Các bác chẳng để phần cho em câu nào mới, thôi lại ngồi ra câu đố tiếp vậy.
Câu 58: Một nhà giáo dục lớn của nước ta thể kỷ 18, nổi tiếng với bài Từ tham tụng khải?
Câu 59: Trạng nguyên đầu tiên được hưởng vinh dự "vinh quy bái tổ".?
Câu 62: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc nào kéo dài nhất (Tính từ đầu Công nguyên đến trước 1858)?
Câu 63: Thời phong kiến ai là người hai lần thi đỗ tiến sĩ?
Mấy câu kia các bác đã trả lời, xin trả lời mấy câu này
Câu 58: Ông là Nguyễn Huy Oánh, húy Xuân, Hiệu Lựu Trai, tự Kính Hoa, sinh năm 1713 (Năm Quý Tỵ niên hiệu Vĩnh Thụy thứ 9) tại làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An ( Nay là xã Trường Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh).
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 năm 1748, ông đỗ thi Hội và đỗ đầu thi Đình: Tiến sỹ cập đệ đệ tam đình (Đình nguyên Thám Hoa).
Năm 1783 ông viết Từ Tham Tụng Khải (Bài khải từ chối chức Tham Tụng - Tể Tướng )
Sau khi về quê chịu tang mẹ và không xuất chính nữa. Ông đã sắp xếp và xây dựng lại thư viện Phúc Giang và biến Trường Lưu thành một trung tâm văn hóa, học vấn nổi tiếng vào bậc nhất thời bấy giờ. Học trò từ cả kinh kỳ cũng kéo nhau về đây theo học, học trò ông đã có 30 người đậu Tiến sĩ và hàng trăm người đậu tú tài, cử nhân. Ông được học trò tôn làm phu tử.
Năm 1783 (sau khi ông về quê hai năm) triều đình đã sắc phong ông làm "Uyên phổ hoằng dụ đại vương với lời lẽ trân trọng:
Nối nguồn thơm từ Khổng Tử
Rạng dòng tốt bởi núi Ni
Lấy văn trồng người mở kế trăm năm.
Năm 1824 triều đình nhà Nguyễn lại sắc phong cho vị quan của Triều Lê là Nguyễn Huy Oánh làm "Phúc Giang thư viện uyên bác chi thần" (Vị thần uyên bác của thư viện Phúc Giang), và thư viện Phúc Giang trở thành thư viện thờ một vị thần học vấn - điều hiếm có trong lịch sử Việt Nam.
Bên cạnh đó Nguyễn Huy Oánh còn để lại một di sản khá đồ sộ và đa dạng với gần 40 tập sách có giá trị từ văn học, sử học, y học, địa lý. Một điều hiếm thấy là Ông còn có một tập sách dạy con gái về công dung ngôn hạnh (tập Huấn nữ tử ca).
(Theo wiki)
Câu 59: Ông vua đầu tiên đặt ra lệ vinh quy là Lê Thánh Tông (1460-1497) và trạng nguyên đầu tiên được hưởng vinh dự này là Phạm Đôn Lễ, đỗ khoa Tân Sửu năm Hồng Đức thứ 12 (1481).
Câu 62: Bổ sung thêm với bác Xồm
- Thục Phán lãnh đạo cuộc chiến chống Tần 10 năm
- Cuộc khởi nghĩa của anh em Phùng Hưng diễn ra theo kiểu "tằm ăn lá dâu" cũng tầm 10 năm
- Cuộc khởi nghĩa, chiến đấu của cha con Mai Thúc Loan cũng cỡ 10 năm
Câu 63: Có đến 6 người 2 lần thi đỗ tiến sĩ
Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí (quyển 28, Khoa mục chí) của Phan Huy Chú đã viết "Từ khoa Nhâm Tuất đời Đại Bảo nhà Lê (1442) đến khoa Đinh Mùi đời Lê Chiêu Thống (1787), thi tiến sỹ 94 khoa, lấy đỗ 1732 người, thi chế khoa 4 khoa lấy đỗ 30 người; cộng lại là 1762 người,
trừ 6 người đỗ tiến sỹ 2 lần còn 1756 người. Trong đó có 26 trạng nguyên, 28 bảng nhãn, 41 thám hoa".
1. Khoa thi Nhâm Tuất (1442) lấy đỗ 33 người trong đó có 23 người độ đệ tam.
Trịnh Thiết Tường, xếp thứ 14/23 hạng đệ tam và học trò của ông là Nguyễn Nguyên Chân xếp 23/23, đã cùng nhau không nhân đỗ khoa này. Trịnh Thiết Tường đang nói với anh em bạn bè: "Ta muốn đệ nhất giáp đề danh, chứ đệ tam giáp thì chưa hết sức học cuả ta". Đến khoa sau là Mậu Thìn (1448), ông lại đi thi và đỗ Bảng nhãn, được vua gả công chúa Thụy Bảo và sau đó làm đến Công bộ Thượng thư. Khi mất do có công với dân nên được thờ làm phúc thần ở làng Văn Quán, huyện Thanh Oai.
2.
Nguyễn Nguyên Chân người xã Lạc Thực, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay thuộc Hải Dương), khoa sau (1448) đi thi được xếp thứ 3/12 đệ tam, sau đó làm quan đến Khu mật Trực học sỹ.
3. Người thứ ba là
Nguyễn Nhân Bi (Kim Đôi, huyện Võ Giang, phủ Từ Sơn, nay là Tiên Sơn, Bắc Ninh), 19 tuổi , được xếp hạng 4/19 đệ tam khoa thi Bính Tuất (1466) (sau người em ruột là Nguyễn Nhân Thiếp xếp hạng 1/19 đệ tam) đã xin không nhận đỗ. 15 năm sau khi đã 34 tuổi, vào khoa Tân Sửu (1481) ông đã thi lại và cũng chỉ đỗ 7/27 đệ tam. Lúc đó 4 người em ruột của ông đều đã đỗ đại khoa cả nên ông không xin từ nữa. Sau đó ông làm quan đến Binh bộ Thượng thư và có tên trong Đàn nhị thập bát tú.
Đến khoa Mậu Thìn (1408) lấy đỗ tiến sỹ 54 người, trong đó hạng đệ tam có 36 người. Ba người đỗ khoa này không nhận đỗ là Trần Doãn Minh, Nguyễn Bạt Tụy và Nguyễn Duy Tường.
4.
Trần Doãn Minh (xã Lan Khê, huyện Bình Hà, phủ Nam Sách nay thuộc Hải Dương) xếp thứ 2/36 đệ tam đã không nhân đỗ. Đến khoa thi sau Tân Mùi (1411) ông lại đi thi và được xếp 1/35 hạng đệ tam. Sau ông làm đến Hộ bộ Thượng thư, hai lần được cử đi sứ Trung Quốc.
5.
Nguyễn Bạt Tụy người làng Pha Lãng, huyện Thiên Tài, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, trong khoa này được xếp 6/36 hạng đệ tam. Khoa sau ông thi lại cũng chỉ được xếp hạng 18/35. Sau ông làm quan đến Lại bộ Thượng thư, tham dự triều chính với chức Thiếu sư, khi mất được dân làng thờ làm phúc thần thành hoàng.
6. Người thứ sáu là
Nguyễn Duy Tường, người làng Lý Hải, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đài, trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phúc), trong khao thi này được xếp 16/36 hạng đệ tam, ông không nhân đỗ vì lấy làm xấu hổ. Đến khoa thi sau, lúc 27 tuổi ông được xếp hạng đệ nhị giáp 4/9 (7/54 tổng người đỗ tiến sỹ khoa này). Sau ông làm đến chức Tham chính, vì có công với dân nên khi mất ông được phong Thượng đẳng phúc thần và được dân thờ cúng.
Đây là một việc làm hiếm thấy của 6 nho sinh dưới triều Lê. Phải biết là 5 thế kỹ trước, đường lên kinh ứng thi rất khó khăn, mỗi khoa thi kéo dài hàng tháng trời, khối lượng kiến thức thì bao la, nội quy trường thi thì khắt khe, đề thi thì súc tích, cô đọng, mỗi thí sinh nếu qua được 4 kỳ thi Hội và 1 kỹ thì Đình thì thực sự là vượt qua 5 cửa ải đầy gian khổ (còn gì là xuân). 6 người xin thi lại hy vọng được xếp hạng cao (mặc dù không phải ai cũng được như ý) đã nêu một tấm gương về lòng tự tin ở khả năng học của mình, về nghị lực kiên trì, ý chí quyết tâm cao trong học tập. Họ xứng đáng là những tấm gương sáng cho hậu sinh noi theo.
(Theo TGM)