Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:35:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Truyền thuyết Việt Nam - sưu tầm  (Đọc 79162 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #10 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:39:55 am »

Đức Thánh Gióng

     Trong tâm thức dân gian của người Việt, Thánh Gióng biểu đạt cho sức mạnh to lớn của sự chiến đấu chống ngoại xâm của cộng đồng để bảo vệ cuộc sống chung.

     Tuy nhiên, trong đời sống mỗi dân tộc, không phải lúc nào cũng có nạn ngoại xâm. Chiến tranh tự vệ chẳng qua chỉ là hành động bất đắc dĩ của dân tộc đó. Còn bình thường, mọi thành viên sẽ phải chăm lo sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mình. Nguy cơ xâm lược, do vậy, chỉ còn ở thế tiềm ẩn. Và  để đối phó với nó, khả năng tự vệ của dân tộc, vì thế, sẽ luôn luôn ở thế tiềm ẩn.

     Đó là những điều có thể rút ra ra hình tượng Thánh Gióng, từ cậu bé lên ba không biết nói cười, bỗng chốc lớn lên thành dũng tướng, cầm roi sắt phi ngựa sắt, phá tan quân giặc.

     Khi giặc hết, Thánh Gióng liền bay thẳng vể trời, không màng đến công danh phú quý, như thế tục sau này ...

     Đấy cũng chính là bài học lịch sử, là mẫu mực đầu tiên, mà ngay từ thời tiền sử, trí tuệ dân tộc đã tổng kết lại cho các thế hệ con cháu về sau.

     Thánh Gióng đã và sống mãi trong tâm thức dân gian, như một vị Thánh bất tử, chính vì những lẽ ấy.
      Nước Văn Lang, kể từ Hùng Vương thứ nhất trị vì, trãi qua năm đời nữa, tuy dần dần dã trở thành một nước giàu mạnh, nhưng với nhà Ân bên Tàu, vẫn phải giữ thế thần phục.

     Đến đời HùngVương thứ sáu, nhà vua vốn là người đại lượng khoan hòa, nhưng cũng là người khẳng khái, cương nghị, bèn thôi không chịu triều cống nữa.

     Vua nhà Ân tức giận, chuẩn bị điều binh xuống xâm lược, bèn cho sứ giả đi dọ thám trước. Sứ giả đến triều đình Văn Lang nói rằng: "Vua của họ muốn đi tuần thú phương Nam. Khi nào tới, vua sở tại phải lo cung đón, tiếp đãi thật chu đáo". Vua Hùng trả lời: "Được, chúng tôi saÜn sàng tiếp đãi".

     Sau khi sứ giả ra về, vua Hùng cho vời tất cả triều thần lại để hội kiến. Ai cũng thấy nguy cơ xâm lược đang bày ra trước mắt rồi. Nhà vua đã có phần lo lắng. Một vị Lạc hầu đứng lên nói:

     - Muôn tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ chớ nên lo phiền. Trước mắt ta nên chiêu nạp binh mã, chuẩn bị thêm khí giới và tích trữ thêm lương thảo, để lo đối phó sau này. Đất nước ta nhỏ nhưng dầu sao, cũng chẳng thiếu nhân tài vật lực ...

     Nhưng một vị Lạc hầu khác lại nói:

     - Muôn tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ hà tất phải lo lắng. Bấy lâu nay ta vẫn chăm lo thờ cúng trời đất, tổ tiên nên nhất định phen này sẽ được phù hộ. Vả lại, từ đời các tiên đế còn truyền, là hễ trong nước có việc lớn, thì lập tức lập đ àn chay, xin Long Vương về cứu giúp cháu chắt kia mà. Vậy xin Bệ hạ bây giờ hãy cho làm ngay việc đó.

     Vua Hùng ngẫm nghĩ trong giây lát, thấy cả lời tâu ấy đều chí lý, nên rất yên tâm, nên bắt tay vào thực hiện.

     Một mặt, nhà vua sai sắm sửa cung tên, giáo mác, thu góp lương thực. Lại sai các lạc hầu, Lạc tướng đ àn tràng để cúng trời và thỉnh cầu Long Vương. Trên đ àn tràng, lễ vật bày biện thật chu đáo, đ èn nến thấp sáng trưng, khói hương trầm nghi ngút. Nhà vua trai giới xong thì cúng cấp đủ trong ba ngày, lại cầu khấn rất thành kính.

     Đến hết ngày thứ ba thì bỗng đâu mây đen kéo đến, sấm sét đ ùng đ ùng , rồi mưa đổ nước xuống như trút. Sau trận mưa, tự nhiên có một cụ già cao lớn, mặt mũi phương phi, râu tóc bạc trắng, đến ngồi nghỉ ở ngã ba đường ngay trước đ àn tràng, cụ già nói cười vui vẻ với mọi người khi có ai qua lại chào hỏi, như thể người ông đối với con cháu trong nhà vậy.

     Có vị Lạc hầu thấy lạ, đem việc ấy tâu lại với vua Hùng. Nhà vua chỉnh đốn trang phục, đích thân tới chỗ già  đang ngồi, rồi thưa bẩm rất lễ phép, và mời cụ lại chỗ dựng đ àn tràng để dùng cơm rượu.

     Nhà vua rót rượu rồi dâng lên cụ già bằng cả hai tay lễ phép như đối với bâïc trưởng thượng. Cụ già  đỡ chén rượu, đưa lên miệng nhấp, cử chỉ cũng thực tự nhiên. Nhà vua tiếp thức ăn rồi sới cơm mời cụ già thảy thảy đều rất mực cung kính, lễ độ.

     Sau khi dùng cơm, nhà vua mời cụ già lại bàn xơi nước rồi từ tốn thưa gởi:

     - Bẩm cụ. Nước nhà  đang sắp có giặc tràn sang. Bản triều cũng đã lo lắng tìm cách đối phó, nhưng cũng chưa dám chắc về sau thành bại thế nào. Chẳng hay cụ từ xa tới, có điều cao minh xin cụ chỉ bảo dùm cho.

     Cụ già vuốt râu mỉm cười:

     - Đa tạ nhà vua đã có thịnh tình tiếp đãi. Ba năm nữa giặc Bắc mới kép sang đây, nhưng khá khen cho nhà vua đã kịp thời lo liệu. Nay ở xứ Đông, Ngọc Hoàng thượng đế đã phái một thiên tướng xuống trần. Ba năm nữa, nhà vua sẽ cho sứ giả đến đón về để cầm quân chống giặc, khi ấy thiên tướng yêu cầu điều gì, phải lập tức có đầy đủ thì giặc mới tan. Còn bây giờ, những viêïc nhà vua và các quần thần đang làm đều là cần thiết và phải làm đến nơi đến chốn. Nhà vua nên nhớ mình là con rồng cháu tiên, làm điều gì cũng phải nêu gương cho mọi người. Phải hết lòng yêu quý, chăm sóc muôn dân như thể đối với người ruột thịt. Làm được như vậy, thì không giặc dã nào có thể xâm phạm được. Và  đất nước sẽ muôn thuở thái bình.

     Nói đoạn, cụ già phất tay rồi vụt bay lên trời. Vua Hùng lập tức quỳ xuống, vái theo, thực là cung kính.

     Bấy giờ ở làng Gióng, thuộc xứ Đông, về sau cải là làng Phù Đổng thuộc huyện Vũ Ninh, Kinh Bắc (nay là Võ Giàng, Hà Bắc) có ông bà nhà khá giả nhưng đứng tuổi rồi mà vẫn chưa có con. Một hôm, sau đ êm giông bão, bà đi thăm đồng, thấy một vết chân khổng lồ, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Từ đấy, bà có mang, đến mười bốn tháng sau mới sinh ra môït chú bé bụ bẫm, kháu khỉnh. Hai ông bà sung sướng lắm. Sau tuần cử, ông chặt tre đan một chiếc nôi thật đẹp, rồi lót quần áo, đặt chú bé vào. Suốt ngày hai ông bà thay nhau đung đưa chiếc nôi, đung đưa chú bé. Chiếc nôi được treo bằng gióng, làm bằng tre. Cả đoạn cây gác ngang sà nhà  để đặt Gióng vào, cũng là một đoạn tre.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:57:49 am gửi bởi dongadoan » Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #11 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:42:16 am »

Truyền thuyết đức Thánh Gióng (tiếp)

     Được chăm sóc, nâng niu chiều chuộng, chú bé lớn dần và phỏng phao, đẹp đẽ, như mọi đứa bé được chăm sóc, nâng niu chiều chuộng khác. Ấy thế nhưng lạ thay, đã ba năm mà chú bé vẫn chưa biết cười, lại không biết cả lẫy, bò. Nói chi đến ngồi và  đi đứng, chú bé cũng không biết nốt.

     Chú chỉ suốt ngày nằm ngửa trên nôi, và nay đã lớn, nên ông bố phải làm cho một chiếc nôi khác, lớn hơn .Hai ông bà vẫn hết lòng chăm sóc nâng niu chiều chuộng con. Nào bú mớm, tắm táp, nào là nghiền bột nấu cháo rồi quấy cả trứng gà vào cháo rồi mới cho ăn. Sau năm đầu, tuy cháo nấu bằng gạo, nhưng lại cho cả xương lợn hay cá chép vào, ninh nhừ.

     Ngày tuần ngày tiết, ngày lễ ngày tết, hai ông bà lại bày biện lễ vật và thắp đ èn nhang, cầu khẩn trời đất, tổ tiên, để phù hộ độ trì. Ấy vậy mà chú bé không nói vẫn hoàn không nói, vẫn không biết lẫy, bò. Lại không cả ngồi dậy, đi đứng ...

     Suốt ngày chú chỉ nằm ngủ. Chỉ thức dậy lúc ăn và  đại tiện. Dường như mọi việc xung quanh, cả mọi sự xảy ra trên đời này, chú đều không biết và cũng không cần biết.

     Ông bố bà mẹ cũng đã bắt đầu có phần lo lắng, còn họ hàng làng xóm thì thực sự ngán ngẫm. Họ nhìn vào gương mặt chú bé thực sáng sủa, đẹp đẽ như thiên thần, mà không hiểu sắp tới điều gì sẽ xảy ra ...

     Rồi bỗng đến một hôm, có sứ giả ở tận Kinh đô về, đi một vòng quanh làng, vừa gõ thanh la vừa rao đọc từng hồi:

     Loa, loa, loa, loa ...

     Ớ làng, ớ xã!

     Giặc dã đến rồi!

     Tài giỏi ai người?

     Hãy ra giúp nước!

     Nhà vua trọng dụng,

     Làm tướng cầm quân.

     Đánh Bắc dẹp Đông

     Rồi về lĩnh thưởng!

     Ớ làng, ớ xã! ...

     Loa, loa, loa, loa...

     Ấy chính là lúc, chính lính canh phòng ở biên giới báo về kinh, báo tin giặc Ân sắp sửa tràn sang. Vua Hùng cũng nhẩm tính từ khi Long Vương giáng lâm đến nay đã vừa đúng ba năm. Vẫn nhớ đinh ninh lời dặn dò, nhà vua vội vàng phái ngay sứ giả đến xứ Đông để thỉnh cầu thiên tướng ...

     Ở làng Gióng, khi bà mẹ vừa đưa nôi, vừa nghe thanh la và tiếng loa rao đọc thì bỗng mỉm cười, rồi nựng với con rằng:

     - Ờ, ờ ... này con, có nghe thấy không? Sứ giả của nhà vua đang đi tuyển mộ nhân tài để làm tướng cầm quân đấy! Giá con lớn nhanh mà  đi đánh giặc rồi về lĩnh thưởng cho cha mẹ được nhờ, thì hay lắm nhỉ? Ờ, ờ ...

     Nào ngờ, khi bà mẹ vừa nói xong, đã thấy chú bé vươn vai rồi ngồi bật dậy làm cho chiếc nôi chòng chành. Bà mẹ vội vàng bế con đặt tên giường, chú bé nói:

     -Thưa mẹ, mẹ hãy ra mời ngay sứ giả vào đây cho con!

     Nghe thấy thế, bà mẹ tròn mắt ngạc nhiên, vội chạy ngay sang các nhà láng giềng. Ai nấy đều đổ xô tới. Chú bé cười nói, chào hỏi mọi người như đã là người lớn vậy.

     Tuy ai cũng thấy lạ lùng, nhưng nhắc đến việc mời sứ giả vào thì nhiều người hãy còn e ngại ... Chú bé lắng nghe, rồi lên tiếng giục:

     - Mẹ cứ ra mời sứ giả vào đây cho con. Không phải sợ sệt đều gì cả.

     Bà mẹ làm theo. Khi sứ giả đến, trong thấy chú hãy còn bé tý, cũng hết sức ngạc nhiên, rồi hỏi ngay:

     -Chú còn bé thế kia, làm sao có thể làm tướng cầm quân đánh giặc được mà cũng cho gọi ta vào?

     Chú bé mỉm cười, trả lời:

     - Xin ông đừng lo. Chỉ vài ngày tới nếu ông trở lại sẽ thấy tôi không còn bé nữa. Bây giờø thì ông hãy trở về Kinh đô , tâu với nhà vua rằng: Đúc cho tôi một con ngựa sắt, một thanh kiếm sắt và một chiếc khiên sắt. Được ba thứ ấy hãy cho người mang lại đây cho tôi. Lúc ấy, việc cầm quân sẽ do tôi đảm nhiệm. Ông cũng tâu lại thêm để nhà vua an tâm: giặc Ân nhất định sẽ tan, nên không có gì phải lo lắng cả.

     Sứ giả lắng nghe cả mừng, cúi đầu làm lễ cáo biệt, rồi sau đó tức tốc nhảy lên mình ngựa, phi nướùc đại chạy cấp báo về kinh.

     Sau khi nge sứ giả tâu trình, nhà vua cho vời các đình thần lại, rồi tươi cười nói với mọi người:

     - Thực đúng như lời Long Vương đã nói với ta từ ba năm trước. Bây giờ các khanh hãy cùng nhau đi lo các thứ mà thiên tướng yêu cầu. Xong xuôi đâu đấy, hãy đem lại, rồi điểm tất cả binh mã đến xứ Đông để theo Thiên tướng lên đường giết giặc.

     Các đình thần dạ ran, rồi cáo từ nhà vua, đi lo liệu các việc. Một vị Lạc tướng cho người đến tận Châu Hoan (vùng Diễn Châu, Nghệ An) mời "đệ nhất danh sư" nghề rèn là Lư Cao Sơn về kinh để rèn đúc các thứ bằng sắt. Vị danh sư nổi bễ, mọi người cùng xúm vào, kẻ nhóm than, kẻ đổ sắt, kẻ làm khuôn ... Thế là, chỉ trong vòng một tuần, cả ba thứ ngựa, kiếm và khiên sắt, đều đã rèn đúc xong.
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #12 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:43:47 am »

Truyền thuyết đức Thánh Gióng (Tiếp)

     Nhà vua sai đóng một chiếc xe lớn, đặt cả ba thứ vào, rồi lại sai đóng 16 ngựa, cho kéo đi trước. Đoàn binh mã của triều đình rầm rộ tiến theo sau.

     Đi chưa hết một tuần thì cả đoàn đã tới làng Gióng.

     Lại nói, chú bé từ khi nói chuyện với sứ giả xong thì lớn nhanh, mỗi ngày mỗi khác. Mới vài ngày đã như chú bé lên bảy. Vài ngày nữa, lại thành chú bé tuổi mười lăm. Rồi một tuần sau, đã là một chàng trai tráng kiệt. Một tuần sau nữa, lại đã cao lớn gấp đôi một người trưởng thành ...

     Nhà cha mẹ chàng tuy là gia đình khá giả, vậy mà cũng không đủ cơm ăn áo mặt cho chàng. Họ hàng, làng xóm phải mang các thứ để giúp đỡ thêm. Người gánh thóc, người dăm cân thịt. Rồi có người mang cho cả một vài vại cà hoặc vại dưa. Quý hồ có thứ gì chàng trai ăn thứ ấy, chẳng hề kiểu cách, nề hà. Áo quần cũng phải đổi thay luôn cho vừa. Còn về nhà ở, khi đã cao gấp ba một người bình thường, thì làng xóm phải xúm lại, dựng riêng cho chàng một ngôi nhà, thật cao ...

     Thấy sự lạ lùng, khắp nơi trong vùng mọi người đều đổ xô tới làng Gióng. Lại được cổ vũ bằng tinh thần "Giết giặc lập công", nên người người tìm đến mỗi lúc một đông thêm. Trẻ chăn trâu bò, rồi thanh niên trai tráng, cả những bác nông phu đứng tuổi, ai đến cũng thành ngay bạn bè của chàng. Họ cùng nhau tập luyện võ nghệ: Côn, huyền, giáo, mác , cung, kiếm ... Thứ gì chàng cũng đều tài giỏi, lại chỉ bảo tận tình cho tất cả mọi người. Rồi họ tập đánh trận giả. Tiếng reo hò, tiếng chân chạy huỳnh huỵch, làm náo động cả một góc trời.

     Trong những ngày đó, chẳng những họ hàng làng xóm, mà tất cả dân chúng trong vùng, ai có thứ gì cũng chẳng nề hà, mang ngay đến cho chàng và bạn bè của tập luyện. Thóc gạo, thịt cá, dưa cà ... rồi đến vải vóc, nón đội và cả gậy gộc, giáo mác, cung tên ... Quanh vùng làng Gióng suốt ngày đ êm rầm rầm như đang trong mùa hội lớn ...Về sau này, có người tính. Khi Thánh Gióng lớn lên ăn hết bảy nong cơm với một nong cà, thì chúng ta e, có lẽ người làm tính đã quên không kể đến số bạn bè rất đông đến đây cùng tập luyện với Ngài chăng?

     Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc huyện Tiên Du, nay là Tiên Sơn Bắc Ninh) thì đội quân của Ngài tập luyện đã thành thục cũng là lúc quan quân triều đình mang ngựa sắt, kiếm sắt và khiên sắt đến làng Gióng.

     Quan quân đóng trên một bãi đất rộng trong vùng. Cờ xí rợp trời, giáo mác cung tên tua tủa. Đội kỵ binh đóng riêng ở một khu vực, đến nay vẫn còn tên gọi là bãi quần ngựa. Còn đội voi chiến thì đóng ở khu vực khác, đến nay vẫn còn hồ tắm voi ...

     Sứ giả cùng một vị Lạc tướng dẫn đội quân đẩy chiếc xe lớn chở các thứ đến tận nhà thiên tướng. Ngài vái chào từ biệt cha mẹ và mọi người rồi vươn vai một cái, bỗng chốc lớn bổng người thêm. Đoạn, Ngài một tay cầm khiên, thét bảo đám bạn bè  đã gươm giáo sẵn sàng:

     - Tất cả theo ta đi giết giặc!

     Ngài phi ngựa chạy đằng trước, các bạn bè chạy theo sau. Chỉ trong chớp mắt tất cả đã tới chỗ quan quân triều đình đang đóng. Ngày lại dẫn đầu cả đoàn quân đông đảo, phi ngựa như bay về phía quân giặc. Loang loáng như ánh chớp sáng lòa, còn bản thân Ngài thét vang như sấm dậy.

     Quân giặc đã bày xong thế trận ỏ chân núi Châu Sơn. Ngài phi ngựa thẳng vào, chạy tới đâu quân giặc lăng ra chết tới đó, như đi vào chỗ không người. Mùi thịt cháy khét lẹt. Máu đổ ra lênh láng ...

     Nhiều tướng giặc bị giết, đích thân hoàng tử nhà Ân là Thạch Linh làm nguyên soái thống lĩnh ba quân, thấy vậy, múa kiếm xông vào giáp chiến với Ngài. Nhưng chỉ được vài hiệp, Thạch Linh đã phải quay ngựa bỏ chạy. Ngày đuổi theo đến chân núi Võ Sinh (Hải Hưng) thì vung một đường kiếm bổ xuống, Thạch Linh xác xẻ ra làm đôi.

     Giặc Ân mất chủ tướng, chạy tan tác như ong vỡ tổ. Quan quân triều đình cùng tốp bạn bè vùng làng Gióng của Ngài, chia nhau theo các ngã truy đuổi quân giặc.

     Hàng ngàn tên chạy đến vùng suối Hoa (Thị Cầu, Bắc Ninh) thì bị bao vây, rồi bị tiêu diệt không sót một tên nào.

     Sau khi chém chết chủ tướng giặc, Ngài tiếp tục thúc ngựa xông vào những chỗ còn chống cự quyết liệt với quan quân triều đình. Kiếm của Ngài chém xuống nhiều quá, đến nỗi bị gãy ra làm đôi. Ngài quăng đi, rồi dùng tay không, vớ lấy những khóm tre mọc rãi rác bên đường, cứ thế mà quật cả vào đám giặc.

     Quân giặc bạt vía kinh hồn, tên nào tên nấy mặt mày tái xanh tái xám. Những tên sống sót vội vàng quỳ xuống, tế như tế sao mỗi khi thấy Ngài thúc ngựa phi tới. Tuy vậy, cũng vẫn còn những tên liều lĩnh, ngoan cố khác vừa chạy vừa quay lại bắn cung nỏ, nhưng đều bị khiên sắt của Ngài gạt ra.

     Đuổi giặc đến làng Xuân Tảo (nay thuộc xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), Ngài cho ngựa nghỉ lại uống nước, rồi ngồi trên một phiến đá mở cơm nắm ra ăn. Đến nay phiến đá ấy vẫn còn. Cả phiến đá in dấu chân ngựa của Ngài ở làng Phú Viên nữa, cũng vẫn còn.

     Sau đó, Ngài tiếp tục lên ngựa, truy đuổi quân giặc. Đến chân núi Sóc (sau này còn có tên chữ là núi Vệ Linh, nay thuộc xã Phù Linh, huyện Mê Linh) thì Ngài thấy quân giặc đã tan tác hết cả. Ngoảnh lại, Ngài thấy phía xa xa, quan quân triều đình cũng đang thu quân rút về, vừa đi vừa dẫn theo những tốp tù thất trận.

     Từ trên mình ngựa, Ngài cởi áo, rồi cầm đến treo ở một mô đá có hình gốc cây mà hiện nay vẫn còn. Chắc là tấm áo thấm đẫm mồ hôi và thấm cả máu giặc tanh tưởi vào, nên Ngài muốn cởi ra cho thanh thản.

     Ngài phi ngựa lên giữa đỉnh núi. Tại đây, Ngài ngoảnh mặt đi khắp tám hướng, ngắm nhìn bao quát đất nước Văn Lang một lượt, rồi giật mạnh dây cương, cho ngựa bay vút lên trời.


Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:45:52 am »

Truyền thuyết đức Thánh Gióng

     Hai người bạn từ hồi còn tập luyện ở làng Gióng của Ngài, tên là Hiển và Dục phi ngựa theo sau, đến chân núi Sóc đã thấy Ngài đang bay lên trời rồi. Hai ông nhìn mãi đến hút tầm mắt rồi xuống ngựa, ngồi bệt ngay xuống vệ cỏ mà nghỉ. Ngao ngán quá! " Chủ tướng không ở lại lĩnh thưởng thì mình cũng chẳng nên lĩnh thưởng làm gì. Hai ông nghĩ . Vả lại, vàng bạc có phải do nhà vua làm ra đâu mà cũng là của dân đóng góp cả. Lĩnh thưởng như thế khác nào như lấy của dân, bắt dân cực khổ ra thêm mãi. Giặc dã đến xâm chiếm, bao nhiêu của nả dân đã phải bỏ ra, lại thêm bao nhiêu người vô tội bị chết, như thế còn có chưa đủ hay sao? Ôi! Chủ tướng thật anh minh, đã bay về trời cho dân được nhờ cậy"...

     Hai ông để mặc cho ngựa gặm cỏ ở đấy, rồi cứ thế, lững thững đi sâu mãi vào rừng.

     Khi quan quân dẫn đám tù binh về triều đình báo tin thắng trận thì vua Hùng cả mừng, ra tận ngoài cổng thành để đón.

     Nhà vua rất nóng lòng muốn biết mặt vị thiên tướng giáng trần, nhưng các Lạc hầu, Lạc tướng nhất loạt tâu rằng Ngài đã bay về trời, cả hai vị tướng của Ngài cũng đi biệt vào rừng, không thấy trở lại nữa. Nhà vua nét mặt đang vui bỗng trở nên đăm chiêu nghĩ ngợi. Ngài ra lệnh lập tức dựng một đ àn tràng thật lớn để lạy ơn trời đất, tổ tiên đã phù hộ độ trì và phái thiên tướng xuống trần. Đồng thời đ àn tràng cũng để Ngài cầu siêu cho linh hồn các tử sĩ trận vong. Sau đó, Ngài mở tiệc khao thưởng quân sĩ, tướng lĩnh, nhất nhất ai cũng có phần xứng đáng cả.

     Sự kiện chống giặc Ân này đã để lại cho nhà vua rất nhiều điều đáng suy nghĩ về đạo trị quốc. Bài học mà Ngài rút ra là phải hết lòng chăm lo đến đời sống muôn dân, đúng như ba năm trước Long Vương đã hiện về dạy bảo. Chính vì vậy, sau này về già, Ngài trao lại vương miện cho người con trai tài năng, đức độ nhất trong số 22 người con trai của Ngài, chứ không phải theo lệ cũ là trao cho người con trưởng. Người kế vị đó là Hùng Vương thứ bảy, vị vua đã nghĩ ra bánh chưng, bánh dày để dùng vào các dịp lễ tết, hội hè của cả muôn nhà, và truyền mãi cho đến ngày nay.

     Lại thêm về các sự kiện có liên quan đến cuộc kháng chiến chống giặcÂn.

     Nhà vua không biết lấy gì báo đáp cho vị thiên tướng giáng lâm, nên phong Ngài là Phù Đổng Thiên Vương và lập miếu thờ ngay tại vườn nhà Ngài khi trước. Lại cấp cho dân trong làng một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc trông nom và bốn mùa cúng lễ.

     Giặc phương bắc bạt vía. Mặc dù là nước lớn nhưng 644 năm sau không dám động binh xuống xâm lược. Các nước xung quanh Văn Lang hay tin, đều tìm đến xin kết tình hòa hiếu.

     Những bụi tre mà Ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ mọc thành rừng ở huyện Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà.

     Còn chỗ con ngựa của Ngài thét ra lửa đã làm cháy mất một làng. Làng ấy bây giờ gọi là làng Cháy.

     Các triều đại phong kiến trước đây đều có sắc thượng phong cho Ngài. Ngoài tôn hiệu "Phù Đổng Thiên Vương" từ trước, đến đời Lý Thái Tổ lại phong là "Xung Thiên Thần Vương". Còn dân chúng, từ bao đời nay vẫn gọi Ngài là Đức Thánh Gióng, một cách thực tự nhiên và giản dị.

     Trong tâm thức của mọi người, Ngài là vị Thánh bất tử đầy quyền năng, bởi vì chính Ngài đã là biểu tượng tuyệt vời nhất cho lòng dũng cảm và  đức quên mình của dân chúng.

     Từ trước đến nay, có rất nhiều thơ văn ca ngợi công đức của Ngài, cùng nhiều nghi lễ thờ cúng và hội hè. Chỉ xin ghi ra đây đôi câu đối nổi tiếng nhất của Cao Bá Quát:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng không khước hận cửu thiên đ ê.
(Trừ giặc, chẳng nề ba tuổi là muộn Bay lên không, giận chín tầng trời vẫn chưa cao).
                                                                      Đ.Hải
                                                            Sưu tầm từ Internet
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:48:08 am »

Thổ Thần Nước Nam

     Mùa xuân, tháng hai, niên hiệu Thiên huống bảo tượng thứ hai (1096) vua Lý Thánh Tông thân dẫn quân theo dường biển đánh Chiêm Thành. Nguyên phi Ỷ Lan lúc ấy cũng vừa mới sinh hoàng tử thứ hai, được giao giúp việc nội trị ở Kinh sư (Thăng Long).

     Quân sĩ rầm rộ kéo đi, đến biên giới, nhưng gặp phía Chiêm Thành phòng thủ kiên cố, nên phía Đại Việt đánh mãi không được.

     Sợ ở Kinh đô có biến động, Lý Thánh Tông rút quân về Châu Cư Liêm để củng cố lực lượng, và nghe ngóng tình hình hậu phương.

     Khi có tin từ Kinh đô tới báo mọi việc vẫn tiến triển tốt đẹp, dân chúng yên ổ làm ăn, không ở đâu có biến động gì, Lý Thánh Tông liền cho quân quay lại tiếp tục đánh. Đó cũng là theo kế sách của Lý Thường Kiệt "nhử cho địch vào thế bất ngờ, không kịp đối phó".

     Nhưng đoàn thuyền của nhà vua vừa đến cửa Hoàn Hải, thì bỗng đâu mây đen kéo đến, trời đất tối sẫm. Rồi trong phút chốc, mưa to gió lớn, sóng biển dâng lên cuồn cuộn. Thuyền ngự, thuyền chiến, thảy đều nghiêng ngả chòng chành, không thể tiến lên được. Bất đắc dĩ, Lý Thánh Tông phải cho các thuyền tạm lánh vào cửa sông, neo đậu lại ở một bên bờ khuất gió.

     Đêm ấy, trong thuyền ngự, nhà vua đang ngủ mơ màng, bỗng thấy một người con gái không biết từ đâu hiện ra, lại bước lên thuyền rồi tiến đến trước mặt ...

     Nhà vua ngồi dậy để tiếp đón. Người con gái ước chừng 20 tuổi, nét mặt thanh thú, dáng điệu dịu dàng, trông chẳng khác nào một tiên nga, nhưng ăn vận lại giản dị, quần xanh áo trắng và không trang điểm gì. Nhà vua hơi có vẻ ngỡ ngàng, chưa biết phải xử trí thế nào, thì người con gái ấy đã nói:

     - Tôi là linh khí của cõi đất ở nước Nam này. Tuy sinh ra từ đất, nhưng hồn lại lơ lửng trên cao, ở giữa chốn rừng xanh bạt ngàn. Thế rồi, bỗng đâu con tạo xoay vần, nay hồn tôi chơi vơi ở nơi sóng nước. Bệ hạ bây giờ hãy cho người đưa tôi lên thuyền, lần xuất chinh này có tôi âm phù, thế nào cũng toàn thắng.

     Lý Thánh Tông im lặng lắng nghe, một tay đỡ lên cằm, như cử chỉ quen thuộc lâu nay mỗi khi Ngài gặp điều gì khó xử. quả thực, tuy đã nghe rõ, nhưng Ngài vẫn chưa hình dung ra nổi sự thể như thế nào. Ngài nhíu trán lại để suy nghĩ, nhưng ngay lập tức, đã thấy người con gái ấy vụt biến đi ngay.

     Ngài thấy bàng hoàng cả người, bèn cho gọi ngay Tăng Thống Huệ Lâm lại thuyền để hỏi han nguyên cớ, tức là  để "giải mộng" cho Ngài.

     Nhà sư Huệ Lâm vốn nổi tiếng là một Đại sư thông tuệ, uyên bác, từ lâu được vua vời vào tham dự triều chính và phong chức "Tăng Thống", nay theo đi đánh dẹp cũng ví như là chỗ dựa tinh thần của Ngài vậy.

     Sau khi nghe Lý Thánh Tông thuật lại giấc mộng, Tăng thống Huệ Lâm nói:

     - Thần nói hồn ở trên cao, giữa chốn rừng xanh, chắc là hồn đã nhập vào thân cây cổ thụ. Lại nói nay hồn chơi vơi ở nơi sóng nước, thì tức la cây đã bị bão lớn đánh bậc gốc, hiên đang trôi nổi dập dềnh nhưng cũng chỉ quanh quẩn đâu đây, nên thần mới về để báo mộng. sáng sớm mai Bệ hạ hãy cho quân lính mang thuyền nhỏ đi tìm, ắt là sẽ tìm thấy thần.

     Quả nhiên, đúng như lời Tăng thống nói, sáng hôm sau quân lính đi thuyền tìm thấy một thân cây cổ thụ có hình dáng và kích thước trông bề ngoài rất giống hình người, bèn đưa lại trình nhà vua. Lý Thánh Tông cả mừng, sai vớt lên bàn đặt trước thuyền ngự, rồi mời tăng thống Huệ Lâm đến thắp hương dâng lễ vật và tụng king cầu nguyện. Bài vị thờ thần ghi rõ là: "Hậu thổ phu nhân", theo như lệnh của nhà vua.

     Sau khi cúng thần xong, mọi người thấy tự nhiên trời quang mây tạnh, sóng yên biển lặng. Lý Thánh Tông bèn hạ lệnh cho quân sĩ lên đường. Lạ thay, lúc ấy không có gíó thổi, vậy mà tất cả các thuyền đều lướt sóng băng băng.

     Khi đỗ bộ lên đất Chiêm Thành, đại tướng tiên phong Lý Thường Kiệt đã dẫn đại quân xuất kỳ bất ý, đánh thẳng vào trại lớn của đối phương, nơi hành dinh của vua Chiêm Thành Chế Củ.

     Đã tưởng quân Đại Việt rút cả về rồi, nên sau đó Chế Củ không cho phòng bị gì, vì vậy, chỉ sau một đợt chống cự yếu ớt, đã phải đầu hàng.

     Chế Củ bị bắt, khi giải đến trước mặt Lý Thánh Tông, để chuộc khỏi tội chết, đã phải cất đất xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, và Bố Chính ...

     Quân Đại Việt hoàn toàn thắng lợi, trở về vào tháng 6 năm ấy. Khi đoàn thuyền đến cửa Hoàn Hải, Lý Thánh Tông hạ lệnh cho dừng lại, bảo các thuyền ghé vào bến cũ neo đậu như lần trước.

     Ý của nhà vua là muốn tổ chức ở đây một bữa tiệc để khao thưởng quân sĩ và dân chúng, đồng thời nhà vua sẽ dâng cỗ Thái lao (trâu, dê, lợn, mỗi thứ một con) để hậu tạ "hậu tổ phu nhân", rồi sau đó sẽ lập đền thờ thần vĩnh viễn ở đây. Thế nhưng, nhà vua chỉ vừa mới ban lệnh đó ra, đã thấy đất trời tối sẫm, rồi mưa to gió lớn đ ùng đ ùng, hiện tượng kỳ lạ hệt như lần trước.

     Tăng thống Huệ Lâm thấy thế tâu rằng:

     - Linh khí cõi đất của cả nước Nam này, tất phải được thờ ở chốn Kinh đô . vậy xin Bệ hạ hãy xuống lệnh cho rước thần về Thăng Long, để xứng đáng với địa vị cao quý của thần, rồi sẽ lập đền thờ sau vậy.

     Lý Thánh Tông cho lời tâu ấy là phải, bèn ra lệnh bảo quân sĩ cứ giết mổ gia súc để tế thần ở nơi đã tìm thấy lần trước, rồi sau đó mọi người sẽ ăn mừng, còn chưa tổ chức lập đền thờ thần vội.

     Lạ thay, khi lệnh ấy vừa ban ra, đã thấy trời quang mây tạnh trở lại.

     Về tới Kinh đô , nhà vua sai chọn một khu đất cao ráo ở làng An Lăng (tức làng Láng) ven kinh thành, để làm nơi lập đền thờ Thần.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:58:33 am gửi bởi dongadoan » Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 05:50:06 am »

     
Truyền thuyết Thổ thần nước Nam (tiếp)

    Đền đài nguy nga, tráng lệ. Tượng thần đặt trên ngai, được tạc lại chính từ gốc cây cổ thụ có hình dáng người đã tìm thấy ở cửa Hoàn hải khi trước. Từ mặt mũi cho đến hình dáng, trang phục của thần, đều giống y như người con gái mà nhà vua đã mộng thấy trong thuyền ngự khi tránh mưa bão trước đây.

     Đền rất thiêng. Đầu năm mới nào nhà vua cũng cử quan đại thần đến để làm lễ quốc tế. Năm nào dân chúng làm ăn cũng thấy được mùa, sản vật trong nước dồi dào. Những khi hạn hán hay sâu bệnh, đến cầu đến cầu đảo cũng đều ứng nghiệm cả.

     Ấy vậy mà, có kẻ bán bổ lại dám bảo thần chỉ là một khúc gỗ trôi được vớt lên thôi, vì vậy, đã phải chuốc lấy tai vạ. Tuy thần chẳng chấp những lời ấy, nhưng lệnh của nhà vua, và sau đó là lệnh của bà Ỷ Lan nhiếp chính, vốn là người cũng rất sùng lễ bái, nhưng lại có gan giết Dương Thái Hậu và 76 cung nữ vô tội, đã ban ra phạt rất nặng những người dám báng bổ này.

     Đến thời Lý Anh Tông trị vì (1138 - 1175), khi ấy ngôi đền xây cất đã được trọn một trăm năm, trong nước xảy ra hạn hán lớn. Quần thần xin với nhà vua lập đ àn Nam giao để tế trời, đồng thời với tế thần "Hậu thổ phu nhân" ở đền An Lăng, gọi là "phối thờ", "hợp tế".

     Quả nhiên, sau đó được trận mưa to, lúa má hoa màu tươi tốt, dân chúng hồ hởi, vui mừng ... Vua Lý Anh Tông bèn gia phong cho thần thêm chữ "đại", gọi là "hậu thổ đại phu nhân".

     Đến triều Trần, thần lại còn được trọng vọng hơn nữa. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) đời Trần Nhân Tông, phong thần là " Hậu thổ thần địa kỳ nguyên quân". Năm Hưng Long 21 đời Trần Anh Tông, gia phong thêm bốn chữ "Ứng thiên hóa dục". Còn tục lệ thờ cúng thần thì vẫn y theo như từ triều Lý: Đến tiết lập xuân, cùng với lễ quốc tế, đều "phải đem một con trâu bằng đất nặn, để ở dưới đền thờ thần" (lệnh có từ thời Lý Anh Tông).
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 10:42:08 pm »

Thần Tô Lịch
[/b]
 
     Thành Đại La ngày xưa được xây dựng tên phần đất cửa làng Long Đỗ. Làng này nằm bên bờ sông nhỏ chảy ra sông cái (Sông Hồøng).

     Tương truyền, xưa kia trong làng có nhà họ Tô, tuy gia tư không giàu có lắm, nhưng mọi người ăn ở với nhau thật là hiếu nghĩa, hòa thuận.

     Đó là vì gia đình này từ nhiều đời này luôn luôn có ba thế hệ cùng ở chung với một nếp nhà, nhưng do chăm chỉ làm ăn lại biết trên kính dưới nhường, nên chẳng hề xảy ra chuyện gì to tiếng. Đối với dân làng, họ cũng đối xử khoan dung và làm nhiều việc nhân nghĩa, nên được mọi người kính nể.

     Sang đến đời Tô Lịch, chẳng những ba đời, mà cả ba anh em trai, tuy đều có gia đình riêng, nhưng vẫn cùng ăn cùng làm, vậy mà trong nhà luôn luôn êm ấm, không bao giờ có đều gì xâu. Còn đối với dân làng, những khi giáp hạt hoặc những năm mất mùa, họ saÜn sàng bỏ thóc gạo ra cứu trợ người nghèo hoặc cho dân làng vay không lấy lãi. Vì thế lại càng được mọi người mến phục.

     Thời ấy, Giao Châu đang bị nhà Tấn cai trị (264 - 420). Nhà Tấn có lệ đề cử nhưng người hiền đức, hiếu nghĩa và các chức vị ở địa phương nên người anh cả Tô Lịch được chức vụ Long Đỗ. Ông điều hành và xử đoán các việc có lý có tình, lại biết thương yêu quý trọng mọi người nên hương ấp ấy yên vui, mọi người chăm lo sản xuất và không xảy ra những chuyện như tranh giành, đánh chửi nhau hoặc cờ bạc, trai gái trộm cướp.

     Tiếng lành đồn xa, vì thế khi ông còn sống, dân chúng trong vùng lân cận, khi gọi tên trong làng Long Đỗ, thường lại hay nói: "Đấy là làng ông Tô Lịch".

     Khi Tô Lịch già yếu rồi mắt, dân chúng trong vùng tiếc thương, đã lập đền thờ ông để tưởng nhớ, và cái tên làng Tô Lịch mãi mãi được lưu truyền.

     Khoảng 400 năm sau, lúc ấy vào đười tùy đường cai trị, quân lâm ấp, Nam chiếu ở phía nam thường hay ra Giao Châu cướp phá. Trương Bá Nghi (đời Đường) mới đắp lai La Thành cách sông Tô Lịch khoảng 200 thước, rồi về nhiệm sở từ Long Biên (khoảng thị xã Bắc Ninh) về đây (767). Cao Chính Bình thay Trương Bá Nghi. Khi Phùng Hưng khởi nghĩa đánh Cao Chính Bình rồi chiếm phủ đô hộ, cũng ở trong La Thành (791).

     Triệu Xương rồi Trương Chu sang cai trị sau đó, đều củng cố La Thành thêm. Đến đời Lý Nguyên Gia lại đặt đến trên nền nhàcũ của ông họ Tô thuở trước.

     Lý Nguyên Gia là viên quan cai trị khôn ngoan, lại am tường thiên văn địa lý và thông hiểu lý, số.

     Trước lễ động thổ, y đi dò la nhìn ngắm thế đất và hỏi han các bậc phụ lão trong vùng, nên đã hiểu rất rõ lai lịch. Khi đặt nhiệm sở trên nền nhà của họ Tô và Lý đã có tính toán kỹ càng. Đó là vùng đất bằng phẳng, cao ráo hơn so với chung quanh, lại được cái thế là "rốn của con rồng" (Lông Đỗ).

     Lý Nguyên Gia cho nấu rượu, mổ thịt gia súc làm cổ thật hậu để khao quan sĩ và mời tất cả các bặc ky lão trong vùng tới dự. Lý tỏ ý với mọi người rằng sẽ làm sớ tâu lênh vua đường xin lập Tô Lịch làm thần thành hoàng. Rồi cũng mọi người ăn uống, chuyện trò vui vẻ.

     Lý Nguyên Gia cho rằng như thế mọi việc suôn sẻ, không bị dân sở tại có phản ứng gì. Nhưng đ êm ấy, khi nằm bên cửa sổ thiu thiu ngủ, Lý bỗng thấy một trận gió ào tới, rồi bụi cuốn cát bay mù mịt. Tan cơn gió, trước mặt Lý hiện ra một cụ già phương trượng, râu tóc bạc trắng, vận phảm phục màu tía, cưỡi hươu trắng đến trước mặt bảo:

     - Tôi được bẩm báo khi ban ngày Ngài có nói với mọi người rằng sẽ lập sớ tâu lên nhà vua cho tôi được làm Thần Thành Hoàng của đất này. Xin cám ơn Ngài, Nhưng đó cũng chỉ là cái danh viï thừa, vì có hay không đối với tôi cũng chẳng có can hệ gì . Sự thực thì từ mấy trăm năm trước, khi ấy Ngài con chưa có mặt ở trên đời này, tôi đã được dân làng tưởng nhớ lập đền thờ. Rồi Ngọc Hoàng thượng đế cũng phong tôi làm thần cai quản cả vùng đất này, kể từ ngày ấy trở đi. Bây giờ Ngài lập phủ lệ trên đất của tôi, sự ấy là tùy Ngài, tôi không chấp làm gì, vì ai sống ở trên đời thì cũng cần có một nơi để ở. Chỉ mong Ngài làm quan đầu xứ hãy bão lũ thuộc hạ và quân lính chớ có cướp bóc, sách nhiều chúng dân, và bản thân, khi xét xử việc gì, cũng phải thật công minh. Có như thế thì mới xứng đáng với danh phận và trách nhiệm của mình. Tiếng thơm của tôi để lại, hẳn Ngài hỏi hang các bậc phụ lão trong vùng, nên biết rõ rồi. Mong Ngài cùng hãy làm như thế?

     Tuy nói như vậy nhưng nết mặt cụ già vẫn không hề biến sắc còn giọng vẫn ôn tồn và không hề tức giận. Lý Nguyên Gia mở mắt, há mệng ra mà lắng nghe, như nghe lời thầy dạy bảo. Nói xong, cụ già chợt biến mắt. Lý chỉ còn biết cách cung kính vái theo.

     Khi tỉnh dậy, Lý trong đ èn ngồi suy nghỉ trước sau. Lý quyết định chỉ xây phủ đệ vừa phải, và  đắp thành bên ngoài cũng nhỏ thôi, chứ không làm to tát. Một mặt Lý thấy binh lực tiền bạc ít, sợ "lực bất tòng tâm" mặt khác Lý cũng sợ người và thần ở đất này không dung. Lý không có biến động, mà chỉ mong được yên thân, rồi còn có ngày trở về phương bắc vẹn toàn.

     Đến thời Cao Biền sang dẹp quân Nam Chiếu cướp phá và ở lại làm tiết độ sứ (866), ý cho xây dựng phủ to tát, nguy nga hơn nhiều. Lại xây đắp la thành cũng bề thế, vững chắc hơn rất nhiều so với thời Lý Nguyên Gia. Biền cậy mình có vũ công lớn, lại bản thân là tay tướng số lão luyện, có nhiều thuật phép và mưu mẹo thâm hiểm, nên y tưởng răng sẽ bất chấp và khuất phục được tất cả. Nhưng y đã lầm to!

     Một buổi đang giữa thang sáu, nước sông cái tràn vào sông nhỏ dâng cao, Biền ngồi thuyền nhẹ thuận theo dòng nước mà vào trong thành. Đi khoảng một dặm, y thấy một cụ già phương trượng đang vừa bơi vừa tăm ở dòng sông, dang điệu có vẻ ung dung phấn trấn lắm. Biền bèn dừng thuyền lại hỏi:

     - Ta chỉ mới thử nhà ngươi một chút đó thôi.

     Sau buổi đó Biền về phủ đệ, đọc hết giấy tờ cũ. Rồi đi hỏi han các cụ phụ lão trong vùng thêm. Bề ngoài thơn thớt nói cười, nhưng trong bụng thì y căm giận, muốn trừ diệt bằng được thần Tô Lịch.

     Một buổi sớm, Biền ra đứng ở bờ sông Cái, phía đông thành Đại La, để ngắm nghìn các thế đất và tìm huyệt định yểm. Bỗng nhiên, một trận bão nổi lên, lá rụng các bay mù mịt và nước sông cũng dâng sóng lên cuồn cuộn. Đứng trên mặt sóng là thần Tô Lịch mà y đã từng gặp mặt, nhưng bây giờ trang phục thật uy nghi, tề chỉnh, lại cười trên một con hươu trắng.

     Biền giương mắt ra nhìn, chưa kịp có phản ứng gì. Bỗng nhiên, cụ già cưỡi hươu bay vút lên, rồi đến trên đầu Biền dâng lên hạ xuống ba lần. Đến lần thứ ba, Biền nghe thấy tiếng nói vọng xuống:

     - Nhà ngươi đừng hòng che được mắt ta, giả vờ ra đây ngắm cảnh. Ta thừa biết bụng dạ nhà ngươi nghĩ thế nào rồi.

     Biền kinh hãi, rồi bảo mấy tên lính hầu cùng nhau lui bước về phủ. Tuy vậy y vẫn cò nuôi ý định trả thù.

     Một tháng sau, khi đã chuẩn bị xong xuôi, Biền xây dựng đ àn tràng để niệm chú, bắt quyết. Bùa yểm của Biền là kim đồng thiết phủ. Đêm hôm ấy, Biền xõa tóc, cầm kiếm đứng giữa đ àn tràng, miệng lẩm bẩm còn tay thì khua khoắng lia lịa. Bỗng nhiên, sấm chớp nổi lên đ ùng đ ùng, nước mưa đổ xuống như trút. Trong cơn mưa gió, có tiếng thiên binh thần tướng hò reo vang lừng. Rồi trong khoảng khắc, trái với ý đồ của Cao Biền, kim đồng thiết phủ bật ra khỏi đất rồi biến ngay thành tro bụi, bay đi mù mịt ...

     Biền khiếp đảm, ngã vật ra đất, hai mắt trợn ngược, bọt mép sùi ra, nom thật gớm guốc, thảm hại. Quân sĩ phải vực y vào trong trướng, đánh gió, xoa bóp và cho uống thuốc, một hồi lâu sau là Biền mới tỉnh. Y than thầm:

     - Xứ sở này nhân kiệt địa linh không thể nào chế ngự được. Ta ở lâu ắt sẽ chuốc lấy tai họa.

     Từ đấy Biền vơ vét tích cóp thạt hiều vàng bạc, châu báo, lụa là, cùng nhiều thứ quý giá khác. Y cho người thân tín mang về dứt lót quan thái quỳ nha đường. Mấy tháng sau, Biền nhận được chiếu chỉ về kinh thăng chức. Tuy là mừng đấy, nhưng khi ra về người ngượm tay chân y cứ rung lên như rẽ.Về đến nước, y vẫn còn mắc chứng run. Mấy tháng sau thì y mới chết.

     Đây lại nói về thần Tô Lịch do có nhiều công đức với dân chúng nên Ngài được lập là Thần hoàng, như khi nói với Lý Nguyên Gia, Ngài đã bảo như vậy, Ngài lại có hiều công đức với cả đất nước, vì đây là  đất của quốc đô Thăng Long sau này, như đã mấy lần Ngài cho Lý Nguyên Gia, rồi cao Biền, biết thế nào là  đất có chủ.

     Dân chúng thờ phụng Ngài ở nơi lập đền thờ thật là tôn nghiêm, thành kính. Các triều đại trước đây cũng đều có sắc thượng phong, coi Ngài như vị Thành hoàng thứ hai của quốc đô, sau thần chính khí Long Đỗ vậy. Hàng năm, nhà vua đều cử quan đại thần đến đây để làm lễ quốc tế.

     Đến khi người Pháp cai trị, chắc là họ có mở sách cũ, học được thói đối xử của Cao Biền, nên đã san bằng đền thờ thần Tô Lịch, để xây dựng lên ở đó, là Nhà Thờ lớn hiện nay vậy.


Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #17 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2009, 11:33:39 pm »


     Đến khi người Pháp cai trị, chắc là họ có mở sách cũ, học được thói đối xử của Cao Biền, nên đã san bằng đền thờ thần Tô Lịch, để xây dựng lên ở đó, là Nhà Thờ lớn hiện nay vậy.




Đống bài mà bạn copy về đây thực chất là những tài liệu đã được/bị xào nấu nhiều, độ chính xác không còn nữa. Chẳng hạn như đoạn tôi quote lại: Ai bảo bạn Nhà Thờ Lớn hiện nay là do người Phám san bằng đền thờ Thần Tô Lịch để xây nên? Đền thờ thần Tô Lịch mà sao lại nằm xa sống Tô thế? Bạn có biết nền Nhà Thờ Lớn ngày nay là của công trình nào không?
Copy 1 mớ kiến thức tạm nham thế này, thiết nghĩ hơi phí công bạn.
Logged
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #18 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 06:03:24 am »

  Định Nghĩa
  Truyền thuyết: tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử(hoặc có liên quan đến lịch sử) theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của vùng.
  Truyền thuyết không chú trọng tính chính xác như các văn bản lịch sử  , mà truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo: những câu truyện trong lịch sử dựng nước, giữ nước của cha ông ta dược khúc xạ qua lời kể của nhiều thế hệ rồi kết tinh thành những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường. Chỉ có hiểu đúng và sâu sắc nội dung cùng nghệ thuật của truyền thuyết khi xem xét tác phẩm trong mối quan hệ ảnh hưởng qua lại với môi trường lịch sử - văn hóa mà nó sinh thành, lưu truyền và biến đổi.
                                                     Nguồn: SGK-NV10/tập1
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 06:12:44 am »

      "Đến khi người Pháp cai trị, chắc là họ có mở sách cũ, học được thói đối xử của Cao Biền, nên đã san bằng đền thờ thần Tô Lịch, để xây dựng lên ở đó, là Nhà Thờ lớn hiện nay vậy."

     Theo định nghĩa trên thì tôi thấy câu văn "Đến khi người Pháp cai trị, chắc là họ có mở sách cũ, học được thói đối xử của Cao Biền, nên đã san bằng đền thờ thần Tô Lịch, để xây dựng lên ở đó, là Nhà Thờ lớn hiện nay vậy."  mà bạn bảo sai về lịch sử. Tôi nghĩ không cần đi sâu quá về khía cạnh lịch sử nhiều, đó chỉ là một hạt sạn nhỏ  trong bài do nhân dân các thế hệ truyền miệng và muốn tạo cho câu truyện có độ thật và huyền bí hơn nên đã lồng ghép thêm lịch sử với truyền thuyết.
     
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM