng. Đêm đó chiếc xe tải của chúng tôi đã thực hiện sứ mệnh Chiếc Thuyến Nô Ê lần cuối: chúng tôi cho gia đình các nhân viên văn phòng báo chí Tula (**) đi nhờ ra ga, đem theo cả tư trang. Petlyura tỏ ra tức giận: "Đáng lẽ ta phải bắt họ trả tiền chứ." Nhưng Seryozha Vasiliev, tài xế Chiếc Thuyền Nô Ê, không chấp nhận điều đó. Anh ta là người cực kỳ tốt, 1 người đồng chí tử tế và khiêm nhường.

Đột nhiên trong đêm có 1 cuộc điện đàm từ Moscow trên đường dây nóng. Có lệnh quay về Moscow. Ai nấy đều vui mừng 1 cách quá đáng đến mức vô lý, suốt đêm không ngủ.

(*) Sofya Andreevna: Cháu gọi Leo Tolstoy bằng ông.

(**) Có lẽ là chi nhánh của tờ Krasnaya Zvezda.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Bảy, 2009, 10:59:55 am gửi bởi danngoc » Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #25 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 11:10:31 am »

Trên con chiến mã Emka, chuyến đi 200km về phía bắc từ Tula đến Thủ đô Soviet có lẽ chỉ mất độ 1 ngày.

Moscow. Các công sự nằm bên vệ đường ngày càng dày đặc, đặc biệt là từ vùng ngoại ô vào đến trong thành phố.

Cả nhóm chúng tôi làm 1 việc xa xỉ là đi cạo râu tại 1 tiệm cắt tóc nằm trên Quảng trường Serpukhovskaya. Những người dân tỏ ra tốt bụng và lịch sự, họ nhường chúng tôi vào trước, hỏi han về chiến sự. Xong xuôi chúng tôi không về nhà mà đến thẳng ban biên tập (của tờ Krasnaya Zvezda).

Tổng biên tập Ortenberg tới gặp chúng tôi, ông chỉ mặt chúng tôi hỏi: "Tại sao các anh rời Sở chỉ huy Phương diện quân Bryansk?"

"Chúng tôi được lệnh rời khỏi đó, và vì thế chúng tôi đi, sau khi tất cả các phóng viên khác đã đi hết."

"Sao các anh không viết gì về cuộc phòng thủ anh hùng ở Orel?"

"Vì chẳng có cuộc phòng thủ nào hết."

"Thôi được rồi, các anh có thể đi. 6h sáng mai các anh - Grossman, Troyanovsky và Lysov - sẽ quay lại mặt trận."

Mọi người đều nói Ortenberg là 1 vị Tổng biên tập tốt, có lẽ thế thật. Nhưng cái con người đến từ 1 thị trấn tỉnh lẻ, thậm chí chưa tốt nghiệp cấp 2 này mới ngạo mạn làm sao trước mặt cấp dưới, y như 1 tên quý tộc La mã. Sau hàng tháng trời ở mặt trận, ông ta thậm chí không thèm hỏi đám thuộc hạ chúng tôi, dù chỉ là xã giao, xem chúng tôi cảm thấy thế nào hay chúng tôi có khoẻ không.

Ortenberg sau đó cũng cảm thấy không phải với cách cư xử của mình. Đây là những gì ông viết về những sự việc xảy ra vào ngày 7/10.

Thông báo buổi sáng và buổi tối của Thông tấn xã đều nói cùng 1 điều như từ đầu tháng tới giờ: chiến sự ác liệt với quân thù diễn ra khắp nơi. Chẳng có gì về tình hình tại các phương diện quân Tây và Bryansk. Orel thì đã thất thủ, tôi biết được điều đó từ Stavka.

Các phóng viên của chúng tôi ở Phương diện quân Bryansk, Pavel Troyanovsky và Vasily Grossman, những người vừa rời khỏi Orel cũng xác nhận điều đó. Tôi đã thấy chiếc Emka của họ - đầy những vết mảnh đạn. Các thành viên ban biên tập tụ họp quanh chiếc xe, họ xem xét nó, lắc đầu và nói thế này: "Hãy xem những gì mà các đồng chí của chúng ta đã phải vượt qua! Họ thật may mắn mới sống sót mà thoát về được."

Sau khi đứng với đám bạn bè bên chiếc Emka, Grossman và Troyanovsky vào trình diện tôi và kể về tình trạng thảm hoạ tại mặt trận. Tôi chăm chú nghe những gì họ nói nhưng không thể nhịn được trước những lời khó nghe. Đương nhiên, tờ báo không thể đăng báo cáo của họ về phòng tuyến của Phương diện quân Bryansk đã bị chọc thủng và việc Orel bị chiếm trước khi có thông tin chính thức. Tuy vậy chúng tôi nghĩ rằng bất kỳ trận đánh nào, thậm chí dù là trận thua thảm hại nhất của quân ta, cũng có những hành động anh hùng hay những kỳ tích, những điều đó cần phải được viết ra!

Tôi nói thẳng với Grossman và Troyanovsky: "Chúng tôi không cần chiếc Emka đầy vết đạn của các anh. Chúng tôi cần nguyên liệu cho những bài báo. Quay lại mặt trận!" Điều đó có lẽ không được công bằng cho lắm. Tôi không muốn bào chữa cho cách cư xử như vậy, thậm chí dù bây giờ tôi biết chắc chắn các phóng viên đặc biệt này đã phải rất dũng cảm mới có thể tiến hành 1 cuộc vượt thoát kỳ diệu khỏi vòng vây quân địch. Khi nhìn vào những khuôn mặt thất thần và lo lắng của họ, những người thực sự can đảm, lẽ ra tôi phải tìm ra vài từ đẹp đẽ hơn mới phải. Nhưng hãy nhớ lại thời gian đó, không ai được tự cho phép mình tỏ ra uỷ mị!

Ngay sau đó Grossman và Troyanovsky sẽ phải tới chỗ Quân đoàn I Bộ binh của Thiếu tướng D. D. Lelyushenko, đơn vị đã cố gắng suốt cả ngày hôm đó để chặn bước tiến của địch gần Mtsensk. Sự lưu ý của tôi giờ là về chiếc Emka đầy vết đạn lúc này bắt đầu lượn vòng trước tiền sảnh toà soạn và tất nhiên là các sĩ quan phóng viên của tôi ngoài mặt trận.

Mặc dù Ortenberg đã ra lệnh quay lại mặt trận ngay sáng sớm ngày mai, Grossman vẫn tranh thủ tạt qua thăm cha đêm đó.

Tôi về nhà 1 lúc thăm cha và Zhenni Genrikhovna (*). Tôi nói với cha về nỗi lo lớn nhất của tôi, nhưng cái này không cần phải viết ra đây. Nỗi lo lắng ấy luôn ở trong tim tôi suốt ngày đêm. Mẹ còn sống không ? không ! Tôi biết, tôi cảm nhận được điều đó.

1 bộ phận Quân đoàn Bộ binh Cận vệ I của Lelyushenko gồm 2 sư đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn tăng đã được không vận tới khu vực Orel theo lệnh trực tiếp từ Stalin để ngăn quân Đức chọc thủng phòng tuyến (**). Mtsensk, nơi những chiếc T34 của Lữ đoàn 4 Xe tăng dưới quyền chỉ huy của Đại tá Katukov mở cuộc phản công, nằm cách Orel 50km về phía đông bắc trên cong đường từ Tula đến Moscow. Cả Lelyushenko và Katukov đều trở thành các vị chỉ huy nổi tiếng của các Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ trong trận công phá Berlin 4 năm sau đó.

Chúng tôi khởi hành vào buổi sáng trên con đường vừa mới đi hôm qua khi trở về Moscow. Mọi người ở ban biên tập đều tỏ ra phẫn nộ, phàn nàn (tất nhiên chỉ dám xì xào) về việc Tổng biên tập đã không cho chúng tôi nghỉ ngơi dù chỉ 1 ngày, và cái chính là nhiệm vụ vội vã này thật ngu xuẩn.

Chúng tôi phóng qua Serpukhov và Tula mà không dừng lại. Thời tiết thật tồi tệ. Chúng tôi nằm trên thùng xe tải trò chuyện với nhau. Đêm xuống nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc chạy đua. Ở Moscow chúng tôi đã được biết tên địa điểm đặt sở chỉ huy quân đoàn xe tăng: Starukhino. Chúng tôi cứ thế phóng và phóng không ngừng nghỉ. Bộ tản nhiệt bắt đầu sôi, vì vậy chúng tôi dừng xe. Con đường hoàn toàn vắng lặng, chúng tôi đã đi hàng chục km mà ko gặp 1 chiếc xe nào.

Bất thần 1 lính Hồng quân bước ra từ sau 1 cây bulô và hỏi bằng giọng khàn khàn: "Các anh đi đâu?"
"Tới Starukhino," chúng tôi trả lời.

"Các anh bị ấm đầu àh?" Thì ra bọn Đức đã ở đó từ hôm qua. "Tôi là lính gác và chỗ này chính là chiến tuyến. Quay lại ngay, trước khi bọn Đức nhìn thấy các anh. Chúng có thể chỉ ở ngay quanh đây thôi." Tất nhiên là chúng tôi quay xe lại. Nếu bộ tản nhiệt không sôi lên chắc sự nghiệp phóng viên của chúng tôi đã kết thúc tại đây.

Chúng tôi đi tìm sở chỉ huy trong bóng tối và bùn lầy ghê sợ. Cuối cùng cũng tìm được, nó nằm trong 1 izba nhỏ, nóng bức và ngột ngạt, mù mịt khói. Sau 14 tiếng đồng hồ ngồi xe chúng tôi lập tức cảm thấy buồn ngủ khi bước vào căn phòng ấm áp, chỉ muốn nằm lăn ra. Nhưng không có thời gian, chúng tôi bắt đầu hỏi các sĩ quan, đọc báo cáo Ctrị, làm tất cả những điều đó trong tình trạng đầu óc mê mụ.

Đến gần sáng, chẳng nghỉ ngơi tí nào, chúng tôi lại trèo lên thùng xe tải quay về Moscow. Thời hạn nộp bài thật tàn nhẫn. Chúng tôi về đến toà soạn vào buổi tối ... Cả nhóm đốt thuốc liên tục để giữ cho mình tỉnh táo, uống trà nữa. Như cánh nhà báo thường nói, chúng tôi đã có 1 câu chuyện, và nộp bài. Tổng biên tập chẳng hề đăng lấy 1 dòng.

Mặc những thất vọng trong cuộc đời làm báo, Grossman không hề giảm nhiệt huyết viết lách, dù đó là tiểu thuyết hay bài báo.

Ở 1 số làng ví dụ như Krasnoye, bọn Đức xây dựng các công sự bê tông bí mật trong các căn nhà. Chúng phá 1 bức tường nhà, đặt 1 khẩu đại bác trong đó và xây lên 1 bức tường bê tông.

Khi tiến vào 1 lùm cây, bọn Đức bắt đầu bằng việc bắn như điên vào đó rồi xông vào hết tốc lực.

Bọn Đức đang nã đạn. Tối tối chúng thường ra rìa 1 lùm cây và bắn bằng tiểu liên. Đại uý Baklan tiến lại gần, cách chúng khoảng 50m, và nằm xuống quan sát. Chúng phát hiện ra anh. Phản ứng của chúng làm anh nghĩ chúng bị điên. Chúng bắt đầu bỏ chạy, vừa chạy vừa bắn loạn xạ. Hàng chục quả rocket rít lên trên bầu trời, pháo bắn loạn xạ không mục tiêu, súng máy khạc đạn, tiểu liên cũng vậy. Bọn Đức khắp vùng đều nổ súng, và Baklan vẫn nằm đó quan sát chúng với vẻ ngạc nhiên.

(*)Zhenni Genrikhovna, người nước Cộng hoà tự trị Đức trên sông Volga, là bà giúp việc của gia đình Grossman, bà trở thành 1 nhân vật với tên thật giữ nguyên trong cuốn "Cuộc đời và Số phận". Bà may mắn không bị NKVD bắt ở Moscow trong những ngày điên loạn tháng 10/1941 dù vẫn nói tiếng Nga bằng giọng Đức nặng. Nhân vật Genrikhovna không có may mắn này.

(**)Quân đoàn Bộ binh Cận vệ 61 được thành lập ngày 27/9 thuộc lực lượng dự bị của Tổng hành dinh. Nó bao gồm Sư 5 và 6 Bộ binh Cận vệ, Lữ đoàn 2 và 4 Xe tăng. Bộ chỉ huy quân đoàn sau này trở thành nòng cốt của Tập đoàn quân 5.
Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #26 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 11:18:04 am »

Có lẽ do gặp phải 1 vài sự gò bó trong việc viết báo, Grossman tỏ ra muốn truyền đạt những suy nghĩ và cảm nhận của ông về cuộc chiến dưới dạng tiểu thuyết. Trong giai đoạn đất nước Soviet đang chiến đấu để sống còn này, tư tưởng của ông rất gần với đường lối của Đảng. Chỉ đến trận Stalingrad 1 năm sau đó, cái nhìn của ông về chế độ cai trị Stalinist mới bắt đầu thay đổi. Những phác thảo kể trên có lẽ đã tạo nên 1 phần ý chính của cuốn "Nhân dân bất diệt", cuốn tiểu thuyết được ông viết và xuất bản vào năm sau:

Tóm tắt truyện ngắn: "Ghi chép của sĩ quan thông tin Egorov." Ý tưởng câu truyện: 1 chàng trai Soviet trẻ trung vui nhộn tham gia cuộc chiến với đầy vẻ thích thú và hiếu kỳ. Trong khói lửa chiến tranh, chứng kiến nỗi thống khổ của con người, bản thân cũng gặp phải những mất mát và đau khổ to lớn, anh trở nên 1 chiến binh lạnh lùng, cứng rắn, lòng đầy căm thù với những kẻ áp bức dân tộc anh. Chủ đề chính của câu truyện là lòng hận thù 1 mất 1 còn. Trong câu truyện này, chúng tôi muốn giới thiệu rộng rãi về cuộc phòng thủ vĩ đại của quân đội và những người chiến sĩ, của các tướng lĩnh, sĩ quan, bính lính, nông dân, công nhân, của những thành phố và làng mạc. Hàm ý bên trong: Tinh thần sắt thép của những con người Soviet, chỉ có 1 số phận cho họ đó là giành thắng lợi, tinh thần đó được tôi luyện trong ngọn lửa của các thành phố và làng mạc bị bọn Đức thiêu cháy.

Egorov chắc chắn là nguyên mẫu cho nhân vật Ignatiev trong cuốn tiểu thuyết sau này, từ 1 anh chàng may mắn vui vẻ trở thành 1 kẻ báo thù.

"Đó là sự thật, đồng chí chính uỷ ạh," anh nói, "khi tôi trở thành 1 con người khác trong cuộc chiến này: chỉ bây giờ tôi mới biết nước Nga thực sự là gì. Thành thật mà nói, mỗi khi đi qua những dòng sông, những cánh rừng bạn đều cảm thấy tiếc thương cho chúng, con tim bạn nhức nhối... Tôi nghĩ có lẽ thực sự nên để cả những cái cây nhỏ này cũng được tiến vào nước Đức?"

Thật khó để xác định chính xác những nơi Grossman đã đi qua trong giai đoạn này. Những chiến sĩ phòng thủ Soviet đã gặp may với thời tiết. Những đợt tuyết giá và tan băng bất chợt làm đường xá trở nên đặc quánh bùn lầy, làm chậm bước tiến của quân đội Đức. Ngày 14/10, Sư đoàn 10 Thiết giáp Đức và Sư SS Đế chế (Das Reich) đã tới được chiến trường cũ Borodino, 120km phía tây Moscow. Cùng lúc đó, Sư 1 Thiết giáp chiếm Kalinin trên sông Volga, phía tây bắc thủ đô, và tiến về phía nam nơi những cỗ xe tăng của Guderian đang bao vây Tula. Ngày 15/10, các đại sứ quán nước ngoài được thông báo chuẩn bị rời Moscow chuyển tới Kuibyshev. Sự sợ hãi bao trùm thủ đô. Grossman cũng như các phóng viên chiến tranh khác tuyệt vọng trong việc tìm ra bất kỳ ví dụ nào cho thấy sự xuống tinh thần của quân Đức để đem lại hy vọng cho người đọc thay vì thất vọng.

Những cuốn sổ ghi chép của Grossman - chỗ này chắc chắn bị mất 1, 2 trang - có ghi lại 1 chút những gì ông biết vào tháng 11, khi Tướng Georgi Khukov bị quân Đức tấn công bầm dập nhưng vẫn chuẩn bị cho 1 cuộc tổng phản công với lực lượng mới tới từ Siberia và Viễn Đông. Stalin cuối cùng cũng tin chắc, 1 phần bởi Richard Sorge - điệp viên Soviet ở Tokyo - nhưng cái chính là nhờ những đoạn mật mã nghe trộm từ đối phương, rằng Nhật Bản đang chuẩn bị tấn công Hải quân Mỹ ở Trân Châu Cảng trên Thái Bình Dương chứ ko phải Liên Xô.

Vào giữa tháng 11, Grossman được cho phép quay về Moscow nhưng ông đã gần phát điên khi biết cha mình đã đi mất 1 ngày trước đó. Vợ ông cùng gia đình nhiều thành viên Hội Nhà văn khác đã được sơ tán tới Chistopol.

Cha thân yêu của con, con đã vô cùng suy sụp khi về đến Moscow mà ko tìm thấy cha ở đó. Con về chỉ 1 ngày sau khi cha đi Kuibyshev. Cha thân yêu, cha con ta sẽ gặp lại nhau, xin hãy nhớ điều đó. Con hy vọng và tin chắc như vậy ... Lyusya đang làm việc chăm chỉ trong 1 nông trang tập thể ở Chistopol. Cô ấy đã trở nên mảnh mai như 1 đường ray tàu hoả. Chắc là con sẽ sớm trở lại mặt trận, có lẽ là Phương diện quân Nam.

Cuối cùng Grossman cũng gặp lại cha ở Kuibyshev vì, theo lời Ilya Ehrenburg, Grossman đã ở cùng ông tại đó 1 thời gian ngắn. "Chúng tôi ở chung 1 thời gian trong 1 căn hộ vốn được phân cho Grossman và Gabrilovich. Chúng tôi nói chuyện suốt đêm và ngồi viết suốt ngày. Vasily Grossman đã ở Kuibyshev 2 tuần khi có lệnh từ Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda cho cậu ta bay tới Phương diện quân Nam. Cậu ta đã kể cho tôi rất nhiều về sự hỗn loạn và các cuộc kháng cự, trong đó 1 số đơn vị đã đứng vững, và cả về mùa màng đã ko được thu hoạch. Cậu ta cũng kể tôi nghe về Yasnaya Polyana. Đó là lúc sau này khi cậu ta bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết "Nhân dân bất diệt", và khi tôi đọc nó sau đó, nhiều trang có vẻ rất quen thuộc với tôi. Cậu ta đã tự nhận ra mình là 1 nhà văn nhờ cuộc chiến. Các cuốn sách viết trước chiến tranh của cậu ấy không gì hơn là sự tìm tòi đề tài và ngôn ngữ. Cậu ta thực sự là 1 người quốc tế chủ nghĩa và thường trách móc tôi vì hay gọi là "bọn Đức" thay vì "bọn Hitler" khi mô tả những hành động tàn ác của quân chiếm đóng." Ehrenburg tin rằng tinh thần đoàn kết quốc tế của Grossman đã làm vị lãnh tụ bài ngoại Stalin ghét ông.

Nhưng hoá ra là Grossman không đến Phương diện quân Nam mà lệch về phía bắc 1 chút, tới Tập đoàn quân 21 thuộc Phương diện quân Tây Nam. Tình hình ở phía nam cũng thay đổi như chong chóng giống khu vực xung quanh Moscow. Ngày 19/11, Cụm Thiết giáp số 1 của Thống chế Von Kleist chọc thủng phòng tuyến quanh Rostov trên sông Đông, cửa ngõ vào Caucasus, nhưng các sư đoàn thiết giáp của hắn ngay sau đó bị đánh bật trở lại bởi các cuộc phản công của Nguyên soái Timoshenko. Tuyết rơi nặng hạt cũng làm quân Đức không củng cố và mở rộng được các tuyến tiếp vận. Hitler rất tức giận vì đây là lần đầu tiên quân Đức rút lui trong cuộc chiến. Các cơ quan thông tấn Soviet đưa tin về chiến thắng này ít đến mức đáng ngạc nhiên, có lẽ vì Stalin ko muốn xác nhận rằng quân Đức đã tiến xa được tới tận Rostov.

Tại Phương diện quân Tây Nam, Grossman được cử đi theo sở chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh Cận vệ do Tướng Russiyanov chỉ huy (*). Trong các cuốn sổ ghi chép của Grossman không còn trang nào nói về chuyến đi này. Dù sao ông cũng đã để lỡ 1 trong những thời khắc kịch tính nhất trong lịch sử Moscow. Phương diện quân Kalinin ở phía bắc thành phố đã mở cuộc phản công ngày 5/12 trong điều kiện tuyết đóng dầy hơn 1m. Mặt đất đóng băng cứng như sắt và quân Đức đã phải đốt lửa dưới những cỗ chiến xa để có thể khởi động được máy xe. Phương diện quân Tây cũng tấn công ngay sau đó. Cuộc rút chạy gấp gáp đã cứu quân đội Đức khỏi thảm hoạ nhưng thủ đô Soviet cũng đã được an toàn.

Mặc dù khó có thể định rõ đâu là thời điểm chính xác, đây cũng là điểm bước ngoặt của cuộc chiến cho thấy quân Đức không còn khả năng chiến thắng thêm nữa. Và Mỹ, nước đã cung cấp cho Hồng quân xe tải và xe jeep khiến họ có thể tiến mỗi lúc 1 nhanh trong năm 1943 và 1944, đã thấy rằng phải tham chiến. Trong tâm trạng sung sướng do thắng lợi của cuộc phản công quanh Moscow, Grossman cảm nhận được tinh thần tươi mới trong hàng ngũ quân đội Soviet.

Grossman quay lại Moscow ngày 17/12 và 3 ngày sau Ortenberg ghi chép về phương pháp làm việc của ông: "Vasily Grossman đã trở về ... Anh ta không nộp bài báo nào cho số tới và chúng tôi cũng chẳng giục anh ta nhanh lên. Chúng tôi biết cách làm việc của anh. Mặc dù anh ta đã tự học cách viết trong bất kỳ điều kiện nào, thậm chí rất tồi tệ, trong hầm với 1 cây đèn dầu, ngoài thực địa, nằm trên giường hoặc trong 1 izba đầy người, nhưng anh ta bao giờ cũng viết chậm rãi, kiên trì truyền tải đầy đủ mọi thứ trong suốt quá trình viết." Cũng trong ngày hôm đó, 20/12, Grossman đã có cơ hội nhận được các thư từ gửi cho ông. Ông viết cho 1 người bạn, M. M. Shkapskaya.

Vẫn còn quá sớm để cho rằng số phận của con trai anh sẽ rất đen tối, chắc là nó vẫn còn sống và khoẻ mạnh. Bức thư thật quá buồn. Còn có rất nhiều người ở đây không thể gặp được gia đình. Tinh thần của tôi hiện rất tốt, tình hình tại mặt trận tốt đẹp, rất tốt đẹp ấy chứ ... Tuy nhiên, rất có thể tôi lại mất khả năng liên lạc với mọi người: tôi đã từng rơi vào 1 trận ko kích của 5 chiếc Junker và vừa kịp thoát khỏi nhà trước khi nó bị phá huỷ bởi bom và súng máy. Đương nhiên, tôi không định viết những chuyện như thế trong thư gửi về Chistopol.

Chistopol là nơi vợ ông, Olga Mikhailovna Guber, đang sống. Ông cũng viết thư cho bà nhưng tất nhiên là bỏ qua không mô tả lần thoát chết trong trận không kích đó.

Có rất nhiều người tốt xung quanh anh, cả Tvardovsky (**) cũng ở đây. Hắn là 1 thằng cha tốt. Em có thể nói với vợ cậu ấy rằng cậu ấy trông cực ổn và mọi thứ với cậu ấy hoàn toàn tốt. Anh vừa ở mặt trận về 3 hôm trước và giờ viết thư cho em. Anh đã thấy rất nhiều thứ. Mọi thứ đã khác hoàn toàn so với dạo mùa hè. Có rất nhiều chiến xa Đức hỏng nằm bên đường và trên thảo nguyên, nhiều cỗ pháo bị bỏ lại, hàng trăm xác lính Đức, mũ sắt và vũ khí của chúng nằm khắp nơi. Quân ta đang tiến lên!

Grossman giống như nhiều người Nga lúc đó trước sự đảo chiều đột ngột của chiến cuộc vào tháng 12 đã tin rằng bọn Đức đang vô cùng khổ sở với bộ quân phục mỏng manh trong mùa đông khắc nghiệt này và đang sụp đổ trước sức mạnh của cuộc tổng tấn công do Stalin khởi xướng sau các cuộc phản công ngay ngoại vi Moscow. Bài viết cuối cùng được xuất bản năm đó của ông trên tờ Krasnaya Zvezda có cái tít chán ngắt là "Đáng nguyền rủa và khinh bỉ".

Khi tiến vào những thủ đô Âu Châu, những tên lính frontoviki phát xít cố trông cho thật ấn tượng. Và cũng những tên lính đó tiến vào ngôi làng Nga này trong 1 buổi sáng. Chúng choàng những chiếc khăn trên đầu, 1 số đội mũ trùm đầu phụ nữ dưới mũ sắt và mặc quần nịt len của đàn bà. Nhiều tên kéo theo những chiếc xe trượt tuyết chất đầy chăn, ga trải giường, túi đựng đồ ăn hay những cái xô cũ.

Bọn Đức đóng trại trong căn izba này mới 6h trước. Giấy tờ, đồ đạc, mũ sắt của chúng vẫn còn trên bàn. Những izba mà chúng đốt vẫn còn âm ỉ cháy. Thân xác chúng bị vỡ nát bởi thép Nga nằm ngổn ngang trên tuyết. Và những người phụ nữ cảm thấy rằng cơn ác mộng những ngày qua cuối cùng cũng đã chấm dứt, bất thần kêu lên nức nở: "Ôi các anh thân mến, cuối cùng thì các anh cũng đã trở lại!"

"Àh, là thế này (1 phụ nữ kể lại). Bọn Đức tới, chúng đập cửa, xông vào nhà và đứng bên bếp lò như lũ chó ốm, răng chúng đánh vào nhau côm cốp, chúng hơ tay lên bếp, tay chúng đỏ au như thịt tươi. "Nhóm lò đi, nhóm lò!" Chúng gào lên trong tiếng răng va lập cập. Rồi, ngay khi bắt đầu thấy ấm hơn, chúng bắt đầu gãi. Nhìn chúng vừa thấy sợ vừa thấy buồn cười. Y như chó, chúng cũng gãi bằng những móng vuốt. Rận bắt đầu nhảy khỏi người chúng vì hơi ấm."

(*)Sư đoàn 1 Bộ binh Cận vệ được thành lập ngày 18/9 từ Sư đoàn 100 Bộ binh, đơn vị đã bị thiệt hại nặng trong cuộc rút lui từ Minsk về Smolensk và sau đó là cuộc phản công ở Elyna, trận đánh thắng lợi đã đem lại cho Sư đoàn danh hiệu Cận vệ. Trung tướng I. N. Russiyanov sau này chỉ huy Quân đoàn Cơ giới Cận vệ 1 trong Chiến dịch Sao Thổ Nhỏ tháng 12/1942, đây là giai đoạn cuối của trận Stalingrad.

(**)Aleksandr Trifonich Tvardovsky (1910 - 1971), nhà thơ và sau này là Tổng biên tập tạp chí văn học Novy Mir, trong ấn bản số 4 năm 1950 và số 70 năm 1958 ông đã cho in các tác phẩm "1 ngày trong cuộc đời Ivan Denisovich" (One Day in the Life of Ivan Denisovich) và "Xóm ung thư" (Cancer Ward) của Solzhenitsyn. Tvardovsky xuất thân từ 1 ngôi làng bình thường gần Smolensk. Cha ông là 1 kulak bị lưu đày dưới thời Stalin. Tuy vậy, Tvardovsky đã giành Giải thưởng Stalin với bài trường ca Strana Muraviya (Đất Muraviya) viết về 1 kulak đã thực hiện 1 chuyến đi viển vông để tìm 1 nơi nào đó trên đất nước Nga mà không có nông trang tập thể nhưng cuối cùng trở về nhà làm trong nông trang tập thể và sống hạnh phúc.
Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 11:24:05 am »

PHẦN HAI
NĂM CỦA STALINGRAD


1942
Ở PHÍA NAM



Tháng 1/1942, Grossman được cử đi theo dõi các chiến dịch ở đông nam Kharkov theo yêu cầu của chính ông. "Vasily Grossman thuyết phục tôi cử anh ta tới Phương diện quân Tây Nam," Ortenberg viết không lâu sau đó. "Đó là nơi anh ta đã từng sống." Grossman, mặc dù không sinh ra và lớn lên tại đó, biết rõ vùng này nhờ thời gian làm kỹ sư mỏ ở Donbass. Trong mọi trường hợp, những bài viết của Grossman trong giai đoạn này cũng làm Ortenberg mở mắt trước năng lực của ông. "Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh!" Ortenberg viết. "Vasily Grossman, khả năng viết lách của anh ta ngày 1 tiến triển ngay trước mắt tôi, thực sự là thế."

Ortenber có lẽ hơi ngạc nhiên vì lời đề nghị của Grossman. Các phóng viên khác đều mong mỏi được ở gần Moscow vì mọi người đều nghĩ các trận đánh then chốt sẽ diễn ra trên hướng trung tâm. Có lẽ là do Grossman bị cuốn hút bởi vùng đất đó và kẻ địch - Tập đoàn quân 6 Đức - nên đã đề nghị như vậy, việc này sẽ tạo ra 1 giai đoạn đặc biệt trong cuộc đời ông: thời kỳ ở Stalingrad.

Khi Thống chế Von Rundstedt yêu cầu OKH (Bộ chỉ huy tối cao Đức) chấp thuận cho rút về phòng tuyến sông Mius, Hitler cảm thấy bị sỉ nhục vì ý tưởng rút lui này. Rundstedt khăng khăng rằng việc này là cần thiết và xin từ chức nếu ko được chấp thuận. Hitler cách chức ông ta luôn và chỉ định Thống chế Von Reichenau, chỉ huy Tập đoàn quân 6 và là người tin tưởng nhiệt thành vào chủ nghĩa Nazi, thay thế. Nhưng rồi Reichenau cũng khăng khăng đòi rút về sông Mius. Hitler đã phải đích thân đến xem xét và kinh ngạc nhận thấy ngay cả Sepp Dietrich, chỉ huy Sư đoàn SS "Quốc trưởng Adolf Hitler", cũng có cùng suy nghĩ đó.

Tập đoàn quân 6 của Reichenau là đơn vị đã chiếm thủ đô Kiev của Ukraina. Cuối tháng 9 năm 1941, quân của hắn đã hỗ trợ việc chuyển 33.771 người Do Thái tới hẻm núi Babi Yar bên ngoài thành phố, tại đó họ bị đơn vị SS Sonderkommando 4a tàn sát 1 cách có hệ thống. Tập đoàn quân 6 cũng đóng giữ Kharkov, và Tập đoàn quân 38, đơn vị mà Grossman được cử theo dõi vào tháng 1/1942, đã phải đối mặt với nó.

Sư trưởng Lazko ở cùng vợ là Sofya Efimovna (*). Đêm trong izba rất ấm. Bukhovsky và tôi bước vào nhà sau khi trải qua 1 đêm dài chịu rét trên đường.

Cả 2 vợ chồng đều cực kỳ mến khách. Có cả 1 dãy đồ ăn tự làm: bánh nhân táo, bánh ngọt, dưa muối. Trong khi chúng tôi rửa sạch tuyết bám trên người, Lazko đã khoác cho chúng tôi những tấm khăn tắm dày màu trắng thêu kiểu Ukraina. Polyak là tham mưu trưởng sư đoàn, trước chiến tranh là quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao, anh ta là 1 người thô lỗ và khinh khỉnh.

Grossman đi xem công tác chuẩn bị tấn công vào làng Zaliman mà địch đang chiếm giữ, ngôi làng nằm cách Statovo khoảng 20km về phía nam. 1 báo cáo kết quả trinh sát ban đầu cho biết bọn Đức đã buộc ngỗng sống vào cọc đóng quanh khu vực như là 1 biện pháp cảnh báo, chúng sẽ quang quác tướng lên khi có tiếng động.

Đêm, bão tuyết mù mịt, xe pháo âm thầm di chuyển. Bất đồ 1 giọng nói khàn khàn cất lên ở chỗ ngã 3 đường: "Này, đường nào là đường dẫn tới Berlin đấy?" Những tiếng cười vang lên khắp nơi.

Chúng tôi có thể quan sát cuộc phản công của bọn Đức từ trên 1 quả đồi nhỏ. Chúng chạy vài bước rồi nằm xuống. 1 bóng người nhỏ thó chạy phía sau, vừa chạy vừa vẫy tay, đó là tên sĩ quan. Bọn Đức tiến thêm vài bước nữa rồi bỗng chạy ngược trở lại, tên sĩ quan lại xuất hiện. 1 lần nữa, bọn Đức lại tiến lên thêm vài bước rồi lại bỏ chạy về phía sau, lần này còn nhanh hơn. Cuộc phản công vậy là đã thất bại.

Giấc mơ đã trở thành sự thật. Ngay khi bọn Đức tập hợp lại: Bang! 1 phát đại bác ngay chóc. Đó là tác phẩm của Morozov, pháo thủ phụ trách chỉnh súng (gun - layer). Đúng lúc bọn Đức tụ lại 1 chỗ và mọi người bắt đầu nghĩ rằng thật tuyệt nếu ai đó nã pháo vào đầu chúng lúc này thì: Bang! 1 phát đại bác! Chúng tôi thậm chí nhảy dựng lên vì sửng sốt.

Hồng quân rất thích lăng xê bất kỳ người lính nào chứng tỏ được khả năng đặc biệt của vũ khí mà anh ta sử dụng, đó có thể là 1 lính bắn tỉa, 1 tay ném lựu đạn vô địch hoặc 1 pháo thủ như Morozov. Họ được tôn vinh giống như những công nhân xuất sắc và thành tích của họ thường được cường điệu quá mức trong các bản báo cáo.

Ngày thứ 2 trận đánh ở Zaliman. Thời tiết rất lạnh, khói bụi mù mịt. Tiếng pháo bắn như quất vào tai. Trung đoàn của Trung tá Elchaninov đang chiến đấu vì Zaliman. Họ kéo pháo thẳng vào làng và giấu chúng sau những ngôi nhà. Khi phát hiện ra 1 ổ súng máy, họ lăn pháo ra, bắn thẳng vào chúng rồi lại kéo vào sau nhà.

Vấn đề cho pháo binh là: trận đánh diễn ra ngay trong làng. Quân 2 bên trộn trấu với nhau. Nhà này là của ta, nhà khác lại là của địch.

Nói chuyện với 1 phụ nữ: "Có 40 tên Đức đang đi - tôi thậm chí nhắm tịt cả mắt, ôi, lạy Chúa - chúng tiến thẳng vào làng, và khi tôi mở mắt ra, 1 số trong chúng đang nằm lăn trên đất, số khác bỏ chạy." (Đó cũng là tác phẩm của pháo thủ Morozov.)

Zaliman đã được chiếm lại như thế nào? Quân ta xông bừa vào làng đúng lúc bọn Đức đang tái tập hợp lại. 1 số đơn vị lạc đường mà chẳng có đơn vị nào khác thay chỗ họ. Thật may là ta chỉ mất có 3 người, bị thương. Nếu quân ta chọn cách khác thì có thể đã thương vong hàng nghìn. Bọn Đức có hàng rào dây thép gai, boongke làm bằng gỗ súc, lô cốt bê tông, hầm hào đầy đủ. Thậm chí có cả những hoả điểm đặt trong trong các boongke làm giống như nhà dân. Đại đội trinh sát đã lập báo cáo chi tiết về các lô cốt. Khi quân ta chiếm xong Zaliman thì thấy các báo cáo này hoàn toàn chính xác, cứ như thể chính tay họ đã xây những lô cốt đó.

Grossman đã tình cờ phát hiện ra "những hoả điểm đặt trong trong các boongke làm giống như nhà dân" vì lính Hồng quân thường tỏ ra hết sức ngạc nhiên trước việc lính Đức thường cố làm các vị trí phòng thủ giống như nhà ở. Điều đó có vẻ phù hợp với những người ở yên 1 chỗ hay thường dân chứ ko phải 1 quân đội tin vào các giá trị thượng võ và chiến thuật Blitzkrieg. Grossman tới gặp chỉ huy và tham mưu trưởng trung đoàn đã tiến hành cuộc tấn công.

Sở chỉ huy trung đoàn là 1 izba đã bị cướp phá trơ trụi, bọn Đức đã lấy khỏi đây mọi thứ, chỉ còn lại mấy cái ghế, giường, ghế đẩu, chổi quét nhà. Đại tá Pesochin là người to béo, trông rất trí thức, nhưng mọi người đều nói ông ta có thể đấm giữa mặt thuộc cấp, ông ta cũng đã từng đánh tổng biên tập tờ báo của sư đoàn.

Chính uỷ sư đoàn Snitser cũng to béo. Ông làm mọi người vui vẻ suốt và luôn ôm người khác rất chặt hay cài lại khuy cổ cho họ. Những câu chuyện cười tuôn ra liên tục. Pháo hạng nặng của bọn Đức đang bắn. "Sao các đồng chí không tiêu diệt chúng?"

"Thật khó để tóm được chúng," vị chính uỷ vui tính trả lời ngay.

"Nhưng cũng còn dễ hơn là tóm được 1 phụ nữ."

(*)Thiếu tướng Grigorii Semenovich Lazko (1903 - ?)
Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 12:53:53 pm »

Grossman ghi chép lại nhiều lời trao đổi bông đùa kiểu lính tráng.

"Anh đang ngày càng béo lên đấy, Thiếu uý Kostyukov."

"Tôi đang thi đua với chỉ huy của tôi, đồng chí Sư trưởng."

"Tôi chắc chắn anh sẽ thắng trong cuộc thi đua đó."

"Không. Trọng lượng của tôi đã ổn định từ năm 1936."

"Mọi người ở trung đoàn anh đều béo."

"Thật quá vinh dự cho bọn Đức nếu chúng ta bị giảm cân vì chúng."

Ăn tối tại sở chỉ huy trung đoàn. "Anh nuôi, cậu đã mất bao lâu để làm ra cái mằn thắn bé tí thế này?"

"Tớ đang bắt đầu làm thì máy bay Đức bổ nhào xuống đầu chúng ta. Lũ rắt rết đó không để tôi hoàn thành chỗ pelmeni này."

1 đại uý chạy vào khi chúng tôi đang ăn tối. "Tôi xin báo cáo, hơn 300 tay tiểu liên địch đã được phát hiện."

Snitser giơ cao ly vodka: "Ha - ha - ha! Chia số đó cho 10 đi."

Nếu Pesochin có thể đấm các chính uỷ thì chính uỷ sư đoàn Serafim Snitser cũng có thể đấm các chính trị viên dưới quyền. Mỗi người trong số họ lại trở thành 1 mắt xích trong chuỗi chỉ huy bằng phương pháp đấm đá. Cả 2 người đều to béo và có những quả đấm to, nung núc thịt. Những báo cáo chống lại cả 2 người được gửi cho Đảng uỷ Quân đội nhưng cũng không ngăn được họ. Họ đã hứa hẹn nhưng không thể kiềm chế được, cứ như bị nghiện. Họ đánh các thuộc cấp của mình bất kỳ lúc nào.

Snitser đã đấm 1 lính tăng hôm qua trong 1 cuộc tranh luận về chiến lợi phẩm.

Grossman mặc dù vỡ mộng trước những huyền thoại Hồng quân kiểu đó nhưng vẫn hầu như không thoát được sự mê tín đối với họ, ông vẫn lạc quan vào tình hình mới đang tiến triển thuận lợi.

Tinh thần của quân ta đã lên cao. Đó là sự thật.

Ông đánh giá sự thay đổi này qua các biện pháp cứng rắn mới được áp dụng trong quân đội Đức (mặc dù chúng không tàn nhẫn bằng các biện pháp do NKVD đi kèm đội hình quân đội Soviet thực hiện).

Diễn văn của Hitler đọc trước binh sĩ: "không lùi 1 bước khỏi những vùng đất đã chiếm được." Mệnh lệnh này đã được đưa ra để buộc các binh sĩ ký vào: "1 bản án tử hình đã được đưa cho chúng tôi, và chúng tôi đã ký vào nó," 1 tù binh Đức nói.

Grossman chắc chắn đã được Trung tá Elchaninov cho phép xem báo cáo của trung đoàn trong những tháng trước đó. Cũng như các ví dụ về chủ nghĩa anh hùng Soviet, Grossman viết cả về các "sự kiện bất thường", đó là cách nói trại đi về những hành động hèn nhát, đào ngũ, phản bội, các hoạt động chống chính quyền Soviet và tất cả các loại tội phạm có thể nhận án tử hình khác. Grossman hoàn toàn bị mê hoặc bởi ngôn ngữ nhà binh và sự phức tạp đến kỳ quái của các cơ quan theo dõi. Các ghi chép của ông vì vậy trở nên quá nguy hiểm, ông ghi lại cả các sự việc về đào ngũ hay bất tuân lệnh. Nếu bất kỳ cuốn sổ ghi chép nào của ông bị Cơ quan "đặc vụ" trực thuộc NKVD - cơ quan phản gián quân đội được tái tổ chức thành lực lượng SMERSh vào mùa xuân năm 1943 - phát hiện ra, ông sẽ gặp phải rắc rối lớn.

8/10/1941. Kravtsov của Đại đội Cối 3 đã liên tục tìm cách dừng lại nghỉ trên đường hành quân mặc dù đã bị chỉ huy cấm, hành động này đã đẩy đại đội của anh ta vào tình thế nguy hiểm.

13/10. Lính Hồng quân Matrosov đã tự để lộ mình khi thi hành nhiệm vụ trinh sát bằng ngựa. Anh ta đã bị giết. 1 người trong nhóm trinh sát đầu hàng địch và chịu đứng dưới tấm biểu ngữ "Ngày tàn của Nhà nước Soviet".

19/10. 1 lính Hồng quân thuộc Đại đội 8 bị bắn vì đã giúp sức cho 1 kẻ đào ngũ chạy sang phía địch(*)

24/10. Chỉ huy phân đội Marchenko không tin vào thắng lợi hiển nhiên của Hồng quân. Anh ta đã nói: "Hitler chắc chắn sẽ đẩy chúng ta trở lại Siberia."

15/11. 1 xạ thủ súng máy tuyên bố: "Thông cáo của đồng chí Stalin đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta." Lính Hồng quân Oska cũng tuyên bố: "Tôi xin nói với đồng chí Stalin rằng tôi sẽ chiến đấu với quân thù cho đến khi nào tim tôi còn đập."

(*)Bất cứ người lính nào không tố cáo hoặc bắn đồng đội định đào ngũ đều bị coi là đồng loã.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Bảy, 2009, 01:46:27 pm gửi bởi danngoc » Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2009, 01:43:06 pm »

Tại các buổi mít tinh do các chính uỷ hay "politruk" điều hành, các binh sĩ kể lại các hành động anh hùng và được động viên để đưa ra các khẩu hiệu và tuyên bố phù hợp với từng người.

Chính uỷ Glyanko xông vào làng Kupchinovka, hô lớn "Ura!"

Người đánh xe ngựa Klochko bị bọn Đức bắt. Chúng đẩy ông tới 1 ngôi nhà nơi quân Soviet đang đóng. Khi bước tới ngưỡng cửa, Klochko hét lên: "Đồng chí hạ sĩ! Bọn Đức!"

"Tôi yêu cầu xử tử 2 tên Đức đã chính tay giết 1 chiến sĩ của Đại đội 9 Bộ binh, thưa đồng chí Gorelov."

Lính Hồng quân Pilyugin nói: "Mùa Đông Tướng quân đã vui lòng giúp chúng ta. Bọn Đức đang hấp hối."

Lính Hồng quân Ryaboshtan tuyên bố: "Tôi sẽ đào 1 con hào ngay bây giờ và ko 1 hoả lực nào của địch có thể đẩy tôi rút lui khỏi đó."

Lính Hồng quân Kozyrev thuộc Đại đội 9 nói: "Thật khó để rời bỏ mảnh đất đã gắn bó với mình. Trừ phi là để tiến lên."

Lính Hồng quân Zhurba nói: "Chết còn hơn là bị bọn phát xít giam cầm."

Mặt khác, 1 số binh sĩ lại tỏ ra ngây thơ đến mức nguy hiểm khi buông ra những lời than phiền. Họ có thể bị chuyển cho NKVD như những kẻ chủ bại hoặc kẻ kích động theo địch.

Lính Hồng quan Manyuk phát biểu: "Chúng tôi không được nghỉ ngơi chút nào dù đã chiến đấu suốt từ ngày này qua ngày khác."

Lính Hồng quân Burak từ chối nhận 1 khẩu tiểu liên: anh ta nói mắt anh ta kém. Đại đội trưởng Kovalenko nguyền rủa anh ta bằng những lời tục tĩu.

Grossman ghi chép nhiều ví dụ về việc lính tráng và thậm chí các sĩ quan bày tỏ niềm tin tôn giáo của họ. Mặc dù vậy cũng không rõ điều binh lính nói rằng Stalin đã thừa nhận Nhà thờ Chính thống giáo trong những giờ khắc đất nước lâm nguy có đúng không.

Lính Hồng quân Golyaperov tuyên bố: "Tôi sẽ chỉ tuyên thệ nếu có 1 cây thánh giá."

NKVD bắt Manzhulya, 1 binh sĩ đã đào ngũ nhưng rồi tự nguyện quay lại.

Mặc dù quay lại 1 cách tự nguyện, Manzhulya vẫn có thể bị coi là phần tử chậm tiến, đỡ hơn là 1 kẻ đào ngũ, và có thể phải đối mặt với đội xử bắn hay bị đưa vào 1 shtrafbat, tiểu đoàn trừng giới, nơi hầu như chắc chết vì đơn vị này bị buộc phải nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất, trong 1 số trường hợp bao gồm cả việc tấn công xuyên qua các bãi mìn và đi đầu các mũi tấn công.

"Bản lĩnh Ctrị của binh sĩ là tốt. Kẻ đào ngũ Toropov đã bị bắn trước mặt đại đội của hắn.

Bác sĩ Dolenko. Chồng cô ta đã trốn theo du kích nhưng cô ta lại theo bọn Đức.

Sự tương phản khắc nghiệt giữa 2 hành động anh hùng và hèn hạ này đặt ra nhiều câu hỏi. Bác sĩ Dolenko, 1 người Ukraina căn cứ theo tên của cô, có lẽ chỉ muốn đoàn tụ với gia đình đang ở sau chiến tuyến Đức, tuy nhiên theo góc nhìn Soviet đó là hành động phản quốc.

Cũng như trong mọi quân đội khác, việc nhận thư nhà là nguồn động viên tinh thần quan trọng.

Dư luận rộng rãi trong binh lính cho rằng các trạm thư chiến trường không thực hiện tốt trách nhiệm của mình.

Trong Hồng quân, hơn bất kỳ 1 quân đội nào khác, tệ uống rượu gây nên những mối đe dọa lớn nhất cho kỷ luật, nó khiến người ta mất khả năng giữ mồm giữ miệng 1 cách nguy hiểm.

Lính Hồng quân Kazakov nói với Trung đội trưởng: "Súng của tao đã nạp đạn từ lâu để chờ đến lúc bắn mày."

Lính Hồng quân Evsteev từ chối đến chốt gác với lý do anh ta đang bị ướt. Ngày 20/10 anh ta rời chốt không phép, bỏ lại các thành viên khác của tổ súng máy. Anh ta tới chỗ Đại đội 7 và nói với các binh sĩ tại đó: "Các chỉ huy của tôi chửi tôi, hút máu tôi đến giọt cuối cùng, và nhồi thức ăn đầy bụng." Khi phải nói chuyện với chính trị viên, anh ta bắt đầu cãi lại, tuyên bố rằng: "Rồi sẽ sớm đến lúc chúng tao xiên mày trên lưỡi lê." Chính trị viên bắn anh ta bằng súng ngắn.

Để biết thêm về các đơn vị trừng giới Hồng quân, danngoc sẽ post hồi ức 1 chỉ huy trừng giới.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Bảy, 2009, 01:48:34 pm gửi bởi danngoc » Logged

Chết vì ghét người!
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM