Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:11:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những gì tôi thấy ở Việt Nam  (Đọc 39341 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 11:45:34 am »


Tên sách: Những gì tôi thấy ở Việt Nam
Tác giả: Alain Wasmes
Người dịch: Nguyễn Huy Cầu
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2004
Số hoá: ptlinh, chuongxedap





KÍNH TẶNG NHÂN DÂN VIỆT NAM
VÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN CHA TÔI


Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra

                                                                                                       HỒ CHÍ MINH – 1951






LỜI GIỚI THIỆU

Ngày 30-4-1975, trên tư thế của người chiến thắng, quân đội nhân dân Việt Nam đã tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đế quốc Mỹ đã trực tiếp bị đánh bại trên chiến trường Việt Nam.

Alain Wasmes, với tư cách là phóng viên đặc biệt của báo Nhân đạo Đảng Cộng sản Pháp đã có mặt ở Việt Nam trong những năm cuối của cuộc chiến tranh. Tác giả đã chú ý, quan sát, tiếp xúc với nhiều đối tượng người Việt (từ lãnh đạo cao nhất của Đảng đến những người dân bình thường), để viết cuốn sách này. Ông thuật lại những điều mắt thấy tai nghe về những ngày giải phóng Sài Gòn và nỗ lực của miền Bắc để giải phóng miền Nam. Có thể nói cuốn sách đã phác lên một bức tranh toàn cảnh về cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam, thể hiện tâm huyết và sự trân trọng của tác giả đối với đất nước và con người ở đây. Ông đã trả lời những câu hỏi chủ yếu: Ai đã vi phạm và vi phạm như thế nào hiệp định Paris! Tại sao chế độ Sài Gòn lại sụp đổ một cách nhanh chóng như vậy.

Cuốn sách được dịch từ nguyên bản tiếng Pháp La peau du Pachyderme - (Việt Nam tấm da voi) của Nhà xuất bản Edt Socialis, Paris, 1976. Nhưng để tiện cho bạn đọc Việt Nam và cũng phù hợp với nội dung cuốn sách, chúng tôi xin mạn phép được đổi thành Những gì tôi thấy ở Việt Nam.

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng Miền Nam (30-4-1975 - 30-4-2005) Nhà xuất bản Công an xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.


NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 03:54:39 pm »


PHẦN MỘT
MỤC TIÊU SÀI GÒN
_______________________________________________________________________________________




CHƯƠNG I
HIỆP ĐỊNH PARIS:
13 NĂM ĐẤU TRANH


“Thắng rồi!”

Từ Bộ Nội vụ, đối diện với khách sạn Thống Nhất, nơi ở của một số phóng viên Châu âu thường trú ở Hà Nội, một bóng người bất thình lình xuất hiện và lao ra ngoài phố...

“Thắng rồi! Thắng rồi! Quân ta toàn thắng rồi!”, anh ta hét lên, tay vung vẩy một tràng pháo đang nổ vang.

Lúc đó là khoảng 11 giờ, ngày thứ tư, 30 tháng Tư năm 1975.

Anh ta vừa nghe đài phát thanh Sài Gòn loan tin: Tướng Dương Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa mới lên nắm quyền được bốn tám tiếng, đã kêu gọi quân đội của ông ta làm một việc - một việc mà từ nay người ta không thể gọi gì khác hơn là một sự đầu hàng vô điều kiện: “Để tránh đổ máu vô ích, tôi yêu cầu binh sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy hạ vũ khí, chấm dứt xung đột và ở yên tại chỗ...”

Từ khi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sụp đổ ngày 21 tháng Tư, ở Hà Nội có một khoảng thời gian mà các cơ quan, trường học đều rất vắng người... Đài Sài Gòn gần như được nghe tập thể. Mỗi nơi một tý, người ta túm tụm lại nghe đài, rồi tranh cãi, rồi bình luận... Tuy còn chưa biết rõ những gì xảy ra ở trong ấy, ở Sài Gòn, nhưng từ nhiều ngày nay người ta đã sẵn sàng chờ đón sự kiện: trong những phòng biên tập ở Hà Nội, những nhà báo Việt Nam đang trau chuốt các bài của họ về Sài Gòn, về lịch sử thành phố; cũng như thế, người ta đã đặt sáng tác một bài hát về việc giải phóng Sài Gòn, thành phố mang tên Hồ Chí Minh. Các cơ sở in ấn của nhà nước cũng chuẩn bị sẵn những tấm bản đồ về miền Nam và sẽ tung ra bán khi có thông báo chính thức thành phố được giải phóng.

Dư luận công chúng ở Hà Nội muốn rằng khi thông báo tin chiến thắng ấy, nhà nước sẽ dùng chiếc còi ủ của thành phố - chiếc còi đã rú lên những hồi ghê rợn khi B.52 đánh phá Hà Nội những ngày tháng Chạp năm 1972 - để loan tin.

Mãi 17 giờ ngày 30 tháng Tư, sự kiện Sài gòn giải phóng mới được nhà nước chính thức thông báo. Song cái “đài truyền miệng” phát đi tin tức về những sự kiện lớn lại làm việc một cách tuyệt vời, nó còn nhanh hơn cả đài nhà nước. Và thế là từ buổi trưa, đám đông - đám đông của những ngày hội lớn - đã đổ tất cả xuống đường. Đầu giờ chiều, những tấm panô khổng lồ vẽ thành phố Sài Gòn đã được dựng lên ở trung tâm thành phố, gần hồ Hoàn Kiếm... Trong các cửa hiệu nhỏ ở phố Hàng Mã, nơi thường làm những chiếc đèn lồng ngày tết, các người thợ đang hối hả sản xuất cờ, làm đến đâu người ta tranh nhau mua đến đấy và chỉ một lát sau, phố xá đã rực đỏ màu cờ: trên xe đạp, trên cửa sổ, trong tay đám đông đang hoan hỉ tràn ngập đường phố... Ngày hội hình thành ngay tại chỗ, tự động, bộc phát và dân giã. Theo cách của cụ, một bà cụ người nhỏ nhắn bình luận sự kiện: “Có lẽ một lần nữa, người ta lại phải thắt lưng buộc bụng, nhưng đó sẽ là lần cuối cùng...”. Rồi bà tóm tắt cảm nghĩ chung của mọi người như sau: Biết bao năm chấp nhận hy sinh nhưng rồi cuối cùng những hy sinh ấy cũng đột ngột được đền đáp và biện minh một cách trọn vẹn…

Giữa lúc người ta không thực sự chờ đợi thì lịch sử đã tiến lên với những bước đi của đôi hài bảy dặm. Trong riêng tư với nhau, một số người có trách nhiệm của Việt Nam đã thổ lộ rằng, đôi khi họ cũng không hy vọng thấy được đâu là thời hạn cuối cùng kết thúc cuộc đời cách mạng của họ. Họ đã già đi trong nỗi niềm hy vọng đó và họ đã sửa soạn để chuyển giao gánh nặng của sự nghiệp ấy cho “thế hệ tiếp theo”... Sau Hiệp định Paris, một người trong số họ đã phỏng đoán: “Có lẽ sẽ phải một thập kỷ nữa”... Con người sát thép ấy, trong một dáng dấp mảnh khảnh, chưa bao giờ cảm thấy xúc động như trong ngày hôm nay:

“Tôi chợt nhớ lại những ngày ở bên hồ Léman1... chúng tôi không bao giờ nghĩ là sẽ có một ngày tiếng súng lại im. Hôm nay cũng thế, chúng tôi cũng không thể nhận ra rằng từ nay người ta có thể tự do đi vào Sài gòn...”.

Trong những phố xung quanh hồ Hoàn Kiếm phố Hàng Đào và những phố nhỏ của khu người Hoa cũ, đó là sự mừng vui đến tột độ.... Sài gòn giải phóng cũng có nghĩa là miền Bắc giải phóng.
_________________________________
1. Năm 1954, ở Hội nghị Geneve.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 03:56:47 pm »


Ở Sài Gòn, hồi cuối của cuộc chiến diễn ra vào buổi trưa. Tại dinh Độc lập, tòa nhà khủng khiếp nằm giữa thành phố được lấy làm dinh tổng thống, tướng Minh báo ông đang đợi đại diện của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam ở đấy để “thảo luận về nghi lễ chuyển giao chính quyền...”. Thay mặt cho các cơ cấu của chính quyền bù nhìn, tất cả các thành viên của chính phủ đều đã có mặt. Chính quyền của họ đã không sống nổi được ba ngày... Ngồi trong khoảng bốn chục chiếc phô tơi mạ vàng, họ chờ đợi khi cánh cửa phòng được mở... Về thực đơn bữa chiều, ở dinh người ta dự định: gan bê xào với nhân sâm, miến cua bể, cá ngừ nấu với mầm đậu nành... Nhưng bữa tiệc ấy sẽ không có. Chiều nay, tướng Minh và các thành viên của chính phủ chết yểu của ông sẽ đành bằng lòng với các món đồ hộp ăn với cơm, bữa ăn thông thường của các lực lượng giải phóng... Trong phòng im ắng một cách nặng nề. Từ ngoài đường, bên kia khu vườn của dinh, vẳng đến một mớ hỗn độn những âm thanh của sắt thép mỗi lúc một ồn lên và lọt vào những căn phòng được che rèm của dinh: tiếng loảng xoảng xích sắt xe tăng của Quân đội nhân dân, của Quân giải phóng miền Nam. Cổng dinh được đóng kín. Minh và chính phủ của ông hy vọng những chiếc tăng ấy sẽ dùng lại trước cái biểu tượng mỏng manh đó, và một phái đoàn đại diện cho Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam sẽ tới, với thái độ trân trọng, tiếp nhận việc chuyển giao chính quyền một cách đúng thể thức và hợp hiến. Đó là cố gắng cuối cùng để giữ lấy một mảnh đất quyền lực của chế độ cũ để đối mặt với những người cách mạng.

Suốt cả một tuần sau khi Thiệu sụp đổ, đoàn ngoại giao Pháp đã ngỡ rằng giờ của họ đã đến, và được Washington ủng hộ, họ đã nuôi một hy vọng: cứu lấy cho khỏi đắm một hòn đảo nhỏ quyền lực mà hai mươi năm trước đây khi chủ nghĩa thực dân Pháp thất bại, họ đã xây dựng lên có lợi cho nước Mỹ. Từ đó bất chấp Hiệp định Genève, ba triệu lính Mỹ đã kế tiếp nhau đổ vào Nam Việt Nam; trong số họ 55000 người đã tìm thấy cái chết; 150 tỷ đô la, tức là gấp năm mươi lần ngân sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ba lần ngân sách của nước Pháp đã được chi tiêu từ năm 1965 để giữ và áp đặt bằng sức mạnh cái chế độ ấy cho nhân dân Việt Nam. Thế mà từ vài giờ nay viên “thái thú” Mỹ, đại sứ Graham Martin đã lên trực thăng bỏ chạy. Và giữa những người đang tụ họp trong căn phòng trang trọng này của dinh “Độc lập”, nơi mà dưới chân họ là một tấm thảm lộng lẫy có thêm chữ “Thọ”, và những người chiến thắng đang tiến vào một thành phố lạ lùng bỡ ngỡ, giờ chẳng còn có cái gì khác là chiếc cổng sắt này...

Trên chiếc xe dẫn đầu, trung đội trưởng tăng Bùi Đức Mai của Quân đội nhân dân Việt Nam, với một tấm bản đồ du lịch sơ lược trong tay, đang vừa tiến vừa đếm các ngã tư, ngã ba. Người ta mách anh rằng theo con đường ngắn nhất, từ Biên Hòa trở đi, anh phải đếm được bảy ngã tư thì mới tới trước dinh Độc lập. Đơn vị và xe đã mệt mỏi. Trong vài ngày, xe đã bị đẩy đến tột cùng khả năng của nó, chạy những chặng dài tới 180 kilômét trong một ngày đêm, với những trận đánh lẻ tẻ dọc đường, nhưng đôi khi rất ác liệt. Chiếc xe đã phải ba lần thay xích, mắt xích để thay đã phải cõng bằng sức người để vượt đèo lội suối vào đây. Hôm nay, họ đã ở trong Sài gòn. Họ vẫn ngỡ ngàng chưa thể nhận thức được là họ đã đi tới đoạn chót của cuộc hành trình, cuộc hành trình trải dài qua những gian khổ hy sinh. Nhưng một niềm phấn khích đã tràn ngập trong họ và xóa đi tất cả. Họ lao lên hết tốc độ, đi sâu vào những đại lộ trống rỗng, đối với họ nó có vẻ rộng mênh mang và khiến họ bối rối... Những ngày tiếp theo, khi giao thông trở lại nhịp độ bình thường, thì việc hoàn toàn mù tịt của họ về những con đường ngược chiều đã gây nên những vụ ùn tắc mà từ trước đến giờ Sài Gòn chưa từng thấy... Trên hè phố, đã có những đám người ùa ra vẫy chào họ... Đứng trong tháp xe, thượng sĩ Bùi Đức Mai cố gắng chăm chú để không nghĩ đến chuyện gì khác ngoài việc đếm các ngã tư. Đến ngã thừ bảy, tòa nhà mang tên dinh Độc lập đúng là ở đấy thật, cuộn mình trong khu vườn chật hẹp... Cánh cổng vẫn đóng im ỉm. Lệnh cho Bùi Đức Mai đã rõ ràng. Anh lao vào cổng sắt... Theo sau anh, một, hai rồi mười chiếc tăng tiến sâu vào khu vườn, nòng pháo chĩa thẳng vào dinh. Một số chiến sĩ nhảy xuống, tiểu liên lăm lăm trong tay. Họ nhảy lên các bậc thềm, bao vây các gian phòng, kiểm soát các hành lang...

Trong gian đại sảnh, tướng Minh đứng dậy khi tốp sĩ quan bước vào. Ông muốn chơi trò “bàn giao chính quyền...”.

“Ông không thể bàn giao cho chúng tôi những quyền hành mà ông không có: chế độ cũ của các ông đã sụp đổ. Chính quyền đã hoàn toàn vào tay cách mạng. Các ông chỉ có việc đầu hàng thôi”, một cách lịch sự nhưng dứt khoát, một sĩ quan cách mạng đã ngắt lời ông. Viên sĩ quan này thuộc Cục chính trị Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và nhiệm vụ của anh là tiếp nhận sự đầu hàng của một kẻ bại trận. Trong dịp này, anh cũng như các đồng đội đi cùng, đã diện một bộ quân phục mới, một sự làm đỏm làm dáng trước lịch sử... Họ biết rằng lúc này ở Sài Gòn đang có mặt hàng trăm phóng viên phương Tây, và họ muốn rằng ống kính của những người này sẽ ghi lại cái giờ khắc mà không ai ngờ nó lại diễn ra như thế: nó kết thúc ba mươi năm chiến tranh, ba mươi năm chiến đấu để giành tự do của một dân tộc. Cùng lúc này, trên nóc của tòa lâu đài, một lá cờ lớn hai màu xanh, đỏ với ngôi sao vàng được kéo lên, lá cờ từ 1960 đến nay tượng trưng cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam. Có lẽ để có được tư liệu kỳ lạ này, tư liệu được dành cho các đài truyền hình khắp năm châu, là nhờ vào sự ứng tác của một nhà thơ, từ Sở chỉ huy tiền phương của chiến dịch từ nay mang tên trong lịch sử là “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Ông đã cố tìm ra được chút thời gian để viết mấy câu thơ gửi về cho “các đồng chí mình ở Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng”:

           Tôi biết lắm: đêm qua anh không ngủ
           Trận cuối cùng, súng nổ sáng hôm nay.
           Anh trông chờ từng phút từng giây
           Theo nhịp bước của miền Nam đang xốc tới...
1

Bài thơ đề ngày mồng 1 tháng Năm năm 1975, được viết tại Tân Sơn Nhất, sân bay quân sự và dân sự lớn nhất ở Sài Gòn.

Tác giả của nó là một người nổi tiếng. Lịch sử đã gắn liền tên ông với một cuộc đàm phán, cuộc đàm phán lẽ ra đã có thể dẫn chiến tranh đến một kết thúc khác, nếu không có sù mù quáng của người Mỹ.

Đúng vậy, ông là Lê Đức Thọ, người đã đối mặt với Henry Kissinger, người đã đảm nhiệm vai trò chính về phía Việt Nam trong cuộc đàm phán để ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27 tháng Giêng năm 1973...
__________________________________
1. Trích trong bài thơ Trận thắng cuối cùng - Lê Đức Thọ. Báo Nhân dân, ngày 9 tháng 5 năm 1975.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:01:56 pm »


Hà Nội, tháng Chạp năm 1975.

“Trong cuộc đấu tranh dài ba mươi năm này chúng tôi đã nhiều lần cố gắng tìm cách kết thúc nó bằng một giải pháp hòa bình, nhưng chưa bao giờ chúng tôi có thể đạt tới...”. Sài gòn đã được giải phóng từ tám tháng nay. Cuộc tiến quân vào thủ đô miền Nam của đoàn xe tăng Quân đội nhân dân Việt Nam đã phơi bày một cách tàn nhẫn sự phát triển của cuộc chiến tranh này, một cuộc chiến tranh mà sự can thiệp ồ ạt, khổng lồ của người Mỹ cùng với sức mạnh công nghệ của họ đã làm thay đổi tất cả các dữ liệu về cuộc đấu tranh dân tộc của nhân dân Việt Nam, đã làm đảo lộn toàn bộ xã hội miền Nam Việt Nam.

Tuy nhiên không một ai lại có thể hình dung cuộc chiến tranh sẽ kết thúc dưới một hình thức như thế. Nó thật sự bất ngờ, ngay cả với các nhà lãnh đạo Việt Nam. Đó là điều mà người đối thoại với tôi, một nhân vật có trọng trách cao, đã giải thích như thế... Ông tiếp tục nói và đó là một thuyết trình bậc thầy về chiến lược của một cuộc cách mạng: “Năm 1946, chúng tôi đã cố tìm một giải pháp với người Pháp. Cuộc tìm kiếm đã thất bại. Năm 1954, cũng vậy. Chúng tôi nghĩ rằng đã có thể tìm được một giải pháp với chính phủ Pháp trong thời kỳ ấy. Nhưng người Mỹ đã nhập cuộc... và chúng tôi đã mất bốn năm do dự. Phải đến năm 1959, chúng tôi mới quyết định là chỉ còn có một con đường, đó là phải đấu tranh vũ trang, phải đấu tranh bằng bạo lực quân sự...”.

Năm đó, trong một cuộc họp Ban chấp hành Trung ương vào tháng Năm năm 1959, Lê Duẩn, lúc đó là người chịu trách nhiệm về cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, bằng một bài biện luận sôi nổi đầy thuyết phục đã khiến Hội nghị chấp nhận đường lối đấu tranh bằng bạo lực vũ trang nói trên, bởi “nếu không thì chỉ sáu tháng nữa chúng ta sẽ chẳng còn gì hết...”. Thực vậy, từ 1956, những cuộc đàn áp của Diệm đã gây ra nhiều tổn thất về lực lượng cán bộ “nằm vùng” ở miền Nam sau Hiệp định Genève, những cán bộ chỉ được chỉ đạo duy nhất về đường lối đấu tranh chính trị để tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam1 cũng cho rằng, tình thế gay go của cuộc đấu tranh ở miền Nam còn đe dọa của miền Bắc lúc ấy đang tiến hành xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi 10 sư đoàn quân đội Sài Gòn đã tuyên bố quyết tâm của chúng là không chỉ dừng lại ở Bến Hải thuộc vĩ tuyến 17. Tiếp tục chờ thời cơ sẽ có nghĩa là chấp nhận một cách bị động các lực lượng cách mạng miền Nam Việt Nam bị thủ tiêu...

“... Nhưng bởi chúng tôi phải đương đầu với đế quốc Mỹ, cho nên chúng tôi cần phải tìm ra một con đường có thể chiến thắng họ mà lại không lôi kéo thế giới vào thảm họa của một cuộc chiến tranh toàn cầu. Chúng tôi cần phải có một đường lối chính trị mềm dẻo và một phương pháp cách mạng thích hợp để người Mỹ không thể có cớ quốc tế hóa chiến tranh”.

Người ta không thể xem xét lịch sử cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam một cách đứt đoạn, cả về thời gian và không gian, mà phải xem xét nó trong cả một quá trình đấu tranh liên tục. Đặc biệt là bắt đầu từ ngày ấy, ngày 3 tháng Hai năm 1930, trong một sân vận động ở Hồng Kông, theo sáng kiến của Hồ Chí Minh lúc ấy là phái viên quốc tế cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bí mật thành lập. Chính đảng ấy từ đó đã lãnh sứ mệnh chỉ đạo cách mạng Việt Nam, dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi năm 1945, rồi thắng lợi năm 1954... Đầu những năm 1960, khả năng mở rộng phong trào khởi nghĩa chống chế độ tay sai do Mỹ dựng lên ở Nam Việt Nam đã xuất hiện. Đảng, mà những tổ chức của mình vẫn luôn luôn hoạt động bí mật ở miền Nam, cho rằng điều cấp bách lúc này là phải thành lập một Mặt trận rộng rãi tập họp được tất cả các tầng lớp xã hội và các thành phần chính trị yêu nước và dân chủ ở miền Nam.

Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đến năm 1965 cho phép nghĩ rằng trong thời gian đầu, trên cơ sở của liên minh ấy, một giải pháp “tự trị” sẽ có thể có tác động tốt tới tình hình miền Nam. Vậy là Đảng bộ miền Nam của Đảng rút vào bí mật vì lợi ích của Mặt trận dân tộc giải phóng. Năm 1962, Đảng Nhân dân Cách mạng được thành lập, thống nhất các tổ chức cộng sản ở miền Nam. Ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay giờ tách làm đôi để thích ứng với tình hình do sự vi phạm Hiệp định Genève của Mỹ - Diệm tạo nên. Nhưng Đảng vẫn giữ sự thống nhất hữu cơ về mặt tư tưởng: những quyết định chủ yếu vẫn thuộc quyền chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị của Đảng. Trong Mặt trận dân tộc giải phóng, Đảng Nhân dân Cách mạng là người đại diện cho Đảng và đặc biệt nắm trọng trách xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Như vậy Đảng Nhân dân Cách mạng đóng một vai trò rất quan trọng trong Mặt trận dân tộc giải phóng, nhưng Mặt trận có một cơ sở quần chúng hết sức rộng rãi cho nên việc thành lập một chính phủ liên hiệp là có khả năng hiện thực.

Cuộc chiến tranh của Mỹ rồi đây tác động như một lực ly tâm vào liên minh ấy: nó sẽ làm đảo lộn xã hội, nghiền nát những tổ chức của Mặt trận dân tộc giải phóng, nhưng đồng thời nó sẽ làm cho Mặt trận càng đoàn kết chặt chẽ hơn xung quanh hạt nhân của nó - đó là Đảng Cộng sản, một đảng kiên cường và giàu kinh nghiệm nhất, một đảng mà vai trò của nó ngày càng trở nên quyết định trong lãnh đạo công cuộc kháng chiến ở miền Nam. Trong khi đó thì “hậu phương lớn” miền Bắc, từ năm 1960, đã ngày càng trực tiếp chi viện mạnh mẽ cho miền Nam, bởi không ai khác, chỉ miền Bắc mới có thể giúp cho miền Nam đương đầu được với đòn đánh của chiến tranh xâm lược Mỹ. Mặc dù vậy, những người cách mạng Việt Nam vẫn cố gắng đi tới một giải pháp liên minh, thành lập chính phủ liên hiệp. Trong 15 năm, giải pháp ấy vẫn là “cái trục” những nỗ lực của họ. Tuy nhiên những nỗ lực ấy đã không đi đến đâu do sự ngoan cố của những người Mỹ, những người cứ khăng khăng nghĩ tới cùng là họ sẽ có thể áp đặt được ý muốn của mình.

Chúng ta hãy trở lại năm 1960, năm thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng... “Sáng kiến ấy tạo nên một điểm chiến lược rất quan trọng. Về mặt chiến lược, chúng tôi muốn đẩy tới cùng cuộc cách mạng dân tộc dân chủ mà theo đường lối của chúng tôi thì cuộc cách mạng này tất yếu sẽ dẫn tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nhưng vì chủ nghĩa đế quốc Mỹ rất mạnh nên Đảng chúng tôi dự kiến sẽ phải đẩy lùi họ từng bước, đánh đổ họ từng phần.”.
___________________________________
1. Lúc đó chưa đổi tên như vậy mà vẫn gọi là Đảng Lao động Việt Nam - ND
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:04:36 pm »


Những nhà cách mạng Việt Nam phân tích mục đích của đế quốc Mỹ ở miền Nam như sau: Xây dựng miền Nam thành một bàn đạp để tiến công miền Bắc xã hội chủ nghĩa; bao vây ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc; lập một thành lũy để chống chủ nghĩa xã hội. Những nhà lãnh đạo Việt Nam quyết định có sự thỏa hiệp về mục đích thứ ba của Mỹ và chấp nhận cái hàng rào chống chủ nghĩa xã hội ở miền Nam Việt Nam:

“Với chương trình của Mặt trận dân tộc giải phóng, chúng tôi đề nghị xây dựng một miền Nam Việt Nam hòa bình và trung lập một con đường dân chủ nửa tư sản, nửa vô sản. Đảng rút vào bí mật vì lợi ích của Mặt trận mà mục tiêu của Mặt trận là: đánh đuổi Mỹ. Tiếp đó, trong bối cảnh của một miền Nam Việt Nam hòa bình và trung lập, cuộc đấu tranh sẽ tiếp tục bằng những phương pháp hòa bình...”

Vậy là cần phải đặt mình vào một triển vọng lịch sử để đánh giá vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng: về thực tế, nó đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc đấu tranh ngoại giao. Đặc biệt chương trình của Mặt trận dựa trên cơ sở tương quan lực lượng được thiết lập trong Chính phủ liên minh, đã đưa ra một mảnh đất cho sự thỏa hiệp. Nó nhằm cung cấp cho các nhà cách mạng Việt Nam những phương tiện để tiếp xúc với người Mỹ để rồi sau đó bắt đầu tiến trình đẩy người Mỹ ra ngoài. Đó là mầm móng của cái sau này là chính phủ cách mạng lâm thời... Vậy là cuộc tiến công ngoại giao bắt đầu từ lúc đó và từ đấy một giải pháp chính trị là khả thi.

Nhưng bị lôi kéo bởi chứng sợ “cộng sản” và muốn chặn lại sự phát triển có lợi cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, những nhà lãnh đạo Mỹ muốn dạy cho Việt Nam một “bài học” để làm gương.

Thế là trong một bị vong lục ngày 22 tháng Một năm 1964 của tướng Maxwell D.Taylor, lúc ấy là chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, gửi cho bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mac Namara, người ta thấy tóm tắt những quan tâm của các nhà lãnh đạo Mỹ liên quan đến Việt Nam như sau:

“… Rộng lớn hơn, thất bại của các chương trình của chúng ta ở Nam Việt Nam sẽ có những tác động nặng nề đối với dư luận của Miến Điện, Inđônêxia, Malayxia, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Philipines, cả về sự bền vững lẫn quyết tâm và sự trung thành của Hoa Kỳ. Cuối cùng, bởi đây là thử nghiệm đầu tiên của chúng ta về quyết tâm đánh bại những người cộng sản trong công thức chiến tranh giải phóng dân tộc của họ, nên không phải là phi lý khi bất luận những thất bại sẽ đưa đến những hậu quả tai hại đối với hình ảnh của chúng ta ở châu Phi và Mỹ Latinh”1

Vậy là chính quyền Kennedy ngày càng hướng về một sự can thiệp không ngừng tăng lên ở Việt Nam.

Người đối thoại với tôi nói tiếp: “Năm 1965, chúng tôi đã ở ngày hôm trước của việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, ngoại trừ vài thành phố. Trong những vùng giải phóng, ở nông thôn, người ta đã có thể thành lập chính quyền cách mạng; nhưng việc đổ quân ào ạt của đạo quân viễn chinh Mỹ đã làm đảo lộn mọi căn cứ của công cuộc giải phóng và đã làm nó thay đổi hoàn toàn. Tuy nhiên, chiến lược của chúng tôi vẫn có giá trị: trước hết vẫn phải là đuổi được Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam. Với cuộc tiến công Tết 1968, chúng tôi muốn lập ở miền Nam một chính phủ cách mạng có thể tiến hành thương lượng với Mỹ. Cuộc tiến công nhằm đánh đổ Thiệu, lập một Liên minh giữa những lực lượng trung lập với những người của chính phủ Thiệu mà không có Thiệu, tức là lập một chính phủ liên hiệp...”. Ông bổ sung thêm: “Nhưng đó là một mục tiêu tối đa mà muốn đạt được nó thì đòi hỏi phải có rất nhiều cơ may...”. Rồi ông nói tiếp: “Kết quả chủ yếu của cuộc tiến công Tết Mậu Thân, đó là người Mỹ đã nhận ra rằng họ không bao giờ có thể đạt được tới những mục tiêu quân sự của họ và điều đó đã dẫn họ tới phải chấp nhận mở cuộc đàm phán với chúng tôi ở Paris”. Trên chiến trường, sau tiến công 1968, các lực lượng cách mạng đã có một thời kỳ rất khó khăn. Họ mất đất, mất cán bộ... “Chúng tôi vẫn giữ một mục tiêu sách lược là lập một chính phủ Liên hiệp và chúng tôi đã thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời với các thành phần chính trị khác nhau ở miền Nam Việt Nam...” Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ có một tác động chính trị rất quan trọng đối với cả trong nội bộ miền Nam Việt Nam cũng như ngoài quốc tế. Với việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời, ngày 6 tháng Sáu năm 1960, các lực lượng cách mạng miền Nam đã có được một chính phủ đại diện cho mình cũng như chính quyền Sài Gòn đại diện cho Việt Nam Cộng hòa, bởi vì người Mỹ đã phải thương lượng với họ ở Paris. Điều chủ yếu là phải làm thế nào để chính phủ các nước lúc này đang tăng về số lượng - công nhận họ. Thế là một mặt trận khác, mặt trận ngoại giao, được thực sự mở ra, nhưng điều quyết định nhất vẫn là tình hình trên chiến trường. Tháng Giêng năm 1967, Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định mối quan hệ giữa đấu tranh ngoại giao với các mặt đấu tranh khác như sau:

“Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trên chiến trường và là cơ sở cho thắng lợi của đấu tranh ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán những gì mà chúng ta giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không đơn thuần chỉ là phản ánh của tình hình chiến trường, mà trong bối cảnh quốc tế hiện nay và do tính chất của cuộc chiến tranh, đấu tranh ngoại giao còn đóng một vai trò quan trọng, tích cực và đầy sáng tạo.”

Vậy là với chính phủ Cách mạng lâm thời, những người cách mạng đã tạo ra được nền tảng cho một giải pháp chính trị.

“Chúng tôi đã đưa ra một loạt những đề nghị, tám rồi mười điểm, đề nghị mở rộng Chính phủ cách mạng lâm thời phù hợp với chương trình của Mặt trận dân tộc giải phóng. Nếu lúc ấy người Mỹ chấp nhận rút quân và đề nghị lập một chính phủ dân tộc liên hiệp thì điều đó cũng có thể chấp nhận được với chúng tôi. Thậm chí nếu bộ đội chủ lực của chúng tôi có phải có sự rút quân nào đấy ở miền Nam. Nhưng vấn đề là phải đạt tới một giải pháp chính trị thực sự chứ không phải là một sự đầu hàng của chúng tôi. Song khi Mỹ đòi chúng tôi phải rút quân song phương thì thực tế là họ đã bắt chúng tôi phải đầu hàng.” Thế là một cơ hội đã bị bỏ lỡ.

Với Hiệp định Paris, chúng tôi vẫn muốn tìm ra một giải pháp chính trị, trên cơ sở Mỹ phải rút quân đơn phương. Bộ đội chính quy của chúng tôi vẫn ở lại miền Nam. Và mong muốn của chúng tôi vẫn là một giải pháp chính trị, tiếp tục cuộc đấu tranh bằng con đường chính trị, mạnh mẽ nếu cần thiết, nhưng ngoại trừ chiến tranh”. Nhưng những nhà lãnh đạo Mỹ vẫn nghĩ rằng với sự viện trợ ồ ạt của họ, quân đội và chính quyền ngụy vẫn đủ mạnh để đẩy lùi những người cách mạng đến thất bại... Chiến tranh lại tái diễn ở miền Nam.

Tháng Sáu năm 1973, Lê Đúc Thọ lại gặp Kissinger:

“Một lần nữa, chúng tôi đã cố gắng đi tới một giải pháp chính trị và một lần nữa những nhà cầm quyền Mỹ lại gạt bỏ những đề nghị của chúng tôi…” Một cuộc chiến tranh mới phát triển ở miền Nam, đối đầu giữa quân đội cách mạng và quân đội Sài Gòn tiếp diễn với mức độ quyết liệt như hồi 1972 và cũng với những tổn thất về người như thế… Cho đến thời điểm cuối cùng, những người cách mạng Việt Nam vẫn cố gắng để đạt tới một giải pháp chính trị.”

“Ngày 8 tháng Mười năm 1974 rồi ngày 21 tháng Ba năm 1975, chúng tôi đã yêu cầu Mỹ chấm dứt sự cam kết của họ với chính quyền Sài Gòn và thay Thiệu... Nhưng chỉ đến khi người Mỹ nhận ra được mức độ rộng lớn của thảm họa tháng Tư sau khi chúng tôi đã tiêu diệt được quân đoàn một và quân đoàn hai ngụy thì họ mới chấp nhận tất cả những điều kiện mà trước đây chúng tôi đã đưa ra: một chính phủ ba thành phần và thay Thiệu bằng Minh. Chả là họ biết rằng trước đây chúng tôi muốn bàn bạc với Minh...”
__________________________________
1. Hồ sơ Lầu Năm góc, Albin Michel, tr 303.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:07:41 pm »


Tháng Ba năm 1975.

Từ khi Thiệu đổ, Sài Gòn chỉ còn là một sân khấu mà người ta diễn trò “múa rối”. Ngoài tiền cảnh là Hương, một ông già ốm yếu, cố bám lấy cái “vỏ bề ngoài” của một tổng thống. Mãi đến tới 27 tháng Tư, quốc hội Sài Gòn mới biểu quyết trao toàn bộ quyền hành cho tướng Minh, một người mà từ lâu người của cách mạng đã có những tiếp xúc.

Ở Hà Nội, khi nhận được tin này, chúng tôi cùng với phóng viên của AFP đã gọi điện cho Tổng biên tập báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam:

- Các ông sẽ bàn bạc với Minh?

- Ngài thân mến, ông tổng biên tập đáp, lúc này thì đã quá muộn...

Từ 17 giờ hôm trước, đợt cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh đã được bắt đầu: các binh đoàn bộ binh và xe tăng đã lên đường bước vào chặng cuối cùng của cuộc hành quân nhằm mục tiêu: Sài Gòn.

Ngày 28 tháng Giêng 1973, ngay sau ngày “Hiệp định Paris về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết, Hà Nội đã đưa ra một tuyên bố trang trọng nêu bật tầm quan trọng của sự kiện và xác định đường lối mà các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ theo đuổi. Bản tuyên bố này được đưa ra với một hình thức đặc biệt ít thấy từ trước đến nay, đó là nó được Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tức Đảng Cộng sản Việt Nam, và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cùng ký: “Đó là một thắng lợi vĩ đại nhất và anh hùng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta”, bản tuyên bố nêu. Đối với những người cách mạng Việt Nam, riêng chương một Hiệp định đã chứa đựng một điều trở thành mục tiêu cơ bản của cuộc kháng chiến của họ từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. Đó là: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và tất cả các nước tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam theo như Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954 đã công nhận”.

Ở Genève, Mỹ đã không công nhận Hiệp định ký hồi ấy mà chỉ cam kết, theo như từ ngữ của bộ trưởng Ngoại giao Foster Dulles đưa ra là “tôn trọng” nó.

Sự “tôn trọng” của Mỹ sau đó đã dần dần có nghĩa là: từ chối tổng tuyển cử tự do được dự kiến tiến hành vào năm 1956, bởi: “... những nhân vật am hiểu vấn đề Đông Dương đã dự kiến khả năng 80% dân chúng Việt Nam sẽ bầu cho nhà cộng sản Hồ Chí Minh”1 “như tổng thống Mỹ Eisenhower lúc đó đã thú nhận trong cuốn “hồi ký” của ông.

Trong khi ném bom Hà Nội tháng Chạp năm 1972, lần cuối cùng, các nhà lãnh đạo Mỹ đã thử trở lại những quy định cơ bản ấy. Vậy là chương một của hiệp định Paris riêng nó đã là một sự thừa nhận thất bại của Mỹ về những việc họ đã cố công tốn sức làm ở Việt Nam. Còn đối với những người cách mạng thì nó đã thể hiện được tinh thần cơ bản nhất của hiệp định.

Hơn nữa Hiệp định còn dự kiến Mỹ phải cam kết chấm dứt sự can thiệp của họ ở Việt Nam, phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam được khẳng định: một hội đồng “hòa hợp và hòa giải dân tộc”, thành lập trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại của ba lực lượng chính trị ở miền Nam, có nhiệm vụ bảo đảm sự thực hiện Hiệp định, thiết lập các quyền tự do dân chủ để giúp cho việc tiến hành tổng tuyển cử. Việc thống nhất đất nước có thể được dự kiến sẽ tiến hành một cách hòa bình, từng bước, bằng trưng cầu dân ý nhân dân hai miền. Cuối cùng Mỹ cam kết giúp Việt Nam “hàn gắn vết thương chiến tranh” và đóng góp vào công cuộc tái thiết Việt Nam và Đông Dương.

Những quy định này riêng nó đã được Hà Nội đánh giá rất cao: “Thắng lợi này... đánh dấu một bước ngoặt mới của cách mạng Việt Nam”, như tuyên bố của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa... Đảng và chính phủ Việt Nam cho rằng: “Hiệp định được ký kết đã tạo ra một cơ sở chính trị và pháp lý bảo đảm những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta và quyền tự quyết thiêng liêng của đồng bào miền Nam.”

Nhưng những nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ Việt Nam cũng nhắc nhở nhân dân và cán bộ rằng cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục: “Thắng lợi này là một bàn đạp để nhân dân ta tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên cả nước, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc”.

Đồng thời chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng trịnh trọng cam kết sẽ “thực hiện” một cách nghiêm chỉnh và chặt chẽ tất cả các quy định của Hiệp định Paris và đòi hỏi các bên ký kết phải tôn trọng và thực hiện nó một cách đầy đủ. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam không tự ru ngủ mình bằng các ảo tưởng; nội dung lời kêu gọi của họ ngay sau đó đã chỉ rõ việc thực hiện hiệp định này sẽ là “một cuộc đấu tranh quan trọng và đồng thời gay go phức tạp”.

Những lo ngại được bản tuyên bố lưu ý đã ngay lập tức được những bài diễn văn của tổng thống Mỹ Nixon và Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn khi họ nói về bản Hiệp định chứng minh.
_________________________________
1. White House years Mandate for change - 1953-1956, 1963, tr. 372.
    Trong một thư mật gửi cho thứ trưởng ngoại giao Bedell - Smith, người thay thế ông ở Hội nghị Genève ,Foster Dulles cũng viết:
    “Không nghi ngờ gì, tổng tuyển cử sẽ dẫn tới một Việt Nam thống nhất dưới quyền của Hồ Chí Minh. Vậy điều cực kỳ quan trọng là cuộc tổng tuyển cử ấy sẽ phải hoãn lại càng lâu càng tốt sau hiệp định ngừng bắn, và nó sẽ diễn ra trong những điều kiện giải tỏa được mọi sự câu thúc để có thể giành được cho các phần tử dân chủ những cơ may tốt hơn”. Hồ sơ Lầu Năm góc, Albin Michel trang 49.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:09:31 pm »


Hiệp định này có cơ sở là có sự thỏa thuận ngầm rằng ở miền Nam tồn tại hai chính quyền và mỗi bên một quân đội. Sự tham gia với tư cách chính phủ đại diện cho Chính phủ cách mạng lâm thời để ký vào những văn bản của Hiệp định và Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị quốc tế xác nhận nó, đã chính thức hóa Chính phủ cách mạng lâm thời như một trong “hai bên của Nam Việt Nam” và như vậy là đã chính thức công nhận chính phủ cách mạng trên một vị thế ngang bằng với chế độ Sài Gòn. Nhưng lợi dụng những chỗ còn có thể hiểu một cách nước đôi trong Hiệp định, Nixon và Thiệu đã phủ nhận sự tồn tại của Chính phủ cách mạng lâm thời. Trong bài phát biểu truyền hình được phát hồi 22 giờ ngày 3 tháng Giêng, Nixon tuyên bố. “Hoa Kỳ tiếp tục công nhận chính phủ Việt Nam Cộng hòa như chính phủ duy nhất của miền Nam...”

Cùng giờ này tại Sài Gòn, Thiệu cũng tuyên bố trên truyền hình: “... Sẽ không có hai chính phủ cùng song song tồn tại như cộng sản luôn khẳng định. Chúng tôi sẽ không bao giờ thừa nhận và cũng sẽ không bao giờ chấp nhận hai chính quyền song song. Chỉ có duy nhất một chính phủ hợp pháp và hợp hiến, đó là chính phủ Việt Nam Cộng hòa” và Thiệu đe dọa: “Chúng tôi phải tạm thời ngừng chiến đấu để sau đó tiến tới một hòa bình thực sự; không phải chỉ vì Hiệp định có chữ “hòa bình” mà chúng ta thực sự có hòa bình. Đây chỉ là thỏa thuận ngừng bắn, không hơn không kém, chứ không phải một hòa bình thực sự”.

Lệnh ngừng bắn được dự kiến có hiệu lực từ 24 giờ G.M.T ngày 27 tháng Giêng. Rồi nó sẽ được thực hiện sao? Ngày 24, khi bình luận trước các nhà lãnh đạo Quốc hội Mỹ về Hiệp định Paris, Nixon nhận xét: “Đây là một hòa bình mỏng manh.”

Thực vậy, hơn ai hết, Nixon biết nó mỏng manh như thế nào...

Và cũng vào giờ này, trung đội trưởng tăng Bùi Đức Mai chắc còn xa mới nghĩ tới rằng sau hai năm nữa, anh ta sẽ tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Anh hãy còn hy vọng có thể thoát khỏi chiến tranh.

Khi Hiệp định Paris được ký kết, các cơ quan thông tấn quốc tế giới thiệu nó như một thỏa ước. Xem kỹ thì thực tế là như vậy, nhưng đối với nhân dân Việt Nam thì nó lại là một thắng lợi lớn.

Những nỗ lực của họ từ hơn chục năm nay để đạt tới cơ sở của một giải pháp chính trị đã được đền đáp. Nhất là việc quân Mỹ phải ra đi đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa đôi bên ở miền Nam Việt Nam và do đó tạo ra một khung cảnh thuận lợi cho việc áp dụng giải pháp đó.

Từ khi mở ra cuộc đàm phán ở Paris, trong những bài viết của mình, Kissinger, giáo sư đại học Harvard đã nhấn mạnh rằng vấn đề cơ bản ở đây có liên quan đến điều lệ của Mặt trận dân tộc giải phóng, từ nay là Chính phủ cách mạng lâm thời. Và nhất là về các lực lượng vũ trang của Mặt trận dân tộc giải phóng và bộ đội miền bắc vào Nam chiến đấu. Bởi đúng là đã có, mà có một cách hoàn toàn chính đáng, bộ đội miền Bắc vào chiến đấu ở miền Nam. Nói một cách chính xác hơn thì Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu ở miền Nam cũng như ở ngoài miền Bắc, họ đã đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Họ tiếp tục trong những điều kiện đặc thù của miền Nam và miền Bắc cũng vẫn cuộc chiến đấu ấy, cuộc chiến đấu mà họ đã phải tiến hành từ cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân Pháp khi mà toàn Việt Nam là một chiến trường duy nhất.

Trong Hội nghị chính sự hiệp thương thống nhất đất nước họp vào tháng Mười một năm 1975 ở Sài Gòn sau ngày giải phóng, tướng Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Văn Tiến Dũng đã phát biểu:

“Trên quy mô toàn quốc, Quân đội nhân dân chúng tôi luôn luôn được xây dựng bởi những lực lượng vũ trang cách mạng kiểu mới, do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đặt dưới sự chỉ đạo duy nhất của Hội đồng quân sự Trung ương và Bộ tổng tư lệnh. Trong tình hình kháng chiến kéo dài, có chiến trường bị chia cắt, điều kiện mỗi miền khác đi, do đó dẫn tới những quyết định cần thiết về hình thức cũng như về quy chế... để thích ứng với điều kiện cụ thể của mỗi miền, mỗi chiến trường. Từ khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, chiến tranh đã kết thúc, những điều khác biệt đó đã không cần thiết nữa và được xóa bỏ đi...”.

Từ 1960, những tổ chức vũ trang của Mặt trận dân tộc giải phóng đều thuộc về một bộ chỉ huy thống nhất, được giám sát bởi ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng đến năm 1965, việc tuyển mộ những lực lượng ấy chủ yếu được tiến hành tại chỗ. Các cơ quan tình báo Mỹ đều dứt khoát về vấn đề này: theo như những tài liệu của Lầu Năm góc do New York Times tiết lộ thì đến năm 1965 số bộ đội miền Bắc xâm nhập vào miền Nam là rất ít. Đó là những đơn vị nhỏ được thành lập chủ yếu bởi những người miền Nam trong số 90.000 tập kết ra Bắc năm 1954 theo thực hiện Hiệp định Genève. Nhiệm vụ của họ là giúp cán bộ cho phong trào phát động quần chúng nổi dậy ở nông thôn. Vào lúc Mỹ sắp đưa quân đội viễn chinh vào miền Nam thì phong trào đồng khởi nói trên đã giải phóng được gần toàn bộ miền Nam, ngoại trừ vài thành phố. Phong trào này lúc đó đã thu hút được đại bộ phận dân chúng. Theo thú nhận của hồ sơ Lầu Năm góc thì Mỹ đưa quân vào chính là để chống lại phong trào nổi dậy ấy chứ không phải để đáp lại“sự xâm lược của miền Bắc”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:12:07 pm »


Việc Mỹ đưa quân vào chiến đấu ở miền Nam, với số quân sau này nhanh chóng lên tới 500.000 người được trang bị bằng tất cả sức mạnh tối tân của Hoa Kỳ, đã làm thay đổi những căn cứ của tình hình. Thời kỳ khó khăn nhất đối với cách mạng Việt Nam bắt đầu. Để đương đầu với quân Mỹ, khởi nghĩa theo cách thông thường không còn phù hợp nữa. Cần phải đưa vào chiến đấu những đơn vị bộ đội chính quy với lực lượng ngày càng quan trọng hơn thì mới có thể chống cự và chuyển sang phản công lại đối phương. Vậy là một số các sư đoàn bộ đội chính quy Quân đội nhân dân Việt Nam phải nhập cuộc. Được thành lập ở miền Bắc, căn cứ duy nhất để xây dựng một quân đội chính quy, các đơn vị này bước vào Nam chiến đấu từ năm 1965 với nhịp độ ngày càng tăng và với tầm quan trọng ngày càng lớn hơn. Thoát thai từ một nước nhỏ kém phát triển, họ đã phải chịu thiệt thòi và phải vượt qua những khó khăn ghê gớm khi đương đầu với sức mạnh công nghệ to lớn của Hoa Kỳ. Họ sẽ phải chế ngự và giải quyết được tại chỗ hàng loạt vấn đề nan giải mà một cuộc chiến tranh hiện đại đặt ra.

Chính là vào ngày 25 tháng Mười năm 1965, chuyến xe đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam vượt suối băng đèo theo dọc Trường Sơn để tiến vào Nam chiến đấu1. Con đường nổi tiếng “đường mòn Hồ Chí Minh”, chỉ vừa mới thông xe thì 9 giờ sáng ngày 17 tháng Năm năm 1966, máy bay C-130 của Mỹ đã đến rải chất khai quang xuống rừng Trường Sơn để làm trơ trọi con đường. Từ đó những cuộc đánh phá của Mỹ vào “đường mòn Hồ Chí Minh” bắt đầu và nó sẽ kéo dài 2500 ngày và 2500 đêm. Bất chấp bom rơi, hàng trăm nghìn con người sẽ được huy động ra đường để bảo vệ tuyến đường huyết mạch Trường Sơn...

Trên bàn đàm phán, từ năm 1968, người Mỹ tìm cách đòi Quân đội nhân dân phải rút ra khỏi chiến trường. Đối với cách mạng Việt Nam, đó là một vấn đề sống hay chết: rút quân khỏi miền Nam có nghĩa là lặp lại kinh nghiệm của năm 1954, là tự trói chân trói tay để mặc cho chế độ Sài Gòn đàn áp cách mạng. Với sự kiên trì của mình, những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã buộc Mỹ phải lùi bước trên vấn đề cơ bản đó: Hiệp định Paris không đòi hỏi bất kỳ một cuộc rút quân nào của quân giải phóng.

Hơn nữa, Hiệp định cũng không lập ra một giới tuyến nào giữa hai vùng kiểm soát; ngược lại, nó thừa nhận sự tồn tại của những “vết da báo”: những vùng của Chính phủ cách mạng lâm thời nằm giữa thế bố trí của quân đội Sài Gòn!

Như vậy là tới đây, việc rút quân đơn phương của Mỹ sẽ tạo nên một bước ngoặt trong tương quan lực lượng ở miền Nam.

Đổi lại Mỹ đạt được việc vẫn được Thiệu ở chính quyền Sài Gòn. Thực vậy, cho đến năm 1972, các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam vẫn đòi Mỹ phải gạt bỏ Thiệu... Vì thế việc để Mỹ vẫn giữ được Thiệu có thể coi là “một tấm thảm đỏ”2 mà những người cách mạng đã tặng cho Nixon và như vậy, Nixon có thể nói được đến “một hòa bình trong danh dự”. 

Các nhà lãnh đạo Mỹ về phía họ đã đánh giá là Hiệp định Paris được ký kết có lợi cho họ. Cuộc chiến tranh Việt Nam với những thất bại liên tục Mỹ phải gánh chịu ở đấy đã tác động đến chiến lược toàn cầu của họ. Bằng cách làm cho cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành một vấn đề ngoài lề, Nixon và Kissinger muốn cải tiến lại sức mạnh và chính sách chính trị của Mỹ. Họ đã tưởng sẽ đạt được mong muốn đó bằng chính sách “Việt Nam hóa” chiến tranh: một chiến lược nhằm giúp Mỹ yẫn theo đuổi được cuộc phiêu lưu ở Nam Việt Nam mà chỉ cần có quân đội ngụy Sài Gòn, được tăng cường và trang bị một cách mạnh mẽ và được hỗ trợ bởi chính sách ngoại giao và sức mạnh răn đe của không quân-hải quân Hoa Kỳ.

Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ấy đã bị cuộc tiến công năm 1972 của lực lượng cách mạng làm phá sản và Mỹ lại buộc phải đưa không quân vào đánh phá một cách ồ ạt để cứu vãn thất bại. Cuộc tiến công năm 1972 đồng thời còn làm cho Nhà Trắng hiểu rằng họ cần phải rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam càng sớm càng tốt.

Nhà báo Mỹ Tad Szule của tờ New York Times kể lại rằng tháng Bảy năm 1972, mệt mỏi vì bị Thiệu quấy rầy bởi những khó khăn mà ông này nêu lên trong hồi cuối của cuộc đàm phán, Kissinger đã thổ lộ với những bạn đồng sự: “Chúng ta không thể để lại bị đầu độc bởi cuộc chiến tranh Việt Nam trong bốn năm nữa!”

Với Hiệp định Paris, cũng như sau này với Hiệp định Viêng Chăn chấm dứt chiến tranh ở Lào, Washington phải thừa nhận một tình hình thực tế trên chiến trường và gác lại sau việc giải quyết một cách cơ bản những vấn đề chính trị của họ. Điều chủ yếu đối với Nhà Trắng lúc này là làm thế nào rút được quân về nước và, để xoa dịu dư luận Hoa Kỳ, lấy lại được tự do cho tù binh chiến tranh Mỹ. Còn chính phủ Thiệu, với sự tài trợ quan trọng của Mỹ và một quân đội ở vào một tư thế đủ mạnh để đẩy lùi các lực lượng của Chính phủ cách mạng lâm thời thì ở Washington, người ta đánh giá là Hiệp định sẽ không có tác động tiêu cực tới tinh thần chiến đấu của họ.

Tính toán này dựa vào nhiều nhận định: từ 1970, quân đội Bắc Việt Nam đã phải chiến đấu trên nhiều mặt trận. Năm 1971, họ đã đánh bại cuộc phản công của quân Mỹ và quân Sài Gòn ra Đường 9 - Nam Lào hòng đánh vào hậu phương của các lực lượng cách mạng và cắt Đông Dương ra làm đôi. Theo ước lượng của cơ quan tình báo Mỹ thì cuộc tấn công năm 1972 của Quân đội nhân dân đã làm họ tổn thất tới hàng trăm ngàn người (!) Vậy là sức họ đã kiệt quệ, như các chuyên gia ở Lầu Năm góc đã kết luận. Hơn nữa, việc ký kết Hiệp định sẽ có tác động tiêu cực tới tinh thần chiến đấu của họ - vẫn theo như đánh giá của các chuyên gia ấy.

Thứ hai, người Mỹ trông cậy vào sức mạnh răn đe của lực lượng không - hải quân hùng hậu mà họ duy trì ở vành đai Đông Nam Á.

Vả lại, những cuộc oanh tạc tháng Mười hai năm 1972 của Mỹ đã phá hủy từ 70 đến 80% tiềm lực công nghiệp của Bắc Việt Nam. Thêm vào đấy, những phá hoại đánh vào công trình dân dụng lại càng làm tăng khó khăn cho dân chúng của họ. Như vậy, miền Bắc sẽ phải tập trung vào công cuộc tái thiết và theo các chuyên gia Mỹ thì việc đó sẽ đòi hỏi họ phải mất một thời gian khá lâu trước khi họ có thể tiếp tục cuộc chiến đấu ở miền Nam. Quân đội Sài Gòn sẽ có thể tranh thủ được thời gian có lợi đó.

Cuối cùng, các nhà lãnh đạo Mỹ hy vọng là sự phát triển quan hệ giữa họ và Bắc Kinh, Matxcơva sẽ ngăn cản Trung Quốc và Liên Xô tiếp tục viện trợ quân sự cho những người cách mạng Việt Nam. Kissinger muốn chơi trò lợi dụng những mâu thuẫn trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa như vậy và trong chuyến thăm Hà Nội tháng Hai năm 1973 Kissinger cũng giở cái trò đó nhưng ông ta đã vấp phải quyết tâm gắn bó không gì lay chuyển nổi của các nhà lãnh đạo Việt Nam đối với phong trào cộng sản quốc tế.

Nhưng trên thực tế, từ nay trên bàn cờ thế giới, cuộc chơi đã trở nên phức tạp... Hiệp định Paris đã cho phép các nhà cách mạng Việt Nam rút “quân cờ” Việt Nam ra khỏi ván bài phức tạp mà họ tham gia từ 1954.

Từ nay, quân cờ ấy đã hoàn toàn thuộc về họ.
______________________________________
1. Phóng sự đăng trên báo Nhân dân từ ngày 19-5-1974 về đường mòn Hồ Chí Minh.
2. Tháng 11 và 12-1965, khi tiếp hai nhà báo Mỹ James Cameron và Felix Greene, Hồ Chí Minh vừa cười vừa nói với họ rằng, nếu người Mỹ quyết định rút quân thì “chúng tôi sẽ trải cho họ một tấm thảm đỏ”. Theo cuốn Hồ Chí Minh của J.Lacouture.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:12:55 pm »


Kissinger đến Hà Nội ngày 10 tháng Hai... Ông ở lại đấy ba ngày, cũng ngay tại tòa nhà mà trước đó vài hôm thái tử Shihanuk đã nghỉ khi ông ghé qua thăm thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong những lần gặp gỡ với cố vấn Lê Đức Thọ, với thủ tướng Phạm Văn Đồng và với bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, cuộc thảo luận chính thức vẫn là nói về việc thi hành Hiệp định, việc họp Hội nghị quốc tế sắp tới để công nhận nó và mối quan hệ sau chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ thế nào. Vài ngày trước khi Kissinger đến, trong những giới có trách nhiệm về chính sách đối ngoại Bắc Việt Nam, người ta trao đổi với nhau rằng Kissinger “... chắc chắn đến với một củ cà rốt trong túi. Vấn đề là phải biết nó có tẩm thuốc độc bên trong hay không...”

Không phải không có khả năng “củ cà rốt”, tức món viện trợ để giúp Bắc Việt Nam tái thiết ấy, lại không phải là món tiền chi trả để phá hoại sự đoàn kết của Hà Nội với phe xã hội chủ nghĩa và nhất là với những đồng minh Lào và Campuchia của họ.

Nếu đúng vậy thì Kissinger chỉ uổng công vô ích…

Vào thời gian ấy, những nhà quan sát nước ngoài sống ở Hà Nội có cảm tưởng là mọi việc đều có thể thu xếp ổn thỏa. Thông báo chung đưa ra về chuyến đi thăm của Kissinger còn xa mới có thể được gọi là hữu nghị nhưng nó vẫn còn hơn là mức xã giao. Và trong thành phố, một số người đã bàn luận về nguồn lợi lớn mà sự giúp đỡ của Mỹ đem lại, và cũng cả về những sự nguy hiểm của nó nữa. Song đặc biệt có điều rõ ràng là những nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam thực sự mong muốn Hiệp định được thực hiện và họ muốn chơi con bài chính trị...

Mối quan tâm lúc này của họ tập trung vào những vấn đề nội bộ của miền Bắc. Ngày 5 tháng 2, tiếp một nhà báo Chi Lê, thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Từ nay, nhân dân của chúng tôi yêu cầu phải được sống khá hơn”.

Thực vậy, những năm tháng qua, cuộc sống của nhân dân miền Bắc là cực kỳ khó khăn. Từ 1965, mặc dù rất cố gắng, mức sống vẫn giảm sút, do ảnh hưởng của chiến tranh và những cuộc đánh phá của bom đạn Mỹ. Càng đi vào phía Nam, vào vĩ tuyến 17, chiến tranh càng ác liệt, tất cả các thành phố và các cơ sở hạ tầng của kinh tế quốc dân đều bị tàn phá... Ngay ở Hà Nội, các nhu yếu phẩm cần thiết nhất cho đời sống cũng bị thiếu nghiêm trọng. Như thịt lợn: một kilô thịt trên thị trường tự do là 8 đồng tiền Việt Nam trong khi lương một ngày của một công nhân viên chức chỉ có hai đồng. Mua theo tem phiếu thì rẻ hơn, nhưng mỗi tháng họ chỉ được hưởng 500 gam, theo tiêu chuẩn cung cấp... Những trận bom tháng Chạp của Mỹ đã gây rất nhiều tổn thất cho dân thường: hơn 4000 người chết ở Hà Nội. Một nửa triệu mét vuông nhà cửa bị tàn phá, khiến hàng nghìn người không nơi ở và 400.000 người trước mắt không có việc làm... Vụ rắc rối sau đây chứng tỏ tâm trạng của nhân dân đã bức xúc như thế nào: Để chuẩn bị tiếp Kissinger, nhiều biện pháp cực kỳ nghiêm ngặt để đảm bảo an ninh đã được tiến hành. Vũ khí của dân quân tự vệ tạm thời bị thu lại; nhiều lệnh được ban bố cho dân chúng: không biểu tình phản đối, không tụ tập khi Kissinger đi qua; đặc biệt là giữ trẻ em: không để chúng ném đá, hay hô “đả đảo”. Mặc dù vậy, ở Khâm Thiên, khu phố bị B-52 đánh phá ác liệt nhất, đột nhiên có tin lan truyền là Kissinger sẽ đến... thế là bất chấp có sự can thiệp của công an, dân phòng, một số người đã tụ tập tay cầm gậy, cầm đá... Người ta đã phải mất nhiều giờ mới thuyết phục được họ giải tán.

Đối với tất cả những người có trách nhiệm mà người ta gặp lúc bấy giờ thì mối quan tâm hàng đầu của họ là cuộc sống của dân: nơi ở, cái ăn, cái mặc... Người ta cũng nói đến việc thay thế cán bộ, sự cần thiết phải tin tưởng vào thế hệ trẻ, đặc biệt là những trí thức trẻ; người ta cũng nói đến bệnh máy móc giáo điều ở miền Bắc, mà nó biểu hiện như một trở ngại, hay đúng hơn là mối nguy hại ở một số người có chức trách.

“Chúng tôi cần có hòa bình, chiến tranh chẳng có gì lợi cho chúng tôi...” Ở giới có thẩm quyền người ta nói như thế... Hòa bình giúp chúng tôi giải quyết được rất nhiều vấn đề. Không có sự khủng hoảng nào ở phía chúng tôi. Ngược lại, ở phía chính quyền Sài Gòn, hòa bình sẽ làm những cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội của họ thêm sâu sắc…”

Ở thời kỳ ấy, trong những cuộc nói chuyện riêng với một số người có chức trách ở miền Bắc Việt Nam, chúng tôi được biết, mục tiêu đấu tranh ở miền Nam vẫn luôn được phát biểu một cách khéo léo: vấn đề cấp bách nhất vẫn là cô lập Thiệu...

Nguyễn Văn Thiệu, một nhân vật khó hiểu, khó nắm bắt, âm thầm lớn lên trong bóng tối. Một số giới ở Sài Gòn đã coi Thiệu là “con người không mặt”. Xuất thân trong một gia đình làm nghề cá ở Nha Trang, thuộc loại thường thường bậc trung, Thiệu sinh ngày 5-4-1923. Việc học tới trung học khiến Thiệu đâm ra có máu me “làm chính trị”, và ông ta đã gia nhập đảng Đại Việt, một đảng dân tộc cực đoan... Nhưng chính quân đội Pháp mới là nơi ông ta lựa chọn làm con đường tiến thân trong xã hội: Năm1946, lúc hai mươi hai tuổi, Thiệu vào quân đội Pháp, trong số sĩ quan quân phụ lực (tức quân ngụy – ND) mà lúc ấy Pháp đang cố đào tạo... Song phải năm 1954, dưới triều Ngô Đình Diệm, Thiệu mới bắt đầu thăng tiến, leo vùn vụt trên những nấc thang của cái thứ bậc quân sự, nơi sáng giá nhất trong xã hội Sài Gòn. Bởi đây là chỗ hợp lưu của những dòng chảy quyền lực và tiền của bắt nguồn từ viện trợ Mỹ và buôn lậu các loại, đặc biệt là ma túy... sau này vào tháng Chín năm 1974, phe đối lập đã công bố ở Sài Gòn một “bản cáo trạng”, vạch ra sáu loại các chuyện bê bối và buôn lậu của Thiệu và gia đình, gồm có: hối lộ trên các bất động sản thuộc về nhà nước; sử dụng quân đội vào việc riêng; lập nên chế độ độc quyền về buôn bán phân bón thực tế là có lợi cho một người bà con; xây dựng bằng công quỹ một bệnh viện tư thuộc quyền sở hữu của “phu nhân Thiệu và Hiệp hội phụ nữ” do bà ta nặn ra... Bản cáo trạng này cũng lấy cả những lời buộc tội mà người Mỹ Mc Coy đã nêu trong cuốn Chính sách ma túy ở Đông Nam Á (The politics of heroin in South East Asia), vạch tội Thiệu và tướng Khiêm, thủ tướng của ông ta, đã kiểm soát một phần việc buôn ma túy từ “tam giác vàng” ở Miến Điện. Cuối cùng, bản cáo trạng này tố cáo việc Thiệu che chở cho một đường dây buôn bán gạo do dì của Thiệu, tức mẹ của cố vấn riêng Nhã, kiểm soát.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 04:13:57 pm »


Trong cuộc đảo chính lật đổ Diệm tháng 11-1963, Thiệu có mặt trong số những người mưu phản do tướng Dương Văn Minh chỉ huy. Lúc ấy Thiệu đóng lon đại tá và chỉ huy sư đoàn 5 tấn công vào phủ tổng thống; “chiến công” này đã đưa Thiệu lên cấp tướng... Trong một tấm ảnh chụp hồi đó, người ta thấy Thiệu đứng lấp ló nửa mặt ở hàng thứ hai trong nhóm tướng lĩnh làm đảo chính; chả là bóng tối và một sắc màu nửa nọ nửa kia mới là cái không khí mà ông ta ưa thích. Trong tất cả các cú đảo chính thành công, người ta đều thấy có mặt Thiệu, tháng Một năm 1964, Thiệu có mặt trong nhóm tướng Khánh lật đổ những tướng thân Pháp Dương Văn Minh mà người Mỹ không ưa... Năm rưỡi sau, Thiệu lại giúp Nguyễn Cao Kỳ hất cẳng Khánh và trở thành chủ tịch nước, một vai trò mờ nhạt thứ yếu, có lợi cho Kỳ, một con người nịnh nọt, bợ đỡ lúc ấy là thủ tướng và chỉ huy không quân. Kỳ đã nhanh chóng làm đại sứ Mỹ mệt mỏi, khó chịu và năm 1967, với sự giúp đỡ của “Thái thú” Ellsworth Bunker, Thiệu đã trở thành tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Nhưng phải đặc biệt là sau tiến công Tết 1968, chính quyền của Thiệu mới thực sự được củng cố.

Để chấm dứt sự suy sụp của chính quyền Sài Gòn người Mỹ đã xây dựng xung quanh Thiệu cái mà sau này sẽ trở thành tòa nhà trụ cột của chiến lược “Việt Nam hóa”. Chiến lược này tương ứng với một chuyển hướng mới của chủ nghĩa đế quốc Mỹ trước những thất bại của họ ở Việt Nam và sự phản đối mà họ gặp phải trên khắp thế giới và ở ngay cả nước Mỹ. Tóm tắt một cách đơn giản, chiến lược này là nhằm xúc tiến một giải pháp theo kiểu Triều Tiên ở Việt Nam mà ở đấy chính sách chiến tranh và những mục đích của Mỹ sẽ do quân ngụy đảm nhiệm. Đại sứ Ellswort Bunker đã tóm tắt một cách rất chính xác chiến lược này là để “thay đổi màu da cho những xác chết...”

Nhưng chiến lược đó đòi hỏi phải có một chính quyền ổn định ở Sài Gòn. Thiệu đã gạt bỏ các đối thủ, đặc biệt là Kỳ và bịt miệng tất cả những ai chống đối. Là ứng cử viên duy nhất, Thiệu đã tái đắc cử tổng thống năm 1971 trong một cuộc bầu cử giả mạo, một cuộc bầu cử mà những thủ đoạn của nó trắng trợn và trơ trẽn đến nỗi báo chí thế giới phải vạch mặt đó là một “trò hề”... Điều đó chẳng mấy quan trọng: Thiệu đã nắm chính quyền và tập trung trong tay tất cả bộ máy sau này sẽ giúp cho Mỹ “giải ước” được sự cam kết của mình. Đối với Nhà Trắng, Thiệu là cái then của tòa nhà mà Mỹ đã xây dựng ở Nam Việt Nam. Còn đối với những người cách mạng Việt Nam thì đòi được Mỹ gạt bỏ Thiệu có nghĩa là tiến tới làm rung chuyển một cách mạnh mẽ chế độ độc tài Sài Gòn...

Nhưng lúc này, ở thủ đô miền Bắc, người ta hy vọng có thể chấm dứt chiến tranh. Ngày 30 tháng Giêng, lần đầu tiên sau sáu năm, Đài phát thanh Hà Nội lại phát đi điệu hát quen thuộc của một bài dân ca cũ. Đó là câu chuyện tình giữa chàng trai và cô gái, ở vào lứa tuổi của những người ngày nay đang ra trận:

“Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối cha dối mẹ qua cầu gió bay...”


Sẽ không bao giờ có ngừng bắn ở Nam Việt Nam...

Ngay hôm sau ngày ký Hiệp định Paris, Nguyễn Văn Thiệu đã cất lên giọng điệu của cái sau này sẽ là chính sách của ông ta:

“… Về những gì là công việc, là luật pháp, là sự điều hành nhà nước của chúng tôi, chúng tôi vẫn làm đúng như trước, chẳng có gì thay đổi hết... Nếu Việt cộng mà liều lĩnh xâm nhập vào làng xóm của chúng tôi thì cần phải bắn bể óc chúng ngay tại chỗ...”

Và ngay ngày 28 tháng Giêng, quân đội Sài Gòn đã tung ra hàng loạt những cuộc tấn công lấn chiếm vùng giải phóng, đặc biệt là định giành lại cảng Cửa Việt ở Quảng Trị. Ở sát ngay phía Nam vĩ tuyến 17, Quảng Trị là nơi đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt trong năm 1972. Đó là vùng duy nhất ở miền Nam mà quân đội hai bên ở vào thế đối diện nhau theo một chiến tuyến rõ rệt... Bốn tiểu đoàn lính thủy đánh bộ và hai trung đoàn thiết giáp quân Sài Gòn được sáu tàu chiến yểm trợ đã đánh ra Cửa Việt và ngày 31 chúng đã bị chặn lại và phải rút lui. Cũng trong thời gian này, trong vùng Sài Gòn kiểm soát, những cuộc đàn áp được đẩy mạnh. Đến nỗi mà tờ Washington Post, trong số ra ngày 1 tháng Ba, đã phải nhận xét là chính quyền Sài Gòn đã “... hạn chế những quyền tự do dân chủ còn hơn là cả những ngày trước khi Hiệp định có hiệu lực”.

Một loạt các sắc lệnh khủng bố còn bóp nghẹt hơn nữa tất cả các quyền dân chủ mà lẽ ra nó phải được khôi phục lại theo như tinh thần của Hiệp định. Thế mà việc khôi phục lại những quyền dân chủ ấy cũng như việc thi hành lệnh ngừng chiến lại là những điều kiện tiên quyết để tiến hành những cuộc bầu cử nhằm xác định “tương lai chính trị của Nam Việt Nam”. Còn về những quy định khác của Hiệp định thì một loạt những tuyên bố của Thiệu đã dần dần đánh dấu sự “chìm xuồng” của nó:

“Ở Nam Việt Nam chỉ có một chính phủ duy nhất và một quân đội duy nhất... Cái gọi là “chính phủ cách mạng lâm thời” là phải vất bỏ” (9-3-1973).

Chống lại “lực lượng thứ ba” thì Thiệu đe dọa, mạt sát: “Kẻ nào dũng cảm dám tự tuyên bố là trung lập hay thân cộng sản thì kẻ đó sẽ không sống sót nổi năm phút...” (12-10-1973), “lực lượng thứ ba là gồm những con rối hạng ba, những tay chân của cộng sản, những con buôn chính trị cơ hội” (1-11-1974).
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM