Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:15:17 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường tới Điện Biên Phủ  (Đọc 70044 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #90 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 08:50:34 am »

4

Đây là lần thứ hai tôi vào Tây Bắc.

Lần đầu cách đây hơn 5 năm. Đó là sau khi rút khỏi Hà Nội, trên đường lên Việt Bắc, tôi đã từ Phú Thọ đi thăm Lào Cai và Sapa trên một chuyến tàu lửa trước khi phương tiện giao thông này biến mất trong chiến tranh. Và chỉ nửa năm sau đó, phần lớn những nơi tôi đi qua đã trở thành vùng tạm chiếm.

Chúng ta đã chú ý rất sớm tới vị trí chiến lược của Tây Bắc. giữa lúc còn đang bao vây Hà Nội, trong Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất tháng 1 năm 1947, Bộ Tổng chỉ huy đã quyết định mở mặt trận miền Tây, và bắt đầu có những đoàn quân Tây tiến. Bộ đội ta đã cùng với nhân dân Lào chiến đấu, nhanh chóng làm chủ tuyến sông Mã và Sầm Tớ, thọc sâu bao vây Sầm Nưa gây cho địch rất nhiều khó khăn. Địch đã phải điều lực lượng giải vây Sầm Nưa, thay quân ở Sơn La, rút khỏi Chợ Bờ, Lương Sơn ở Hòa Bình. Sau cuộc tiến công chiến lược Thu Đông năm 1947 vào căn cứ địa Việt Bắc, quân địch đã cố mở rộng phạm vi kiểm soát ở Tây Bắc ra tới hữu ngạn sông Hồng nhằm cô lập Việt Bắc, phong tỏa biên giới Việt - Trung, bảo vệ Thượng Lào.

Từ rất sớm, tôi đã nghĩ tới một đạo quân vu hồi chiến lược từ Việt Bắc qua Tây Bắc, Thượng Lào đi dọc đường sông Mê Công tới những vùng trù phú không thiếu lương thực, những căn cứ của bạn ở Trung Lào và Hạ Lào, tiến xuống Nam Bộ. Con đường này chắc ít khó khăn hơn so với tuyến đường dọc miền Trung phải vượt qua đầy rẫy quân địch, và nhất là nó sẽ tạo ra thế bất ngờ.

Cuối năm 1947, một đội vũ trang tuyên truyền Lào - Việt do đồng chí Cayxỏn Phômvihản và đồng chí Thao Ma chỉ huy đã từ Tây Bắc tiến về hoạt động ở Xiềng Khọ, một đội khác gồm 30 chiến sĩ Lào hoạt động ở Hứa Mường, hai nơi này đều thuộc tỉnh Sầm Nưa. Đầu năm 1948, Bộ Tổng chỉ huy chỉ thị cho Liên khu 10 phá kế hoạch chiếm đóng Tây Bắc của địch bằng cách đưa các đội xung phong công tác, đội vũ trang tuyên truyền, và đại đội độc lập vào vùng địch hậu phát động phong trào toàn dan đánh giặc, tiến tới mở rộng căn cứ địa Tây Bắc. Bốn đội Xung phong Quyết Thắng, Xung phong Quyết Tiến, Xung phong Trung Dũng, Xung phong Tây Bắc đã lên đường. Tháng 2 năm 1948, Tổng Quân ủy đã chỉ đạo Liên khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 10 tổ chức Ban xung phong Lào Bắc, hoạt động ở Thượng Lào…

Phải chăng con đường đang thực sự mở ra với chủ trương chuyển hướng chiến dịch của ta…

Vượt sông Hồng ở phía bắc thị xã Yên Bái, một đêm không trăng, trời đầy mây. Đứng trên phà, nước sông chảy xiết, nhìn bờ bên kia núi rừng tối đen. Vó ngựa chập chững trên đường 13 bị bỏ lâu ngày lầy lội, hết xuống dộc lại lên đèo, luôn có những khe núi cắt ngang. Những bản làng trên dọc đường dân đã bỏ đi, không một ánh lửa, lạnh lẽo.

Một chiến sĩ trung đoàn 102 đã làm mấy cây thơ:

      Một chiều qua bến Âu Lâu
      Bản làng hoang vắng, lòng sầu xót xa
      Đại quân đã vượt Hồng Hà…


Sau khi qua sông, các đơn vị chia thành nhiều hướng. Mũi tiến công chính, trung đoàn 88 và trung đoàn 102 theo đường mòn đi xuyên rừng vượt đèo Khâu Vác vào vị trí xuất phát tiến công Nghĩa Lộ. Trung đoàn 209 và trung đoàn 165 theo đường Thụy Cường, Nậm Bàng tới bao vây Gia Hội, chặn đường rút của quân địch từ Nghĩa Lộ về Sơn La. Trung đoàn 36 đi theo đường 13 qua đèo Bụt tiến vào Ca Vịnh, Cửa Nhì là hai tiền đồn của Nghĩa Lộ đững chặn ở hướng tây.

Trên đường hành quân, bộ đội nhận được thư của Bác:

“Gửi các cán bộ và chiến sĩ.

Chiến dịch này là chiến dịch quan trọng. Các chú phải đánh cho thắng.

Tất cả các chú,cán bộ cũng như chiến sĩ, đều phải:

-  Quyết tâm chiến đấu, tiệt để chấp hành mệnh lệnh.

- Bền bỉ, dẻo dai, vượt qua mọi gian khổ, khắc phục mọi khó khăn.

- Thương dân, trọng dân và tốt với dân.

- Tiêu diệt thật nhiều địch, giành cho được toàn thắng.

Bác chờ tìn thắng lợi của các chú để khen thưởng các chú”
.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #91 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 08:52:06 am »

Trời mưa, phần lớn các con đường đều hẹp, chỉ đi được một người. nhiều đoạn đèo dốc đứng, mũi người đi sau chạm vào chân người đi trước. Mỗi cánh quân đều có dân công gồng gánh lương thực, đạn dược đi theo, đội hình kéo dài vô tận. Số lượng dân công huy động trong chiến dịch đông hơn bộ đội. Mũi tiến công chính có đêm chỉ đi được năm, sáu kilômét! Điều này nằm ngoài dự kiến. Tham mưu đề nghị lui thời gian nổ súng lại hai ngày.

Sở chỉ huy chiến dịch đóng ở Khe Lóng, đông - nam Nghĩa Lộ 15km. Từ đây, ngoài con đượng chạy vào Nghĩa Lộ, còn một con đường đi Phù Yên, Gia Phù tới Tạ Khoa bên sông Đà, hướng phát triển chính của chiến dịch.

Bộ phận trinh sát của ta bám Nghĩa Lộ, báo cáo về quân địch mới tăng cường cho phân khu thêm 1 đại đội thuộc tiểu đoàn 8 Tabo, và dời sở chỉ huy phân khu từ vị trí Nghĩa Lộ Phố về đồi Pú Chạng, đang củng cố thêm công sự phòng ngự. Những thay đổi này chưa có gì đáng kể. Núi rừng Tây Bắc âm u sương mù vẫn im ắng. Tôi không hiểu vì sao cuộc chuyển quân rất lớn trong những ngày qua vẫn chưa bị địch phát hiện. Người Pháp đã viết thời gian này tìm thấy trong xác một sĩ quan Việt Nam tài liệu về một chiến dịch quy mô sẽ mở ra ở Bắc Lào, hướng thứ nhất từ Sơn La, Điện Biên Phủ nhắm vào Luông Phabăng, hướng thứ hai từ Mộc Châu qua Sầm Nưa nhắm và cao nguyên Trấn Ninh (?). Bộ chỉ huy Pháp coi đây chỉ là “một đông tác tâm lí nhằm che đậy những hoạt động chuẩn bị đánh đồng bằng”. Đúng là bộ chỉ huy Pháp không tính tới sự chuyển hướng tiến công của ta lên Tây Bắc. Nguồn tin chủ yếu của địch vẫn do bộ phận nghe trộm vô tuyến điện cung cấp. Địch tin là các đại đoàn chủ lực của ta còn ở những vị trí cũ phía bắc và phía nam đồng bằng Bắc Bộ. Từ ngày 20 tháng 9 ta chuyển sang mật mã mới thì cơ quan tình báo Pháp hoàn toàn mất phương hướng.

Nghĩa Lộ là một thung lũng chiều rộng từ 3 đến 8 kilômét, chiều dài 15 kilômét. Đây là một trong bốn vựa lúa ở Tây Bắc. Trên cánh đồng rộng, lúa chín vàng, một con ngòi êm đềm chảy ngang, các làng bản đều có hàng rào bao quanh, giống như những trại tập trung. Thị trấn Nghĩa lộ hiện lên giữa cánh đồng, với những ngôi nhà tranh, nhà ngói xen nhau. Đồn Nghĩa Lộ nằm ở cuối thị trấn trên một gò nhỏ, khá bằng phẳng, vốn là trại lính khố xanh cũ, được củng cố công sự khá vững chắc, do 400 quân bảo vệ. Một sân bay chạy dài từ đây tới hai ngọn núi cao nhọn hoắt, địa hình hiểm trở. Đó là Nghĩa Lộ Đồi, vừa chuyển thành sở chỉ huy phân khu có hơn 300 quân địch.

Ngày 14 tháng 10 năm 1952, chiến dịch Tây Bắc mở màn.

Trung đoàn 174 đánh Ca Vịnh, trung đoàn 141 đánh Sài Lương, hai vị trí nằm ở phía tây Nghĩa Lộ. Phát hiện lực lượng lớn của ta, quân địch ở hai cứ điểm này đều tháo chạy. Cùng ngày, ở phía nam, trên đường ra sông Đà, trung đoàn 98 diệt vị trí Gia Phù.

Mặc dù một loạt vị trí chung quanh phân khu bị tiêu diệt nhưng bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội, vẫn chưa nhìn thấy tầm vóc của cuộc tiến công. Ngày 15, Đờ Linarét điều một tiểu đoàn bộ binh lê dương lên Nà Sản nhằm bảo vệ Sơn La. Trong ngày, Tiriông, chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ, ném đại đội Tabo, vừa được tăng cường, về phía Khâu Vác thăm dò lực lượng của ta. Một đơn vị của 312 tiêu diệt gọn đại đội này ở Nậm Mười.

Ngày 16, quân địch ở các vị trí Thượng Bằng La, Ba Khe và một loạt vị trí nhỏ chung quanh những cứ điểm vừa bị tiêu diệt, từ động bỏ đồn rút chạy. Đờ Linarét đã thấy tình hình nghiêm trọng ở Nghĩa Lộ, vội ném tiểu đoàn dù 6 thuộc địa (6è BPC) của Bigia (Bigeard) xuống Tú Lệ, cách thị trấn hơn 30 kilômét, hòng làm giảm áp lực nhắm vào phân khu. Đây là cách làm của Xalăng trong chiến dịch Lý Thường Kiệt năm trước. 312 đã có mặt ở hướng này, đang chuẩn bị đánh Gia Hội.

Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho 308 bao vây địch chặt ở Nghĩa lộ, không cho chúng rút chạy về Sơn La, và nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Ngày 17, trong khi Tiriông chưa hiểu vị sao đại đội Tabo đi về phía Khâu Vác mất tăm, hai trung đoàn của 308 đã từ đỉnh núi cao 1.500 mét đổ xuống chiếm lĩnh trận địa chung quanh Nghĩa Lộ. Lợi dụng sương mù, từ 9 giờ sáng, các tiểu đoàn xung kích 102 cùng với pháo binh và súng phòng không đã có mặt trên những quả đồi đối diện với Pú Chạng đợi giờ nổ súng. Trung đoàn 88 chỉ còn chờ trời tối là sẽ tiến vào Nghĩa Lộ Phố. Phía đông, trung đoàn 36 đã bao vây Cửa Nhì, tiền đồn cuối cùng của Nghĩa Lộ trên đường từ Yên Bái vào.

Trong hội nghị phổ biến chiến dịch, Bác hỏi trung đoàn trưởng Vũ Yên, vừa qua đã đánh đồn Pheo:

- Lần này chú định thế nào?

- Thưa Bác, trận đánh trước cháu đánh chưa tốt, trận này cháu quyết đánh thắng.

Vũ Yên đã đề nghị đại đoàn trao cho 102 nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Pú Chạng, nơi địch đặt sở chỉ huy phân khu. Anh hứa với đại đoàn trưởng: “Chúng tôi cố gắng tiêu diệt Pú Chạng chậm nhất là 5 tiếng”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #92 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 08:53:52 am »

14 giờ 30 phút, súng cối 120 li của ta bắt đầu bắn vào trận địa pháo 105 li ở Nghĩa lộ Phố, tạo điều kiện cho các mũi xung kích của 102 dàn đội hình tiếp cận hàng rào cứ điẻm Pú Chạng. Ba tốp máy bay Hellcat, rồi một tốp máy bay B.26 nối nhau xuất hiện trên bầu trời. Chúng vừa trút bom , phá, bom napan, vừa bắn vào trận địa pháo và những nơi chúng nghi có bộ đội ta. Các chiến sĩ phòng không nỏ súng bắn rơi 2 chiếc Hellcat. Xung kích chờ dứt tiếng bom là băng qua màn khói, bám sát hàng rào, mở cửa đôt phá dưới hỏa lực dữ dội từ trong đòn bắn ra. Có người trúng napan, lăn mình dập lửa, rồi lại tiếp tục tiến lên. Đại đội chủ công 267 lọt vào đồn, nhanh chóng thực hiện thọc sâu, chia cắt quân địch. Sau 3 giờ tác chiến, trận đánh kết thúc tại hầm ngầm cố thủ giữa cứ điểm. Ta bắt sống 177 quân địch cùng với viên qua tư chỉ huy phân khu Tiriông.

Trung đoàn 88 đánh Nghĩa Lộ Phố, vào chiếm lĩnh trận địa chậm, mãi 3 giờ sáng ngày 18 mới nổ súng. Địch dùng máy bay thả pháo sáng, bắn vào trận địa ta. Bộ đội vừa đối phó với mày bay, vừa tiêu diệt những ổ đề kháng trong cứ điểm. 8 giờ sáng ngày 18, ta tiêu diệt hoàn toàn Nghĩa Lộ Phố, bắt 235 tên địch, với cả viên đại úy Bácbe (Barberre) chỉ huy quân tăng viện. Trong số vũ khí thu được có 2 khẩu lựu pháo 105 và hàng nghìn viên đạn.

Cũng trong đêm ngày 17, trung đoàn 98 tiêu diệt sở chỉ huy tiểu khu Phù Yên. Ngày 18, quân địch ở Vạn Yên rút chạy. Đêm ngày 18, trung đoàn 36 kết thúc số phận đồn Cửa Nhì, diệt và bắt sống 214 quân địch.
Sau trận Pú Chạng, tôi được tin đồng chí Vũ Phương, chiến sĩ thi đua của trung đoàn 102, hi sinh khi đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đồn địch, đi ra thì trúng bom của máy bay. Tôi biết Phương trong một tối lửa trại ở tiểu đoàn 18. Anh bộ đội bé nhỏ, xinh xắn, xuất hiện với điệu múa Mèo làm rộ lên tiếng cười. Điệu múa đã mang lại cho anh cái tên trìu mến: Phương Mèo. Người cán bộ vui nhộn ấy, đã chiến đấu với quân địch ở bến Bình Ca, đã chỉ huy bộ đội đánh thắng trận Non Nước, và lần này trên Pú Chạng. Tôi lặng đi một lát với ý nghĩ rồi đây sẽ có nhiều cán bộ, chiến sĩ ưu tú tiếp tục phải hi sinh.

Sự sụp đổ nhanh chóng của Nghĩa Lộ được đánh giá là một bất ngời bi thảm (tragique surprise) đối với bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội, vì nó đặt toàn phân khu vào tình trạng tuyệt vọng, không thể dùng lực lượng dù đẻ cứu nguy, báo hiệu những thất bại tiếp theo còn nghiêm trọng hơn. Xalăng từ Sài Gòn vội vã bay ra Hà Nội, ra lệnh cho tiểu đoàn 6 dù rút ngay về Nà Sản. Xalăng không thể mất thêm tiểu đoàn dù con cưng này sau khi Nghĩa Lộ thất thủ. Trước áp lực của 312 ở hướng tây - bắc, quân địch ở Gia Hồi bỏ đồn rút về phía sông Đà. Trung đoàn 165 truy kích liền năm ngày đêm, diệt và làm tan rã hàng trăm quân địch. Một tờ báo phương Tây viết về 6è BPC sau khi rút chạy khỏi Tú Lệ: “kiệt sức, nhem nhuốc, người đầy vắt, run lên vì sợ hãi và sốt rét lê chân về tới Nà Sản”. Tiểu đoàn này phải đưa về Hà Nội củng cố vì mất tinh thần.

Ở đông - nam thị xã Lai Châu, mũi vu hồi của tiểu đoàn 910 (trung đoàn 148) tiêu diệt vị trí Nậm Dìn, đánh tan 1 tiểu đoàn ngụy Thái và tiểu đoàn cơ động 17 Tabo (17è Tabor) tới cứu viện.

Ngày 23 tháng 10, đại đoàn 312 đã có mặt bên sông Đà.

Chỉ sau 11 ngày đêm chiến đấu, ta đã giải phóng vùng hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, làm chủ con đường 13 nối liền Yên Bái với Nghĩa Lộ. Ta tiêu diệt 500 quân địch, bắt sống trên 1.000 tên, trong đó có 300 lính Âu Phi, nhiều sĩ quan chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ và tiểu khu Phù Yên, thu hàng ngàn súng các loại và nhiều quân trang quân dụng.;

Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1.

Sở chỉ huy chiến dịch từ Khe Lóng chuyển về Gia Phù gần Tạ Khoa trên vùng đất vừa giải phóng.

Hướng chiến dịch được giữ tới giờ phút chót để giúp ta giành thắng lợi lớn trong đợt đầu, hạn chế được tổn thất. Một vùng đất rộng lớn nối liền sông Hồng với sông Đà đã thuộc về ta. Hai cánh quân của chiến dịch đã có mặt trước Mộc Châu và Sơn La, mũi thọc sâu xuất hiện trước Tuần Giáo đe dọa Lai Châu và đặt Sơn La vào thế bị bao vây. Tuy nhiên, số tiêu diệt sinh lực địch chưa cao. Trừ bộ phận đóng tại phân khu Nghĩa Lộ bị tiêu diệt gọn, những đơn vị khác của địch chỉ bị tiêu hao nặng. Một phần vì địch đánh hơi thấy quân ta là bỏ vị trí tháo chạy, một phần vị ta chưa thực hiện được bao vây chặt và truy kích địch ban ngày.

Một khó khăn mới xuất hiện. Vùng giải phóng nhanh chóng mở rộng kéo những tuyến tiếp tế giữa núi rừng hiểm trở dài thêm hàng trăm kilômét. Ngay sau chiến thắng, bộ đội đã thiếu gạo. Tuyến vận chuyển từ Mậu A qua đèo Khâu Vác vào Nghĩa Lộ theo kế hoạch mỗi ngày vận chuyển 15 tấn, chỉ thực hiện được 6-7 tấn, thậm chí có ngày nửa tấn. Bộ đội ở Nghĩa Lộ là nơi gần hậu phương nhất cũng bị đói. Cơ quan tham mưu đề nghị tạm ngừng hoạt động quân sự và tập trung bộ đội đi vận chuyển gạo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #93 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 08:56:12 am »

Anh Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Cung cấp, được tin vội từ hậu phương ra mặt trận. Sau khi tìm hiểu tình hình, anh Ninh quyết định bỏ tuyến vận chuyển Khâu Vác, tuy kín đáo, ít bị máy bay đe dọa, nhưng chỉ là đường mòn qua nhiều đèo cao, suối sâu chuyển sang đường 12 vận chuyển bằng cơ giới. Nhưng tuyến đường này bị hỏng nặng từ lâu. Công binh ra sức sửa đường dưới bom đạn của máy bay địch, gần một tháng mới thông xe đưa gạo từ Phú Thọ lên. Ta cũng quyết định sửa gấp đường 14 từ Hồi Xuân lên Xóm Lồm để vận chuyển gạo từ Thanh Hóa cho chiến dịch, và sửa đoạn đường số 6 từ Suối Rút lên Mộc Hạ. Ngoài số ô tô có hạn, dân công Thanh Hóa còn có sáng kiến dùng xe đạp thổ thay quang gánh. Mỗi xe đạp có thể đưa mực vận chuyển lên từ năm tới mười lần so với quang gánh. Từ sau chiến dịch Tây Bắc cho tới hết chiến tranh chống Mỹ, xe thồ trở thành một phương tiện vận chuyển quan trọng của bộ đội ta.

Hệ thống phòng ngự bên tả ngạn sông Đà sụp đổ khiến Pari rất lo lắng. Plêven thúc giục Xalăng nhanh chóng đối phó. Xalăng vội vã tăng thêm cho Tây Bắc 9 tiểu đoàn, cộng với 7 tiểu đoàn còn lại, đưa quân số ở Tây Bắc lên 16 tiểu đoàn và 32 đại đội. Địch phân tán lực lượng cơ động từ đồng bằng lên Tây Bắc là điều ta mong đợi.

Quân địch ở Tây Bắc dồn về Nà Sản và Lai Châu nằm bên hữu ngạn sông Đà. Hai nơi này được tổ chức thành hai mặt trận. Mặt trận Sơn la, kéo dài từ Mường Sài tới Mộc Châu, do đại tá Gin chỉ huy. Gin là người đã tổ chức cuộc rút lui của Pháp ở Hòa Bình. Lần này Gin được Xalăng trao trọng trách lập một phòng tuyến bên sông Đà ngăn chặn bộ đội ta vượt sông, và xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở Nà Sản. Lực lượng dành cho phòng tuyến ngăn chặn là 5 tiểu đoàn. Gin tổ chức thành 3 chi đoàn, chiếm đống 3 khu vực Hát Tiếu - Mường Lụm, Tạ Khoa, Bản Hoa, là những nơi ta có thể vượt sông. Các chi đoàn này dưa vào những cứ điểm cũ, mở rộng thêm, đưa vị trí tới sát bờ sông. Mặt trận Lai Châu do tên đại tá Lagioa (Lajoix) chỉ huy, có 4 tiểu đoàn, chia nhau đóng giữ thị xã Lai Châu, Phong Thổ, Pác Má và Điện Biên Phủ. Ngoài ra, ở Tuần Giáo, Mộc Châu, Thuận Châu, Quỳnh Nhai, mỗi nơi địch đóng 1 tiểu đoàn.

Riêng việc xây dựng tập đoàn xứ điểm ở Nà Sản đòi hỏi phải có thời gian từ bốn tới năm tuần lễ. Ở đây đã có sẵn một sân bay dã chiến và căn cứ của đơn vị bảo vệ sân bay. Địch phải lập cầu hàng không để vận chuyển vật liệu, phương tiện, vũ khí từ Hà Nội lên, và huy động nhân lực lớn để xây dựng một hệ thống cứ điểm nhiều lớp nhiều tầng xung quanh sân bay. Xalăng quyết định giành thời gian cần thiết này bằng cách mở một cuộc hành binh đánh lạc huống nhằm vào căn cứ hậu cần chiến dịch ở Phú Thọ.

Trước sự thay đổi bố trí phòng ngự của địch bên hữu ngạn sông Đà, Bộ cy chiến dịch chủ trương: trong đợt 2 tập trung lực lượng ở hướng chính, gồm 3 trung đoàn của 308, 312, 316 và đại đoàn công pháo 351, nhằm tiến công khu vực Tạ Khoa - Ba Lay - Mộc Châu, phá vỡ khu vực phòng thủ chủ yếu của địch trên tuyến sông Đà, tạo điều kiện tiêu diệt địch ở Sơn La, Nà Sản; đồng thời tăng cường lực lượng cho mũi thọc sâu ở hướng phụ đông - nam Lai Châu, nhằm giải phóng Quỳnh Nhai, sau đó phát triển xuống Tuần Giáo, Luân Châu, Thuận Châu phối hợp với những hướng chính. Lực lượng ở hướng phụ gồm trung đoàn 165, tiểu đoàn 910 của trung đoàn 148 cùng với lực lượng vũ trang địa phương. Hướng phụ sẽ nổ súng trước để thu hút sự chú ý của địch.

Tôi trao nhiệm vụ cho đồng chí Bằng Giang, chỉ huy cánh quân thọc sâu, sau khi giải phóng Tuần Giáo, đánh về Thuận Châu để phối hợp với hướng chính, sẽ tách ra 1 tiểu đoàn cùng với một phân đội pháo mở một mũi vu hồi nhanh chóng tiến vào giải phóng Điện Biên Phủ, nơi quân Pháp mơi đưa 1 tiểu đoàn ngụy Lào tới chiếm giữ. Ta không để các cố vấn biết việc này vì bạn chưa quen với chiến trường Việt Nam, có thể coi đây là một chủ trương mạo hiểm.

Trong lúc ta đang tích cực chuẩn bị vượt sông Đà thì được tin ngày 5 tháng 11 năm 1952, một lực lượng lớn quân địch do Đờ Linarét, tư lệnh Bắc Bộ, trực tiếp chỉ huy, đánh lên Phú Thọ, đe dọa hậu phương của chiến dịch. Đây là cuộc hành binh Loren (Lorraine). Địch đã huy động vào cuộc hành binh này phần lớn lực lượng cơ động ở Bắc Bộ, gồm 13 tiểu đoàn bộ binh của các binh đoàn cơ động số 1, số 2, số 3, số 4, số 5, 3 tiểu đoàn dù, 2 hải đoàn xung kích, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn cơ giới, 7 đại đội công binh.

Ta đã dự kiến khi mở chiến dịch Tây Bắc, địch có thể đánh lên Phú Thọ, nên đã bố trí tại đây trung đoàn 176, 1 tiểu đoàn của trung đoàn 246 cùng với bộ đội địa phương với nhiệm vụ ngăn chặn quân địch, bao vây nhân dân, bảo vệ kho tàng. Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định cuộc hành binh “Loren” là hoạt động đối phó bị động, không có ý định chiếm đóng Phú Thọ. Ta quyết định chỉ rút khỏi đội hình chiến dịch 1 trung đoàn, nhanh chóng quay về tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, cùng với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương phá âm mưu địch tiến sâu vào hậu phương ta. Đơn vị được trao nhiệm vụ là 36. trung đoàn vẫn do tiền phương Bộ Tổng tư lệnh chỉ huy. Thời gian nổ súng đánh địch ở Phú Thọ được quy định chậm nhất là ngày 14 tháng 11 năm 1952, trước khi đợt 2 chiến dịch bắt đầu.

Mục tiêu và kế hoạch đợt 2 chiến dịch vẫn không thay đổi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #94 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 08:59:15 am »

5

Trước sự rút chạy hốt hoảng của địch, các cánh quân ta từ nhiều hướng, ào ạt theo đường lớn đổ về những khu vực quân địch đang dồn lại. Không còn là những chiến sĩ “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” trong bài thưo của Quang Dũng năm xưa, các binh đoàn tràn đầy sinh lực tiến quân với khí thế chiến thắng. Thời gian này đã ra đời bài hát của Nguyễn Thành trong đội văn công 308:

      Qua miền Tây Bắc, núi vút ngàn trùng xa
      Suối sâu, đèo cao bao khó khăn vượt qua
      Bộ đội ta vâng lênh Cha già
      Về đây giải phóng quê nhà…


Bài hát này còn vang lên trong những đêm hành quân mỗi lần bộ đội tiến vào Tây Bắc sau này, kể cả chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngày 7 tháng 11 năm 1952, trung đoàn 165 ở hướng thọc sâu nổ súng ở Quỳnh Nhai. Địch lầm tướng đây là hướng chính, lập tức tăng cường từ đồng bằng lên Lai Châu 2 tiểu đoàn. Địch cũng đồng thời tăng cường cho Nà Sản 2 tiểu đoàn.

Ngày 8 tháng 11, quân địch ở Tuần Giáo và Luân Châu hoang mang rút chạy. Địch vội điều 1 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn ngụy tới tiểu khu Quỳnh Nhai. Bị bộ đội ta chặn đánh thiệt hại nặng, chúng rút chạy về Lai Châu và Thuận Châu.

Lúc này, ở mặt trận Phú thọ, quân địch đã lên tới Yên Bình, cách căn cứ xuất phát của ta 150 kilômét. Chúng chỉ chạm trán với những lực lượng nhỏ của quân ta. Chúng không gặt hái được gì ngoài việc phá vài kho lương thực và súng đạn ta bố trí phân tán trong rừng. Sự có mặt 30.000 quân Pháp ở đây mang lại cho Bộ chỉ huy Pháp một gánh nặng mới. Cuộc hành binh đã giam chân phần lớn lực lượng cơ động ở Phú Thọ trong tình hình địch hậu đồng bằng trở nên nóng bỏng với sự uy hiếp của đại đoàn 320 và đại đoàn 304. Nó cũng thu hút hầu hết lực lượng vận tải đáng lẽ phải dùng tiếp tế hàng ngày cho tập đoàn cứ điểm Nà Sản đang hình thành. Mặt khác, có thể đã phát hiện một bộ phận chủ lực của ta ở Tây Bắc đang quay về đe dọa phía sau lưng chúng, trung tuần tháng Mười một, Xalăng ra lệnh rút quân.

Trung đoàn 36 mở một cuộc hành quân thần tốc về Phú Thọ. Nhiều chiến sĩ của ta là con đẻ của miền đất trung du này. Bộ đội đi suốt ngày đêm. Các chiến sĩ nuôi quân dùng đòn gánh khiêng nồi trên vai, vừa đi vừa nấu cháo, nấu nước phân phát cho bộ đội.

Ngày 13 tháng 11, trung đoàn 36 đã có mặt ở Phú Thọ và khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh.

Ngày 17 tháng 11, một đoàn xe của GM4 về tới Chân Mộng trên đường số 2 lọt vào trận địa phục kích của quân ta. Trận đánh diễn ra quyết liệt cả buổi chiều và buổi tối hôm đó. Trung đoàn 36 tiểu đoàn và bắt sống 400 quân địch do viên quan tư Kecgaravat (Kergaravat) chỉ huy và 44 xe cơ giới. Đường số 2 trở thành mồ chôn giặc Pháp. Trong trận này, tiểu đoàn trưởng Sơn Mã, một cán bộ chỉ huy rất dũng cảm, hi sinh. Trước khi diễn ra trận đánh, địch bắt được một chiến sĩ tân binh của trung đoàn 36. Tên anh là Lê Văn Hiến. Mặc dù bị địch tra khảo, Hiến nhất định không chịu khai tên đơn vị nên đã bảo đảm được tính bất ngời của trận đánh. Bị bộ đội và dân quân du kích đánh chặn liên tiếp trên đường rút quân, ngày 23 tháng 11, quân địch mới về tơi Việt Trì. Đêm ngày 24 tháng 11, trung đoàn 36 truy kích tới nơi, tiêu diệt vị trí Núi Quyết, một vị trí tiền tiêu của Việt Trì, xóa sổ một đại đội cùng với sở chỉ huy tiểu đoàn 1 ngụy Mường.

Tại Tây Bắc, việc tổ chức cho bộ đội vượt song Đà không dễ dàng. Ta đề ra yêu cầu bí mật, nhanh chóng vượt sông, nhưng đồng thời phải sẵn sàng vượt sông bằng sức mạnh.

Sông Đà khá lớn, nước chảy rất xiết. Thời tiết mùa đông giá lạnh. Bên kia sông là vùng địch kiểm soát, không thể bắc cầu phao qua sông. Lại không có phương tiện vượt sông. Từng đơn vị phải tự làm bè mảng. Bộ đội ta nhiều người chưa biết bơi hoặc chỉ biết bơi chút ít. Phải bàn bạc cách qua sông an toàn, bảo vệ được vũ khí, đạn dược lương thực khỏi bị ướt, cách đưa vũ khí nặng sang sông, cách đối phó trong trường hợp bị pháo binh, máy bay và bộ binh địch ngăn chặn.

Các đơn vị đều tổ chức một bộ phận gồm những người bơi giởi sang sông trước chiếm lĩnh đầu cầu để đảm bảo bến vượt.

Cũng đúng ngày 17 tháng 11, trên hướng chính của chiến dịch, bộ đội ta đã vượt sông Đà và bắt đầu nổ súng.

Trong đêm 17, trung đoàn 209 tiêu diệt vị trí Bản Hoa. Đêm tiếp theo, trung đoàn 141 tiêu diệt vị trí Ba Lay. Với hai trận đánh, đại đoàn 312 đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 3 Marốc và 1 đại đội ngụy binh, bắt viên tiểu đoàn trưởng Rukét (Rouquette), xóa sổ chi đoàn này.

Ngày 18 tháng 12, trung đoàn 102 tiêu diệt vị trí Hát Tiếu, trung đoàn 88 tiêu diệt vị trí Mường Lụm, xóa sổ chi đoàn Bêthơnốt (Béthenot). Chi đoàn Phavrô (Favreau) hốt hoảng bỏ Tạ Khoa chạy về Cò Nòi. Đại đoàn 308 truy kích diệt sách phòng tuyến địch bên bờ sông Đà.

Ngày 19 tháng 10, địch điều 2 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn lê dương từ Nà Sản lên lập một khu phòng thủ mới ở Chiềng Đông, Yên Châu, Cò Nòi để ngăn chặn quân ta phát triển theo trục đường 41 tiến về Nà Sản, Sơn La. Lực lượng địch tại khu vực đã lên đến 5 tiểu đoàn. Trung đoàn 88 tiêu diệt gọn tiểu đoàn ngụy số 55 và 1 đại đội dù. Khi bộ đội ta tới Chiềng Đông và Cò Nòi thì cả 4 tiểu đoàn có mặt ở khu vực đã bỏ vị trí rút chạy về Nà Sản. 88 tiếp tục truy kích tới Nà Sản, bị chặn lại trước vị trí tiền tiêu Pú Hồng. Đêm đó, trung đoàn tập kích vị trí Pú Hồng nhưng không thành công.

Cũng trong ngày 19, trung đoàn 174, có trung đoàn 98 phối hợp, đánh Mộc Châu. Mộc Châu là chiếc lá chắn trên đường số 6. Trận đánh được chuẩn bị rất kĩ. Bộ chỉ huy chiến dịch theo dõi diễn biến từng giờ. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Giờ đầu các mũi tiến công ở hướng chủ yếu đột phá không thành công. Nhưng mũi thứ yếu chiếm được hai vị trí tiền tiêu phát huy các loại hỏa khí yểm hộ cho các hướng phát triển.Các mũi lần lượt chiếm các lô cốt, ụ súng, trận địa pháo. Sau 2 giờ 15 phút chiến đấu, quân địch đầu hàng. Viên tiểu đoàn trưởng Vanhxăng (Vincent) đã từng ở Tây Bắc trên hai mươi năm bị bắt sống.

Mộc Châu bị tiêu diệt, địch ở vị trí Chiềng San, sông Con, Tạ Say, Sa ệt, Tạ Khoa… vội vã rút chạy.

Đường số 6 được khai thông, bảo đảm việc tiếp tế vận chuyển cho chiến dịch. Cửa ngõ và Tây Bắc đã mở.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #95 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 09:02:41 am »

Ở hướng thọc sâu đông - nam Lai Châu, từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 11, các tiểu đoàn của 165 tiến vào Mường Sài tiêu diệt 4 đại đội địch, sau đó diệt thêm một đại đội ngụy ở Mường Piềng. Địch ở Thuận Châu bỏ chạy. Trung đoàn 165 tiếp quản Thuận Châu, đánh viện diệt 2 đại đội Âu Phi từ Điện Biên Phủ về định tăng cường cho Thuận Châu.

Ngày 18 tháng 11, địch rút Sơn La. Trung đoàn 165 tiếp quản Sơn La, truy quét bắt gần 500 tàn binh địch và trên 100 nhân viên ngụy quyền. Đồng chí Bằng Giang cho 1 tiểu đoàn truy kích địch về phía Nà Sản, 1 tiểu đoàn truy kích về Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn đi về phía Nà Sản phải dừng lại trước tập đoàn cứ điểm. Tiểu đoàn đi về Điện Biên Phủ đã bắt gọn tiểu đoàn ngụy Lào số 58 (58è BCL) với viên thiếu tá tiểu đoàn trưởng Xica (Sicard).

Hướng phụ hoàn thành vượt mức nhiệm vụ, tiêu diệt trên 400 địch, bắt sống 1.000, giải phóng một vùng đất rộng lớn gồm 6 huyện: Than Uyên, Quỳnh Nhai, Tuần Giáo, Mường La, Thuận Châu, Điện Biên Phủ và thị xã Sơn La, rộng khoảng 3.000 kilômét vuông với 100.000 dân. Hành động táo bạo, quả cảm của mũi thọc sâu với lực lượng không đông, đã tạo nên sự bất ngờ, mang lại thắng lợi lớn. Theo kế hoạch dự kiến, giải phóng tây -  bắc Sơn La là nhiệm vụ của đợt 3 chiến dịch.

Sang đợt 2 của chiến dịch, hướng phối hợp ở đồng bằng Liên khu 3 bắt đầu hoạt động mạnh.

Ngày 14 tháng 11, trung đoàn 48 (320) đánh 3 vị trí địch ở Phát Diệm, diệt 3 tiểu đội Âu Phi thuộc tiểu đoàn 26 BMTS. Trung đoàn 57 (304) phục kích quân địch tăng viện cho Phát Diệm bắn đắm 3 tàu chiến, bắn cháy 1 chiếc khác, diệt 500 lính Âu Phi thuộc binh đoàn cơ động số 2 đi trên tàu. Tiếp đó, 304 tiêu diệt vị trí Bến Xanh.

Ngày 17 tháng 11, trung đoàn 53 (320) tiến công 1 vị trí, phục kích tiêu diệt 1 đo địch, phá hủy 19 xe. Trung đoàn 64 mới vào địch hậu Hà Nam, Nam Định, tiêu diệt 3 vị trí địch và diệt 1 đại đội đi càn quét, mở rộng thêm căn cứ ở vùng đồng chiêm.

Ngày 25 tháng 11 năm 1952, đợt 2 chiến dịch Tây Bắc kết thúc.

Sở chỉ huy chiến dịch chuyển về phía tây Tạ Khoa trên đường đi Cò Nòi.

Nhìn chung, trong đợt 2 chiến dịch, các chiến trường đều hoạt động tốt. Riêng ở Tây Bắc, ta đã tiêu diệt thêm khoảng 3.000 quân địch, trong đó có 2 tiểu đoàn 3/1 RTM, 3è BAT, phần lớn 2 tiểu đoàn ngụy 55 và 56 BVN, một bộ phận tiểu đoàn dù 2è BPC. Ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Sơn La trừ Nà Sản, một số vị trí nhỏ ven sông Mã và một bộ phận đất đia quan trọng thuộc tỉnh Lai Châu.

Tại Tây Bắc, toàn bộ quân địch đã dồn về Nà Sản và thị xã Lai Châu. Tổng số quân địch ở Nà Sản có khoảng từ 36 đến 38 đại đội, trong đóc 4 tiểu đoàn lê dương tương đối nguyên vẹn, 2 tiểu đoàn Bắc Phi và 2 tiểu đoàn Thái mới phục hồi. Địch đóng trên 24 cứ điểm đại đội và 4 cứ điểm trung đội. Các cứ điểm đều bố trí trên đồi cao, công sự dã chiến, bao bọc chung quanh sân bay, trận địa pháo và sở chỉ huy. Tập đoàn cứ điểm được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, nhưng tinh thần binh lính sút kém nhiều do những thất trận vừa qua. Địch chỉ có một cách tiếp tế duy nhất là không quân.

Về phía ta, thươngvong trong hai đợt chiến dịch tuy ít, nhưng sức khỏe bộ đội giảm sút nhiều vì liên tục chiến đấu và truy kích đường dài. Tinh thần quân và dân đều phấn khởi vì đang trên đà thắng lợi. Ta cũng đã giải quyết được vấn đề tiếp tế, nhờ những tuyến đường vận chuyển cơ giới thông suốt từ hậu phương lên tới gần Nà Sản. Lực lượng ta lúc này còn 36 đại đội, tương đường với lực lượng quân địch.

Trên cơ sở những nhận định đó, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định triển khai đợt 3 chiến dịch theo đúng kế hoạch. Mục tiêu của đợt 3 là tập trung toàn bộ lực lượng tiến công tiêu diệt địch ở Nà Sản, giành toàn thắng cho chiến dịch. Phương châm tác chiến là: Đánh chỗ yếu trước, chỗ mạnh sau, bao vây toàn diện, công kích có trọng điểm, đánh ngoại vi trước, tranh thủ mở một mặt rồi đánh vào tung thâm.

Mở đầu đợt 3 chiến dịch, ta chủ trương tập trung lực lượng đột phá vào các điểm tựa ở vòng ngoài, từ đó khống chế pháo binh địch và sân bay, phát triển chiến đấu vào trong, tạo thời cơ tiêu diệt tập đoàn cứ điẻm.

Đêm ngày 30 tháng 11, hai tiểu đoàn của 308 cùng phối hợp đánh vị trí Pú Hồng (điểm cao 753). Sau 1 giờ 45 phút chiến đấu, bộ đội ta tiêu diệt hoàn toàn 4 trung đội của binh đoàn cơ động số 1 đóng tại đây, bắt sống viên quan ba chỉ huy Mêtét (Métais). Cùng lúc, 1 tiểu đoàn của 312 tiến công vị trí Bản Hời. Sau hơn một giờ chiến đấu, đại đội địch đóng tại đây bị tiêu diệt. Nhưng ngày hôm sau, dưới sự yểm trợ của máy bay và đại bác, địch mở nhiều đợt xung phong đánh bật bộ đội ta ra khỏi Pú Hồng và chiếm đóng lại vị trí.

Đêm ngày 1 tháng 12, trung đoàn 209 tiến công Bản Vây, cứ điểm chính trong cụm cứ điểm phòng ngự ở phía nam Nà Sản, do 2 đại đội lê dương bảo vệ. Trung đoàn 174 được phối thuộc 1 tiểu đoàn của 308, đánh vị trí Nà Si. Cả hai trận đánh đều không thành công. Trời sáng, địch dùng máy bay oanh tạc vào đội hình quân ta và bắn trên 5.000 quả đạn pháo để cứ nguy cho các cứ điểm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #96 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 09:03:42 am »

Trong ngày 2 tháng 12, địch thả dù tăng cường thêm cho Nà Sản hai tiểu đoàn.

Những cứ điểm bộ đội ta đánh trong đợt này chỉ có quân số từ đại đội tăng cường tới 2 đại đội. Chúng không mạnh hơn Nghĩa Lộ, Pú Chạng, Mộc Châu… về công sự cũng như địa hình phức tạp. Trong từng trận đánh, ta đều sử dụng những đơn vị có kinh nghiệm, và tập trung ưu thế binh lực. Nhưng vì đâu phần lớn trận đánh đều không thành công? Một nguyên nhân là bộ đội mệt mỏi sau nhiều ngày truy kích, đội hình các đơn vị đều xộc xệch. Nhưng so với chiến dịch Biên Giới thì sự mệt mỏi và xáo trộn trong đội hình lần này chưa bằng. Trong từng trận đánh, cán bộ và chiến dịch ta đều có quyết tâm tiêu diệt địch rất cao. Nguyên nhân chính là do những cứ điểm này nằm trong hệ thóng cấu trúc chặt chẽ của một tập đoàn cứ điểm. Người Pháp coi đây là một chiến lược ngăn chặn mới. Muốn đánh bại chiến lược này, cần phải có thời gian!

Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc.

Ngày 10 tháng 12 năm 1952, hội nghị sơ kết chiến dịch được tổ chức ngay tại sở chỉ huy tiền phương, gần Tạ Khoa.

Chiến dịch Thu Đông năm 1952 đã thành công vượt mức dự kiến.

Ở hướng chính Tây Bắc, ta đã tiêu diệt và bắt 6.029 quân địch, trong đó có hơn 1.000 Âu Phi và nhiều sĩ quan. Ta còn thu được thắng lợi quan trọng ở Phú Thọ, tiêu diệt 1.711, bắt 173. Chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ tranh thủ nhân dân và giải phóng đất đai. Vùng mới giải phóng ở Tây Bắc rộng 28.000 kilômét vuông với 250.000 dân. Ở hướng đồng bằng Liên khu 3, ta đã tiêu diệt 12 vị trí cỡ đại đội, diệt 4.031, bắt 1.846, mở rộng nhiều khu căn cứ ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng. Tính chung toàn Bắc Bộ sau hai tháng chiến đấu, ta tiêu diệt và bắt 13.850 quân địch, trong dó có nhiều đơn vị tiểu đoàn và đại đội, thu nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

Chủ trương của Tổng Quân ủy trong chiến dịch này là đánh vào chỗ yếu và hiểm yếu của địch, buộc chúng phải tăng viện đối phó, tiêu diệt sinh lực, giải phóng một vùng đất chiến lược, đã khẳng định tính đúng đắn của nó. Với việc chuyển hướng tiến công lên Tây Bắc, ta tiếp túc đánh địch trên cả hai mặt trận: rừng núi và đồng bằng. Chiến dịch Tây Bắc mùa khô năm 1952 đã khẳng định một phương hướng chiến lược mới được mở ra từ chiến dịch Hòa Bình. Ta hoàn toàn có khả năng điều động quân địch từ đồng bằng lên rừng núi để chiến đấu giành thắng lợi.

Phần lớn những đơn vị có mặt ở Tây Bắc đã tham gia chiến dịch Biên Giới. Một lần nữa họ lại chứng kiến cảnh quân địch hốt hoảng rút chạy khỏi những cứ điểm như ong vỡ tổ. Không phải mọi người đều bằng lòng khi có lệnh kết thúc chiến dịch. Tôi nói:

- Ta chủ trương đánh Nà Sản do căn cứ báo cáo và tình huống giữa địch và ta lúc đó. Sau cuộc tiến công không thành công, địch lại tăng viện cho Nà Sản, nếu đánh nữa thì không chắc thắng trong khi đó vùng giải phóng của ta rất rộng mà chưa được củng cố, chủ trương đình chỉ cuộc tiến công Nà Sản là chính xác để tích cực củng cố và phát triển những thắng lợi vừa qua. Ta không đánh Nà Sản, địch có thể đánh lan ra vài nơi trong vùng mới giải phóng. Nhưng tình hình hiện nay ở Tây Bắc khác trước là bọn ngụy quân, ngụy quyền bị tiêu diệt phần lớn, nhân dân Tây Bắc đã giác ngộ và tham gia kháng chiến, chủ lực ta còn ở lại bảo vệ địa phương thì âm mưu địch quay trở lại Tây Bắc sẽ gặp nhiều khó khăn.

Theo chủ trương của Bộ Chính trị, tôi tổ chức một cuộc họp cán bộ Khu Tây Bắc bàn kế hoạch giữ vững và phát huy thắng lợi của chiến dịch. Cuộc họp thống nhất cần chú trọng thực hiện những chính sách dân tộc của Đảng, đoàn kết toàn thể các dân tộc Tây Bắc nhằm xây dựng Tây Bắc thành một căn cứ địa vững chắc của cả nước.

Trung đoàn 174 và một bộ phận pháo binh ở lại Tây Bắc cùng với bộ đội địa phương ngăn chặn quân địch ở Nà Sản. Hai trung đoàn 141,98 cùng với một bộ phận pháo binh do đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn chỉ huy, đi theo đường Cò Nòi, Mường Hét sang nước Lào về Thanh Hóa, vừa khuếch trương chiến quả, vừa làm công tác nghi binh. Các đơn vị còn lại trở về khu căn cứ theo đường 41 và đường 13.
Mùa khô kết thúc, Bộ Tổng tham mưu được trao nhiệm vụ tổ chức ngay hội nghị tổng két chiến dịch khi về tới căn cứ, và gấp rút chuẩn bị cho một chiến dịch mới.

Trên đường về, xe chạy trên những con đường vừa được phục hồi giữa vùng giải phóng, nhìn những ngôi nhà sàn ấm áp ánh lửa, bộ đội, dân công nhộn nhịp ra vào, tôi cảm thấy một ngày mới của cuộc kháng chiến đang bắt đầu. Nhưng cũng giống như mỗi bước chuyển trong chiến tranh, những thuận lợi bao giờ cũng kèm theo những thách thức. Thách thức mới lúc này là sự xuất hiện của tập đoàn cứ điểm tại Nà Sản.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Sáu, 2009, 04:15:17 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #97 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 04:06:53 pm »

Chương mười hai

MÙA XUÂN SẦM NƯA

1

Tôi về tới khu căn cứ vào tháng 1 nam 1953, vừa kịp dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư. Tại hội nghị, Bác trình bày một bản báo cáo quan trọng.

Về tình hình kháng chiến, Người nhận định: Đầu năm 1953, địch thất bại to ở Hòa Bình, cuối năm, thất bại to ở Tây Bắc. Càng thất bại chúng càng điên rồ. Muốn chiếm nước ta làm căn cứ quân sự để tiến công Trung Quốc, chúng sẽ cố chết bám lấy Đông Dương. “Từ nay cuộc chiến tranh giữa ta với địch sẽ gay go, phức tạp hơn”. Để duy trì kháng chiến trường kì và đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Người nêu ra hai vấn đề chính: một là, lãnh đạo kháng chiến; hai là, phát đồng quần chúng tiến đến cải cách ruộng đất.

Về chỉ đạo kháng chiến, Người đề ra cần tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Trên chiến trường Bắc Bộ, bộ đội chủ lực phải dùng vận động chiến một cách linh hoạt để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, đồng thời dùng công kiên chiến hút quân địch đến mà đánh, phân tán lực lượng địch, làm rối loạn kế hoạch địch và tạo điều kiện cho vận động chiến. Chiến trường sau lưng địch phải đẩy mạnh chiến tranh du kích để mở rộng và củng cố những căn cứ kháng chiến. Luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội, bồi dưỡng cán bộ, coi đó là khâu chính trong các công tác. Phải có kế hoạch chung về việc xây dựng bộ dội, tăng cường và cải thiện dần trang bị cho bộ đội, coi trọng xây dựng pháo binh.

Về thực hiện chính sách ruộng đất, Người chỉ ra: Nền tảng của vấn đề dân tộc là ruộng đất vì nông dân chiếm đa số trong dân tộc. Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.

Hội nghị hoàn toàn nhất trí với những điều Bác đã đề ra.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định: “Lực lượng ta phát triển không đều, ở Bắc Bộ chủ lực ta trưởng thành nhanh chóng, nhưng chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích Trung Bộ và Nam Bộ phát triển không được mấy… Vì vậy địch có thể tập trung ở Bắc Bộ đến hai phần ba quân ở Đông Dương để đối phó với ta. Trên các chiến trường Trung, nam… chúng sơ hở nhiều. Đồng bằng Bắc Bộ là chỗ cứng của địch, các chiến trường khác tiêu diệt mềm… Phương châm chỉ đạo chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta là trường kì kháng chiến tự lực cánh sinh, vì vậy ta không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh kiên quyết cho kì thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh”.

Hội nghị xác định phương châm tác chiến hiện thời là: “Tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh địch ở những nơi sở hở, đồng thừoi phải hoạt động ở sau lưng địch”, “bộ đội chủ lực thì vận động chiến là chính, công kiên chiến là phụ. Trên chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ và các chiến trường ở Trung Bộ và Nam Bộ du kích chiến là chính”.

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ngay sau ngày cách mạng thành công, Chính phủ đã có thông tư tạm chia ruộng đất vắng chủ cho dân nghèo theo nguyên tắc dân chủ và giảm tô 25%. Nhưng sau đó chiến tranh diễn ra quyết liệt, ta chưa có điều kiện làm thêm. Căn cứ vào yêu cầu cấp bách của kháng chiến, Hội nghị quyết định: “Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của bọn đế quốc xâm lược ở Việt Nam”, “thức hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân”. Trước mắt, trong năm 1953 “phát động quần chúng nông dân đấu tranh đòi triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân”, “thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất”.

Tiến hành cải cách ruông đất trong kháng chiến là một chủ trương đúng đắn của Đảng. Nó góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến. Tiếc rằng trong quá tình thực hiện sau này ta vận dụng máy móc một số kinh nghiệm của bạn nên phạm phải một số sai lầm.

Năm 1952, ta đã giữ vững quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ. Trong tình hình lực lượng ta còn yếu hơn địch, đây là một thành công đáng kể. Đạt được thành tự này là do ta đã mở một mặt trận mới thực sự ở vùng sau lưng địch.

Từ đầu năm 1953, với những cố gắng của Đờ Lát trước đây, quân đội ngụy đã có 35 tiểu đoàn bộ binh, trong số đó, 20 tiểu đoàn là do người Việt chỉ huy. Cách đào tạo quân đội ngụy rập khuôn theo kiểu Pháp. Sĩ quan đều được tuyển mộu từ những trường trung học, huấn luyện tại các trường Đà Lạt, Thủ Đức… rồi tung ra chiến trường. Khi tác chiến, các tiểu đoàn ngụy vẫn do Pháp chỉ huy. Ở Nam Bộ, Pháp đã từng bước bàn giao cho quân ngụy bảo vệ những địa bàn quân sự, làm công việc bình định. Quân Pháp tập trung vào nhiệm vụ càn quét, tìm diệt lực lượng ta. Chúng bắt đầu thành lập sư đoàn ngụy ứng chiến cơ động hoạt động ở từng vùng. Viện trợ vật chất của Mỹ đã tăng từ 149 tỉ franc năm 1951, lên 196 tỉ năm 1952. Mỹ gấp rút gửi sang Đông Dương máy bay, chiến xa, vũ khí nặng, đạn dược, tàu đổ bộ, xe cộ, trang bị vô tuyến điện, bom napan và chất đốt, một số lấy từ những kho dự trữ tại Nhật Bản và Triều Tiên.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Sáu, 2009, 04:15:03 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #98 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 04:10:49 pm »

Đông Xuân 1952 - 1953 là thời kì khó khăn nhất trên chiến trường Nam Bộ. Địch vẫn bố trí ở Nam Bộ 25 tiểu đoàn, già nửa là Âu Phi. Bôngđi (Bondis) thay thế Săngxông, tiếp tục gia tăng các hoạt động bao vây, lấn sâu vào vùng căn cứ của ta, chiếm đóng những khu vực tranh chấp, vùng du kích, lập thêm nhiều đồn bốt, tháp canh dọc các đường giao thông, đồng thời tích cực càn quét bình định.

Chính sách bao vây chia cắt của địch gây nên tình trạng thiếu thốn trầm trọng gạo, thực phẩm, nhất là nguyên liệu, hóa chất sản xuất vũ khí ở các khu căn cứ. Trung ương đã thành lập mọt hành lang vận chuyển chiến lược từ Bắc Bộ và Nam Bộ. Hàng trăm tấn hàng hóa được Liên khu 5 tiếp vận vào các bến Cù My, La Di, Hàm Tân và Xuyên Mộc. Tuyến hành lang dài 300 kilômét từ Xuyên Mộc, Bình Thuận về Chiến khu Đ xuyên qua nhiều cánh rừng, sông rộng, suối sâu, quân địch luôn luôn rình rập, do tiểu đoàn 320 của Phân liên khu miền Đông đảm nhiệm. Tiểu đoàn còn có thêm nhiệm vụ giữ vững đường liên lạc với Trung ương vào Nam Bộ và ngược lại. Các chiến sĩ với 10, 15 kilôgam hàng trên lưng, vừa đi vừa cảnh giới, đánh địch qua nhiều đêm mới vượt hết chặn đường. Mỗi chiến sĩ chỉ có một bộ quần áo và để dành khi tiếp xúc với dân, thường xuyên phải ở trần… Nguyên liện, hóa cất và các loại súng đạn được kịp thời vận chuyển đã tiếp thêm sinh khí cho các binh công xưởng và những đơn vị chiến đấu trên chiến trường.

Tháng 10 năm 1952, một cơn bão lớn chưa từng thấy bất thần ập đến. Nhà cửa, lán trại, kho tàng, hoa màu, gia súc ở Chiến khu Đ và miền Đông hầu hết bị cuốn trôi. Nước sông Đồng Nai lên cao, có chỗ 7-8 mét. Riêng ở căn cứ Dương Minh Châu, nước suối Đôi cao tới 18 mét. Hậu quả trực tiếp và nghiêm trọng nhất của bão lụt là nạn đói. Hàng vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ vùng căn cứ thiếu ăn. Tiêu chuẩn gạo của bộ đội từ 25 kilôgam mỗi tháng tụt xuống chỉ còn 2,5 kilôgam. Mọi người đều phải ăn cháo. Có khi không còn cả gạo nấu cháo, bữa ăn, mỗi người chỉ có 5-7 hột mít luộc cầm hơi. Thừa lúc ta đang gặp khó khăn, địch mở hàng loạt trận càn quét quy mô vào các vùng căn cứ và vùng tranh chấp. Tiêu biểu là trận càn kéo dài 53 ngày đêm vào Chiên khu Đ. Bộ đội đói ăn, thiếu thuốc chữa bệnh, lại phải thường xuyên di chuyển chống càn.

Khắp nơi, bộ đội địa phương kết hợp cùng du kích và đồng bào đánh địch càn quét. Các tiểu đoàn tập trung tìm những nơi hiểm yếu tiến công buộc địch phải đối phó. Ngày 17 tháng 10 năm 1952, trong khi các lực lượng vũ trang tại Chiến khu Đ đang tập trung đánh địch càn quét, tiểu đoàn 303 kết hợp với đại đội bộ đội địa phương Lái Thiêu, tiến công đồn Bến Sắn, tiêu diệt hoàn toàn 1 đại đội ngụy. Ta thu được 70 súng các loại, hàng tấn đạn dược, và hơn một tấn gạo đưa về chiến khu. Các tiểu đoàn 300, 306, 307 phối hợp với bộ đội địa phương đánh căn cứ Trảng Bàng, Bà Chợ, diệt hàng loạt đồn bốt ở Thủ Biên. Tiểu đoàn 311 đánh vào vùng Hòa An, Cao Lãnh. Tiểu đoàn 303 tiến vào vùng Lộc Ninh, tiêu diệt các bốt Thuận Lợi, Bù Na. Quân và dân Đồng Tháp Mười đánh bại cuộc càn quét lớn của địch, buộc chúng phải rút lui nửa chừng. Một bộ phận tiểu đoàn chủ lực 302 của Phân khu cơ động sang hoạt động trên chiến trường Campuchia, giúp bạn bảo vệ những căn cứ ở miền Đông, xây dựng cơ sở, phát động phong trào chiến tranh du kích.

Tại Phân liên khu miền Tây dày đặc đồn bốt địch, tiểu đoàn 307 đánh đồn Bảy Ngân, bắt sống 95 tên với 2 chỉ huy người Pháp, thu trên 150 cây súng và nhiều quân trang quân dụng. Tiểu đoàn 410 diệt gọn đồn Tràm Chẹt, thu toàn bộ vũ khí. Một trung đội của huện Giồng Riềng phục kích tiêu diệt hoàn toàn một trung đội biệt kích, chấm dứt hẳn từ đó những hoạt động biệt kích nhắm vào vùng căn cứ của ta.

Đến giữa năm 1953, sau vụ thu hoạch, nạn đói ở vùng căn cứ Phân liên khu miền Đong mới được đẩy lùi.
Trên chiến trường miền Trung, bộ đội chủ lực đã có những tiến bộ lớn. Tại Bình Trị Thiên, nhiều hệ thống phòng ngự của địch bị phá vỡ, hàng loạt vị trí bị san phẳng, buộc địch phải rút quân từ miền Bắc và miền Nam tăng cường cho Bình Trị Thiên. Bước vào Thu Đông năm 1952, Liên khu 5 mở một đợt hoạt động mạnh trên khắp chiến trường, lấy trọng điểm là An Khê. Tại An Khê, bộ đội ta đã tiến công các cứ điểm Kon Lia, Tú Thủy, Cửa An, Thượng An… Quân và dân đồng bằng, ven biển Liên khu 5, Tây Nguyên đánh địch đều khắp: phục kích trên đèo Hải Vân, đánh các đoàn xe vận chuyển ở các đoạn Túy Loan - Ái Nghĩa, Tùng Sơn - Ái Nghĩa, Vĩnh Điện - Bình Long… diệt hàng trăm quân địch. Chiến dịch An Khê kéo dài đến hết tháng1 năm 1953, buộc địch phải tăng viện trực tiếp cho An Khê 6 tiểu đoàn và đổ bộ lên Quy Nhơ 5 tiểu đoàn để đỡ đòn cho An Khê. Ở đây ta đã diệt 1.600 quân địch, giải phóng 18.000 dân, vũ khí thu được đủ trang bị cho 4 tiểu đoàn.

Những tiến bộ nổi bật trên vùng sau lưng địch diễn ra ở đồng bằng Bắc Bộ. Mặc dù hầu hết lực lượng cơ động chiến lược của địch nằm tại đây, cùng với phòng tuyến Đờ Lát và hàng trăm đồn bốt, địch vẫn không ngăn được chiến tranh du kích ngày càng phát triển. Những đại đoàn chủ lực của ta tự do ra vào vùng tạm chiếm, chủ dộng tiêu diệt hàng loạt cứ điểm; trước đấy, hiện tượng này chỉ xuất hiện khi ta mở chiến dịch lớn. Cuối năm 1952, đại đoàn 304 tiêu diệt nhiều cứ điểm quan trọng, trong đó có vị trí Chùa Cao, trung đoàn 88 đã đánh hai lần không thành công. Trung đoàn 48 diệt vị trí Vô Tình trên đường 21, địch không biết vẫn cho máy bay thả dù tiếp tế và đưa 1 đại đội biệt kích tới tăng viện, ta tiêu diệt tiếp đại đội này. Địch phải mở tiếp những cuộc càn quét với quy mô nhiều binh đoàn, nhưng không còn đủ sức kéo dài ngày, mỗi khi bị thiệt hại lớn là vội vã rút lui. Bộ đội chủ lực ta vẫn tiến hành vận động đánh nhỏ ở đồng bằng, nhưng uy lực các trận đánh ngang tầm với những chiến dịch trước đây. Tướng Mácsăng (Marchand), chỉ huy các cuộc hành quân ở đồng bằng Bắc Bộ, phải thừa nhận: “Đại bộ phận đại đoàn 304 và 320 đã lọt và khu tứ giác Phủ Lý, Hưng Yên, Thái Bình, Ninh Bình và sau ngày 5 tháng 11 năm 1952 trở đi đã đánh chiếm nhiều đồn bốt, (…) nhiều trận phục kích, thiệt hại của ta rất nặng và tình hình có thể trở nên nguy kịch”. Chính một số tướng tá Pháp đã đánh giá: “Không thể nói là những cuộc hành quân du kích mà phải gọi là mặt trận thứ hai đã được mở ở nam đồng bằng”!

Nhưng chúng ta vẫn chưa có khả năng mở một chiến dịch lớn ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Bộ đội chủ lực ta giành thắng lợi ở địch hậu là do duy trì được chiến tranh nhân dân và biết vận dụng có hiệu quả chiến thuật vận động đánh nhỏ. Kẻ thù có sức mạnh áp đảo về vũ khí trang bị, phương tiện cơ động nhanh chóng và chúng rất khôn ngoan không bỏ lỡ cơ hội sử dụng những ưu thế đó. Chỉ cần một sơ suất là ta phải trả giá rất đắt. Ngoài thiệt hài của trung đoàn 98 hồi trung tuần tháng 4 năm 1952 ở vùng Cầu Đuống, Bắc Ninh, không xa Hà Nội, một thất bại đã đến với trung đoàn 101, sau một thời gian làm mưa làm gió ở Thừa Thiên, đã rơi vào vòng vây của quân địch ở Hải Lăng, bộ đội phải mở một đường máu để rút ra với nhiều thiệt hại.

Chiến trường thuận lợi của ta vẫn là vùng rừng núi. Trừ chiến dịch Lý Thường Kiệt tháng 9 năm 1951, các chiến dịch ta mở ở đây đều giành thắng lợi.

Nhưng một trở ngại lớn đã xuất hiện ngay tại miền rừng núi.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Tám, 2021, 07:23:26 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #99 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2009, 04:18:50 pm »

2

Từ năm 1950, để đối phó với sự trưởng thành của bộ đội ta, địch đã xây dựng những cứ điểm đại đội, tiểu đoàn, có công sự vững chắc, hầm ngầm, hàng rào dây thép gai và bãi mìn bao quanh. Nhiều nơi chúng tổ chức thành cụm cứ điểm để hỗ trợ cho nhau. Với lưới hỏa lực bảo vệ từ xa, quân đồn trú cố gắng kéo dài cuộc chiến đấu qua đêm chờ quân cứu viện và máy bay can thiệp trước khi trời sáng. Cách đối phó này tỏ ra hữu hiệu trên địa hình đồng bằng và trung du, nhưng lại khó thực hiện ở vùng rừng núi là nơi bộ đội ta chỉ mong chờ quân viện tới để tiêu diệt. Địch biết rõ điều này. Trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, chúng chấp nhận để một số vị trí bị bao vây tiêu diệt ché không đưa quân viện tới. Ở vùng rừng núi, vị trí đại đội, tiểu đoàn, tiểu đoàn tăng cường của địch không còn đứng vững trước những cuộc tiến công của ta. Trong chiến dịch Tây Bắc vừa qua, địch không sử dụng quân viện khi một cứ điểm bị tiến công, cũngk hông dùng lực lượng cơ động để chiếm lại những vị trí đã mất. Tình hình diễn ra giống như cuối chiến dịch Cao Bằng, khi một cứ điểm bị tiêu diệt là quân đồn trú ở hàng loạt cứ điểm chung quanh bỏ chạy. Nhưng khác với ở biên giới, những cuộc rút chạy ở Tây Bắc nằm trong ý đồ của chỉ huy Pháp nhằm tránh bị tiêu diệt và co cụm lại để đối phó với cuộc tiến công của ta. Từ những cứ điểm nằm rải rác, chúng đã tập trung lại thành tập đoàn cứ điểm. Bộ đọi ta đã mất nhiều thời gian nghiên cứu, rèn luyện, chuẩn bị mới tiêu diệt được cứ điểm trung đội, rồi đại đội của địch. Ta chỉ tiêu diệt được cứ điểm tiểu đoàn khi bộ đội không còn phải dùng mác búp đa. Khả năng hiện thời của ta là dùng trung đoàn tiêu diệt vị trí tiểu đoàn địch đóng riêng lẻ. Với tập đoàn cứ điểm như Nà Sản, địch đã có một căn cứ lón gấp mười lần! Nó không chỉ lớn gấp bội về quân số mà còn có thêm sân bay, trận địa pháo, những đơn vị thiết giáp tại chỗ để đối phó với các cuộc tiến công.

Hình thái tập đoàn cứ điểm xuất hiện lần đầu tiên trên miền Bắc nước ta từ chiến dịch Hòa Bình. Nó ra đời một cách tự nhiên. Quan địch chiếm đóng một thị xã giữa rừng núi. Thị xã nằm dưới thung lũng. Những viên chỉ huy buộc phải chiếm những điểm cao chung quanh nếu không muốn thị xã, sở chỉ huy, sân bay, kho tàng, bến phà… bị đe dọa dưới họng pháo bắn thẳng của đối phương. Nhữn điểm cao này liên kết bằng một lưới lửa, bảo vệ sườn cho nhau khi bị tiến công.

Nhưng lần này, ở Tây Bắc, tập đoàn cứ điểm được xây dựng nhằm mục đích khác. Xalăng đã chỉ thị cho Đờ Linarét phải thiết lập căn cứ vững chắc chung quanh một sân bay nằm giữa vùng rừng núi. Nó sẽ “buộc kẻ thù chiến đấu trên một địa hình thuận lợi cho sự phối hợp các loại vũ khí của chúng ta, có một sân bay bảo đảm việc tiếp tế thường xuyên những đơn vị chiến đấu”. Đây cũng là căn cứ xuất phát của những cuộc tiến công lớn, đồng thời là nơi sẵn sàng đương đầu với các cuộc tiến công. Lực lượng ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản một phần là những đơn vị cơ động tăng cường từ đồng bằng lên, một phần là quân chiếm đóng từ những cứ điểm ở Tây Bắc rút về.

Tập đoàn cứ điểm đã trở thành một biện phát ngăn chặn mới có tính chiến lược của địch. Người Pháp gọi nó bằng thuật ngữ “chiến lược những con nhím” (stratégie des hérissons). Nó mang hình thái đặc thù của chiến tranh xâm lược Việt Nam. Một kẻ thủ xâm lược với một sức mạnh có hạn nhưng biết rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của chủ lực ta. Nếu so với phòng tuyến bê tông của Đờ Lát hết sức tốn kém, giam chân thường xuyên 25 tiểu đoàn tinh nhuệ với rất nhiều vũ khí, thì chiến lược ngăn chặn bằng tập đoàn cứ điểm ở vùng rừng núi của Xalăng tỏ ra không kém nguy hiểm. Nó đã hạn chế khả năng giành chiến thắng của bộ đội chủ lực ta ngay trên địa hình chiến trường được coi là thuận lợi từ trước tới nay. Chúng ta chưa thể tiêu diệt một vị trí trong một tập đoàn cứ điểm mà tránh khỏi tổn thất lớn. Chiến thuật đánh điểm diệt viện khó có điều kiện vận dụng. Vì tập đoàn cứ điểm tự nó có thể đương đầu với những cuộc tiến công, quân tăng viện cũng như đồ tiếp tế tới tập đoàn cứ điểm qua đường sân bay được các vị trí bảo vệ vòng trong vòng ngoài. Với tập đoàn cứ điểm, địch còn khai thác một chỗ yếu của ta là không thể duy trì số đông bộ đội tại rừng núi dài ngày, vì thiếu lương thực và khả năng vận chuyển có hạn. Địch chỉ cần chờ khi ta rút quân, lại từ tập đoàn cứ điểm tỏa ra chiếm đóng lại những vị trí đã bỏ. Việc duy trì vùng mới giải phóng sẽ gặp nhiều khó khăn.

Tập đoàn cứ điểm trở thành một thách thức mới trên đường tiến lên của bộ đội ta.

Cuói tháng 2 năm 1953, Bộ Tổng tham mưu triệu tập hội nghị nghiên cứu cách đánh tập đoàn cứ điểm. Thành phần tham dự là các trung đoàn trưởng thuộc hai đại đoàn 308, 312, những đơn vị chuẩn bị lên đường làm nhiệm vụ mới. Thời gian kéo dài 9 ngày.

Hội nghị đã bước đầu đánh giá được chỗ mạnh, chỗ yếu của tập đoàn cứ điểm. Tập đoàn cứ điểm tuy đã cấu trúc liên hoàn của nhiều cứ điểm, nhưng vẫn là những cứ điểm riêng rẽ với những công sự dã chiến nằm trong hàng rào dây thép gai và bãi mìn. Những cứ điểm ở tiếp giáp cũng chỉ có thể chi viện bằng hỏa lực cho nhau khi bị tiến công. Và giữa chúng vẫn có những khe hở mà ta có thể lợi dụng. Khả năng ứng cứu bằng những đơn vị cơ động của bản thân tập đoàn cứ điểm bị hạn chế nếu ta tiến công ban đêm. Trong chiến dịch Hòa Bình năm 1952, những phân đội nhỏ của trung đoàn 36 đã vượt qua còn đường độc đạo nằm giữa các cứ điểm, tiến công trận địa pháo, sân bay, và những tiểu đoàn của ta đã tiêu diệt nhanh chóng một số điểm cao trong vành đai bảo vệ thị xã.

Tuy nhiên, Hòa Bình chưa phải là Nà Sản. Và đòi hỏi với bộ đội ta trong đánh tập đoàn cứ điểm không phải chỉ là tiêu diệt quân chiếm đóng ở từng cứ điểm, mà phải giữ được vị trí đó để tiếp tục phát triển vào sâu trong suốt quá trình tiến công. Như vậy, bộ đội ta sẽ phải chiến đấu liên tục cả bna đêm và ban ngày, vừa tiến công bộ binh địch vừa phải đối phó với đại bác, xe tăng và máy bay. Điều quan trọng là phải hạn chế dược sức mạnh hỏa lực của bản thân tập đoàn cứ điểm. Đói với một tập đoàn cứ điểm như Nà Sản, nhất thiết cuộc tiến công của ta phải có thêm sự trợ lực của trọng pháo và cao xạ pháo. Bạn đang giúp ta xây dựng 1 trung đoàn lựu pháo, và 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 li đầu tiên của Liên Xô, nhưng trong mùa xuân các đơn vị này đều chưa sẵn sàng.

Còn một công việc quan trọng là chuẩn bị hậu cần. Công tác hậu cần trong chiến dịch Tây Bắc đã mang lại nhiều kinh nghiệm. Liên khu 3 và Liên khu 4 đã uy động cho chiến dịch được 5.000 tấn gạo. Khi chuyến tới Suối Rút, còn 1.250 tấn. Số gạo này chuyển tiếp tới Cò Nòi, bộ đội chỉ còn nhận được 410 tấn! Trên dọc đường vận chuyển, dân công mặc dù khẩu phần hàng ngày rất hạn chế, đã ăn hết 92% số gạo đưa ra mặt trận.

Ta thường huy động lương thực từ 9 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hòa Bình, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái. Một nửa số tỉnh này có vùng tạm bị chiếm. Nguồn lương thực chính cho các chiến dịch lấy từ Thanh Hóa. Chiến dịch Hà Nam Ninh, Thanh Hóa cung cấp 98% số gạo. Chiến dịch Hòa Bình và Tây Bắc, Thanh Hóa cung cấp 70%. Thanh Hóa là tỉnh tự do, diện tích rộng và đông dân nhất trong kháng chiến. Người dân xứ Thanh giầu tinh thần yêu nước và cách mạng. Nhưng Thanh Hóa lại là nơi ở cách xa mặt trận. Trên đường vận chuyển ra mặt trận, người dân công vừa đi vừa về có thể phải sử dụng gần hết số lương thực đem theo.

Đây là một bài toán khó. Anh Trần Đăng Ninh thấy cách tốt nhất là huy động lương thực tại chỗ. Nhưng Tây Bắc là vùng rừng núi, ruộng ít, người dân còn quen với tập quán du canh du cư, luôn luôn thiếu ăn. Chỉ còn cách sửa đường để vận chuyển bằng xe cơ giới. Ngoài lương thực còn pháo và đạn. Để đánh một tập đoàn cứ điểm, số lượng đạn dược tiêu hao rất lớn. Và đâu phải chỉ chừng ấy. Còn thuốc men cho thương binh, lương thực cho tù binh… Nhưng muốn sửa đường hàng trăm kilômét đường từ hậu phương ra mặt trận cần không ít thời gian.

Khi đó chúng ta chưa biết cơ quan tham mưu Pháp đã tính toán về khả năng mang vác của dân công ta và đi tới kết luận: “quân đoàn tác chiến Việt Minh” không thể hoạt động dài ngày tại một vùng thiếu lương thực ở cách xa khu căn cứ quá 18 kilômét! Phòng nhì Pháp đã tìm ra đáp số khá chính xác. Trở trêu thay sự tính toán này đã góp phần dẫn tới thảm họa của quân viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ sau này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM