Tiền, Hậu Lý Nam Đế Và Triệu Việt Vương
Phần 1
Thời nhà Lương đô hộ nước ta (502 - 540) khi Tiêu Tư sang làm Thức sử, y đã thi hành chính sách tận thu vô cùng hà khắc tàn bạo, làm cho dân tình điêu đứng, lòng người oán hận.
Ở huyện Thái Bình (thời ấy đơn vị huyện bằng cả tỉnh bây giờ) có Lý Bí vốn nhà nối đời làm hào trưởng, tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng. Đai Việt sử ký toàn thư ghi rằng tổ tiên của Ngài là người phương Bắc, là dân chạy loạn sang đây từ thời Tây Hán, rồi sinh con đẻ cái, lập nghiệp ở Thái Bình. Nhưng cũng trang ấy, sách ấy lại ghi tiếp "được bảy đời thì thành người Nam".
Câu chuyện truy nguồn gốc lai lịch như vậy kể ra cũng là tỉ mỉ, chu đáo, nhưng thực ra cũng không cần thiết lắm. Đến bảy đời thì dòng máu đã pha trộn, lại tiếng nói, phong tục, tập quán, đến suy nghĩ và cung cách làm ăn sinh sống ... cũng là người bản xứ rồi.
Vả lại, quan quân nhà Lương sang cai trị, thực tế cũng đã coi Ngài như một người bị đô hộ, không khác gì những người bản xứ khác. Câu ghi tiếp của Đại Việt sử ký toàn thư như vậy cũng là xác đáng.
Lý Bí là người có nhiều tài năng và chí khí hơn người. Từ văn chương chữ nghĩa cho đến côn quyền cung kiếm, Ngài đều thông tỏ. Tính tình của Ngài lại quảng bác, độ lượng, nên bạn bè xa gần đều rất mến mộ.
Thấy bọn quan lại nhà Lương chỉ chăm vơ vét bóc lột của nả để mang về nước, còn mọi nỗi khổ nhục thì đ è lên đầu lên cổ dân chúng, và các tầng lớp xã hội khác cũng đều bị chúng khinh rẻ, nên Ngài đã nuôi saÜn ý định liên kết với các anh hùng hào kiệt, để chờ khi thời cơ đến là khởi sự, đánh đuổi chúng đi.
Từ nhiều đời trước, chính sách cai trị của phương Bắc đại đế là cử một viên Thái thú hoặc Thứ sử đứng đầu, cùng với bộ máy cai trị và quân đội, kéo sang. Viên Thứ sử cũng là tổng chỉ huy quân đội này đóng ở thành Long Biên (nay là vùng gần thị xã Bắc Ninh) cắt đặt người của chúng vào các chức vụ ở quận, huyện, châu. Quân đội cũng được chia ra, phần lớn tập trung ở quận và các nơi trọng yếu, số còn lại thì đến các huyện, châu.
Một số người bản xứ cũng được tham gia vào bộ máy cai trị đó, nhưng tất nhiên chỉ là những cấp bậc thấp và tại các địa phương. Ở đây, một mặt là do chúng thiếu người, nhưng mặt khác là chính sách lừa mị, dùng người Việt trị người Việt của kẻ xâm lược.
Cũng như nhiều hào trưởng bản xứ lúc bấy giờ, Lý Bí được nhận một chức quan nhỏ tại địa phương. Nhận thấy Ngài là người tài giỏi, lại có uy tín, nếu để lâu tất không có lợi, nên Thứ sử Tiêu Tư đưa Ngài vào tận châu Cửu Đức (nay huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) làm chức giám quân.
Ở làng của Ngài ở Thái Bình, có môït người bạn từ hồi còn nhỏ là Tinh Thiều rất hay chữ và có chí tiến thủ. Tinh Thiều ngày đ êm miệt mài đ èn sách, những mong có dịp đến Kinh đô nhà Lương thi tài, rồi được hiển đạt như Lý Cầm, Lý Tiến ở tờii nhà Hán. Lý Cầm, Lý Tiến trước kia là người bản xứ, học hành giỏi giang đỗ đạt rồi làm quan bên Tàu, vẫn được dùng làm miếng mồi nhử mà các viên quan cai trị đời sau, dến khi Giao châu, thường tung ra để mê hoặc giới trí thức và quan lại người bản xứ.
Sau khi chữ nghĩa đã "chứa đầy bụng" rồi, theo lời "khích lệ" của huyện lệnh trưởng Thái Bình, và sau đó là của Thứ sử Tiêu Tư, Tinh Thiều liền khăn gói lên đường, đến tận Kinh đô nhà Lương để được tiến cử.
Nào ngờ công lặn lội đường xa,lại mệt mỏi đói khát dã hóa thnàh công cóc! Lại bôï thượng thư lúc bấy giờ là Sái Tôn, khi thử văn tài của Tinh Thiều thì niềm nở, luôn khen miệng "Hay!" hoặc "Khá", nhưng hôm sau, khi gọi đến để bổ nhiệm, trì trở mặt lạnh lùng mà mỉa rằng:
- Ta xem họ Tinh nhà ngươi xưa nay chưa có ai tài giỏi được làm quan cả. Tài của nhà ngươi ở đất Trung nguyên này xe chở đấu đong không thiếu. Nhưng ta thương tình nhà ngươi đường xa công khó đến đây, vậy ta ban cho chức môn lang ở thành Quảng Dương, cầm giấy nàu ngày mai đến đấy mà nhận.
Tinh Thiều nghe mà không tin ở tai mình. Máu dồn lên mặt, hai má đỏ bừng. Bao nhiêu công phu đ èn sách vất vả lặên lội đến đây để làm thằng canh cổng và chạy việc sai vặt ư? Quân lừa phỉnh, lũ đểu giả, sỉ nhục người ta tàn tệ đến thế là cùng!
Ngày hôm sau, Tinh Thiều lẳng lặng ra về, giận đến tím ruột bầm gan và nung nấu ý chí sẽ có ngày "ăn miếng trả miếng" với bọn quan quân đô hộ.
Tinh Thiều về quê, nhưng lúc ấy Lý Bí đã vào châu Cửu Đức. Tìm vào đến tận nơi, Tinh Thiều gặêp lại Lý Bí rồi lại ở đấy cùng Lý Bí bàn tính công việc và chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa.
Dưới danh nghĩa tuyển mộ thêm binh lính - một trong công việc mà Lý Bí vẫn thường làm, hai người đã liên hệ rồi tập hợp được những người võ nghệ cao cường lại cùng chí hướng, về châu lỵ. Khi đã đủ lực lượng, trong đ êm tối, theo lêïnh của Lý Bí, các vị hảo hán tấn công bất ngờ. Viên quan trị nhậm cùng bộ hạ người Lương trở tay không kịp, bị giết ngay tại trâïn.
Thanh thế của nghĩa quân mỗi ngày mỗ lớn. Chỉ trong vòng một tuần, các châu mục xung quanh đã kéo về nhiệt liệt hưởng ứng. Quân số đông tới hàng vạn. Mọi người đồng ý tôn phù Lý Bí lên làm chủ tướng.
Từ Cửu Đức, Lý Bí chia quân đi đánh các ngả. Cả vùng đất phía nam thuộc hai quận Cửu Chân và Nhật Nam (trước kia) về tay nghĩa quân.
Từ phía nam, Lý Bí kéo đại binh ra Bắc. Ở huyện Chu Diên (thuộc vùng Phả Lại ngày nay) có vị tù trưởng là Triệu Túc, vốn cũng là người hào kiệt, lại nghe danh biết tài của Lý Bí từ lâu, đã đem toàn bộ binh trong địa hạt của mình cai quản, đến hợp với quân của Lý Bí để đánh Long Biên (vùng thị xã Bắc Ninh).
Bấy lâu, do chỉ lo vơ vét bóc lột cho thật nhiều, mà đến nỗi để trễ nãi việc binh, nên khi nhận được tin cấp báo quân của Lý Bí dang tiến đến gần, Thứ sử Giao Châu Tiêu Tư sợ quá, chỉ còn cách thu gom của cải cho vào hòm siiểng, rồi tống vội lên xe, chuồn thẳng về Quảng Châu ...
Lại sợ chạy không kịp, Tiêu Tư bèn cho một tốp lính chở một số vàng bạc ngược đường đến gặp Lý Bí, để "xin Ngài tha tội". Đó là mưu mẹo trí trá của Tiêu Tư hòng đánh lạc hướng nghĩa quân, nhưng đó cũng còn là một việc làm vô tiền khoáng hậu của quân xâm lược trên đất Đại Việt.
Lý Bí cùng tướng sĩ vào thành Long Biên, không phí một mũi tên nào. Sự việc đó xảy ra vào năm 541 và đã kết thúc một thời kỳ dài 314 năm (227 - 540) nước ta thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương.
Ở trong thành Long Biên, Lý Bí củng cố lực lượng và ổn định tình hình, bởi Ngài vàmọi người đều hiểu rằng quân Lưong nhất định sẽ kéo sang.
Quả vậy, ngay năm sau vua Lương sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng dẫn quân sang xâm chiếm. Quýnh, Hùng lấy cớ mùa xuân chướng khí đang bốc, xin đợi đến mùa thu, nhưng Thứ sử Quảng Châu và Tiêu Tư cũng đang ở đấy, giục phải lên đường ngay. Bọn Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng đ ành phải thúc lính đi, nhưng mới đến Hợp Phố thì đội quân đã tan rã, phần vì đau ốm, phần vì tâm lý bọn lính đều sợ phải bỏ xác ở Giao Châu, nên trốn biệt. Quýnh và Hùng bị vua Lương bắt uống thuốc độc tự tử.
Bọn thống trị phương Bắc vốn thâm hiểm, từ trước đến đây và từ đây về sau, mỗi khi định đánh ĐaÏi Việt thì bao giờ cũng tìm cách xúi giục Chiêm Thành mang quân ra trợ chiến, để đánh từ hai phía.
Đầu mùa hạ năm 543 quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) vào cướp đất Nhật Nam. Lý Bí sai Lý Phục Nam, Phạm Tu vào đánh tan chúng ở Cửu Đức. Quân Lâm Ấp phải rút chạy về nước.
Đất nước thái bình, ở hai đầu giặc gi4 đều tan. Đặc biệt tin quân Lương chưa đến biên giới đã vỡ, làm cho dân tình trong nước hết sức hào hứng phấn khởi, lòng tự tôn dâng tộc dâng cao.
Thể theo nguyện vọng của mọi người, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế vào đầu mùa xuân năm 544. Ở phương Bắc có Đế, vậy phương Nam ta cũng phải có Đế.
Ngài xưng là Nam Việt Đế với ý thức từ nay nêu gương cho các đời sau, rồi làm lễ đăng quang, đặt niên hiệu là Thiên Đức (nghĩa là Đức của Trời) và đặt tước hiệu cho các quan.
Quốc hiệu (tên nước) Ngài lấy là Vạn Xuân, ý muốn mong cho xã tắc từ nay lưu truyền đếnmuôn thuở. Rồi cho dựng điện Vạn Thọ để làm nơi triều hội. Ngài phong Lý Phục Man làm Thái úy, Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ ...
Sau khi giết Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng, vua Lương lại càng tức giận khi hay ting ở Giao Châu, Lý Bí đã cưng "Đế".
Tháng 6 - 545 vua Lương phong Dương Thiêu làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm Tư mã, mang đại binh đi đánh nước Vạn Xuân. Lại sai Thứ sử Định Châu là Tiêu Bột đem quân trợ chiến, đến hội với quân trợ chiến, đến hội với quân của Thiêu, Tiên cở Giang Tây. Tiêu Bột lo sợ tìm cách thoái thác, Dương Thiêu cũng ngần ngại, chỉ có Trần Bá Tiên muốn lập công, nên hùng hổ dẫn đại binh đi.
Hay tin, Lý Nam Đế dẫn các tướng cùng ba vạn quân đi chặn quân Trần Bá Tiên ở mạn Phả Lại. Thủy binh của Trần Bá Tiên đã được huấn luyện nên rất thiện chiến, khiến cho quân Lý Nam Đế chặn không được, phải rút về sông Cái mạn của sông Tô Lịch (sau là chỗ xây thành Đại La), rồi lại rút vào thành Gia Ninh, cố thủ. Quân Lương đuổi theo vây thành.