Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 02:06:05 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết  (Đọc 41016 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #10 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:19:01 am »



Một hình thù kỳ lạ trên 3 chân – thật ra là 2 khuỷu tay và một đầu gối – lắc lư dữ dội, đang di chuyển rất nhanh từ tuyến địch về hướng tôi. Một chân khác, mang valenok (một loại giày nỉ truyền thống của Nga – ND), trông như dài một cách bất thường. Đong đưa một cách vô thức, nó nảy lên dọc theo mặt đất mấp mô, làm cho cả thân hình rung lên. Tôi lướt qua. Cái chân của người ấy bị gần đứt ra, nhưng anh sẽ được lính cứu thương tìm thấy, đưa về tuyến sau và sẽ sống. Đột nhiên, tôi nghe một tiếng rú kinh hồn. Nhưng đó không là một âm thanh gợi lòng thương sót khiến tôi dừng lại và nhìn trong nỗi kinh hoàng. Nhìn lại phía sau, tôi thấy người lính ấy ngồi xuống, lấy con dao nhíp trong túi và thử độ bén trên những ngón tay: nó cùn. Với một vẻ hoang dại, anh lôi cái chân bị thương lại gần, và bắt đầu cắt phần gân lồi vốn dính lòng thòng vào phần chân. Tôi có một con dao sắc bên mình. Tôi có nên giúp không? Nhưng đầu óc tôi như chết lặng. Tôi chỉ biết đứng lặng nhìn người lính, với nét cười hung bạo, cắt rời chân mình ra. Cuối cùng, nó cũng rời ra, rơi ngay bên phải người ấy. Anh cởi nón (mũ), úp vào phần chân cụt và buộc chặt nó với chiếc thắt lưng. Sau đó người lính nhặt phần chân bị đứt, ôm chặt nó vào ngực như thể đó là một em bé. Masha Lutsenco, một y tá của chúng tôi, chạy vội đến với anh, và tôi cố bước tiếp về phía trước, chệch choạng!



 



Pháo bắn chặn! Tôi chỉ còn đủ thời gian nhảy vào một cái hố gần nhất và núp. Một người lính bộ binh khác cũng nhào vào cạnh tôi. Anh man rợ hét “Cho tôi điếu thuốc!”. Gạt đất cát rơi bên trên, tôi lấy gói thuốc ra và đưa cho tay đó. Anh ta đáp lại bằng một giọng khó nghe và thô lỗ “....!....! Cuốn đi!”. Tôi cuốn một điếu thuốc và cố để hiểu lý do của cơn giận này, anh ấy hét trong tiếng nổ kinh tai “ Tay tôi bị đứt cả rồi!”. Tôi nhìn xuống và thấy hai ống tay áo khoát đung đưa, bẩn máu. Tôi gắn điếu thuốc vào môi anh và châm lửa, chúng thâm đen. Đột nhiên trận pháo tạm ngưng, anh lính đứng dậy và chạy đi, hét lên với tôi như thể lời tạm biệt “ Chiến tranh đã hết với tôi rồi, người anh em...”.



 



Anh em trong đại đội, khi thấy tôi trèo lên chiếc tăng cháy, và nó nổ ngay sau đó, cho rằng tôi đã chết. Một số, không nghi ngờ gì, nhìn lại và chứng kiến vụ nổ, nghĩ rằng: “Abdulin tiêu rồi”. Bây giờ tôi gặp lại đồng đội, tôi mừng như thể được về lại ngôi nhà của cha tôi. Anh em hét lên “Hắn còn sống!” khi thấy tôi. Đó là một điều tuyệt vời cho thấy mọi người thể hiện sự vui mừng đơn giản, chân thật vì bạn còn sống. Tôi cũng thấy Suvorov ứa nước mắt khi ôm ghì tôi: “Được, Mansur, cậu là một tay cứng đấy!”. Phải chăng đây là một lời quở trách? Hay tôi nhận thấy sự đánh giá trong ngôn từ đó...?



 



Sau cùng, chiều hôm ấy, các đơn vị của phương diện quân Tây – Nam chiến đấu trong khu vực của chúng tôi cũng đã gặp được các đơn vị tiến lên từ phía Nam. Ở giữa trận chiến – không biết sự thật rằng chẳng còn bọn Nazi giữa chúng tôi – chúng tôi vẫn tiếp tục bắn: bắn lẫn nhau! Hoả lực dày đặt giúi chúng tôi nằm rạp xuống. Sau đó là một cuộc xung phong ào ạt. Khi họ đến gần, chúng tôi thấy lúng túng vì trông dáng vẻ họ không giống bọn Đức.... Cuối cùng, mọi người nhận ra rằng quân ta đang tấn công quân mình và ngừng bắn. Và trận chiến chấm dứt. Sau đó, trong sự im lặng hoàn toàn, chúng tôi chạy đến gặp nhau, chỉ nghe tiếng băng mỏng dưới chân: “Ôi anh em! Đồng đội! Chuyện gì xảy ra vậy? Chúng ta đã bắn lẫn nhau...!”. Chúng tôi ôm nhau. Và chúng tôi cũng khóc: khóc cho những người đã hi sinh, bị thương ở cả hai phía và cho cả những ai đang tự trách mình. Khi dọn dẹp xong chiến trường, chúng tôi tránh nhìn vào mắt nhau...



 



Bấy giờ chúng tôi đã gặp phương diện quân sông Đông và khép chặt vòng vây kẻ thù. Quân Đức bị vây tròn trong một cái “túi” nhỏ (chừng 25 dặm chiều dài và 12 dặm chiều sâu - ND). Nhiệm vụ hiện thời của chúng tôi là chống phá vây. Thời khắc của trận chiến Stalingrad lịch sử đã điểm.



Tôi ở chiến trường chỉ mới 3 tuần, nhưng đã có quá nhiều điều xảy ra.





Tôi đã làm cho Suvorov bao lần lo lắng vì tôi! Tuy vậy, những lần trở về – sau những tin tức về cái “chết” của tôi – làm cho mối quan hệ giữa anh và tôi thêm khăng khít.



Khi những hoạt động chiến trường giảm bớt chút ít, chúng tôi bàn với nhau về tầm quan trọng của mệnh lệnh 227 (“Không lùi!”). Chỉ lệnh này rõ ràng đã làm cho những vấn đề đơn giản đi rất nhiều. Khi có một người dừng lại, chúng tôi sẽ cùng dừng. Không còn tồn tại bất kỳ vấn đề không rõ ràng nào. Mọi người lính đều biết rằng khi anh dừng lại, thì người bên cạnh anh cũng sẽ dừng theo. Thực vậy, mọi người dừng lại, sẵn sàng hi sinh ở đó và biết rằng sẽ không ai sẽ trốn chạy. Mệnh lệnh đã khích lệ tinh thần của mọi người rất nhiều. Cũng như thông tin về những đơn vị đặc biệt bố trí chặn hậu được phép bắn bỏ những ai rớt lại….



Chiến hào chúng tôi ở ngay tuyến đầu. Chúng tôi hiểu rằng bọn Nazi không thể ngồi thụ động trong cái “túi” đó. Nhưng chúng có bao nhiêu nhỉ? Không ai biết con số chính xác. Chúng tôi hỏi các chỉ huy “Chúng có bao nhiêu quân trong túi đó?”. “Chừng 40,000”. Bốn mươi ngàn! Một con số khá ấn tượng. Việc sẽ gì xảy ra nếu chừng phân nửa bọn chúng đột phá ra hướng tây, đúng vào khu vực trung đoàn chúng tôi trấn giữ nhỉ? Sự thật chỉ được sáng tỏ 2 tháng sau đó, ngày 2 tháng 2 năm 1943, chúng tôi mới phát hiện ra thật sự có tới 330,000 quân bị vây! “Sao anh nói dối bọn tôi?” anh em hỏi chỉ huy. Họ trả lời chúng tôi với một cái cười quỉ quyệt, rằng thỉnh thoảng lính tráng tốt hơn là mù tịt. Họ bảo rằng con số 40,000 sẽ không làm chúng tôi sợ. “Có lẽ các anh đúng” chúng tôi đồng tình.



Vào cuối tháng 11 năm 1942, mệnh lệnh cho chúng tôi là chuẩn bị chống lại các nỗ lực phá vây của địch. Chúng tôi đã làm việc cật lực, đào thật sâu các chiến hào. Để làm được việc này, chúng tôi phải đục chừng 1,5m xuống lòng đất đóng băng, sau đó đào một cái ngách hang ở đáy hào. Bởi những cái ngách ấy được làm cho phù hợp cho từng cá nhân, do đó chúng khác nhau về kích thước và kiểu dáng. Thỉnh thoảng, một ngách hang có thể chứa 2 – 3 người: với cách này thì ấm hơn. Khi đó, lớp đất đóng băng bên trên bảo vệ chúng tôi tốt như thể là bê tông. Mọi người hẳn nghĩ rằng chúng tôi sẽ đào xong chiến hào và ngách hang nhanh chóng, và chúng tôi chỉ việc chui vào đó rồi ngủ cho đến khi nhận lệnh chiến đấu. Nhưng trường hợp này không đúng. Chúng tôi muốn chỗ trú ngụ của mình tiện lợi hơn, và như vậy chúng tôi lại đào những hốc tường: chỗ dành cho thủ pháo, chỗ chứa đạn, nơi đặt súng máy. Sau đó thì đến lượt chỗ để gà-mên (cà mèn), và vâng vâng. Cứ như vậy, chúng tôi làm cho chiến hào của mình ngày càng ấm cúng và thoải mái hơn, và theo thời gian ngày càng nhiều thứ đựơc thêm thắt vào. Tóm lại là, lệnh: “ Mang cối! Tiến lên!”, thường đi cùng với nỗi buồn và tiếc nuối  khi phải chia tay với một phần mảnh đất mà như đã trở thành nhà. Còn nếu phải để lại chiến hào cho bọn địch thì không còn gì để nói thêm!!!




Lính cối chúng tôi “giúp” bọn địch không ngủ ban đêm. Ban ngày, chúng tôi xác định toạ độ bắn vào hẻm núi, nơi các đơn vị Nazi khác nhau tập trung, và tính toán chi tiết vị trí của chúng. Sau đó, khi bóng đêm vừa đổ xuống, chúng tôi bắt đầu bắn cứ mỗi 5 phút. Đó gọi là “tra tấn kẻ thù”. Bọn Đức bị bắn cả đêm, nhưng chúng tôi thì xoay sở để ngủ một ít: mỗi thành viên khẩu đội làm chừng 1 giờ, bắn tầm 100 quả, trước khi nhào vào ngách hang vốn được giữ ấm bởi những đồng đội đang ngủ.



 



Vì lí do nào đó mà bọn Nazi không đào hào. Có thể chúng hi vọng vào một cuộc phá vây thành công? Hoặc mặt đất đông cứng ở Stalingrad là hơi khó với chúng?  Tôi không biết. Thay vào đó, chúng dựng công sự phòng thủ bằng chính những xác chết đông cứng. Chúng dựng một bức tường gồm hai ba lớp bằng những thi thể, phủ tuyết lên đó, và như vậy chúng đã có công sự để ngăn hoả lực phe ta. Bằng cách đó, xác lính Đức lạnh cứng đã bảo vệ cho bọn còn lại sống sót khỏi đạn và mảnh đạn. Nhưng tôi không hề đố kỵ với bọn Fritz khi nếu tuyết đột ngột tan J! Bên cạnh đó, không thứ gì có thể cản được khẩu cối 76mm của chúng tôi.



 



Bọn tù binh, tay ôm lấy đầu, lúc lắc ra phía sau rồi trước, luôn mồm càu nhàu: “Oh, mein Gott!”. Cái này thì rõ ràng có nghĩa là “Lạy chúa tôi!” (Oh, My god!). Nhưng còn câu “Gott mit uns” có nghĩa là gì? Câu này được khắc trên khoá thắt lưng bọn lính quốc xã. Dây thắt lưng của chúng có chất lượng tốt, làm từ da thật. Tôi thường nghĩ đến việc lấy một trong số những thắt lưng của bọn đã chết, nhưng với cái câu được khắc nhìn thấy rất rõ ràng này, như thể một câu văn bia trên mộ chí, làm tôi thấy bất an. Không để đeo cái thứ gì mà mình không hiểu, vì vậy tôi quyết định tìm hiểu nó nghĩa là gì. “Gott” đương nhiên có nghĩa là Chúa rồi, nhưng còn hai từ kia thì sao? Tôi đi cả tá chiến hào để hỏi các đồng đội, nhưng chỉ nhận được câu trả lời đại loại như: “Có quỉ mới biết” hoặc “Tớ chẳng màng đến!”.



Cuối cùng, tôi tình cờ gặp một tay binh nhì – vốn là một cựu giáo làng – với cố gắng lớn, đã xoay sở dịch những từ bí ẩn đó. Nó có nghĩa là “ Chúa ở cùng chúng ta”.



Khi những bức tường-xác-chết rốt cuộc cũng bị tan băng, những câu chữ khắc đó nghe như một lời chế nhạo cay đắng.



 



Với những gì xảy ra, bọn lính trơn phe Đức không hề biết chúng đang bị vây trong túi. Chứng cứ từ việc khai thác tù binh cho thấy bọn sĩ quan Quốc xã đã làm mọi thứ để giấu giếm sự thật kinh khủng này với quân lính: chúng vẫn tin vào chiến thắng và chiến đấu đến cùng. Chính tôi đã thấy một tù binh Đức, bị hội chứng chiến tranh, ngoan cố kêu lên như một cái máy “Ichgehe nach Moskau!” – “Tôi đang đến Mát-cơ-va”.




Cũng ở Phương diện quân Sông Đôn, tháng 11 năm 1942, tôi lần đầu tiên được nghe về lũ chó chống tăng. Như những người dân Siberia khác, tôi thích chó, và tôi kinh hãi khi biết về định mệnh của những sinh vật khốn khổ đó. Những con vật nhu mỳ, yêu trẻ như chúng có thể làm gì với đống phân này? Chó là một người bạn trung thành. Thế mà lúc này, chúng ta hình như lại đưa người bạn đáng tin cậy đó đến để chết dưới xích tăng quân địch! Tôi quyết đi tìm hiểu.



 



Tôi tìm thấy lũ chó ở gần đó với những anh lính trông nom chúng, chờ đến thời khắc của chúng… Tất cả chúng đều đẹp và to, nhiều màu, nhiều giống. Tuy nhiên có một chú chó cá biệt bắt mắt tôi. Chú chàng trông có vẻ kỳ lạ với một tai cụp xuống còn tai kia lại dựng đứng lên. Nó có vẻ như có một cá tính thật, một badboy thật sự! Chú chó nhìn tôi, lúc lắc đầu, hi vọng sẽ có chút đồ ăn. Một bó thuốc nổ nằm cạnh đó với một cái anten, nối vào kíp nổ, nặng chừng 8kg.



Tôi được biết một trong số những người trông chó – có một bác trung niên, tóc đỏ -  cũng lớn ở vùng Krasnoyarsk như tôi. Chúng tôi nói chuyện một chút. Bác ấy bảo rằng bọn chó đã được huấn luyện 3 tháng, chúng nhận thức ăn ở dưới những chiếc tăng đang chạy. Thì ra bí mật thiên hùng ca là đây. Tôi trở về “nhà”, tức cái hang của tôi và kể những gì thấy được với Suvorov.



Rất nhanh sau đó, những chiếc tăng xuất hiện từ phía tuyến quân địch, và chúng tôi thấy một cái banh bù xù màu đen chạy nhanh về phía chúng. Và theo sau là con thứ hai và thứ ba. Chú chó thứ nhất thổi tung một chiếc xe với một tiếng nổ kinh hoàng. Tiếp sau là hai tiếng nổ nữa.  Bọn tăng Nazi nhanh chóng quay đầu và chạy mất. Đồng đội tôi hét lên “Hurrah!” và tôi cũng vậy, vui mừng – cuộc tấn công của tăng Đức đã bị đẩy lùi – nhưng tôi đã khóc và nguyền rủa cuộc chiến tranh cũng những tên quái vật đã gây ra nó.




Ban đêm, hàng đoàn máy bay vận tải của bọn Đức vận chuyển đồ tiếp liệu cho quân bị vây. Chúng tôi đánh lừa bọn lái máy bay bằng cách bắn lên những khẩu pháo sáng tịch thu được, và nhận được hàng đống thứ ném vào chúng tôi: nào là bánh mỳ, xúc xích, thịt hộp, vớ len, giày rơm (một loại giày đi tuyết to xù, mặc ra ngoài đôi bốt thông thường – ND), thuốc lá, bánh qui và linh tinh khác. Có tin đồn rằng loại bánh mì bọc trong plastic là được làm từ tận năm 1933! Nhưng bọn lính chúng tôi ít có nhiệt tình với chúng, xét ra bánh mì của chúng ta là nhất quả đất!



 



Vào lúc đó, trong hơn một tuần, đại đội tôi lại không may mắn với hội “tải lương”, bên quân nhu, như thường lệ, lại lạc đâu đó. Một trong những đồng đội của tôi, Victor Marchenko, rất “thơm” vớ được hẳng một balô đầy xúc xích, bọc trong lưới. Vì lí do gì đó – trái với lệ thường của chúng tôi – anh ta quyết giữ chiến lợi phẩm cho riêng mình mà không chia cho mọi người. Anh ấy còn đi tệ hơn nữa khi doạ bắn ai cố lấy túi của anh. Do vậy, mọi người nhất trí để hắn một mình với đống xúc xích của mình và quên hắn đi. Trước đó Marchenko là một người hết sức đúng mực và là một người bạn chân thành, nhưng rõ ràng là có điều gì đó xảy ra với anh ta: “Có lẽ anh ấy cảm thấy cái chết đến gần chăng?” tôi nghĩ như vậy. Và ý tưởng này làm tôi thấy khó ở…



 



Một ngày tạm yên ả trôi qua. Chúng tôi sốt ruột chờ đêm xuống để đến “thăm” bọn Fritz với hi vọng tràn trề là sẽ xoáy được ít chiến lợi phẩm – đột nhiên ở hướng hầm của Marchenko, có tiếng nổ. Khi chúng tôi chạy đến, hầm của Victor đã đổ sập và khói bốc lên từ đó...



 



Tôi phải thú nhận rằng, từ ngày đầu ở tiền tuyến, tôi để ý rằng những đồng đội tôi, ai lấy đồng hồ của lính Đức chết thì sớm muộn gì cũng sẽ chết. Chút ít trước giờ gặp thần chết, họ có thể thành một kẻ hèn nhát hoàn thành, hoặc giả mất tự chủ hay không biết mình làm gì, một số người khác thì trông câm lặng. Với tôi, dường như có một giác quan thứ sáu và thường đoán được đúng ai sẽ chết trong vài giờ tới.

Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #11 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:20:17 am »



Vào một ngày, trên khu vực mặt trận của đơn vị, chúng tôi thấy một khẩu phòng không bốn nòng tự động của Đức. Đó là một cổ máy quân sự tuyệt vời, một thiết bị phức tạp với hàng đống bánh đà và tay cầm, đứng trên một cái giá. Nó có thể xoay quanh trục trên mọi hướng. Ghế cho xạ thủ ở phía sau, cho phép điều khiển súng bằng cả hai tay và chân một cách tự do. Mỗi nòng đeo một cái hộp rất to chứa một gắp 5 quả đạn và được nạp tự động. Cả chiếc máy thăng bằng một cách tuyệt hảo: bạn có thể nhắm vào bất cứ đâu bạn muốn.



 



Ivan Konski, một tay lính cối trong đại đội tôi là người đầu tiên nhảy vào, ngay lập tức anh xoay xoay các bánh đà và tay nắm. Đứng cạnh anh là Gennadi Manuilov, một nhà chế tạo súng, giải thích cái gì để làm gì. Nhưng dường như Konski đã thạo cả mọi thứ rồi, chỉ sau chừng 10 phút, anh ta thao thao nói về khẩu pháo như thể anh đã chế ra nó.



Ngay lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ máy bay đang đến. Cứ theo tiếng động thì nó đang bay rất thấp. Nhưng trời mù sương nên chúng tôi vẫn không thấy gì. Konski tiếp tục loay hoay với khẩu pháo, hướng cả bốn nòng về phía tiếng động, tiếng gầm gừ đang lớn dần. Một chiếc máy bay vận tải của Đức bất ngờ hiện ra, bay cực thấp, vút qua, biến vào trong màn sương. Cũng như chiếc vận tải cơ, Konski nhanh chóng khai hỏa. Đường đạn nối đuôi nhau lao tới. Đúng vào lúc chiếc máy bay gần như biến mất trong sương mù, bọn tôi nghe thấy có tiếng nổ khác lạ từ những động cơ của nó. Và trước mắt chúng tôi, thân chiếc máy bay bung ra, oằn xuống, một lỗ hổng xuất hiện trên đó và những thứ bên trong bắt đầu rớt ra, rơi xuống đất. Lúc đó, chiếc vận tải cơ to lớn, tả tơi mất độ cao và rơi xuống khỏi tầm nhìn. Chúng tôi nghe thấy một tiếng động trầm đục khi nó đâm xuống đất và theo sau là một vụ nổ. Ivan Konski, mặt đỏ bừng sung sướng. Anh vẫn ngồi hoàn toàn bất động trên ghế xạ thủ, nhìn chúng tôi. Trong khi toàn bộ anh em hét vang “Hurrah!” và chạy đến tìm xem những thứ gì có trong chiếc máy bay bị hạ.



 



Quân ta đếm được hơn 30 xác sỹ quan Nazi cao cấp. Và có hàng trăm chiếc vali, thùng hộp chứa đầy những thứ quí giá chúng cướp được của nhân dân Sô viết. Tất cả giấy tờ và đồ có giá trị được chuyển về sở chỉ huy sư đoàn. Và Ivan Konski, như tôi nhớ, được nhận một huân chương cao quí.



 



Đại đội cối chúng tôi có trong trang bị súng máy Maxim, và cả tiểu liên MG-34 của Đức, những vũ khí này cực kỳ hiệu quả trong chiến đấu. Chúng tôi cũng có một khẩu súng trường chống tăng với khá nhiều đạn: thỉnh thoảng chúng được dùng để diệt các ổ súng máy, nhưng chúng tôi không có cơ hội để bắn tăng. Thật tuyệt nếu được giữ khẩu cao xạ thu được nói trên cho đại đội, nhưng tiếc là Ivan Konski phải chia tay với nó và giao lại cho những tay chuyên gia súng ống.


Những ngày tiếp theo thì mang lại toàn điều không may cho Ivan Konski. Anh nhặt được một khẩu súng ngắn – có lẽ của Đức, tôi không rõ, nhưng chắc chắn là đồ nước ngoài – Ivan cho nó vào túi và hi vọng có thể xem xét chi tiết cái vũ khí lạ lẫm này trước khi dùng. Đêm đó, khi mọi việc lắng xuống, Konski nhớ đến khẩu súng mới. Chúng tôi cùng ngồi xuống quanh một vòng tròn, còn Ivan thì xoay ngang xoay dọc khẩu súng cố tìm hiểu xem nó hoạt động như thế nào. Đột nhiên, một tiếng nổ vang lên. Konski tê cứng người, những ngón tay trên bàn tay trái xoè rộng ra, lòng bàn tay đẫm máu. Thất thần, anh nhìn từng người chúng tôi. Có ai bị trúng đạn không? Và chỉ khi nhận ra viên đạn không gây thương tích cho ai, anh mới quay lại với bàn tay nhầy nhụa máu của mình.



 



Lúc đó chúng tôi thật sự hoảng sợ. Nếu vệ binh biết được điều này, Konski sẽ phải đối diện với toà án binh. Tai nạn hay cố ý, đó vẫn là việc tự gây ra thương tích, và dù ngày hôm trước Ivan có bắn rơi máy bay thì điều đó cũng không giúp được anh. Chúng tôi nhanh chóng băng bó vết thương và lạy Trời cho nó chóng lành mà không phải đi bác sỹ. Sau đó anh em giúp Ivan giấu bàn tay đó trong một chiếc găng tay to xù có cổ và thề không hé ra chuyện này với ai.



 



Hai tuần sau, Ivan Konski đã có thể tháo băng. Một vết sẹo nhỏ hiện ra trong lòng bàn tay, viên đạn đã xuyên qua phần mềm mà không tổn hại gì đến xương cốt. Các bạn thấy đó, anh em trong đại đội tôi được một bài học nhớ đời về vũ khí thu được, nhưng còn có những điều lộn xộn nữa. Và đây là một ví dụ khác mà lẽ ra có thể có kết thúc đầy bi kịch.



 



Gần nhà ga xe lửa ở Karpovskaia chúng tôi bắt được một đoàn tàu với những toa hàng đặc biệt. Một trong số chúng chứa một khẩu đại bác khổng lồ, đựơc gắn chặt lên sàn toa. Hình như bọn Đức định mang nó đến để bắn vào Stalingrad.



 



Cỡ nòng không dưới 400mm. Khẩu pháo khổng lồ này mê hoặc chúng tôi! Mọi người đứng quanh nó, sửng sốt, và dĩ nhiên, tất cả đều muốn biết nó làm việc ra sao. Gần đó, anh em thấy vài cái hộp đan bằng cây liễu gai chứa đạn. Mổi cái nặng 100kg! Chúng tôi cũng chú mục vào một đống bao gần đó. Mở vài cái ra, bên trong có cái gì đó trông như những bó mì ống spaghetti, mỗi sợi dày bằng một ngón tay và dài chừng 70cm. “Ồ, đó là thuốc súng!” một anh kêu lên. Nhưng người khác cười không tin. Nhưng anh lính – người đã đoán chính xác – lấy một sợi “spaghetti” và tiến hành đốt “Wow! Trông cách nó cháy kìa!”. Bất ngờ, sợi “spaghetti” nhảy khỏi tay anh ta, và xoay tít mù quanh những bao thuốc nổ và hộp đạn.



 



Vài người dùng gót chân, trong khi những người khác cố bắt lấy sợi “mì”. Một ai đó cố nhảy giẫm lên nó, nhưng nó phóng vụt đi dưới giày anh. Sau đó, nó xoay đi cố tìm lối giữa hai bao tải chứa đầy những thứ quái dị và bất ổn này. Ồ, nếu cả núi đạn này bắt đầu bùng ra, thì hẳn – có thể nói bằng câu – “đã quá trễ dù bắt đầu chạy từ hôm qua!”. Không suy nghĩ một giây, tôi lao về phía những cái bao, mò bắt sợi “spaghetti”- nó là cháy bỏng những ngón tay tôi qua đôi găng – và đứng lên, chuyền cho người khác, giữ nó có khoản cách an toàn với sàn nhà cho đến khi cháy hết.



 



Sau đó, khẩu đại pháo này hoạt động ở phía quân ta cả ngày và đêm. Tiếng đạn rít cao trên đầu chúng tôi. Và, đâu đó một quãng - trong cái “túi”- có tiếng nổ lớn theo sau là quầng sáng rực ở phía chân trời…

Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #12 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:22:01 am »



Trong lúc nghỉ ngơi, ngồi trong chiến hào, mọi người nghĩ về quá khứ. Khát khao lớn nhất là được về ngôi nhà izba (loại nhà truyền thống của nông dân - ND) ấm áp để có một giấc ngủ ngon; hoặc được đến một bania (nhà tắm hơi - ND), nằm dài trên băng ghế, thưởng thức hơi nóng. Những hình ảnh này bồng bềnh trong đầu tôi như những giấc mơ thần tiên !



 



Cả tháng rồi, chúng tôi không có một giấc ngủ đàng hoàng, mà chỉ có ráng chợp mắt một chút ở ngoài trời, giữa những lần giao tranh. Sống như vậy, ở thảo nguyên vào mùa đông thì dường như không thể chịu nổi, ngay cả với cơ thể khoẻ mạnh, trẻ trung của tôi. Còn bọn rận thì gần như giết sống tôi! Trong mùa đông, không cách nào để thoát khỏi chúng. Tôi đã cố diệt chúng bằng thuốc giết côn trùng, nhưng không có kết quả. Tôi nhớ cách tôi làm: đẫm mồ hôi sau một trận chiến đấu, tôi lấy một gói thuốc diệt côn trùng ra và đổ cả vào cổ áo tôi, trực tiếp lên cơ thể tôi. Tôi rắc thuốc từ đầu đến chân, nhưng thứ thuốc này không có ảnh hưởng gì tới bọn rận cả. Cái đói, giá rét, thiếu ngủ triền miên và lao động nặng không ngừng nghỉ cũng bắt chúng tôi phải trả giá. Chúng tôi uống nước bẩn từ những cái gà mên bẩn cũng không kém. Nước được lấy bằng cách nấu làm tan chảy những nắm tuyết dơ hầy. Làm thế nào con người chịu đựng được như vậy? Thật khó tưởng tượng.



Hơn nữa, chừng sau 3 hay 4 tuần đến mặt trận, tôi bắt đầu bị chứng đái giắt. Cứ khoảng 5 phút là tôi phải đái một lần, và để giữ cho quần được khô, tôi không kéo khoá (cúc cài) quần.Tôi chắc là tôi mắc phải một căn bệnh trầm kha nào đấy, nhưng tôi thấy xấu hổ để báo cáo. Điều tôi kinh hãi nhất là nỗi sợ rằng căn bệnh này sẽ theo tôi suốt đời: thà rằng chết còn hơn. Một người bạn, thấy tôi bị như vậy, đoan chắc rằng: “Tao cũng bị như vậy rồi, nhưng sau lần bị thương, tao được đưa đến bệnh viện và không vòng một tuần nó trở lại bình thường”.




Tôi thường nghĩ rằng:” Sao mình vẫn còn lành lặn trong cái địa ngục này trong khi hầu hết các đồng đội đã hi sinh hoặc mang thương tích?”. Trong giấc mơ, tôi thấy mình là một chiến binh bị giết một cách tàn bạo, nằm trên cánh đồng, trong một cảnh của bức vẽ Trận chiến Kulikovskaya.  Một lính bộ binh già người Siberia, nghe được giấc mơ của tôi và bảo tôi với vẻ ghen tị “Con trai, con sẽ an lành về nhà từ chiến trận, đừng lo lắng về một giấc mơ như vậy”. Nhưng tôi, cũng ghen tị, bực bội với những người bị thương nặng. Đôi lần, tôi xông lên, coi thường hoả lực bọn Đức, và mong rằng mình sẽ bị thương. Đồng đội gọi tôi là một “người hùng” hoặc một “người-không-biết-sợ”, nhưng tôi chỉ thấy xấu hổ.



 



Bùn đất phủ khắp người chúng tôi. Mặt mũi thì đen như bồ hóng. Chúng tôi nhìn nhau và thấy ai cũng bẩn thỉu và trông rất buồn cười, và như vậy đó, anh em có được một trận cười nghiên ngả. Tôi mừng rằng râu tôi chưa mọc nhiều. Những anh em lớn tuổi râu ria xồm xoàn trông như một lũ cướp. Ắt hẳn là chỉ huy muốn bọn tôi tề chỉnh? Nhưng, họ không tạo điều kiện cho chúng tôi ở sạch….



 



Khi tôi còn nhỏ, tôi là một thằng bé mơ mộng. Tại mỏ, ở tuổi lên 8, bọn trẻ đã biết đãi vàng. Như những chú vịt con, chúng tôi xục xạo cả ngày trên con sông Miass với chậu đãi và gàu xúc. Tôi mơ mình tìm đựơc một thỏi vàng lớn, lớn đến mức không tay đào vàng nào có thể nhấc lên nổi. Lúc đó, tôi tin rằng những mẫu vàng bé xíu mà chúng tôi tìm thấy, là con của một cục vàng mẹ, một khối vàng tự nhiên khổng lồ, to như một quả núi.



 



Trong những ngày đó, bọn trẻ chúng tôi phải làm việc luôn tay, trong nhà, trong vườn rau, trên đồng hay trong rừng. Lẽ tự nhiên là chúng tôi cũng muốn vui chơi, nhưng không có thời gian. Giày trượt, ván trượt bị bỏ mặc. Trong mùa nghỉ hè, cha tôi sắp xếp cho tôi làm việc cùng với đội đào vàng, ở đó tôi có nhiệm vụ cầm cương ngựa. Tôi thích làm việc, nhưng tôi cũng muốn có thời gian cho cá nhân – ít ra là một trong mỗi mười ngày – để đi vào rừng chơi hoặc câu cá. Nhưng những người tìm vàng thì làm việc không hề ngơi nghỉ trong mùa hè. Vậy phải làm gì để có một kỳ nghỉ? Ồ, tôi đã tìm là một cách như thế này. Mỗi sáng, những người đào vàng bàn tán với nhau về giấc mơ của họ. Nếu ai đó gặp ác mộng thì những người đào vàng mê tín này sẽ quyết nghỉ một ngày. Và thế là tôi tham gia ngay vào buổi nói chuyện, đưa ra một lô những giấc mơ sợ sệt – những cơn ác mộng của trẻ em đựơc xem là có ý nghĩa đặc biệt – và chú đốc công ngay lập tức cho nghỉ làm ngày: lúc đó tôi phóng vào rừng hoặc mò ra sông chơi. Khi tôi kể với cha mưu mẹo này, người cười đến chảy nước mắt!





“Làm thế nào để khuấy động anh em trong đại đội nhỉ?” một ngày nọ tôi nghĩ “Mình có thể lấy lý do gì để làm mọi người kích động và bảnh choẹ một chút nhỉ?”. Và phương án đến như một ánh chớp. Đầu tiên tôi thấy sờ sợ, nhưng sau khi nghĩ kỹ, tôi tin rằng mình không thể bị lật tẩy và tôi quyết định hành động. Tôi biến khỏi đại đội chừng khoản nửa giờ, sau đó tôi xuất hiện trở lại với một điệu bộ quan trọng, nín thở thông báo vài “tin” cực kỳ rằng: “Này, anh em, có tin đồn là Stalin sẽ đến thăm Phương diện quân Sông Đon!”



 



“Tin nóng” này lan nhanh khắp các chiến hào như một đám cháy rừng (với tốc độ máy “điện báo mồm lính” mà!), và trong vòng một giờ, không một ai trong đại đội tôi là không bận bịu với việc chỉnh đốn mặt mũi, trang phục. Tay thì gột những vết bùn ra khỏi áo choàng, tay thì cố vá víu những lổ thủng trên quân phục, hoặc tắm, cạo râu ngay trên mặt tuyết: mọi người cố gắng điên cuồng để mình trông sáng sủa.



 



Sau đó lính tráng bắt đầu hỏi các cấp chỉ huy về “tin tức” đó. Nhưng họ lúng túng và không thể trả lời. Điều này càng làm lính tráng tin vào những lời đồn đại loại như: “Các tay sĩ quan được yêu cầu phải giữ bí mật thông tin vì lý do an ninh..”. Và như bạn biết đó, tôi thấy mình như là một kẻ xuẩn ngốc khi  lo lắng về hậu quả của trò đùa này: ngay cả khi tôi thú nhận mình chính là tác giả của tin đồn này thì cũng chả ai tin tôi!



 



Một ngày nào đó, khi đại đội tôi đã tiến lên khá xa, chúng tôi lọt vào một khu đầy những hầm hào trú ẩn do bọn Đức bỏ lại. Tôi thấy quân ta tụ lại gần đó, bàn tán gì đó rồi tiến vào. Tôi cũng nhanh chóng chui vào một hầm và thấy một tay pháo thủ to con trong trung đòan đang quằn quại trên sàn. Trông như thể anh ta đã ngẫu nhiên tự đầu độc mình. Việc này xảy ra thường mà.



 



Tay lính bất hạnh ấy quỳ dậy trên đầu gối, chà bóp vào cổ mình và rên lên như cái kèn trumpet. Anh em lính tráng chỉ liếc nhìn tay pháo thủ ấy một tẹo rồi đi tiếp. “Anh ta sao vậy?” tôi hỏi. “Đó, cu thấy đó, nó uống cái quái quỉ gì đó từ một trong những cái chai kia”. Tôi trông thấy một cái hộp có chứa 6 cái chai to, trong đó đầy một loại dung dịch nhớt vàng vàng. Người “chết” ấy đang cố sức thở một cách đau khổ hết mức có thể. Tôi để ý thấy mặt gã đỏ như cà chua. Khi đó, hắn háy mắt nhìn tôi và bắt đầu rên rỉ thê lương bằng tiếng Ukrain “Ôi, lạy chúa tôi! Lạy chúa tôi!”



 



Tôi tìm thấy trong hầm còn rất nhiều hộp và cũng chứa đầy những chai có thứ rượu vàng đó. Chúng tôi có một cỗ xe riêng của đại đội cối, được kéo bằng một cặp ngựa. Tôi nói nhỏ với một người trong đại đội để đưa chiếc xe đến càng nhanh càng tốt, và nó đến ngay lắp tự, trước khi xe của pháo binh có thể đến. Bấy giờ thì tay Ucraina đó bắt đầu rên rẩm ”Bọn kẻ cướp, ít ra cũng để lại tao một hộp chứ!” “Không hề” Bọn tôi cười “ở đây có ít lắm!” “Được”, tay pháo thủ vừa hồi phục một cách kỳ lạ phản khán “thế thì tôi sẽ đi cùng các anh”



 



Sau một thời gian, tay pháo thủ (tên anh ấy cũng là Marchenko) đã trở nên quen thuộc với đại đội chúng tôi, anh thường kể lại câu chuyện mà suýt chút nữa anh đã bịp được cả một đại đội, nhưng một tay “Tartar láu cá” đã nhìn thấu tim anh. Anh miễn cưỡng kết luận “Ở đâu có một gã Tartar thì một người Ucraina chả thể làm gì được”.


Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #13 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:23:41 am »



Chương 4: Sinh dưới vì sao may mắn



 



Để tăng hiệu suất chiến đấu, Buteiko, đại đội trưởng, quyết định rằng tổ chúng tôi trở thành một tổ “du binh”. Từ khi đó, chúng tôi hoạt động độc lập trong tiểu đoàn, ở tuyến đầu, yểm trợ hỏa lực cho đại đội bộ binh và được chọn vị trí của mình theo tình huống chiến đấu.



 



Kết quả là các chỉ huy bộ binh, có tổ chúng tôi để sự dùng tuỳ ý, thường dùng hoả lực cối áp chế mục tiêu trước khi tiếp cận. Ví dụ như nếu có một tay thiện xạ Nazi đang nấp sau một chiếc tăng hỏng: chúng tôi sẽ “chăm sóc” hắn cẩn thận với vài phát cối. Hoặc phe Đức thiết lập một ổ đại liên mới: và một lần nửa, hoả lực cối lại là cách giải quyết vấn đề tốt nhất.



Một giao liên chạy qua lại giữa chúng tôi và đại đội bộ binh, mang theo tin tức đại loại như một mục tiêu, một vị trí ẩn nấp phía sau những gì sót lại của một khẩu pháo: và như thể một đội cấp cứu, chúng tôi phi tới điểm đó ngay lập tức. Anh em tôi có đủ kinh nghiệm để tính toán các phần tử bắn. Tổ chúng tôi: Suvorov, Fuat Khudaibergenov và tôi, thường bắn trúng vị trí trong vòng 3 viên đạn.



Như tôi đã nói, lợi ích của chiến thuật “du binh” là hiệu suất chiến đấu. Ngay khi quân địch lộ ra một mục tiêu mới, chúng tôi có mặt ngay để dội đạn. Và cũng nhờ sự vận động mà chúng tôi tránh được hoả lực địch. Xin được nói lời cảm ơn với tờ báo của sư đoàn, tờ Tiến lên, và chiến thuật này được dùng ở tất cả các đại đội cối của sư đoàn.



Tuy vậy, có một điểm bất tiện, các cơ phận của khẩu cối khá nặng, và thật là vất vả khi phải lôi chúng đi. Theo tôi thì phần nặng nhất là nòng súng. Khi đánh bóng bằng vải thô, nó sáng loáng như được mạ kền, và không chỉ nặng – tầm 20kg – mà khó nắm giữ, nó thường trượt khỏi tay tôi như một con cá nhớt nhợt. Chợt tôi nảy ra sáng kiến: tôi có thể kéo cái nòng súng trên tuyết và mặt đất đóng băng bằng một sợi dây. Và thế là tôi nối một đoạn thừng vào rồi đi. Thật tuyệt! Buteiko để ý đến phát kiến của tôi và bảo rằng:



- “Này cậu, phải cẩn thận đừng để vỏ nòng súng rớt ra nhé, không thì đất đá sẽ lọt vào và làm hỏng gương đó!”.



Tôi mừng vì thấy đại đội trưởng có vẻ chấp nhận sáng kiến của tôi. Nhưng niềm vui của tôi ngắn chẳng tày gang khi nghe Buteito nói tiếp:



- “Có chút thay đổi, bây giờ pháo thủ số hai phải mang thêm hộp đạn”.



- “Tuân lệnh!”.



Và giờ đây tôi có 20kg kéo đằng sau và thêm 22kg trên lưng. Đồng đội tôi cười toe toét và bảo “Hê hê, Mansur, không có lười nhác nhé!”. Bên cạnh khía cạnh hài hước thì đây quả thật là những điều khó nhọc. Thật hiếm khi tổ chúng tôi có đủ 5 pháo thủ như theo điều lệ qui định. Thiệt hại của ta là rất lớn, đại đội đã phải tái bổ sung lực lượng hai lần. Chúng tôi có cơ hội để có pháo thủ số 4 nhưng còn pháo thủ số năm thì đó là một giấc mơ lãng đãng. Thường, chúng tôi chỉ có 03 người để mang toàn bộ đạn dược, giá đỡ, chân đế. Mà khi cần, chúng tôi cũng có thể xoay sở chỉ với hai người, và dù thế, mọi khẩu cối cũng đều phát hoả vào quân địch.





Dù gì thì thiệt hại của chúng tôi cũng không bằng cánh bộ binh. Ở đó, tuổi thọ một người lính chỉ một hoặc hai tuần. Mỗi lần đêm xuống là lực lượng tăng viện đưa đến nhiều hơn, và tôi hiểu rằng cỗ máy quân sự của ta vẫn phải đào tạo người lính một cái sơ sài cho đến khi chúng tôi đến được đích cuối cùng – Berlin.



Thật xúc động trước sự chăm sóc của các đại đội bộ binh dành cho cánh lính cối bọn tôi. Họ mang đạn giúp, họ tìm những vị trí bắn tốt cho khẩu đội. Tinh thần họ nâng cao khi có chúng tôi bên cạnh. Và vì ống nòng cối trông như ống khói nên họ gọi bọn tôi là “hội Samovar”.



MỘt ngày nọ, cánh bộ binh cảnh báo chúng tôi rằng có một tay thiện xạ Nazi xuất hiện ở tuyến địch và hắn đã hạ bảy lính ta rồi. Tôi ngồi xuống cạnh thi thể bọn họ và nghĩ “Chúng tôi phải kết liễu tên bắn tỉa này!”.Tôi trở lại đại đội và kể cho Suvorov về tên bắn tỉa và thật tốt nếu chúng ta có thể phát hiện ra hắn.



- “Không ai bắt đóng thuế giấc mơ, nhưng đó là một việc khó khăn Mansur ạ!” Pavel cười bảo.



Chỉ có một cách để tìm ra vị trí tên bắn tỉa là dùng kính ngắm trinh sát. Tôi lấy một cái và quay lại chỗ đại đội bộ binh, và bắt đầu một cuộc xem xét dài, tỉ mỉ trên khu phân tuyến: từng hố đạn, từng xác chết, từng đống vôi gạch… Để tìm được tên bắn tỉa trên vùng đất hổn mang này thì chả khác gì việc tìm kim trong đống cỏ! Tôi quét kính ngắm hàng trăm lần trên vùng thảo nguyên bất tận, cố nhớ đặc điểm ở những gò đất trông đáng ngờ



- “Hắn không thể ở ngoài lạnh mãi được” ai đó đằng sau tôi nói “hắn phải rời đi sớm hay muộn thôi!”.



Tôi nhảy lên xuống chiến hào, cố giữ ấm, khi một tay đại đội trưởng trẻ, lấy kính ngắm và làm như cách của tôi. Nhưng anh ấy nhanh chóng mệt mỏi vì phải nheo mắt, làm ra vẻ của một người có nhiều thứ quan trọng trong đầu, anh bỏ đi trong khi ra lịnh một cách cáu kỉnh và nghiêm trọng:



- “Cẩn thận đấy! Thấp người xuống! Hiểu không?”.



Trong khi đó, tôi thấy hứng thú với ý đồ này, và vớ lại chiếc kính ngắm lần nữa. Nhanh chóng, tôi biết được chi tiết mọi thứ trên mặt đất như thể trong lòng bàn tay tôi vậy. Chăm chú quan sát không ngừng nghỉ từ trái sang phải, tôi bắt đầu loại trừ một cách có hệ thống một số các vị trí ẩn nấp có thể, thu hẹp dần vòng nghi vấn. Đến trưa tôi chú mục vào một “gò” đất cá biệt, đột nhiên nó chuyển động! Tôi không tin vào mắt mình – chính là hắn! Bây giờ thì tôi sợ rằng sau tất cả những cố gắng của mình, tôi để vuột hắn mất. Việc gì sẽ xảy ra nếu hắn bò đi đến một vị trí an toàn trước khi chúng tôi có cơ hội làm điều gì đó?



Suvorov xuất hiện đúng lúc đó. Không rời khỏi kính ngắm, tôi báo cáo lại tình hình. Chúng tôi quyết định là sẽ dùng khẩu súng trường của một bác lính già người Siberi:



- “Súng của bọ luôn bắn trúng” bác binh nhì nói, trao cho tôi vũ khí của bác “Bọ ước là họ cho bọ khẩu súng này khi kết thúc chiến tranh, bọ mang nó về với rừng! Bọ không cần huân chương, chỉ cần khẩu súng trường của bọ!”.



Tôi cẩn thận đặt khẩu súng lên bờ công sự, trong khi Suvorov suy nghĩ phương án tốt nhất để dụ tên bắn tỉa khai hoả, khi đó tôi có lợi thế khoảng 10 giây “chết” khi hắn phải lên đạn.



Không phí phút nào, Pavel quấn một mẩu vải quanh chiếc xẻng quân dụng, vẽ mắt và mũi bằng bùn, đội nón của anh lên đó và thận trọng đưa nó nhô lên mặt công sự. Cái “gò đất” chộp ngay, và chiếc xẻng kêu lên leng keng. Ngay lập tức tôi tỳ bám súng vào vai và bóp cò. Cái “gò đất” gục xuống. Rất nhanh, tiếng súng tự động rộ lên từ phía địch và súng máy của ta cũng đáp lời.



Ngay sau đó, khi mọi thứ yên lặng trở lại, chúng tôi thấy có hai dáng người bò như thằn lằn từ tuyến địch về phía cái “gò”. Bọn Quốc xã đó cũng nhận được cái mà chúng đáng nhận, và khi đêm xuống, vài tay liều lĩnh hơn trong số chúng tôi tiến đến chỗ tên bắn tỉa đã bị hạ và mang về một ít chiến lợi phẩm. Trong số đó có một cuốn sổ trong đó ghi một con số tính toán ớn lạnh: 87 chiến tích.



Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #14 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:25:21 am »



Cũng ngay trong đêm đó tôi mắc phải một vi phạm nghiêm trọng. Số là cấp trên của chúng tôi dự đoán rằng bọn Đức bị vây sẽ cố gắng đột kích vào hướng tây – địa đoạn phòng thủ của chúng tôi. Nhưng nhiều ngày qua mà không có dấu hiệu gì từ bọn Frizt và trong trạng thái lâng lâng sau chiến công giết tên bắn tỉa, điều tệ hại nhất đã xảy ra. Chúng tôi luân phiên ngủ, và tôi đề nghị Suvorov ngủ trước để tôi đứng gác. Suvorov ngủ thiếp đi rất nhanh. Nhưng khi đó tôi cũng hoàn toàn ngủ gục, đó vẫn là một điều bí ẩn với tôi, làm thế nào mà tôi có thể mất tỉnh táo quá nhanh và một cách hoàn toàn như vậy. Phải chăng tôi lả đi sau một ngày mệt nhọc? Tôi không biết, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra lần nữa…



Bọn Đức ập đến như tuyết lở cùng với tất cả thiết giáp, ô tô, xe kéo của chúng theo đội hình hàng dọc tràn qua đầu chúng tôi trong một nổ lực phá vây. Quân ta khai hoả và tiêu diệt được một số xe trong đó có xe tăng, nhưng bọn Frizt vẫn tiến lên. Các đại đội bộ binh của ta rút lui. Sự thật là tất cả các đơn vị ở tuyến một, không thể trụ vững trước cuộc tấn công dữ dội có qui mô lớn của quân Đức, đã rút lui chậm rãi một cách có phương pháp về trụ lại ở tuyến hai, như thế cho phép pháo bắn tự do.



Nhưng lúc đó chúng tôi vẫn đang ngủ! Tôi thấy trận chiến này trong giấc mơ. Vâng, tôi nhận thức được điều đó trong tâm trí như thể là một cơn mộng, và nó không làm tôi tỉnh giấc. Nhưng đâu đó sâu thẳm trong tôi vang lên một giọng cảnh giác “Thức dậy đi! Đây không phải là giấc mơ”. Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có nên tin điều này không? “Oh, mình sẽ chỉ mở mắt ra thôi” cuối cùng tôi quýêt định như vậy. Nhưng khi chợt tỉnh, tôi thấy mọi thứ như trong đã có trong giấc mơ! Chúa ơi, việc quái gì vậy? Sovorov cũng thức dậy và hỏi: “Mansur, chuyện gì thế?”, “Bọn Quốc xã chọc thủng tuyến phòng ngự của chúng ta”, tôi thầm thì, “ và chúng ta thì ngủ quên!”.



Suvorov cẩn thận lắng nghe tiếng động bên trên chúng tôi. BỌn Đức đang cố đi vòng tránh một chiếc tăng bị cháy trước chiến hào chúng tôi, và vì vậy chỗ chúng tôi hiện là một khu “đất chết” nên chúng tôi mới không bị phát hiện. Suvorov ra lệnh cho tôi ngồi yên, trong khi anh thận trọng đứng lên và thò đầu ra khỏi công sự. Sau đó anh bò trở lại và chúng tôi bàn xem phải làm gì.



Trong giấc mơ, tôi đã đoán chắc việc gì đang xảy ra. Và theo những gì mà Suvorov xoay xở để trông, thì bọn Quốc Xã đang dừng lại ở tuyến phòng ngự thứ hai. Tiếng súng cách chúng tôi không xa mấy, chừng 2-3km về hướng tây, tức ở đúng vị trí của tuyến phòng ngự thứ hai. Chúng tôi không có nhiều lựa chọn, phải ngồi và chờ một vài giờ, nếu trung đoàn không thể trở lại, thì chúng tôi sẽ phải cố tìm cách để về với anh em trong sự che chở của bóng đêm.



Suvorov trở lại điểm quan sát còn tôi thì giấu mình dưới đáy chiến hào. Làm sao tôi lại có thể “tắt điện” như thế và ngủ quên khi đang làm nhiệm vụ canh gác? Tôi căm ghét bản thân mình vô cùng! Nếu tôi một mình thì còn đỡ, đằng này, ôi Suvorov tội nghiệp! Anh không trách cứ tôi, nhưng thế chỉ làm mọi việc tồi tệ thêm. Tôi mường tựơng ra rằng Suvorov sẽ nghĩ: “Mịe, Mansur là thằng óc bã đậu, không có ý thức trách nhiệm. Một thằng  đầu đất. Nếu mình có thể ra khỏi tình thế này, mình sẽ không chơi với nó nữa. Không cần thằng lười nhác vô tổ chức như vậy nữa. Chả ai có thể tin nó cả, nó ngủ trong khi cần có nó…”. Như thế, như thế…



Tôi ngồi đó, cố tự phân tích xem phải làm gì là tốt nhất, và kết luận là: “Ừ, Suvorov sẽ không cần một đồng sự như mình. Và mình cũng không cần mình nữa! Tại sao mình có thể là một thằng-không-ra-gì thế này? Nếu hai anh em có thể ra khỏi tình thế này và trở về lại tiểu đoàn, hẳn tiểu đoàn trưởng sẽ chẳng cảm ơn mình! Họ chắc sẽ tước huy chương “Vì lòng dũng cảm” của mình và khai trừ ra khỏi Đảng”. Tôi những muốn tự sát nhưng tôi cũng không muốn bỏ rơi Suvorov. Tôi không thể tự sát và để anh ấy một mình trong thời khắc nguy hiểm này.





Trong khi đó, trên đầu tôi, âm thanh hỗn loạn của trận đánh vọng đến, nghe chừng bọn Đức vẫn tiến về hướng tây. Hoả lực của ta, trong nổ lực chặn đứng quân thù, đã bắn đạn phá và cối hạng nặng, sức nổ của chúng hạ gục nhiều lính thù và ắn hẳn cũng sẽ dễ dàng giết chết chúng tôi.



Cuối cùng, bọn Đức bị hất trở lại, tôi nghe được những tiếng động hỗn loạn của sự lộn xộn đi cùng chúng ở phía trên đầu: những tiếng hét tuyệt vọng, những tiếng nổ inh tai, tiếng động cơ gầm gừ, những tiếng rên rỉ đau đớn. Trông như một cơn sóng lớn, màu xám đang cuộn trở lại vào trong “cái túi”. Chúng ta đã trên cơ. Chừng nữa giờ sau, tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc Nga réo rắt, làm tôi nổi gai ốc! Ôi những người lính muzhik thân yêu của tôi! Này anh em, hãy chửi rủa tôi đi, vì tôi đang ngồi ở đây, khi mọi người phải đánh cược với số phận! Lính ta rất điên tiết – họ sẽ không tha thứ cho tôi cái tội ngủ quên!



Suvorov trở xuống, mò tìm vài quả thủ pháo, dăm băng đạn và nói một cách trang trọng: “Nào, hãy làm gì để tạ lỗi với anh em đi”. Tôi tham lam khuân theo cả một núi thủ pháo và đạn. Đứng cạnh Suvorov, tôi sẵn sàng chiến đấu. Bọn Frizt đang rút chạy và đến gần trong tầm hỏa lực: “Đến đi, đồ vô lại!”.



Chúng tôi đợi trong giây lát và đúng lúc khai hoả vỗ mặt quân địch đang rút lui,. Chúng không có thời gian để chống lại chúng tôi. Bọn Đức chỉ đơn giản là đi vòng tránh chiến hào bọn tôi ở về cả hai phía. Chúng tôi tiếp tục nã đạn: và lo ngại sẽ bắn phải quân mình – vốn đang gấp rút đuổi theo kẻ địch – đang nhanh chóng đến đằng sau bọn Frizt. Sau cùng, chúng tôi quay ngược lại, bắn bọn Đức từ phía sau lưng, những đoạn hào bên cạnh đã được đồng đội tái chiếm. Và tiểu đoàn, sau khi mất một nửa quân số, đã trở lại vị trí ban đầu.



Đó là điều đã diễn ra trong một đêm nào đó, mà Suvorov và tôi, dù không di chuyển, lại thấy mình ở hậu tuyến kẻ thù! Mệt mỏi trong chiến hào, chúng tôi đã ngủ vùi trong suốt trận tấn công: còn ngày nay thì chúng ta lại thấy khó chịu bởi tiếng xe chạy dưới cửa sổ!!!



Đại đội trưởng vui mừng thấy chúng tôi còn sống: “Ít ra thì các cậu cũng không bỏ chạy về hướng ngược lại!” anh ấy cười. Nhưng tiểu đoàn trưởng thì bảo: “Cậu cũng sẽ không được nhận phần thưởng vì chiến công bắn hạ tên bắn tỉa”. Tôi vui mừng vì mọi việc kết thúc một cách nhẹ nhàng. Với những vi phạm như vậy, lí ra tôi phải nhận những hậu quả tệ hơn nhiều.  Anh em, dĩ nhiên, tìm mọi cách đùa cợt có thể. Trong những ngày sau đó, chúng tôi trở thành đối tượng cho những trận cười nhạo liên miên. Và mỗi khi kết thúc, Suvorov chỉ lắc đầu và bảo “Trong chúng ta, Mansur, hắn được sinh ra dưới vì sao may mắn”



Trời rét. Buổi sáng. Quân Đức im lìm trong vòng vây. Chúng tôi cũng bất động. Tuyết chầm chậm rơi trên mặt đất.




Phía trước chúng tôi, trong vòng vây, có năm quả đồi bị bọn Đức chiếm giữ. Chúng tôi không nhìn thấy được những quả đồi đó, nhưng trên bản đồ, Bắc Karpov, chúng được điểm danh với những cái tên như “cao điểm 126” v.v…



Trung đoàn được lệnh tái chiếm và trấn giữ chúng. Đến giờ tấn công, pháo binh khai hoả và các tiểu đoàn bộ binh vận động về phía trước. Lúc đó là đầu tháng 12. Mùa đông năm ấy tuyết rơi dày, không ít hơn 40 cm, thậm chí còn hơn ở những vùng trũng.



Trận pháo kích yểm trợ kết thúc bằng một pháo hiệu tấn công. Các tiểu đoàn vùng dậy hét vang “Đất mẹ vinh quang!” và ào lên phía trước. Cuộc tấn công không hề bị một cản trở nào và cũng không thấy các ổ đề kháng của quân địch, chúng tôi tiến đến gần năm ngọn đồi. Bọn Đức rút lui như những kẻ hèn nhát: “Bọn Frizt kiệt quệ rồi. Chúng không muốn chiến đấu nữa” Tôi nhớ rằng mình đã nghĩ như vậy.



À, vì không có sự kháng cự, các tiểu đoàn, đại đội ít có thèm lặn lội trong tuyết sâu. Và thế là anh em lính tráng theo nhau tụ tập lại từng nhóm, tạo thành một đội hình hàng dọc lê thê, cố hành quân chỉ ở những nơi có lớp tuyết dày và cứng. Bằng cách như vậy, trung đoàn tiến đến gần mục tiêu. Khoảng chừng một cây số nữa là những ngọn đồi sẽ nằm trong tay chúng tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên ở phương diện quân Sông Don, phe ta dồn ép quân Đức một cách quá dễ dàng như vậy; lần đầu tiên chúng rút chạy mà không hề chống cự. “Nếu cứ như thế này thì trận chiến Stalingrad sẽ kết thúc trong vòng một tuần” Tôi nghĩ.



Đúng vào lúc đó, ở từ khắp mọi nơi quanh chúng tôi, pháo và đại liên quân Đức đột nhiên khai hoả trùm lên quân ta. Bấy giờ, một người lính không thể thấy được bức tranh tổng thể của trận đánh ở qui mô, có thể nói là, cấp sư đoàn. Họ chỉ có thể hiểu được những gì diễn ra trước mắt thôi. Và vì vậy tôi sẽ không cố phác thảo diễn biến tổng thể của trận chiến mà tôi sẽ dễ gặp sai lầm nếu làm. Thay vào đó, tôi sẽ chỉ miêu tả những gì đọng lại trong trí nhớ của tôi.



Trung đoàn tôi, như một con vật sống khổng lồ, bắt đầu xoay vòng vòng mà không biết đi đâu. Từ mọi hướng, từng cơn mưa đạn và đại pháo bắn vào chúng tôi. Mọi người nghe thấy tiếng hú của những khẩu cối sáu nòng bên phe địch, những quả đạn đó sẽ xé rách những ai ở gần chúng, và tôi nhanh chóng nảy ra một ý: “Tôi phải tìm cách chuồn khỏi đám đông và vọt lên một trong những ngọn đồi, hoặc tốt hơn, chạy lui, hi vọng rằng bọn Quốc xã sẽ không quấy rầy những mục tiêu lẻ!”. Suvorov và tôi lẩn sang một bên của khối người đông đúc và trốn khỏi vùng khói lửa. Nhanh chóng sau đó, cùng với khoảng 50 người khác, chúng tôi lội đi trong vùng tuyết trắng trinh nguyên. Chân ngập sâu trong tuyết, nhưng ở đây, cách chừng 100m, thì ít ra bọn địch cũng không còn bắn mọi người. Và để có thể đi nhanh hơn, chúng tôi phải cưởi ra cả áo khoát và áo vatnik (mọi loại áo bông – ND). Quân Đức không bắn vào bọn tôi. Chúng tôi đã thoát khỏi cái bẫy, còn sống, dù người ướt đẫm mồ hôi như thể mới lội từ dưới nước lên.



Ở khoảng cách đó, chúng tôi có thể nhìn thấy rõ ràng toàn cảnh của thảm hoạ này. Bọn Đức đã khéo léo phục kích chúng ta, và đang tiếp tục bắn hạ anh em tỉ mỉ, trong khi xe tăng của chúng – ẩn trong hố chỉ lòi tháp pháo ra – tuôn ra một cơn bão đạn. Trung đoàn mất kiểm soát, thật là kinh khủng khi phải làm nhân chứng cho trận tàn sát đó: chúng tôi thấy thổ thẹn nhưng không thể làm gì được.




Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng máy diesel gầm rú tới gần. Chúng tôi nhìn thấy xe tăng quân ta – chừng 20 hay 30 chiếc – đằng sau đó, trong áo choàng ngụy trang mùa đông màu trắng, là lính trượt tuyết trang bị bằng tiểu liên, đang bám chặt những sợi thừng buộc vào xe thiết giáp. Một cảnh tượng thật đáng xem! Đội quân đó, chỉ huy bởi một đại uý, dường như xuất hiện từ thinh không. Họ trông sạch sẽ một cách đáng ngạc nhiên – bảnh bao – mặc áo choàng lông thú màu trắng điệu đà. Họ lại dùng những khẩu SMG mới nữa. Đột nhiên, tôi thấy sáng tỏ ra: đó là một biệt đội chặn hậu (một đơn vị lính riêng biệt phục vụ cho mệnh lệnh “Không lùi” của Stalin, được bắn vào những quân sỹ tiền tuyến bỏ chạy – ND).



Tôi đã sẵn sàng nói lời từ biệt cõi đời, khi viên đại uý bắt tay tôi một cách thân tình và điềm tĩnh nói bằng một giọng mang khẩu âm Estoni:



-  “Không ai bắn cậu đâu! Các cậu không phải là những tên hèn. Các cậu đã cố để thoát khỏi cái bẫy!”.



Chúng tôi rất khó khăn để tin vào tai vào mắt mình, sự nhẹ nhõng trong mỗi người biểu hiện thật rõ ràng. Vị đại uý thấy hơi nước bốc lên từ chúng tôi như thể mọi người vừa bước ra từ nhà tắm hơi bania, còn áo thì thấp đẫm nước đến mức có thể vắt ra được.



- “Hãy lấy áo vanik, áo bành tô của người chết, và đến hầm chúng tôi. Ở đó có lò sưởi đấy” anh tử tế nói.



Sau này, anh em nói cho chúng tôi biết về vị đại uý của họ. Anh tên là Yan Tukhru, và đúng như tôi đoán, anh là người Estonia. Hiện nay, anh là một thiếu tướng hồi hưu. Anh đã đọc sách của tôi và thấy tên mình trong đó, anh mời tôi đến thăm anh ở thành phố Tallinn. Sau khi cùng anh hồi tưởng lại những chiến thắng và cả những thất bại của quân ta – trong đó có tình tiết kể trên – tôi hỏi anh một câu hỏi đã theo tôi bao năm qua:



-         “Hãy cho tôi biết vì sao anh không bắn những tay lính rút lui – trong đó có tôi và đồng đội – không như những đội “chặn hậu” khác?”



-         “Này Mansur, cậu để ý có gì đặc biệt trong số những chỉ huy của đội chặn hậu không?”



-         “Không”



-         “Tôi trả lời câu hỏi của cậu nhé: vì tôi là người Estoni”. Tôi nhớ đến tất cả những chỉ huy nồng nhiệt thi hành mệnh lệnh 227 “Không lùi”: quả thật không có một người Estoni nào cả. “Lúc đó, cấp trên nghi ngờ  về sự miễn cưỡng thi hành mệnh lệnh của tôi và cho rằng tôi là một kẻ quá cứng đầu”.



Trận chiến đấu kết thúc sau chừng một giờ. Các quả đồi cuối cùng cũng đã chiếm được, nhưng chúng tôi không thể nhìn mặt nhau. Thật là nhục nhã! Những sĩ quan chỉ huy đến thăm chúng tôi trong cả đêm.



Vài người lính kể chúng tôi rằng trung đoàn bạn ở bên cạnh cũng trong tình trạng khó khăn như vậy, nhưng lúc nguy cấp, Tham mưu trưởng trung đoàn Đại uý Pavel Bilaonov xuất hiện giữa họ. Bằng giọng nói như sấm rền và sắt đá của mình, anh đã khiến cho binh sỹ vững vàng trụ lại và nằm rạp xuống. Đầu tiên, anh chặn một tiểu đoàn lại và tổ chức phản công. Tấm gương anh hùng cá nhân của anh trở thành mẫu mực binh sỹ. Hai tiểu đoàn đang rút lui thấy hành động của Bilaonov cũng quay lại vị trí tấn công.



Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi bị thay bởi một người khác. Mười ba xe tăng, sáu pháo và 8 khẩu cối của quân địch bị phá huỷ. Hơn 100 lính Đức bị bắt. Cái giá của năm quả đồi đó thật quá mắc với chúng tôi.

Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #15 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:27:14 am »



Một buổi sáng sau đó, chúng tôi mất một người lính tên là Akhmet Garipov. Anh em thấy anh ta đêm hôm trước với một cái chậu đầy than đang cháy, đang loay hoay cùng cái áo mưa cố làm một thứ gì đó trông như chiếc lều. Mọi người tìm thấy thi thể anh ta dưới chiếc áo: người đồng chí tội nghiệp này đã bị chết ngạt.



Latyp-aka, một bác lính Uzbek già, lắc đầu một cách buồn bã, nói bằng thứ tiếng Nga sai bét “Ôi Garib, Garib! Nó muốn làm một Tashkent thu nhỏ mà! Nó muốn làm một cái sandal của người Uzbek chúng tôi! Sandal là một cái hầm. Đầy than nóng. Sau đó cả gia đình và khách nằm quanh sandal, đắp lên hàng lớp chăn. Sandal sẽ tốt lắm, sẽ ấm lắm, nhưng mọi người chỉ nên đưa chân và bụng vào sandal, còn đầu thì thò ra ngoài để thở. Nếu anh cho cả đầu vào trong sandal thì chết. Garib chui đầu vào đó. Một cái chết thật tội. Chỉ nên chết khi già thôi, khi đã nuôi đứa con lên 15 tuổi. Garib, Garib, ôi cái đầu ngu ngốc mà thánh Allah đã ban cho mi. Phải chi chết vì một viên đạn trong chiến đấu thì tốt hơn…”



Tôi lắng nghe bác người Uzbek nói và nhớ lại, ở trường lục quân, tôi đã lả người đi như thế nào trong cái nóng mùa hè Tashkent. Đất nước ta rộng lớn biết bao! Một số nơi thì quen với cái lạnh còn nơi khác thì nóng. Vào tháng 12 năm 1942, nhiệt độ ở Stalingrad thỉnh thoảng rơi xuống đến âm 40 độ C. Dĩ nhiên, con người có thể sống ở nhiệt độ âm 50 đến 70 độ C nếu không có gió. Nhưng ở Stalingrad thì thật độc địa với những cơn gió thảo nguyên, và chỉ có một nơi đển ẩn thân thôi: chiến hào. Tôi sinh trưởng ở miền Siberi, nhưng những điều kiện thời tiết ở đây cũng đã quá khắc nghiệt so với mình. Huống hồ là những người Uzbek, vốn sống ở phương nam, nên chia sẽ với họ về cái lạnh, nhưng quân thù gây sức ép từ mọi hướng, và tổ quốc đang cơn nguy khốn, không có chỗ cho sự thận trọng đó.



Ở đại đội bộ binh bên cạnh, cũng có một bi kịch không ngờ khác. Vài cậu lính tìm thấy ở cạnh hào có một cái hố tròn cở cửa sập xe tăng. Hơi ấm bốc lên từ đó, nghe như mùi lò sưởi được sử dụng lần đầu. Họ nhận ra cái lỗ hố đó dẫn đến một căn buồng trông như một cái chậu có đường kính tầm 5-6 thước, nó được tạo ra bởi sức nổ của một quả bom. Đất sét ẩm ướt bị nén lại rắn như gạch, và bức tường của “cái chậu” rất ấm, với những khe hở hẹp trên đó. Vài người quyết chui vào đó để đánh một giấc ngắn trong cái chỗ ấm áp dễ chịu này. 18 binh sỹ đã nhảy xuống và đã ngủ một giấc ngủ vĩnh viễn. Nitric Oxit, tạo ra từ vụ nổ, tiếp tục thấm qua từ các khe nhỏ nhưng sâu đó. Những ai biết được về mối nguy này? Dĩ nhiên, là thợ mỏ. Vâng, tôi là thợ mỏ:  nhưng nếu tôi là người tìm được cái chỗ ngủ tuyệt vời đó, chắc tôi cũng sẽ là người đầu tiên nhảy xuống và chiếm lấy nó. Khi nào thì chúng tôi mới thôi dại dột??




Vài đêm trước, máy bay vận tải của bọn Đức thả xuống dăm kiện hàng rất có giá trị gần tiểu đoàn chúng tôi: một đống ủng ấm bằng nỉ với đế, bọc da, làm rất tốt, ấm và không thấm nước. Đúng là tốt hơn loại ủng valenki truyền thống của chúng ta, mọi người rất vui vẻ dùng ngay. Bọn Frizt tức điên khi thấy anh em lấy ủng của chúng, và gào lên: “Bọn Nga, trả valenki lại đây và lấy súng của bọn tao đi này!” (Chúng ta có khá nhiều tiểu liên Đức và hàng đống đạn của loại ấy).



Bây giờ thì chân ấm rồi. Nhưng cũng vào thời điểm đó, chúng tôi bị mất hầu hết áo mưa, nên phần thân thể còn lại của mỗi người bị ẩm ướt bởi mưa và tuyết tan. Chúng tôi phải làm gì bây giờ?



À, ngày hôm qua, ở khu phân tuyến (hay vẫn thường gọi là vùng-đất-không-người) – chừng 200m từ chiến hào quân ta - tôi thấy có vài kiện hàng bọn Đức thả xuống cho người của chúng. Nhiều kiện bị rách và trong đó tôi thấy chứa toàn quần áo, cả áo mưa nữa. Những chiếc áo mưa mới toanh! Nếu như có ai đó có thể lấy ….



Tôi tiếp tục chú mục vào vùng-đất-không-người và cầu mong có ai đó sẽ chạy đến chỗ các kiện hàng bị mắc kẹt đó: và nếu ổn tôi cũng sẽ tự mình đi. Tôi chỉ những chiếc áo mưa cho Suvorov thấy. Anh ấy không nói gì. Bấy giờ tôi thấy xấu hổ, bởi việc đó có vẻ như là tôi bóng gió gợi ý cho anh ấy đi. Tốt nhất là nên im thôi! Giờ tôi phải đi nếu không thì bị xem như một thằng hèn. Và tôi đã tự mình băng qua vùng phân tuyến. Tôi đến chỗ kiện hàng bị rách và nhìn quanh: chiến hào bọn Đức ở đâu nhỉ? Mình sẽ là một mục tiêu tốt cho một tay bắn tỉa! Dù sao, nếu hắn trượt viên đầu thì tôi sẽ có thể chuồn được. Nhưng mọi thứ yên tĩnh và tôi không thấy gì đáng ngờ.



Tôi chộp một góc chiếc áo mưa và bắt đầu kéo nó ra khỏi một đống thứ linh tinh trong đó. Nhưng khi đấy, từ đâu vài tên phát xít xuất hiện. Tôi sợ đến mức thở không nổi và cho rằng phải có đến ít nhất là mười bảy tên. Nhưng hượm đã, tôi không có thứ vũ khí nào trên người! Cả khẩu súng lục, mà viên đại tá xe tăng đã tặng, cũng không! Bọn Đức đứng thành một vòng bán nguyệt, nhếch mép và cười nhạo: chúng thấy có một thú vui nho nhỏ. Hàng trăm suy nghĩ như chớp giật trong đầu tôi ở giây phút ngắn ngủi đó. Nhưng may mắn thay, nỗi sợ hãi không làm tôi mù loà: cách vài bước chân, là một cái hố trong đó có một hộp đã mở chứa đầy lựu đạn.



Bọn Đức vẫn đứng cười: “Hê hê, thằng Nga Ivan!”, chúng xoay xoay ngón tay trên thái dương như thể muốn nói “đồ khờ, mày lê mông ra đây chỉ vì cái áo mưa à!”. Có lẽ bọn chúng đang buồn chán nên muốn kích động tinh thần đồng bọn một chút - những kẻ hẳn đang theo dõi tấn kịch này. Bọn địch vẫn nhìn thấy tôi, ôi tôi ước gì tôi có thể lấy được dù chỉ một trong chỗ lựu đạn kia. Mà này, mình có gì để mất nữa nhỉ? Thế là tôi áp chặt tay vào bụng và nhảy vọt vào trong cái hố. Vồ lấy một quả lựu đạn, tôi tin rằng bọn Đức đã không chú ý đến cái hộp, hoặc quá hưng phấn để e ngại một tay Ivan không tấc sắt. “Mình phải làm được trước khi bọn chúng bắn!” tôi nghĩ, trong khi tay tôi đã tự động làm việc, khi ấy bọn Frizt vẫn đang cười rộ “Ha-ha-ha”, “Ho-ho-ho” và “Thằng Ivan, đầu hàng đi, cửơi Valenki ra!”. Tôi chợt thấy có hai khẩu tiểu liên nằm cạnh đó, phủ một lớp băng mỏng. Nó có đạn không nhỉ? Tôi cúi gập người, đôi tay tìm kiếm ổ đạn. Tháo ra. Băng đạn ken đầy trong ổ. “Đi nào!”



Những quả lựu đạn được tới tấp ném, nhanh đến mức quả đầu nổ khi quả thứ ba cũng đã được ném. Tôi tiếp tục ném chúng ra như những hòn than nóng đỏ. Sau đó, tôi nhảy khỏi hố với khẩu súng trên tay, không thèm nhìn để xem việc gì xảy ra ở cái chỗ mà trước đây vài giây bọn Frizt hăm hở cười, tôi lia vài tràn. Bấy giờ bọn địch gào lên cái gì đấy! Giận dữ, tôi lôi mạnh một góc chiếc áo mưa, và nhấc chân lên chạy, nghe tiếng đạn réo đằng sau…



Tôi nhảy trở vào chiến hào cạnh Suvorov. Người chỉ huy thân thương rủa yêu và thụi, đá tôi vài cú. Kể từ ngày đó, cho dù đang đào hào, tôi luôn mang theo khẩu tiểu liên bên mình. Thật là bất tiện khi làm việc, nhưng sẽ không bao giờ tôi rời xa vũ khí nữa, dù chỉ một phút.


Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #16 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:29:39 am »



Chương 5: Quà tết cho bọn Phát xít



 



Rồi một đêm, có một nhóm sứ giả đến trận địa chúng tôi. Chắc họ đến từ một lữ đoàn Rumani. Tiểu đoàn trưởng triệu tập tôi lên sở chỉ huy để những tay sứ giả ấy có thể nhìn tôi tận mắt: đó là vì họ đã thấy tôi cướp cái áo mưa ngay trước mũi bọn Đức. Cả nhóm 8 người đó đều mặc áo len bó màu đen, dày cộm. Bọn họ trông giống như người Armeni hoặc người Grudia ở nước ta. Dù ở sở chỉ huy khá tối – đèn là những chiếc hộp đạn chứa dầu – những tay Rumani vẫn nhìn tôi. Sau đó, họ bàn riêng với nhau, còn tiểu đoàn trưởng thì cho tôi về.



Chắc là họ đến để bàn về các điều kiện đầu hàng, và dăm đêm sau, vài trăm binh sĩ từ lữ đoàn địch, hoạt động trên khu vực trận địa chúng tôi, hạ vũ khí.



Những người điều đình đó cũng đã cung cấp cho chỉ huy quân ta khá nhiều thông tin có giá trị, và cả sơ đồ bố phòng của quân Đức trước sư đoàn chúng tôi. Mọi người thấy được kết quả bắn phá của pháo binh vào phòng tuyến địch vài ngày sau, khi chúng tôi tiến lên. Họ cũng cho tiểu đoàn trưởng tôi biết một vị trí mà hằng đêm, lúc 11h00, một bếp ăn dã chiến sẽ phục vụ đồ ăn nóng.



Các khẩu cối được lệnh “chăm sóc” cho cái bếp ăn đó. Chúng tôi xác định vị trí bắn phá, và tính ra rằng chỉ cần tăng góc bắn lên vài độ, ở thước ngắm số 3 thì sẽ bắn trúng.



Đạn cối chiến lợi phẩm được đưa tới điểm bắn: 30 viên cho mổi khẩu đội. Trung uý Stukach và tôi cẩn thận lên điểm quan sát, nhìn thẳng sang chiến tuyến địch. Mở to mắt và yên lặng, chúng tôi đợi. Trời hẵng còn sáng lắm, dù chỉ có trăng thượng tuần nhỏ xíu lơ lửng trên không. Đúng 11h00, như đã được báo, một bếp ăn dã chiến xuất hiện. Bọn Đức, mỗi tên mang theo 2-3 cái gà-mên bắt đầu tụ tập đến, từ khắp nơi. Không dưới 100 người xung quanh bếp ăn. Tên anh nuôi làm việc. Và chúng tôi cũng vậy. Cả chín khẩu cối cùng khai hoả. Chúng tôi không tiết kiệm khi “phục vụ” bọn Quốc xã bằng chính đạn của chúng.



Không vui vẻ gì khi giết người. Nhưng tại sao quân Đức đến nhà chúng tôi? Tại sao chúng mang chết chóc, khổ đau cho đất nước tôi? Chúng muốn chúng tôi đầu hàng mà không chống lại chăng? Tôi thấy chúng sau đó, khi quân địch đã bị đuổi khỏi Stalingrad, những mảng tử thi đông cứng theo những hàng dọc ngả nghiêng. Ai trong số họ cũng có một người mẹ đang chờ đợi ở quê nhà. Đột nhiên, nỗi niềm trắc ẩn dâng nghẹn ngào trong tôi. Nhưng điều đó nhanh chóng tan đi. Những người mẹ đó đã nghĩ gì, chờ gì khi gửi những đứa con và cuộc chiến này? Và họ muốn gì ở chúng tôi?



Anh em lại bị đói lần nữa. Nhà bếp quân ta bị bọn Đức thổi bay. Hơn nữa, khi đó Hitler lại ngưng tiếp viện thực phẩm theo cầu hàng không cho đội quân của Paulus, nên chúng tôi cũng không còn nguồn thức ăn chiến lợi phẩm. Tôi mò tìm đến một đồng đội, thượng sỹ Smirnov, trung đội trưởng trung đội hậu cần. Chúng tôi là bạn từ thời ở Malaya Yelshanka, nơi trung đoàn nghỉ chân vài ngày trong chặng đường hành quân ra mặt trận.



Ở đó, tại Malaya Yelshanka, cùng với quân phục, chúng tôi cũng được phát xà cạp. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vật này, vì học sinh sỹ quan chỉ mang vớ. Tôi tự hỏi: làm thế nào mà cái băng trơn tuột này có thể nằm yên trên bàn chân khi mà cẳng chân nhỏ dần về phía dưới?” Nếu cái xà cạp rộng dần về phía cuối thì đơn giản hơn nhiều. Bọn tôi không được dạy cách dùng xà cạp ở trường, nhưng tôi không muốn mình trông như một thằng khờ, và vì vậy tôi cột chỗ bàn chân lại chặt hết mức có thể, với tất cả sức lực của một người thợ mỏ, cái xà cạp không bị tuột nữa. Bàn chân tôi trở nên tê buốt nhưng tôi quyết để như vậy. Lúc đó có lệnh tập hợp đội hình thực hành chiến đấu với mặt nạ chống độc, thứ này đã được phát trước. Tôi hành quân với đôi bàn chân không còn cảm giác nữa! Sau khi đi được chừng 1km, tôi nằm vật ra, rên rỉ vì cơn đau kinh khủng nơi bàn chân. Thượng sỹ Smirnov chạy đến bên tôi và hiểu ngay vì sao. Trong một giây, anh tháo ngay cái xà cạp ra và chỗ bị cột bung ra như một chiếc lò xo bằng thép. Chân tôi tái xanh trông giống như ống dẫn hơi gấp nếp của chiếc mặt nạ phòng độc. Sminov mát-xa cho cẳng chân và bàn chân tôi chừng mười phút, khi ấy tôi cảm thấy như có hàng triệu chiếc kim châm bên trong, màu da trở lại bình thường. Anh thượng sỹ tiếp tục xoa bóp và rủa như điên “Đồ khùng? Sức ở đâu mà cột chặt dữ vậy hả?”. Cả đại đội phải chờ nửa tiếng trong khi tôi ngồi xuống rồi nhảy lên theo hướng dẫn của Smirnov. Anh vui mừng vì mọi thứ ổn trở lại: nhưng anh hiểu rằng, anh đang phải đối diện với một đám học sinh sỹ quan vốn phải ngốn chương trình học ba năm trong vòng 6 tháng. Anh tự thân quấn lại xà cạp cho tôi một cách nhẹ nhàng, đính cái thìa phía sau chỗ cột và ra lệnh: “Đừng động vào đó!”




Bây giờ thì tôi tìm thấy anh tại một hẻm núi sâu, một chốn trú an toàn cho anh và trung đội của mình, kể cả lũ ngựa cùng xe kéo. Thượng sỹ Nicolai Smirnov  đang ngồi trong một căn hầm bê tông trông như một tiểu vương hay một gã tù trưởng, no đủ, râu tóc nhẵn nhụi, cằm nọng mỡ. Anh ném một tia nhìn e ngại về phía tôi và rồi nhận ra là ai:



-         Ồ, Mansur, vào đây, ngồi đi. Vẫn còn sống à?



-         Này Smirnov, cho tôi chút gì để ăn với



-         Tớ chả có gì cả, cả bọn cũng đang đói chết đây này



-          Đừng đùa mà. Ít ra cũng đưa tôi một mẩu bánh khô cho Suvorov chứ.



-         Tớ không còn gì, thật đấy. Cậu tự biết mà Mansur, cả đời tớ có biết từ chối các cậu bao giờ đâu!



Tôi ngồi đó, suy nghĩ: anh ta có nói dối không nhỉ? Nhưng rồi tôi nhớ lại những lời khuyên đầy lo âu của anh lúc bên hữu ngạn sông Don trước trận chiến đấu đầu đời, khi anh thấy chúng tôi kiệt sức và nằm đờ ra “Này các cậu, đừng ăn tham quá! Sẽ bị đau bụng đấy! Đau dạ dày, Lạy trời đừng ...các cậu chỉ nên mút từng chút một thôi”.



Tôi cũng nhớ rằng anh đã cho ngựa ăn bánh mỳ trong khi anh chịu đói để có thể mang các thực phẩm đến cho chúng tôi. Thật xấu hổ vì đã không tin tưởng anh ấy. Sau từng ấy việc chắc là anh không nói dối đâu. Lúc đó, Smirnov bật ra một ý tưởng:



- “Tớ có thể cho cậu cỏ hỗn hợp. Đồ ăn của ngựa”



- “OK”



Năm phút sau, quân của anh mang ra một bao. Bên trong là những bánh trấu yến mạch trộn bột mỳ, trông xù xì như con nhím. Tôi nghĩ “À, khi trước bọn ngựa ăn bánh của ta, giờ ta ăn lại của chúng”



- “Cho vào trong ấm với nước” Smirnov hướng dẫn “đun sôi, vắt trấu ra và uống nước. Nó sẽ làm dịu cơn đói”.



Tôi vác bao cỏ hỗn hợp lên vai và về “nhà”. Cả đại đội tụ tập lại và nấu vài bánh. Chúng tôi quá đói đến mức ăn cả trấu luôn: nó dường như mềm đi, và chúng tôi mong rằng mọi người sẽ ổn cả.



Ngày hôm sau những thứ hoàn toàn không mong đợi đã xảy ra: tôi muốn đi ị, nhưng thật là đau. Tôi cố làm dịu cơn đau, nhưng không thể. Ôi thật dữ dội! Đau cào ruột. Mọi thứ tối sầm trước mắt, tôi gào lên như một con lợn trong lò mổ – chắc cả cây số cũng còn nghe được! Gập người, ôm bụng rên rỉ, tôi lê trở về lại chiến hào như thể từ bệnh viện về sau một ca mổ khó. “Hix, nếu bọn Đức không giết được mình” tôi nghĩ “ thì chính sự ngu xuẩn của mình sẽ làm việc đó. Sao mình lại ăn trấu nhỉ? Smirnov đã dặn rồi mà!”. Và tôi cũng nghe tiếng rên rỉ của những người lính khác đâu đó đằng cuối chiến hào: các đồng đội, dĩ nhiên, cũng bị tuyên một “bản án định mệnh”



Cuối tháng 12 năm 1942, trung đoàn bị thương vong nhiều, tân binh bổ sung đến từ các nước cộng hoà Trung Á. Biết rất ít tiếng Nga, những người Uzbek, người Tadzhik và những người bạn khác đến từ phương Nam thấy chính họ – không chén chè xanh quen thuộc - chết lặng lẽ như những con thiêu thân, trong cái lạnh âm 30 độ. Cũng từ ngày anh em đó đến với chúng tôi, bọn Đức bắt đầu nhạo báng qua loa: “Này Ivan! Hãy đổi những thằng Uzbek lấy bọn Rumani này!”



Sáng hôm sau, lúc rạng đông, một cơn sóng thần của đạn cối, đạn pháo đổ ụp lên chiến hào chúng tôi, thêm vào đó là những trận bom. Tiếng đạn réo man rợ đủ làm chúng tôi mụ người! Mặt đất đung đưa từ trước ra sau như làm bằng cao su non hay bằng thạch trái cây. Không khí khô bỏng tưởng chừng oxi đã bị đốt cháy hết bởi đạn và bom. Cũng như bao đồng đội, tai điếc đặc, tôi bò vào chiếc hang của tôi ở đáy chiến hào, nhưng giữ chân ở bên ngoài, nhỡ bị vùi trong đó khi đất lở xuống thì còn có thể tự nhoài ra. Tin tốt là lớp đất đá ở đây rất cứng và chiếc hang vẫn trụ vững. Khi chúng tôi đào vào mặt đất đông cứng –  những đôi tay bị phồng rộp – Đất Mẹ đã phải nghe hàng loạt từ ngữ nặng nề: nhưng giờ đây, giữa trận phòng ngự này, ẩn mình trong chiếc hang, tôi cầu xin Người tha thứ.



Trên đầu, những tiếng nổ theo nhau liên tiếp, tôi cảm thấy như tất cả hoả lực đều hướng thẳng về hố của mình. Anh em thường an ủi nhau bằng một ý nghĩ kỳ quặc rằng “một hố đạn không thể bị trúng hai lần”. Và thường, dưới cơn mưa đạn pháo, tôi tự bảo rằng “Đấy, nhóc! Đây là lúc ngươi tự khẳng định điều đó!”. Tôi cũng cảm thấy sợ: “Có lẽ chỉ còn mỗi mình ở đây!”. Lúc ấy tôi vọt ra khỏi hang như một con chuột chũi và dáo dác ngó nghiêng xem việc gì ở xung quanh. Đồng đội – cũng bị nỗi sợ tác động – nhô đầu ra với dáng vẻ tương tự. Khi nhìn thấy những anh em lân cận vẫn còn sống và không bỏ chạy, tôi cảm thấy xấu hổ và lặn trở lại chiếc hang của mình lần nữa!



Trận pháo kích đột ngột kết thúc như cách nó bắt đầu. Những người còn sống bò ra. Nhưng cũng rất nhiều anh em đã nằm lại trong chiếc hố của họ, vĩnh viễn. Họ không cần chôn cất. Nhưng cũng không có thời gian cho việc biểu lộ tình cảm dù vui hay buồn – vì bọn Frizt và đồng minh của chúng bắt đầu tấn công. Lớp lớp quân thù tiến đến gần: hàng đầu là quân Rumani, sau đó là bọn Đức, hàng thứ 3 là người Hungary rồi thứ tư lại là bọn Đức. Chúng tôi chứng kiến một cảnh kinh khủng ở khu phân tuyến: nhiều quân Rumani và Hungari giơ tay lên, trong một cử chỉ đầu hàng, bọn Đức bắn gục họ. Ngừng một chút, quân địch tụ tập lại và tiếp tục tràn lên. Chúng tôi đón chúng với toàn bộ hoả lực cối và súng máy, cuộc tấn công bị đẩy lùi. Sau đó, một đợt pháo kích nữa lại chụp lên chúng tôi buộc anh em phải chui vào hang trở lại. Đó, cứ như vậy mà chúng tôi đã bám trụ ở chiến hào trong mười ngày, không nước, không bánh mỳ, không makhorka và dĩ nhiên là bếp ăn!



Tuyết bị trộn lẫn với đất cát, thế là chúng tôi không thể đun lên để lấy nước nữa. Cánh hậu quân cũng bị đập nát. Lính thông tin thì hi sinh cả và đơn vị mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Bọn Đức bị vây dù sao cũng tốt hơn, bởi chúng ở trong làng và có giếng. Một tay tháo vát nhất trong số anh em chạy đến một hẻm núi, ở đó, tận dưới đáy, anh tìm thấy một dòng tuyết tan bẩn thỉu. Anh đợi cho dòng nước dơ, nặng mùi đó đọng lại trong vũng, múc vào gà-mên rồi uống thật lực. Sau đó, anh lấy về cho mọi người. Tôi đưa gà-mên lên môi, thật lợm giọng: nghe như mùi trứng ung! Nhưng rồi chúng tôi uống cạn và tận dụng mọi cơ hội để quay hẻm núi đó để mang về nhiều hơn thứ nước ghê tởm ấy. Sau đó, cái vũng lúc đầu ấy bị đóng băng, chúng tôi đục cái khác và cứ vậy cho đến khi dưới đó lộ ra hàng đống thi thể bọn Đức. Với hầu hết anh em, phát hiện đó chả là gì cả “Như nhau cả, chết vì đạn hay vì ngộ độc cũng thế”. Tôi thấy bệnh nhưng không chịu ngưng vì đã ba ngày rồi tôi chưa có một mẩu bánh nhỏ trong bụng.

Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #17 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:33:31 am »


Một cậu bạn hay pha trò, đã đoan chắc với anh em như thế này:



- “Con người có đến 80% là nước! Nhiều gấp 3 hoặc 4 lần so với lạc đà! Không có nước, chúng ta có thể sống đến 3 thậm chí 4 tuần. Còn nếu không có thức ăn thì còn lâu hơn! Bởi mỗi chúng ta có đến 50kg thịt!”.



Sau 10 ngày đó, chúng tôi trở thành những bộ xương biết đi. Xuyên qua lớp da thịt mỏng dánh, như có thể thấy hộp sọ với hốc mắt đen to. Môi khô rộp, răng nhe ra. Một cậu nhận xét rằng:



-  “Chúng ta nên cầm thêm cái lưỡi hái trong tay, và trước ngực trương thêm bảng hiệu - Thần Chết của bọn xâm lược Đức – là đẹp J“.



Cuối cùng, một bếp ăn dã chiến của tiểu đoàn khác, tình cờ lạc đến chỗ chúng tôi trong đêm. Cậu anh nuôi định quay lui và tìm đến chỗ của đồng đội mình. Nhưng bị anh em túm lấy, vét sạch nồi cháo vốn thuộc về người khác.



Rồi cũng trong đêm đó, trước lúc rạng đông, vài tay phóng viên, nhiếp ảnh tìm đến chỗ chúng tôi. Mọi người quá yếu để diễn tả lại cảnh phòng thủ chiến tuyến của mình. Những tay báo chí đó chụp một bức ảnh chung cả hội. Ngày hôm sau, chúng tôi đọc thấy những hành động anh hùng của mình trên báo nhưng hình thì không thấy đâu. Anh chính uỷ giải thích “Góc ảnh không đẹp lắm…”. Dĩ nhiên rồi, chả thể nào đưa những bộ xương cách trí lên báo cả!



Niềm vui lớn nhất của cánh lính tráng là được nhận thư, tin nhắn hay bưu phẩm từ nhà. Ngoài ra, trong các hộp chứa đạn, pháo, bom …, chúng tôi cũng tìm thấy những khoản khắc dễ thương: một mẩu giấy mang địa chỉ một cô gái không quen, mà từ đó một ai có thể viết thư cho cô, hoặc một túi thuốc lá nhỏ nhét đầy makhorka. Những cái túi được thêu và bạn có thể ngay lập tức biết đó là sản phẩm của một thiếu nữ hoặc một em bé. Những bác lính muzhik già thích cái sau (tức makhorka) hơn, trong khi anh em thì chộp ngay những cái túi thêu bởi các cô gái. Họ không bao giờ nhầm!



Trong những cái túi ấy, có thể có cái chứa ảnh và thư. Bạn sẽ là người hùng trong ngày nếu may mắn vớ được một cái như vậy! Tuy nhiên, cũng có những “người hùng” phải chuyển các tấm ảnh, thư ấy cho các đồng đội khác: bởi họ đã có gia đình hoặc đã hứa hôn. Trên các túi có thể đọc thấy những dòng chữ như: “Cái chết cho bọn xâm lược Đức!”, “Hãy chiến thắng trở về!”, “Lời chào mừng từ những nữ Đoàn viên Komsomol thuộc nông trang Bình Minh Chủ Nghĩa Cộng Sản”, “Hãy báo thù cho người cha đã hi sinh của em!”, “Chiến sỹ, hãy trả thù cho em trai tôi!”. Và chúng tôi, những ai có được chiếc túi như vậy, đều nghiêm túc làm những gì được bảo: mỗi tên phát xít bị giết coi như là thực hiện yêu cầu đặc biệt ấy. Mọi người buộc những chiếc túi ấy vào đai trên đỉnh những bộ quân phục, nơi dễ nhìn thấy.



Mùa đông năm ấy, khi chiến đấu gần Stalingrad, mọi người thường nhận được bưu phẩm mang theo quần áo ấm từ miền quê Siberia của tôi: vớ len, khăn quàng cổ, găng tay hoặc áo len đan tay. Những bưu kiện ấy làm ấm lòng chúng tôi. Dường như cả nước đang cùng chúng tôi ở chiến trường.





Ngày 28 tháng 12 năm 1942, một tù binh Đức (bị bắt bởi đội trinh sát trung đoàn, chỉ huy là Andrei Bogdanov) khai rằng bọn chúng dự định sẽ cho chúng tôi một món “quà năm mới” và lúc nửa đêm giao thừa. Do vậy, chỉ huy ra lệnh cho chúng tôi di chuyển đến vị trí bắn mới, để có thể triển khai tấn công phủ đầu các khẩu đội pháo địch. Lệnh này đến sau một trận chiến gay go nhưng thắng lợi, chúng tôi chiếm được một khe núi rất tốt từ bọn Đức. Chúng tôi vừa đào hầm xong, chui vào, chuẩn bị ngủ thì nghe khẩu lệnh của đại đội trưởng vang lên “Đại đội! Vác súng lên!”. Mọi người mệt rã rời, thất vọng ghê gớm. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh. Lầm bầm chửi rủa cả thế giới này, chúng tôi tuân lệnh và bắt đầu gói ghém đồ đạc. Cả hàng quân ồn ào như một bầy ong vỡ tổ. Từ mọi hướng, những ngôn từ điên khùng, những tiếng càu nhàu đầy hiềm thù vang lên “Các cậu! Đây là sự bội tín hoặc ít nhất cũng là sự nhục mạ rành rành”. Những người khác thì gào lên “Câm mồm! Không có mày thét lác thì mọi sự cũng đã đủ tệ rồi!”. Tôi muốn rơi nước mắt khi một ý nghĩ tồi tệ chạy trong đầu “Thà chết còn sướng hơn sống như thế này!”. Và nếu với tôi, một thợ mỏ 19 tuổi, từng làm việc nặng từ thưở nhỏ, còn không chịu nổi thì những thanh niên mới qua tuổi 17,18 sẽ như thế nào. Hoặc với những ai không thường làm việc tay chân thì sao?



Cuối cùng, cả đại đội, dẫn đầu bởi đại đội trưởng, bắt đầu leo lên sườn dốc đứng của khe núi, trở lại thảo nguyên với những cơn cuồng phong dữ dội. Nếu không có những trang bị nặng nề trên người, chắc chúng tôi sẽ bị cuốn đi như những lá cỏ đến nơi nào chỉ có Chúa mới biết! Cát, bụi và những hạt băng nhỏ làm mọi người như mù đi, chúng chui đầy vào mũi, vào mồm, thấm vào cả áo quần. Trời lạnh âm 30 độ, cái rét len vào tận xương. Tôi có cảm giác như mình hoàn toàn trần truồng. Để chống lại sức gió, tôi cúi gập người, mũi gần như chạm đất, xoay sở bám theo đại đội trưởng với chút sức lực cuối cùng. Đột nhiên, tôi ngã dập mặt xuống, như bị ai đó đâm bằng que thông nòng từ phía sau, dưới xương bả vai, đúng ngay tim. Một suy nghĩ lướt qua đầu: ”À, Mansur, thế đấy!”. Cơn đau tệ hại đến mức tôi thở không nổi huống hồ là đi. Và thế là tôi nằm đờ ra với cơn đau – dạng như chứng đau dây thần kinh – mãi cho đến khi cảm giác đau đó tan dần đi, cứ như thể cái “que thông nòng” được rút ra chầm chậm. Tôi kéo một hơi thở dài, ngồi dậy và chuẩn bị đi tiếp. Nhưng trước hết, tôi ngẩng đầu lên nhìn trời: trên ấy là một vầng trăng tròn lạnh lẽo, cùng những đám mây đen tả tơi đang trôi nhanh về phương nam trông như một đàn ngựa hoang Mông Cổ.



Sau nửa giờ hành quân khổ sở, đại đội trưởng ra hiệu bằng tay, lệnh cho chúng tôi nằm xuống, như những con hải mã trên tảng băng. Còn anh cùng cậu liên lạc biến vào trong bóng đêm, tiến về phía đại đội bộ binh để xác định vị trí của chúng tôi. Mười lăm phút sau, họ trở lại, và anh lệnh cho mọi người đào hầm. Tôi liếc nhìn đồng hồ: đã 1 giờ đêm, không đầy 8 tiếng nữa là trời sáng…



Người đầu tiên động thủ là Pavel Suvorov. Anh có một cây cuốc chim chiến lợi phẩm. Nó có cán bằng gỗ sồi, dài gần 1m, phía cuối được uống cong với một cái gọng theo chiều dọc làm cho cứng cáp thêm. Phía dưới thì một đầu nhọn hoắc như cây giáo còn đầu kia như một cái đục. Cảm ơn quả cuốc chim, nhờ có nó mà khẩu đội tôi luôn đào xong nhanh nhất. Nhưng Suvorv trông u ám và phiền muộn. Anh đứng đó, đầu gục vào ngực, tựa cả hai tay lên cán cuốc. Rồi anh vung cuốc lên, hét lớn, bập nó vào mặt đất với tất cả sức mạnh. Nhưng khi ấy, tôi nghe như có tiếng sắt thép chạm vào nhau, và thấy những tia lửa đỏ bắn ra từ chỗ nhát cuốc của anh vụt xuống, tôi biết thế là thôi rồi. Mọi người khác cũng nghĩ như vậy. Fuat, một người hiếm khi mở miệng, nói nhỏ vào tai tôi “Đại đội ta thế là hết rồi!”. Anh bước ra và đứng lặng như một bức tượng đá với gương mặt mang nét Mông Cổ buồn buồn. Nếu Suvorov, một thợ mỏ chuyên nghiệp còn đầu hàng thì chắc những người khác chả thể làm gì được.




Các chỉ huy trung đội, Stukack và Isayev, động viên chúng tôi tiếp tục “Này các cậu, cố lên. Cố lên nào! Đào đi”. Tôi phải tham gia thôi – vì dù gì tôi cũng là một partorg (bí thư chi bộ) – nhưng tôi chỉ nhảy lên nhảy xuống như một cái máy để giữ ấm. Một nhát! Rồi một nhát nữa! Buteiko cuốc một hơi, nhưng cái lỗ anh tạo ra không lớn hơn một tổ chim sẻ. "không đủ để thả vài cục đạm vào đó".



Những tay lính cối khác thì tụ tập lại, giậm giậm chân để cố giữ ấm. Họ có những cái xẻng đào hào be bé, cái này thì vô dụng với mặt đất đóng băng. Trong khi đó, tôi chỉ có thể nhấc những bàn chân tê cứng đi vòng quanh đám đông, kiểu như một tay pháp sư đang múa may để chống lại ma quỷ. Tôi thấy buốt đến tận xương; trí não u mê trong cái lạnh và từ chối suy nghĩ. Chỉ đâu đó trong óc có hai ô còn hoạt động, một cái thì cố thuyết phục tôi nằm lăn ra đó và ngủ một giấc; trong khi cái còn lại thì thét lên rằng “ Đừng làm thế! Nếu ngủ bây giờ thì sẽ chết!” tôi vẫn tiếp tục đi. Mỗi bước chân là một cố gắng to lớn. Phải chăng đây là bước cuối cùng trong đời? Cái ô nhỏ trong óc tôi vẫn tiếp tục gào lên “Cố nào! Cố nào! Đi tiếp đi!”. Tôi ráng thêm một bước nữa.  Đột nhiên, tôi thấy có cái gì đó như tấm nệm bông ở dưới chân. Tôi trượt chân và khuỵu ngã trên hai đầu gối. Thật huyền diệu! Tôi đã xẩy chân vào một cái hầm ủ phân.




Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #18 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:33:47 am »

Tôi tự động chộp lấy chiếc xẻng rồi hung hăng gạt đi những lớp bên trên của “tấm nệm” cho đến lúc chạm đến phần phân chuồng ẩm nhưng ấm áp ở dưới. Gần như ngay tức khắc, mùi hăng gay gắt của khí ammonium chloride xộc lên. Tôi hít, tôi nuốt vào. Trí não tôi sống lại theo từng hơi thở và rốt cuộc hơi ấm đã len vào cơ thể. Máu lại chảy trong huyết mạch nơi tay. Đột nhiên, chúng bắt đầu đau nhức! Tôi gọi anh em lại, nhưng không thể phát ra tiếng nào, chỉ là những tiếng rít trong cổ họng. Tôi thầm gọi họ trong óc, nước mắt ứa ra “Này các cậu! Này Fuat! Đến đây ngay đi!”.  Và dường như Fuat và anh em nghe được suy nghĩ của tôi: “Có việc gì đấy Mansur? Có phải cậu gọi chúng tớ không?”. Fuat trông thấy làn hơi bốc lên, và đoán ngay được thứ gì tôi đã tìm thấy, anh cúi mặt xuống  đám phân rữa, nhúng tay vào đến tận khuỷu. Suvorov và Latyp-aka cũng chạy đến và “ôm” lấy đống phân ấm áp. Suvurov chọc tôi rằng “Với cứt mà Mansur cũng có số hên. Đúng là nó sinh ra dưới vì sao may mắn!”. Những tay lính cối khác cũng vội mò đến, nhưng Suvorov bảo họ tản ra và tìm những đống phân cũ, mốc khác. Trong vòng một giờ sau, toàn bộ anh em  được hưởng hơi ấm thoải mái từ lòng Đất Mẹ như thể đang nằm trong vòng tay của bà!



Còn khá lâu mặt trời mới mọc thì chúng tôi đã chuẩn bị xong trận địa. Đột nhiên, có tiếng động cơ rần rần trong không trung: máy bay vận tải quân Đức mang quà lễ đến cho bọn chúng. Ngay lập tức, anh em bắn pháo hiệu cướp được lên. Trong khi súng cao xạ sẵn sàng, vài phút sau, những chiếc dù lớn mang theo nhiều kiện hàng to đáp xuống tuyến quân ta. Mọi người dỡ chúng ra. Cả chiến hào tràn ngập với quà Giáng Sinh. Khó mà gọi tên đúng hết tất cả các loại: nào xúc xích, nào bơ, rồi nho khô, mơ sấy, mật ong, sô-cô-la, bánh quy, rượu mạnh, rượu sơ-náp, sâm-banh và nhiều thứ khác. Còn có cả quần áo lót mùa lạnh, vớ len, túi ngủ và hàng ngàn bộ ảnh nam nữ trần truồng, từng đôi với nhau trong tư thế kiểu 69. Đầu tiên, chúng tôi không để ý chúng đang làm gì, nhưng rồi khi nhận ra thì thật không thể tin vào mắt mình! Anh bạn người Uzbek thấy kinh hoàng, tôi phải làm dịu anh xuống bằng cách thuyết phục rằng bọn Đức không dùng người thật để chụp ảnh mà chẳng qua toàn là búp bê thôi, để cho vui. Và đây cũng là lúc tôi biết đến các ấn phẩm khiêu dâm (Tranh ảnh, sách báo khiêu dâm hoặc dung tục bị cấm ở Liên Xô – ND).



Rạng sáng ngày 29 tháng 12, chúng tôi chia nhau những món quà Giáng sinh từ trên trời rơi xuống. Mặt trận yên tĩnh và mọi người có hai ngày nghỉ ngơi. Sau đó, ngày 31 tháng 12, đúng 11 giờ đêm, chúng tôi cùng với pháo binh sư đoàn, khai hoả hàng loạt vào các khẩu đội pháo quân Phát xít. Không phải tiết kiệm đạn, cuộc bắn phá kéo dài đến nửa tiếng. Đại bác quân thù không có cơ hội để bắn trả. Tuy nhiên, vài phút sau, chúng tôi có nghe thấy có tiếng hú thê lương của một khẩu cối sáu nòng lẻ loi bên địch. Những quả đạn đó bay qua đầu đơn vị và nổ đâu đó trong khe núi mà chúng tôi đã bỏ đi.




Tôi còn nhớ trên đường ra mặt trận, tại làng Malaya Yelshanka nơi mọi người được cấp quân phục mới, cà-mèn, hộp cứu thương và những thứ khác, cùng với một cái lọ nhỏ bằng plastic có nắp vặn. Bên trong là một cái băng (tape) nhỏ, chứa thông tin cá nhân người lính. Cái lọ đó được đậy rất chặt, chống ẩm và đặt trong một cái túi con. Anh em gọi nó là “Passport thần chết”, không biết mọi người thế nào, chứ còn của mình thì tôi lặng lẽ vứt bén đi. Thay vào đó là một cái mascot (vật lấy phước), và mong rằng sẽ an toàn cho đến khi kết thúc chiến tranh. Tất cả các đồng đội cũng đều có một vật may mắn gì đó, nhưng chúng tôi không bao giờ nói với nhau về những thứ ấy: một cái mascot chỉ có thể giữ được quyền năng khi nó không bị tiết lộ.



Tôi tự làm lấy mascot của mình. Lúc hành quân đến mặt trận Stalingrad, sau khi xuống tàu, đơn vị chỉ di chuyển vào ban đêm. Còn ban ngày thì nguỵ trang, cố giấu động tĩnh và ngủ. Ở những chặng nghỉ, mọi người thường mò xuống bếp dã chiến để hong xà cạp hay làm gì đó. Tôi thì làm một cái tẩu thuốc bằng gỗ. Khi hoàn thành, tôi tự bảo lòng:



- “Nếu mình không làm mất nó, mình sẽ sống sót trở về”.



Nhưng trước khi tôi có thể giấu nó vào trong túi quần thì một tay thượng sỹ đi qua, vồ lấy và lượn mất. Tôi chết lặng đi vì sợ hãi:



-  “Trời ơi, mình vừa cẩu khần rằng mình sẽ không để mất nó! Chắc mình không thể sống để trở về rồi!”. Tôi ngồi đó với ý nghĩ: “Mình không thể đánh nhau với cấp chỉ huy, lão ấy chắc cũng không trả lại cái tẩu đâu”.



Thật đau khổ và buồn bã. Tôi không muốn chết! Nhưng lúc đó, có một ý nghĩ vụt qua trong đầu: “Mình phải làm ngay tức khắc một cái khác, một cái đẹp hơn”. Trong vòng nửa giờ, cái tẩu mới đã xong, và may mắn thay, tôi gặp lại tay thượng sỹ với cái tẩu trên môi. Anh ta nhìn cái mới và đề nghị đổi với lời hứa sẽ cho tôi một gói markhoka. Tôi vui mừng đồng ý rồi nhanh chóng chuồn về chỗ, bí mật khâu ngay cái mascot này vào túi quần. Tôi mừng khôn xiết! Tôi ắt phải được sống mà về nhà!



Có một lần, trước trận chiến, chúng tôi thấy vài chiếc T-34 và KV chung quanh. Cánh lính tăng đang lượn lờ bên ngoài để kiếm chút khí trời. Mọi người tò mò kháo chuyện với họ.



Lính tăng thì quí bộ binh nên họ rất vui khi gặp chúng tôi. Hàng loạt chuyện cười đùa nổ ra như pháo. Vài anh còn nhận nhau là đồng hương. Mọi người có một khoản thời gian vui vẻ. Nhưng có một anh lái tăng trông rất ủ rủ



- “Cậu biết không, cậu bạn bộ binh, hôm nay, tôi sẽ bị cháy”, anh đột nhiên bảo tôi.



Lúc ấy chúng tôi ở cách xa mọi người một tý. Tôi bảo anh:



- “Mỗi người đều có cơ hội sống sót như nhau. Anh phải giữ vững tinh thần, đặc biệt là lúc này”.



Anh lái tăng nhận xét một cách mỉa mai:



- “Này cậu, cậu nghĩ cậu đang nói như kiểu chính uỷ phải không? Tôi đã lái tăng từ những ngày đầu của cuộc chiến. Đây là chiếc xe thứ năm rồi. Và vậy đó, hôm nay tôi sẽ kết thúc. Cậu còn trẻ lắm, cậu không hiểu đâu. Tôi vừa để mất mascot rồi…”.



Tôi thấy bao tử quặn lên nhưng ráng không để lộ ra.



Ngay trước trận đánh, tôi kể lại câu chuyện cho Suvorov để cùng cười nỗi sợ của anh lái tăng. Nhưng khá bất ngờ là Suvorov lại cho rằng mọi chuyện nghiêm trọng. Thế là chúng tôi quyết định sẽ bám sát chiếc tăng đó trong trận đánh để phòng khi có gì xảy đến thì còn kịp giúp tổ lái. Mắt tôi dính chặt với chiếc xe đang tiến lên, vận động, tránh các viên đạn xuyên giáp. Loại đạn này bay với một tiếng gầm kéo theo một vòi lửa. Vài chiếc tăng phía trái, phía phải bùng cháy, nhưng chiếc tăng này vẫn bắn! Tôi gần như đã cho rằng sẽ không có điều gì xấu sảy ra. Anh lính đó thật biết chiến đấu! Đột nhiên, cả chiếc xe nổ tung. Theo quán tính, nó còn trườn thêm 10m rồi bốc cháy. Suvorov và tôi nhanh chóng tiếp cận để giúp đỡ, nhưng chỉ còn có thể nghe thấy những tiếng nổ đanh của đạn trong thân xe...

Logged

Chết vì ghét người!
danngoc
Thành viên
*
Bài viết: 948

Đã bị khóa vĩnh viễn


« Trả lời #19 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2009, 09:34:36 am »



Còn đây là một câu chuyện thú vị khác. Vài người bọn tôi trèo lên cỗ xe ngựa hai bánh, ngóng sang để theo dõi chiến sự ở khu vực sườn trái đơn vị, bên đó, một trung đoàn bạn đang chống lại một cuộc công kích của quân địch. Bọn phát xít đang cố tái chiếm một cao điểm mà chúng vừa để mất. Cả thảy là 6 hay 7 anh em gì đấy trên xe. Trong đó, tôi là người leo lên đầu tiên và trung uý Stukach sau cùng. Đột nhiên, có tiếng rít của một viên đạn bắn vu vơ từ đâu đó, nó đã đuối tầm. Tôi hụp người để tránh, nhưng bị mất thăng bằng nên nhảy xuống, kéo theo cả hội – bởi chúng tôi bám vào đai nhau. Tuy vậy, do Stukach cố gượng để không bị rơi xuống, nên không có thời gian né. Viên đạn tin ngay vào thái dương, dù đã thất tốc, nhưng cũng đủ để đánh gục anh. May thay, mọi người nhận ra anh còn sống! Stukach tìm thấy viên đạn trong mái tóc nhuốm máu, nhìn nó, rồi ngồi nghệch ra toét miệng cười, không hiểu bằng cách nào mà anh ấy còn sống! Sau giây phút sửng sốt, mọi người bắt đầu tung hê anh lên không và gào lên “Hoan hô! đạn không thể giết được trung uý!”. Một đám đông ngay lập tức ùa quanh chúng tôi. Rồi cùng thích thú hỏi: “Tại sao anh ấy không chết nhỉ?”. Tôi nhớ rằng ngay lúc đó mình đã nghĩ “Ắt là trung uý Stukach có một cái mascot…”



Tôi những muốn đi qua cả cuộc chiến mà còn sống, để còn nhìn thấy cuộc đời về sau. Tôi sẽ đồng ý mọi điều kiện. Miễn là có chỗ cho tôi đánh một giấc ngủ ngon. Và còn lại là những thứ mà mọi người đều cảm thấy thích thú: là ánh nắng, là nước sạch, là cánh rừng Siberi quê hương. Nhưng nếu tôi mất một tay, hai chân và một mắt thì sao? Cái tình huống tệ nhất mà mình có thể chấp nhận để còn sống là gì? Tôi đồng ý với mọi thứ, chỉ trừ cái chết, cái sau cùng. Nếu kết cục là một phế binh, có lẽ tôi nên bắt đầu nghiệp vẽ? Tôi thích vẽ lắm! Và tôi cũng không cần bất kỳ sự tưởng thưởng nào: à, có lẽ một huy chương “Vì lòng dũng cảm!” là đủ, để mọi người biết tôi đã từng chiến đấu. Tôi đã bí mật ao ước như vậy và thỉnh thoảng sờ vào mascot. Nó vẫn đó. Tôi có thể lấy ra, ngắm nghía và cất trở lại.



Vâng, rất duy tâm, nhưng không chỉ mình tôi như vậy. Có những điều không nên làm. Ví dụ, không bao giờ lột đồng hồ của người chết, tôi để ý thấy rằng ai phá luật này đều bị giết ngay sau đó. Có những mối liên hệ kỳ lạ. Tôi không tin vào thánh Allah hay Chúa Trời. Nhưng cái đêm mà tôi kéo Nicolai – anh lính đã trộm bánh mỳ – về trạm phẫu, anh đã bảo tôi bỏ anh lại, không hiểu sao mà tôi chắc rằng, nếu làm vậy, thì thần linh sẽ trừng phạt tôi. Và bởi không bỏ rơi anh ấy, nên tôi còn sống, thánh thần đã phù hộ tôi.



Tôi cũng để ý một điềm khác: nếu ai đó cố ẩn núp như một kẻ hèn thì trước sau gì cũng bị chết. Thường như vậy. Và như thế tôi thường có thể đoán “Anh ấy sẽ chết”, hiếm khi sai. Thỉnh thoảng, có người bị mất tinh thần sau lần bị thương, khi trở lại chiến trường từ bệnh viện. Tôi có thể kể ra đây một một chuyện về một đồng đội, một xạ thủ súng máy tên là Nikolai Belozerov (đây là trường hợp duy nhất mà tôi đã đổi tên, trong sách này). Nikolai bắn nhiều hơn bất kỳ ai. Anh có đến hai xạ thủ số 2, để phụ mang đạn cho anh. Một người lính dũng cảm và chưa bao giờ bỏ vị trí khi chưa có lệnh.



Vào một ngày, anh bị thương nhẹ, được đưa về tuyến sau. Ít lâu sau tôi gặp lại anh ở trung đoàn bộ khi tham dự một cuộc họp Đảng uỷ. Belozerov trông mập ra, bảnh bao, cùng với một huân chương Cờ đỏ trên ngực. Anh mặc quân phục thiếu uý. Tôi vui mừng gặp lại anh “Kể nghe nào, bệnh viện trông ra sao?” Tôi hỏi với sự thèm muốn (vâng, tôi phải thú nhận là tôi ghen với những ai bị thương nhẹ – họ được ngủ giường sạch) ”anh có được ngủ đã không?" . Belozerov kể về những cô gái anh quen, dù rằng lúc ấy tôi chả có chút kinh nghiệm gì về phụ nữ. À, còn tôi thì cho anh biết những gì đã xảy ra trong những ngày anh không có mặt. Chúng tôi nhấm rượu, ăn chút ít, rồi cùng rời khỏi khe núi để về lại tiểu đoàn. Khi băng qua một cánh đồng, đột nhiên bọn Đức giã cối vào đó.



Cả hai nhảy vào một chiến hào gần nhất. Có vài người đã ở trong đó. Nikolai chụp nón sắt lên. Nhưng tôi thì không, như mọi người khác. Tôi nghĩ thầm “Bây giờ anh ấy là chỉ huy đại đội súng máy, vì vậy phải đội nón làm gương cho anh em, dù nó thật vô dụng”. Nhưng rồi tôi nhìn vào mắt anh, chúng đang chằm chằm ngóng ra ngoài, tôi tự bảo mình “Nikolai đang sợ, anh khác trước rồi!”. Vài quả cối rơi gần, nổ bung ra những mảnh vụn nóng bỏng, riết róng. Chúng tôi nhảy ra và phóng lên phía trước. Cùng với những người khác, tôi đến được chiến hào kế tiếp, nhưng Nikolai đột nhiên quay lui, nhảy trở lại chiến hào khi nãy. Những tiếng nổ inh tai nối tiếp nhau. Một lần nữa, tôi nhào ra, và chuẩn bị chạy lên tiếp. Tôi hét lớn “Nikolai, đi thôi!”. Nhưng anh ấy đâu? Vẫn ở trong chiến hào sao? Không, có gì đó không ổn rồi. Tôi chạy trở lui lại đó. Nón của Nikolai lỗ chỗ miểng đạn và dính đầy óc lầy nhầy, gương mặt anh trắng bệnh, tay bị chặt cụt. Một quả cối đáp đúng ngay bờ chiến hào sau lưng anh.



Mọi thứ đồ của Belozerov – giấy tờ tài liệu, khẩu súng ngắn mới và cả huân chương Cờ Đỏ – tôi mang về cho chính uỷ tiểu đoàn.



Suvorov một lần nữa lại bảo: “Cậu sinh ra dưới vì sao may mắn, Mansur ạ. Đã bao lần cậu lẩn tránh được tử thần?”. Tôi lắng nghe và cảm thấy cái mascot của mình – nó vẫn ở đây…





Trong suốt vài tuần cuối cùng của cuộc đời, bạn tôi, Suvorov trông hết sức u sầu. Tôi hỏi anh: ”Việc gì đang xảy ra với một người hài hước như anh vậy?”.



Nhưng anh lặng im. Chỉ trả lời ầm ừ qua chuyện. Rồi có lần anh lấy cả những giấy tờ của mình, bày ra trước mặt và đọc to lên để tôi có thể nghe. Anh có một đứa con gái nhỏ, vợ và mẹ. Thận trọng và chậm rãi, anh đọc địa chỉ nhà mình. Sau đó gói ghém tất cả những thứ đó lại trong một miếng vải, cho vào trong túi. “Cậu phải gửi cả những thứ này đến Kucklar, cho gia đình anh”. Tim tôi chết lặng. “Mansur à, anh cảm nhận được, kết cục của anh đến gần rồi”.



Tôi cố hết mức để làm anh vui, nhưng dường như anh đã tự xây được một bức tường chắn quanh và thu mình vào đó. Anh trở nên xa lạ với mọi thứ. Có lẽ anh đánh mất gì chăng? Tôi ngại ngùng không hỏi. Bạn thấy đó, có lẽ Suvorov đánh mất cái mascot, tôi không biết nó là cái gì.



Ngày 10 tháng Giêng năm 1943, sau trận giao tranh ở làng Dmitriyevka, khi mọi việc đã ổn, thì Pavel Suvorov bị một viên đạn trúng đầu. Một viên đạn lạc, bắn vu vơ từ đâu đó với tiếng hú kéo dài. Không một kẻ địch nào bị hạ sau khi việc đó diễn ra.



Tôi khóc, như một phụ nữ khóc người tình chết. Tôi gào lên như một đứa trẻ gào khi bị người khác xúc phạm.



Anh đã có lần kể tôi nghe về huân chương Sao Đỏ mà anh đựơc nhận. Đó là những ngày đầu cuộc chiến, khi trung đoàn anh rút về phía Đông từ pháo đài Brest. Tại một nhà ga, họ thấy một toa xe chứa chất nổ đang đổ trên một tuyến ray cụt. Chắc nó dùng để đặt mìn. Không có công binh trong trung đoàn nên Suvorov đã nói rằng anh là một kỹ sư mỏ và tình nguyện dò xem toa xe. Có thuốc nổ trong vài bao và một hộp thiếc an toàn chứa kíp nổ. Cầu chì, dây, thiết bị điện được phân ra riêng lẻ. Trong làng có 03 ba toà nhà kha khá là trường học, bệnh viện và nhà nghỉ. Quyết định là đặt mìn những chỗ đó. Chỉ còn rất ít thời gian nhưng Suvoro đã xoay sở được. Anh có đủ dây để làm thành một hệ thống kích nổ hẹn giờ. Sau khi toàn bộ dân đã di tản, trung đoàn rời khỏi làng. Khi bọn Đức ập đến và chia nhau bố trí trong các toàn nhà đó, vài tiếng nổ khổng lồ làm rung chuyển cả khu vực…



Chúng tôi an táng Suvorov cạnh làng Dmitriyevka. Tất cả sĩ quan trong tiểu đoàn đều có mặt. Pavel là sỹ quan huấn luyện của đại đội cối, và khẩu đội chúng tôi là khẩu đội chính, được mang tên là “Suvorovski”.



Fuat và tôi như mất đi một người cha, mà tôi sẽ không bao giờ có lại được. Khi Suvorov còn sống, tôi làm mọi cách để anh hài lòng, như thể tôi sống và hành động chỉ với một lí do: để có được sự chấp nhận của anh. Tôi biết ơn tất cả những đồng đội. Những người đã quan tâm chia sẽ với tôi, ơn ở với nhau như những người bạn chí tình.



Chúng tôi viết thư cho gia đình Suvorov ở Kuchkar vùng Ural. Nhưng bất kỳ thành ngữ nào bạn chọn để an ủi người khác, dạng như “Anh dũng hi sinh” cũng chẳng thể nào thay thế điều gì được.
Logged

Chết vì ghét người!
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM