Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:52:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường mòn trên biển  (Đọc 40478 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #30 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 11:14:40 am »

Các cậu Tuyến, Mai và Phong vừa đi được một đoạn đường thì gặp An, khập khiễng kéo lê khẩu súng đi tới. Mừng mừng, tủi tủi , họ kể lại cho nhau nghe câu chuyện vừa xảy ra, rồi động viên nhau “ Đi nhanh lên, cố lên không được để anh Nhi chết đói, chết khát”. Nhưng đi hướng nào sẽ tới được căn cứ. Trong tay không có một phương tiện gì để định tọa độ, không có ai mà hỏi, làm sao có thể đi tới được. Giá bây giờ có cái địa bàn và mảnh bản đồ khu vực thì ổn quá. Thôi, hãy gạt bỏ mọi ảo tưởng, tìm cái gì thực tế hơn .. Khi bàn bạc, nghe thấy tiếng đaị bác địch nổ không xa lắm. Một suy nghĩ táo bạo mới lạ vọt ra như ánh sao băng. Thôi đúng rồi, nơi đạn pháo địch nổ dứt khoát phải là nơi quân ta hoặc gần đâu đó là nơi quân ta ở. Sự lựa chọn đúng đắn và khắc nghiệt đến như thế là cùng. Anh em lại thúc giục nhau “Đi đi .. nhanh lên, hướng tiếng đạn nổ. Nhanh lên! Không thì chính mình chứ không riêng gì thuyền phó sẽ chết ở giữa khoảng rừng khô cằn này”.
Họ cắn răng bước, cắn răng trườn bò qua gai góc. Ba bốn giờ dài dằng dẵng như cả năm, khi ngoảnh lại nhìn cái cây của điểm xuất phát vẫn chẳng được bao xa. Sự chậm chạp của những bước chân sẽ trở thành nguyên nhân của cảnh chết đói, chết khát khó tránh khỏi. Họ nhìn rõ điều đó như nhìn vào bàn tay mình. Nếu cứ chui luồn trong những đám gai góc này khó có thể đi nhanh hơn được “ Chúng ta đành phải xuống đi theo bãi cát ven biển. Đường đó dễ bị lộ, nhưng còn kiếm được con cua con ốc .. Có thể chết khi gặp địch phục kích, nhưng còn hơn là chết trong bụi gai mớm ..”. Tình thế đã dẫn đến buộc họ phải lựa chọn một lối đi nguy hiểm hơn, một lối đi hôm trước họ phải tránh né. Họ tiếp tục lê bước nhích dần xuống bờ cát ven biển.
Được nhìn thấy biển, được hít thở không khí của biển, được làn gió biển lùa vào mớ tóc rối bù, tâm hồn họ trở lại thanh thản hơn. Những cánh buồm, những con sóng xô đuổi nhau, những cánh chim hải âu chao lượn đưa họ trở lại những chuyến đi. Cảng Hải Phòng, vịnh Hạ Long, Vàm Lũng, cửa Bồ Để .. và những hải đăng đã bị xóa mờ trong những chặng đường hành quân đói, khát vừa rồi, nay lại trở về xôn xao trong lòng họ. Và hy vọng được sống lại bừng lên mãnh liệt.
Đến hôm nay đã là ngày thứ 12 trong cuộc hành quân đặc biệt. Ban ngày họ giấu mình vào bụi gai mím hoặc một lùm cây kín đáo, chờ tới khi mặt trời lặn lại lên đường. Mấy hôm đi theo ven bờ cát, đôi khi cũng kiếm được quả cam thối, con ốc, con cua, nhưng chưa có cái gì làm nguôi được cơn đói, cơn khát.
Hôm ấy, anh em thu mình trong đám cây gai mỏ quạ. Điều không ngờ ở đây lại có tổ kiến vống khá lớn. Khi tan sương, kiến rủ nhau đi kiếm ăn, chúng kéo đàn kéo lũ qua cơ thể gần như trần trụi của anh em. Họ phải ngồi dậy xua đuổi lũ kiến đáng ghét ấy. Nhưng cứ phủi được mấy con trên cổ rơi xuống, thì một lũ khác lại mò vào cạnh sườn. Không sao đánh bại được “các mũi tiến công” của chúng.
An nhón một con kiến, soi vào ánh nắng, thấy cái đuôi nó mọng như một giọt nước. Anh cấu phần mọng của nó cho vào miệng nhấm thử. Chao ! Một vị chua ngọt mát dịu tan trên đầu lưỡi. Vui mừng chỉ còn thiếu reo lên. An nói với vẻ hãnh diện như chính mình vừa phát minh ra một chất dinh dưỡng mới chưa hề có trong đời sống :
-   Tao vừa tìm được ra sinh tố K .. tha hồ xài thoải mái.
An giơ một con kiến đang ngọ ngoạy giữa hai ngón tay cho Tuyến xem.
Mỗi người đều ngắt phần bụng một con kiến, bỏ vào miệng nếm thử. “Quả là ngon thật”. Sau lời khen đó, họ không cảm thấy khó chịu khi bị đàn kiến leo lên cơ thể mình nữa. Lũ kiến lần lượt bị đối phương khổng lồ của nó dùng “chiến thuật gọng kìm” tiêu diệt. Chưa đủ, họ còn bò sang bụi rậm khác để thay thế công việc của chim gõ mõ.
12 ngày đêm, đến nay dạ dày của anh em mới được chứa chút thức ăn có chất dinh dưỡng. Ai nấy đều cảm thấy khoan khoái dễ chịu.
Nhìn ra biển đã vắng bóng hải âu, những con tàu đánh cá lên đèn. Tuyến đội mớ cỏ khô trên đầu rồi nhoài người khỏi bụi gai. Anh đưa mắt quan sát dọc theo bờ cát. Cả một vùng ven biển vắng vẻ lạnh lẽo, chỉ có những đợt sóng vô tư đang nô đùa. Đã tới giờ có thể hành quân được rồi. Tuyến khẽ gọi các bạn :
-   Dậy dậy ! Đi thôi!
Họ bước đi thất thểu, nghiêng ngả như người say rượu. Chốc chốc lại có người cố rảo bước theo con còng, nhưng hoài công vô ích, họ không còn đủ sức đuổi theo con vật cỏn con đó nữa. Anh thợ máy An gặp dịp may, nhặt được ở một chỗ ba con cua thọt. Những con cua này đã sống từ thuở lọt lòng trong một cái vỏ ốc bằng ngón tay cái, lớn lên thân nó bị vỏ ốc bó cứng, chỉ thò ra được hai cái càng và vài cái chân để sinh sống. Vì thế An mới đủ sức vồ được nó.
An chia cho Mai một con, vì cậu ấy đã kiệt sức, còn lại xé ra làm ba phần đều nhau để chia cho ba người. Bữa ăn hương hoa thế thôi nhưng cũng thấy dễ chịu.
Đang đi, Tuyến nhìn thấy có bóng người lội xuống mép nước, hình như người đó đang thả lưới.
Tuyến xử trí rất nhanh, anh khẽ nói với An :
-   Cậu đi men theo bờ dứa, mình đi vòng phía sau vào thật gần bắt sống, để hỏi đường.
Tuyến ra hiệu cho anh em “có động”.
Mai và Phong núp vào bụi cây.  Tuyến và An thực hiện kế hoạch. Người kia đang lúi húi kéo mảnh lưới rách, nghe thấy tiếng lên đạn và tiếng hô giơ tây lên bất ngờ, quay sau lưng. Anh ta hoảng hốt kêu lên :
-   Đừng bắn !
-   Anh phải dẫn chúng tôi vào chỗ có anh em du kích.
Anh Q người của bến đi kiếm cá, bị bất ngờ, buộc phải giơ tay, nhưng mắt vẫn cố liếc ngang xem kẻ nào lại bắt mình dẫn tìm du kích. Nhìn thấy một người gày yếu, mặc quần áo rách rưới đang chĩa súng vào sườn mình, anh nghĩ “ .. anh em đoàn 125 đây rồi”. Q vội hỏi mật khẩu “Kiến”. An đáp lại “Vàng”. Đúng rồi ! Không còn nghi ngờ gì nữa. Người của mình đây rồi. Q vui mừng quá ôm chầm lấy An.
-   Ôi ! Các đồng chí ở dưới tàu lên phải không ? Chúng tôi đi đón các đồng chí mãi không gặp. Ba hôm trước đây, đồng chí Thật đã tới được căn cứ, dẫn chúng tôi đi tìm .. tưởng các đồng chí không còn nữa.

Tới căn cứ của bến, Q vừa báo cáo anh em ở tàu C.235 đã đến, đồng chí Hạnh , phó đại đội trưởng bến trong lán chạy vội ra, vui mừng, xúc động ôm chặt từng thủy thủ :
-   Chúng tôi có tội với các đồng chí .. Mấy ngày nay đi tìm .. Anh Hạnh xúc động nói ngắt quãng không rõ ý. Đang nói với các thủy thủ, Hạnh chợt nhớ ra một việc phải làm gấp – Này cô Hường đâu, lấy tất cả số gạo nấu cháo ngay, làm thịt hai con gà vừa bẫy được .. nhanh lên nhé.
Hạnh mời anh em tạm ngồi nghỉ trên mấy chiếc võng treo ở gần đó, rồi nói tiếp :
-   Chúng tôi có thiếu sót trong việc tổ chức canh gác không được chu đáo nên mới đến nỗi này.
-   Nghe tiếng anh quen quá !
-   Tôi là Hạnh, trước là thuyền trưởng ở đoàn 1 được cử vào đây làm phó đại đội trưởng của bến này.
-   Tưởng ai xa lạ, ra cũng là người nhà cả. Anh vào đây lâu chưa ?
-   Được ba năm rồi. Ở đây còn mấy anh nữa cũng ở quân chủng. Anh Kiên, anh Đối, anh Hường trước ở tàu Tuần la. Các đồng chí về được đây, chúng tôi mừng quá, không thì mang hận suốt đời.
-   Chúng tôi còn để thuyền phó Nhi ở giữa rừng. Làm sao đi đón anh ấy về ngay được.
-   Các anh còn nhớ phương hướng không ?
Không  khí im lặng giây lát, rồi có tiếng đáp :
-   Không còn nhớ ra phương hướng nào nữa. Chỉ nhớ ở đó có một cây bàng to.
-   Nếu vậy. đành chờ đến sáng mai, một đồng chí nào khỏe dẫn chúng tôi đi.
Nghe các thủy thủ tàu C.235 đã đến, anh em công tác ở bến tìm tới thăm hỏi, chuyện trò mừng tủi không dứt.
Cô Hường đã mang nồi cháo đến. 12 ngày đêm đến giờ mới được ngửi mùi thức ăn quen thuộc. Anh em ăn ngấu nghiến, xong rồi lăn ngủ như chết.
Sáng hôm sau chỉ còn một mình trung sĩ Phong gượng dậy được.
Hạnh đã cùng một số anh em bến chuẩn bị đòn cáng, thấy Phong đến anh nói vồn vã :
-   Anh em chúng tôi võng các đồng chí đi quân y.
Phong nói :
-   Tôi đề nghị anh cử người đi đón anh Nhi.
-   Tôi và đồng chí .. chúng ta đi ngay thôi.
 Cô Hường nuôi quân đưa cho Hạnh và Phong mỗi người vài miếng củ mài luộc.
Phong nói với cô Hường :
-   Nếu có nước cháo, chị cho tôi xin một bi đông mang đi cho anh Nhi,
-   Anh Hạnh tối hôm qua có dặn, tôi tưởng đưa cho mấy đồng chí thương binh kia.
Quăng dây bi đông bên vai , rồi xách khẩu tiểu liên, Phong xăm xăm bước. Lúc này anh chỉ nghĩ tới Nhi, không hề nhớ đến có Hạnh là người của bến đang đi cùng.
 Hạnh phải gọi Phong:
-   Anh đi đâu đấy ! Đường này kia mà ! Tối hôm qua tôi đã hỏi kỹ chỗ anh Nhi đang ở. Ở đây chúng tôi quen thuộc từng mô đá, cứ nói cây bàng thối một mảng góc là tôi biết rồi. Chỉ độ một tiếng rưỡi đồng hồ là đến nơi.
-   Một tiếng rưỡi ư ? Thế mà chúng tôi phải đi mất 6 ngày đường.
Hai người vừa đi vừa chuyện trò. Khi nhìn thấy cái thành công sự xếp bằng đá. Phong hồi hộp nói thì thầm “ Đây rồi ! Đây rồi ! Tay anh giữ chặt chiếc bi đông nước cháo còn ấm bên sườn, sung sướng như chính mình đang khát cháy cổ, được nhận phần nươc”. “Anh Nhi ơi ! Tôi đã tới đón anh. Có nước đây rồi”. Phong muốn đánh tiếng trước cho Nhi biết, nhưng sự hồi hộp làm cho lưỡi anh cứng lại, không nói ra thành tiếng.
Nhìn vào trong công sự rỗng không, tự nhiên nước mắt Phong trào ra. Anh Nhi đâu rồi ! Trước mắt Phong hiện ra những hình ảnh hư ảo. Anh Nhi đang gác đôi chân đầy bông băng lên tảng đá. Anh Nhi đang há miệng hứng những giọt nước gỗ mục, từ cái giẻ vạt áo rơi xuống. Anh Nhi mắt sáng long lanh nhìn Phong và dặn dò “Nếu tới được căn cứ, thì tới đón mình”. Anh Nhi ơi, muộn rồi.
-   Anh ấy đã đi cách đây ít nhất là hai ngày rồi. Nhìn cái băng kia đủ rõ.
Nghe tiếng Hạnh nói, Phong mới định thần, nhìn kỹ trong công sự. Mảnh vải băng dính đầy máu khô đen nằm dưới lớp lá khô. Đàn ruồi muỗi bay xung quanh đống vỏ ốc.
Họ sục tìm sang những lùm cây xung quanh. Phong nhặt một cái nòng súng giấu dưới lá khô, trao cho Hạnh.
-   Như vậy là anh ấy đã tháo súng ra từng bộ phận rồi giấu đi. Anh ấy đã đi khỏi nơi đây.
-   Đây nữa, một cái khóa nòng. Hạnh nói – Theo mình, Nhi thấy không thể sống được nữa nên mới phá súng giấu mỗi nơi một bộ phận. Có thể cậu ấy sẽ cố sức bò xuống biển tìm nước.
Họ đã lần theo dấu vết của Nhi trườn bò, cách một quãng lại thấy một cái quần đã xé cụt hai ống, một cái áo dính đầy nhựa cây và máu, bao thuốc lá còn vài điếu .. Đến bãi cát không còn dấu vết gì nữa.
-   Nhi đã bò xuống đây uống nước.. vì đuối sức quá rồi.. có thể bị sóng cuốn đi.
Nghe Hạnh nói, tiếng được, tiếng mất trộn lẫn vào âm thanh ồn ào của sóng. Phong đứng lặng im, nước mắt chảy dài, đăm đăm nhìn ra khơi. Ngọn sóng suy tưởng đang trào lên trong anh. Một mái tóc đen, một vầng trán hói và một bàn tay nữa đang với với trên mặt sóng nhấp nhô. Anh Nhi ! Chúng ta đã thề với nhau “ Sống với biển, chết với biển để đánh thắng giặc Mỹ”, phải chăng khi vĩnh biệt cuộc đời, anh đã trở về với biển.
Bất giác Phong gào to :
-   Anh Nhi ơi ! .. Anh Nhi ơi !
Tiếng “ ơ ơ ..ơ” trong hư vô đáp lại. Trong óc Phong lại đọc tiếp lời điếu. Anh Nhi ơi ! Mỗi lần nhìn sóng biển chúng tôi lại nhớ tới anh. Trước ngọn sóng kia, chúng tôi nguyện tiếp tục phấn đấu cho lý tưởng đến thắng lợi hoàn toàn. Vĩnh biệt anh ..
Những làn sóng lao vào bãi cát, tạo thành tiếng ì ầm rền rĩ vọng vào tai Phong như những giai điệu trầm của bản nhạc Hồn tử sĩ.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #31 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2007, 11:23:58 am »

Tất cả anh em thủy thủ đều phải vào bệnh xá điều trị, chỉ riêng Phong ở lại căn cứ của bến. Phong được chăm sóc đặc biệt. Bữa nay riêng anh được ăn cơm với cá kho, còn tất cả anh em ở bến đều phải ăn củ khoai chấm muối. Cuộc sống của anh em bến rất cực, người nào người nấy đều gày guộc, xanh xao. Phong không muốn được biệt đãi, nhưng anh em bến không chịu. Mọi người yêu mến, chiều chuộng anh với cả tấm lòng chân thật. Đôi lúc Phong bắt gặp cử chỉ ngượng ngùng e ấp của một vài cán bộ. Mãi sau này anh mới hiểu được cái lý do tại sao họ lại có cử chỉ đó. Số là trước ngày tàu 235 đến, anh em bến vẫn phân công nhau canh gác đón tàu. Đúng ngày 29 tháng 2 (ngày tàu vào), một cán bộ trên tỉnh đội tới kiểm tra tình hình, thấy địa hình của bến phức tạp, tàu khó vào, và lúc đó điện đài của bến lại hỏng, không liên lạc được với đoàn 125. Bến đã đón nhiều đêm nhưng lại không thấy tàu đến, đồng chí cán bộ tỉnh đội cho rút một số vọng gác để anh em đi lấy gạo. Đêm 29 vẫn còn môt tổ gác ở chân núi Bàn Thang phát hiện thấy tàu vào, cho người về báo cáo. Nhưng do chậm trễ, quá nửa đêm mới cử người đi đón. Anh em bến mới đi được nửa đường, nghe tiếng súng nổ nhiều ở Hòn Hèo, đã quay trở lại. Hôm sau địch đổ bộ xuống càn quét, bến không có hành động gì chi viện cho C.235.
Phong ăn cơm xong lên võng nằm nghỉ. Mấy năm trước, chiến đấu trên sông Mã, bom đạn không kém phần ác liệt, đồng đội có kẻ mất người còn, nhưng chưa bao giờ anh có nhiều suy tư như bây giờ. Anh mới sống cùng đội tàu C.235 trong một chuyến đi mà cứ tưởng như ăn ở với nhau từ thửo nằm trong nôi. Không có lời lẽ đẹp đẽ nào có thể xứng đáng để diễn tả tinh thần và cách sống cách mạng của anh em trong chuyến đi này. Hình ảnh cao cả xúc động ấy luôn luôn trỗi dậy sống động trong óc anh. Tiếng kêu của Hải xin ở lại cùng chết với con tàu. Bóng dáng bình tĩnh đường hoàng của thuyền trưởng Phan Vinh giữa tình huống hiểm nghèo. Tiếng thúc giục “ Đi đi .. nhanh lên” của thuyền phó Nhi.
Trong người Phong mệt mỏi rã rời, anh thèm một giấc ngủ thật dài để bù lại cho những đêm thao thức mất ngủ. Nhưng nghĩ tới những người đã khuất, anh cảm thấy như mình có lỗi, không thể nằm yên được.
Phong cố cưỡng lại mệt mỏi, chống hai tay vào đầu gối định đứng dậy. Thấy cô Hường đi tới, anh lại ngồi xuống võng.
Cô Hường cười, nói :
-   Em mang tới kính anh hộp sữa, mẹ em vừa gửi tới.
Nói xong, Hường đặt hai hộp sữa vào trong võng.
-   Nhà chị ở gần đây ư ?
-   Nhà em ở trong ấp chiến lược, ở đó ta có cơ sở, vẫn liên lạc được. Thỉnh thoảng em cũng về trỏng. Trỏng có tin ra, nó bắt được một anh đã bị thương xuống biển uống nước ngày mùng 4. Chúng nó kháo nhau, đã giết được hai người chỉ huy đi trinh sát trong ngày đầu tiên chúng càn quét. Các anh phải chịu cực nhiều quá ..
Tai Phong cứ ù lên, không biết đoạn sau Hường nói gì nữa. Những điều anh vừa suy nghĩ lại tiếp nối. Ai bị bắt ? Có thể là cậu Khung. Vì ngày mùng 4, anh Nhi vẫn đi cùng với anh em. Những người chỉ huy chết , có phải là anh Vình và anh Thứ không ? Phải đi tìm các anh ấy. Chỉ có một mình mình ở đây ..
Phong vùng đứng dậy đi về phía lán của Hạnh.
Cô Hường ngơ ngác không hiểu, tại sao đang nói chuyện. Phong lại bỏ đi.
-   Kìa anh Phong. Anh cứ nghỉ ngơi. Cần nước uống biểu em lấy cho.
Hạnh đang hướng dẫn cho mấy chiến sĩ bến chặt ống pháo sáng ra từng mảnh hình chữ nhật. Thấy Phong tới, Hạnh nói :
-   Phong về nằm nghỉ ngơi cho lại sức. Chúng mình đang ..
Phong ngắt lời Hạnh:
-   Bây giờ anh đi ngay với tôi đi tìm các tử sĩ được không ?
-   Tối qua các cậu An và Tuyến đã cho mình biết danh sách các đồng chí hy sinh và bị lạc. Theo tin tức chúng tôi thu lượm được, thì cậu Khung đã bị địch bắt. Chúng tôi đang chuẩn bị tứ này để làm bia. Việc này phải sớm mai mới đi được. Phong cứ nghỉ cho lại sức để cánh mình lo.
Thấy Phong đứng im lặng, vẻ mặt xúc động, Hạnh khoác tay Phong trở về chỗ võng.
-   Trông cậu yếu lắm , cứ nghỉ ngơi. Khỏi lo. Chúng mình sẽ thu xếp chu đáo.
Phong nằm suy nghĩ miên man một lúc rồi ngủ thiếp đi. Cô Hường đi qua, thấy Phong ngủ không có màn. Cô rón rén bước tới lấy mảnh dù pháo sáng đắp trên mặt võng.
Sáng hôm sau, Phong và anh em bến đã tìm được đầy đủ các đồng chí hy sinh.
Họ đã đứng rất lâu ở nơi diễn ra trận đánh không cân sức. Thuyền trưởng Phan Vinh và Ngô Văn Thứ, thợ máy đã chặn đứng hàng tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên, buộc chúng phải rút lui. Các anh vẫn ở tư thế nằm bắn như giữa lúc các anh ghìm hai cánh quân của địch lại. Xung quanh các anh chi chít những hố đạn ám khói, những cây cỏ gãy nát, cháy xám.
Chính nơi đây, bọn Mỹ-ngụy đã la lên rằng “ Một tiểu đoàn bộ binh Việt cộng có pháo nặng yểm trợ” đã buộc một tiểu đoàn của chúng phải rút lui. Chính nơi đây đã diễn ra trận quyết chiến kiên cường của hai dũng sĩ hải quân đánh bại cuộc càn quét của địch. Điều ấy làm cho anh em rất tự hào.
 Hạnh nói với anh em :
-   Các đồng chí thân yêu của chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ rất vẻ vang. Trong tang lễ các đồng chí đó, không có hương khói, nhưng chúng ta có tấm lòng thành kính. Việc mai táng phải làm cho thật chu đáo.
Một chiến sĩ của bến phát biểu :
-   Lúc sống , các anh ấy đã dũng cảm vượt qua biết bao hiểm nguy, sóng gió. Lúc hy sinh rất anh dũng, kiên cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Tôi đề nghị hướng mai táng để đầu về hướng Bắc, chân về hướng Nam.
Làm lễ hạ huyệt xong, khi đắp lên phần mộ liệt sĩ hòn đất cuối cúng, Phong cố ghìm tình cảm của mình để khỏi bật ra tiếng khóc :
“ Anh Vinh, anh Thứ, anh Tương, anh Hải ơi !” – Phong đọc lời điếu như nói chuyện với người đang sống trước mặt mình – “Các anh đã làm trọn lời thề với Tổ quốc, với Đảng. Cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, các anh vẫn làm cho kẻ thù khiếp sợ. Chúng tôi xin hứa sẽ không ngừng phấn đấu noi theo gương sáng của các anh. Xin vĩnh biệt !”.
Tất cả anh em cúi đầu tưởng niệm những người đã khuất. Một cơn gió xoáy đưa tàn tro bay lên cao. Lá cây thiên tuế trồng trên những phần mộ đong đưa như những cánh tay vẫy chào. Tiếng sóng biển trầm trầm như tiếng đổ hồi, như những lời đồng vọng thương cảm những chiến sĩ đã bỏ mình vì nước, vì dân.

..Sau một ngày xảy ra trận chiến đấu của đội tàu C.235 với địch ở Hòn Hèo, đội tàu C.43 mới chuyển hướng vào bờ.
Như thường lệ vào trước giờ tàu chuyển hướng, anh em chuẩn bị bữa ăn chu đáo. Việc nấu nướng bữa nay do hai đầu bếp giỏi là các anh Nguyễn Trọng Tài, thợ máy và Phan Văn Kiểm, thủy thủ trưởng đảm nhiệm.
Nấu nướng xong, Tài và Kiểm khệ nệ bưng thức ăn và cả két bia lên mặt boong.
Các thủy thủ thấy mùi mực nướng thơm phức bay vào khoang, không chờ đầu bếp gọi, đã kéo nhau ra. Ai thích rượu thì uống rượu, ai thích bia thì uống bia, nhắm với thịt gà luộc và mực nướng thả sức. Có anh vừa chạm môi tới cốc bia đã lè nhè nhại những người nát rượu. Chỉ sau hai lần chạm cốc, đủ các thứ chuyện bông phèng nở bung như ngô rang.
Anh thợ máy Nguyễn Trọng Tài trở thành đề tài châm chọc vui vẻ. Chuyện vui đùa về màu da đen của Tài không làm anh tự ái mà chỉ gợi nhớ chuyến đi đầy gian khổ, ác liệt. Cách đây hơn năm tháng, anh có nước da bình thường như anh em khác. Chuyến đưa hàng vào gần Ba Làng An ( Quảng Ngãi ) gặp địch, đội tàu C.43 đã chiến đấu và phá hủy tàu rồi lên bộ đi the đường Trường Sơn trở về Bắc. Trong cuộc hành quân chữ O ấy, Tài bị sốt rét ác tính, tưởng rằng sẽ vĩnh biệt đồng đội, nhưng anh đã trở về được với màu da đã chết. Những ngày mới ốm dậy, mỗi lần soi gương thấy mặt mình đen sạm, anh thấy phảng phất một nỗi buồn. Từ hôm trở về cùng anh em chuẩn bị đi chuyến này, chẳng còn thời giờ nào để ngắm mình và cũng không hề nghĩ tới màu da của mình.
Tàu chuyển hướng vào bờ.
Mặt biển êm ả. Những làn sóng nhẹ dập dìu xô vào mạn tàu. Con tàu lướt nhanh để lại phía sau một vệt dài màu trắng trên mặt nước tím thẫm. Mặt trời đã lặn. Phía tây còn bừng lên như một đám cháy dữ dội. Cảnh trời chiều phẳng lặng như gợi nỗi nhớ. Bỗng dưng Tài thấy lòng bâng khuâng thương nhớ những người thân của mình. Hình ảnh nguời mẹ già gầy guộc tóc bạc phơ, sống cuộc đời góa bụa và đem tất cả sức lực để nuôi con khôn lớn. Hình ảnh người vợ trẻ tần tảo thay mình chăm sóc mẹ già, nuôi con. Hình ảnh thằng con ngây thơ luôn miệng mong “bố đánh giặc Mỹ rồi về đi chơi với con” . Tài nghĩ đến mình là đứa con độc nhất, nều như mình hy sinh, mẹ kính yêu sẽ phải chịu một nỗi đau mất mát, nhưng mình tin rằng mẹ có đủ nghị lực vượt qua.
Trước khi lên đường, Tài đã nghĩ đến điều xảy ra đó và đã viết những bức thư “trăng trối” giấu ở dưới đáy vali dặn dò những người ở lại. Lúc này, những dòng chữ sâu nặng nghĩa tình ấy lại hiện lên trước mắt anh “ .. Dù ác liệt, nguy hiểm thế nào tôi cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ . Nếu tôi hy sinh trong chuyến đi này, nhờ tổ chức giúp gia đình tôi bớt một phần khó khăn và lần lượt gửi cho gia đình tôi những bức thư trước đây. Mỗi bức thư gửi cách nhau khoảng năm , sáu tháng ..”..Bức thư thứ nhất gửi gia đình “ .. Anh cũng như hàng triệu thanh niên khác lúc lên đường đánh giặc, cứu nước. Xa gia đình lúc này là chuyện thường tình. Lần này anh có thể đi xa lâu và ít biên thư về cho gia đình. Mọi công việc ở nhà đều trút lên vai em, anh thông cảm sâu sắc điều đó, nhưng làm sao khác được. Mong em cố gắng thay anh chăm sóc mẹ và dạy dỗ con nên người ..”.
   Bức thư thứ hai “ .. Chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình cơm áo cho muôn đời mai sau, không thể không trả giá bằng sự hy sinh xương máu. Nếu anh có chết ở nơi chiến trường, thì em cố nén đau buồn và tự hào về anh. Em hãy dành nỗi tiếc thương anh vào việc chăm sóc mẹ già và nuôi dạy con thành người ..”.
Bức thư thứ ba “ .. Mẹ ơi ! Con ra đi mang theo công lao tày núi của mẹ mà con chưa có dịp đáp đền. Mẹ hãy tự hào vì đứa con thân yêu của mẹ đã hy sinh vì Tổ quốc quang vinh ..”
-   Ai cà phê nóng đây !
Tiếng reo đùa của Kiểm cắt đứt dòng suy nghĩ triền miên của Tài. Anh đổ cốc cà phê còn nóng ở tay Kiểm rồi rụt rè nhìn bạn như mình vừa phạm lỗi gì đó.
Tài leo lên khỏi buồng máy, đứng tựa vào lan can, đốt thuốc lá rồi vừa nhấm nháp cà phê vừa nhìn về những ngôi sao lấp lánh ở phía chân trời. Tâm tư nặng nề của anh tan dần trong các giả định tình huống trước mắt.
Mọi người đã vào vị trí chiến đấu nhưng chưa dứt tiếng chuyện trò, cười nói. Ruệ ngó đầu qua cửa buồng hàng hải, thấy Tài đang đứng ngắm biển, anh gọi to :
-   Anh Tài ! Ban nãy dang uống bia bỏ đi đâu ? Vào đây, tôi lấy cháo về cùng ăn.
-   Khỏi phải lấy, chúng ta xuống bếp ăn luôn ở đó cho tiện.
Hai anh em xuống chạn bưng ra một soong chảo và soong miến nấu với thịt gà còn đang bốc hơi. Ruệ còn lấy thêm một tô đầy ú thịt gà luộc, mang ra chỗ đơn vị ăn cơm thường ngày.
Tài hỏi :
-   Sao còn nhiều vây. Còn ai chưa ăn ?
-   Uống bia, ăn mực ngang dạ, các vị không xài nổi.
Trong bữa ăn, vừa chuyện trò, tự nhiên dẫn dắt tới câu chuyện về mối tình vừa bị cắt đứt trước chuyến đi của thủy thủ Nguyễn Đăng Nam.
-   Cô ấy cũng xinh gái – Ruệ cười nói – Cô ta đang học Đại học Sư phạm năm thứ ba. Hai đứa theo đuổi nhau đã hai năm. Một hôm cô ta sụt sùi với cậu Nam “Bố em bảo thời chiến này lấy bộ đội cũng như không .. bố em không bằng lòng. Em chẳng biết làm thế nào cả .. nếu em cứ tự ý, tình cảm trong gia đình em rạn nứt thì em khổ tâm lắm”.
-   Kiểu này lại muốn ngãng ra. Thế cậu Năm xử ra sao ?
-   Cậu ấy nói “ .. Tôi rất đau khổ phải nói ra điều này. Từ hôm nay trở đi, quan hệ giữa chúng ta chỉ còn là tình bạn thôi. Vì từ xưa tới nay, nếu là tình yêu thì người ta vượt qua tất cả để đi tới. Cô đã không vượt nổi được khó khăn đó, còn tôi thì chẳng muốn có ai thương hại ..”.
-   Thằng Năm làm như vâyh liệu có nóng vội không ?
-   Kiểu cách ấy trước sau cô ta cũng chạy theo tiếng gọi ích kỷ của gia đình .. “phăng teo” cho đỡ vướng chân.
Ruệ vừa cười vừa bình luận :
-   Như vậy là đội ta còn 14 cặp đăng đeo đuổi. Giả dụ nếu gặp những cố như cô “sinh viên sư phạm” của cậu Năm, mà anh em mình lại yếu bóng vía thì chuyến này có cố gắng cũng đẩy được con tàu đến phao số 0.
Câu nói đùa của Ruệ làm cho Tài bật cười và sau tiếng cười anh thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn.
Ăn xong, mỗi người lại lao vào công việc của mình . Cậu Giám đang ngồi nhìn đăm đăm vào số máy đang chạy, thấy Tài đi tới, anh lấy tay ra hiệu hỏi :
-   Tình hình trên ấy có gì không ?
-   Vẫn êm. Cậu lên nghỉ đi, được phút nào hay phút đó. Nếu có gì cũng phải vài giờ nữa.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #32 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2007, 09:25:00 am »

Tàu C.43 đã đi bảy ngày đêm không gặp trở ngại gì. Anh em đặt nhiều hy vọng : đoạn đường trước mặt sẽ xuôi lọt, vào được bến, thả hàng rổi ra ngay. Ở các vị trí chiến đấu, vẫn vang lên tiếng cười nói lạc quan. Nhất là khẩu đội DKZ ở vị trí mũi tàu, gồm các xạ thủ Phan Văn Kiểm, Nguyễn Nho Tòng và Nguyễn Đăng Năm là nơi không mấy lúc vắng tiếng cười. Ở “trận địa mặt boong” không giống như bất kỳ trận địa nào trên mặt đất, mọi người bị câu thúc về địa điểm cơ động, nhưng chẳng ai hạn chế sự ồn ào, vì tầm nhìn của họ bao giờ cũng thoải mái, không đáng ngại kẻ địch xuất hiện bất kỳ.
Nhìn thấy ở phía bờ có nhiều pháo sáng bắn lên, làm rõ hình núi non, họ gọi nhau :
-   Núi, núi  .. kìa ! Các anh nhìn thấy không ? Chắc ăn rồi.
-   Ừ nhỉ .. mình đưa được tàu vũ khí này vào thì Quảng Ngãi đánh thoải mái.
-   Ta đang tiến công vào Saì Gòn, Huế .. nếu Quảng Ngãi đánh mạnh giải phóng được một vùng rộng nối vùng đồng bằng với Tây Nguyên thì cha con thằng Mỹ bỏ mẹ.
Lúc Năm và Kiểm đang nói chuyện, Tòng vào bếp lấy ra một đĩa xôi và một tô thịt gà rang. Tòng giục mọi người :
-   Ăn đi .. ăn thật no, sắp sửa có việc làm rồi. Nếu vào được thì có sức chuyển hàng, nếu gặp chúng thì có sức mà nện.
Họ chưa kịp ăn xong đã nghe tiếng thuyền trưởng nói to :
-   Chú ý, có tàu địch đang theo phía sau ta.
Kiểm nói đùa :
-   Mẹ nó ! Tưởng đã chắc ăn rồi, thế mà chúng nó lại đến phá thối. Kệ xác chúng .. cứ ăn đi, hết đĩa xôi rồi tình chuyện với chúng sau cũng vừa.
Ánh đèn tàu địch vẫn bám phía sau. Tàu C.43 mở hết tốc độ chạy về phía bờ nhưng vẫn không bứt nổi khoảng cách với tàu địch đang thu hẹp dần.
Khoảng 24 giờ 15 phút, máy bay địch tới thả pháo sáng dọc theo hướng tàu ta đang tới. Và ngay sau đó vài phút, đạn pháo lớn của đich từ các chiến hạm rắ như mưa vây lấy tàu C.43. Một lát sau nhiều tàu nhỏ của địch bật đèn pha đủ maù lấp loáng cắt đêm tối trên mặt biển thành những mảng nhỏ. Chúng chuyển dịch dần theo làn đạn pháo.
Kiểm sốt ruột đứng dậy nói to :
-   Anh Thắng ! Không cho lệnh nổ súng để nó bắn chết anh em ư ?
-   Phải bình tĩnh. Không có lệnh của tôi, tuyệt đối không ai được nổ súng.
Các nòng pháo trên tàu C.43 lặng lẽ rê theo mục tiêu của mình lựa chọn.
Thuyền trưởng Thắng bình tĩnh quan sát xung quanh. Anh phán đoán “Đã có lần tàu địch bắn lầm nhau. Việc bắn pháo vây rộng xung quanh, biểu hiện chúng chưa khẳng định là tàu của ta. Khoảng cách bờ còn 10 hải lý, ta có thể chạy thêm vào gần bờ đoạn nào hay đoạn ấy, chờ thời cơ thật thuận lợi ta hãy nổ súng.
Tiếng đạn pháo bỗng im bặt. Hai chiếc tàu địch từ phía bắc lần lượt cắt qua trước mũi tàu của ta, cách khoảng 500 mét.
Thuyền trưởng Thắng hạ lệnh :
-   Chiếm góc mạn phải 30 độ. Bắn.
Thuyền trưởng vừa dứt tiếng, tiếng chuông chuyển lệnh đã rung lên một hồi dài. Các khẩu pháo DKZ, 12,8 nổ đồng loạt vào mạn tàu địch. Một chiếc tàu địch bị trúng đạn, khói tuôn ra mù mịt.
Hàng chục tàu địch từ bên sườn, phía sau xối một trận bão đạn về phía tàu C.43. Những chuỗi đạn lửa đan chéo, đuổi nhau hình cầu vồng bay vút trên không hoặc cắm xuống mặt biển dày đặc trong khu vực C.43 đang đi.
Thuyền trưởng Thắng vẫn ở tư thế đường hoàng trên đài chỉ huy, quan sát và chỉ huy đơn vị tiếp tục chiến đấu. Ruệ đang ngồi ở ghế lái, bị trúng đạn ngã xuống. Thuyền phó Đức đứng bên lập tức lên lái thay Ruệ.
Chính trị viên Tuấn vào xốc Ruệ ngồi dậy và lay gọi :
-   Ruệ ơi ! Bị thương ở đâu mình băng cho ?
Tiếng Ruệ trả lời yếu ớt :
-   Còn người còn phải chiến đấu bảo vệ tàu. Tôi chết .. tôi gửi lời ..
Tuấn sờ tay Ruệ, thấy mạch cậu ấy không đập nữa, anh đặt Ruệ nằm sát vào vách.
Nghe tiếng gọi “ Anh Tuấn, tôi bị thương”. Tuấn vội vàng vào ghế lái thay cho thuyền phó Đức.
Tiếng đạn nổ liên hồi đinh tai nhức óc, không còn phân biệt rõ tiếng nổ nào là của ta, của địch nữa. Tuấn đang hướng con tàu rẽ sóng chạy vào bờ, thấy tay mình tê dại không điều khiển nổi tay lái nữa, anh gọi Hào vào thay thế.
Hai chiếc máy bay lên thẳng của địch nhào tới xả rốc két xuống tàu. Khẩu đội cao xạ của ta kiên cường giáng trả, một chiếc bị trúng đạn, bụng nó phụt lửa sáng rực rồi rơi tõm xuống biển. Cùng lúc đó, tàu C.43 bị một phát rốc két trúng thùng dầu phụ, đám khói từ thùng dầu phụ đùn lên đen đặc. Năm rời vị trí súng nhaỷ vào dập lửa cứu tàu.
Thuyền trưởng Thắng nhìn thấy khầu 12,8 của ta im lặng ngửng nòng lên trời, mấy xạ thủ bị thương nằm dưới chân súng, trong lúc máy bay địch vẫn điên cuồng bắn xuống. Anh rời đài chỉ huy xuống làm xạ thủ. Những loạt đạn dữ dội của thuyền trưởng làm cho chiếc máy bay lên thẳng bay bổng lên cao ..
Từ lúc nổ súng, Tài đứng trong buồng máy, nhưng vẫn cảm nhận được sự ác liệt của trận đánh qua những mảnh đạn va vào thân tàu và những cái lắc lư đột ngột của  con tàu. Mắt anh không rời cỗ maý đang chuyển động. Mỗi lần có tiếng va đập mạnh vào vỏ tàu, anh lo lắng nhìn xung quanh rồi nhìn vào máy, xem có xảy ra chuyện gì không.
Một tiếng động trầm đục, cùng lúc có cái gì rất nặng va vào thân tàu, làm cho nó chao đảo, làm cho máy , đèn , điện đều tắt ngấm. Tài thấy bàn chân mình như giẫm lên lửa, rất bỏng. Anh cúi xuống sờ soạng thấy máu nhớp nhớp cả dưới sàn.
Có ánh đèn pin soi xuống buồng máy, và ánh đèn theo nhịp bước của ai đó xuống dần rồi đến bên cạnh. Tài mới nhận ra chính trị viên Trần Anh Tuấn. Tiếng của Tuấn khô đặc, ghé sát vào tai Tài :
-   Phá hủy tàu.

Tất cả anh em đã rời khỏi tàu.
Đạn pháo của các pháo hạm địch vẫn không ngớt vây bám xung quanh tàu C.43.
Anh em cố hết sức bơi qua khu vực đạn pháo nổ dày đặc. Vừa bơi được một đoạn, Năm nhìn thấy một viên đạn pháo nổ gần Kiểm. Ngay lúc đó một đợt sóng nâng cả phao của Năm và thuyền trưởng Thắng đang bám lên cao 4 mét, rồi đẩy nhào xuống chân con sóng khác.
Pháo sáng vẫn soi rõ từng nếp sóng, nhưng Năm không nhìn thấy bóng Kiểm đâu nữa. Thay cho lời vĩnh biệt người bạn thân yêu, Năm chỉ kịp gào to một tiếng “ Kiểm !”.
Lúc đầu họ bơi gần nhau, vài phút sau do pháo địch bắn, và do chênh lệch về sức khỏe, đã tạo ra những khoảng cách xa dần. Tài vừa bơi vừa cố gắng đưa mắt nhìn xung quanh nhưng không thấy ai. Mỗi quả đạn pháo nổ làm cho ngực anh ép lại khó thở. Thời gian như ngưng đọng. Tài cảm thấy mình đã vùng vẫy rất lâu dưới biển lạnh mà chưa nhìn thấy bờ. Một đợt sóng do đạn pháo địch gây ra, ập đến. Tài dùng hết sức mình nhoài theo. Chân anh chạm bãi cát ngầm. Mừng quá, thế là sống rồi ! Nhưng làm sao thế này ? Một bên chân anh cứng đơ ra như khúc gỗ, không sao cử động được. Tài tự nhủ : Đến đây rồi mà chịu bó tay là hèn ! Anh dùng hết sức đạp chân xuống cát rồi nhoài người về phía trước. Tay anh đã sờ vào mặt cát mềm dịu, như nắm lấy cái quý giá vừa bị mất. Anh vừa lồm cồm định đứng dậy thì một đợt sóng khác chồm tới kéo anh ra xa tít. Anh lại cố hết sức quãy. Chẳng phải chờ lâu, một đợt sóng lớn khác đã đẩy anh một mạch vào tới bờ, rồi lại kéo anh một mạch ra ngoài xa. Vết thương và những ngày đêm đi biển đã khiến anh không sao làm chủ được cơ thể mình. Sóng kéo co xô đẩy ba bốn lần như đùa giỡn với một khúc chuối.
Anh vẫn còn tỉnh táo, đủ sức hiểu tất cả những gì đang xảy ra và có thể xảy ra đối với mình. Không lý do gì đã cố gắng đến đây mà chịu thua những đợt sóng này. Không có lý do gì đã tới gần bờ lại để địch vớt lên tàu của chúng. Một lần nữa anh vận hết sức lực của mình để vùng vẫy ra khỏi bàn tay của thần chết.
Pháo sáng địch giúp anh nhìn rõ bờ không thiếu một chi tiết . Những con thuyền đánh cá nhỏ nằm úp trên bãi cát, những hàng cọc phơi lưới, những mảnh vỏ trai sáng loáng như bạc. Anh ước ao có một cái cọc cắm sát mép nước, sóng đưa tới anh sẽ ôm chặt lấy cọc để đứng dậy. Nhưng mép bờ cát phẳng lỳ, chẳng có một thứ gì khả dĩ bám víu được.
Đợt sóng mới, anh ước lượng thời gian, khi nó vừa xô vào bờ, lập tức anh dùng hết sức nhoài người lên, rồi bò thêm được một đoạn, thoát khỏi bàn tay của sóng. Tài mệt quá nằm ngửa lên để thở. Nhìn bầu trời thoáng rộng và những chùm sao lấp lánh, trí óc anh dịu bớt nỗi căng thẳng. Anh nghĩ tới con tàu và đồng đội của mình. Sao chưa thấy tiếng nổ của bộc phá phá hủy tàu. Anh em mình,ai còn ai mất ? Anh đang suy nghĩ miên man, một tiếng nổ lớn khác tiếng đạn pháo. Cùng lúc đó mặt đất rùng mình nhấc người anh lên một chút rồi lại đặt xuống. “Nổ rồi”. Tài phấn khởi ngồi nhỏm dậy, nhìn ra biển. Một đám khói hình nấm từ mặt biển vụt lên cao dần, xung quanh nó vẫn còn đèn tàu địch đang di động.

Chính trị viên Tuấn đã tập hợp được một số thủy thủ, đang nằm chờ ở một khe nước, nhìn thấy Tài đi ngất ngưởng như người say rượu, anh vội vã chạy ra đón. Vừa xốc nách Tài đi anh vừa hỏi dồn :
-   Cậu bị thương ở đâu ? Trong lúc bơi có nhìn thấy ai không ?
Trận đánh kéo dài gần một giờ và bị đạn pháo nổ gấn, tai họ đều điếc đặc, không nghe rõ tiếng nói của nhau, nên hỏi nhau vài câu rồi họ nín lặng bước đi.
Thuyền trưởng Thắng cũng vừa tới, anh lấy tay ra hiệu cho mọi người theo mình lên quả núi trước mặt. Năm và Thắng xốc nách Tài bước theo anh em. Nguyễn Xuân Thơm, thuyền phó khập khiễng đi cuối hàng quân. Lúc rời tàu, anh đã nhường phao cho Hoa, và trong lúc bơi anh lại dìu được một thương binh vào bờ. Không ngờ vết thương đã làm cho sức của anh xuống nhanh như vậy. Anh đang đi, tự nhiên thấy mắt mình tối sầm lại và trời đất như đảo lộn, rồi ngã nhào xuống bất tỉnh. Ở phía trước anh em vẫn rảo bước, không hề biết chuyện gì đã xảy ra đến với Thơm.
Anh em vừa lên được một đoạn trên sườn núi , gặp địch đi tuần lại vội vã quặt đi hướng khác. Đến một lùm cây, họ dừng lại để tìm hướng đi.
Năm nói với thuyền trưởng :
-   Tôi có mang theo súng, để mình tôi đi trước, nếu gặp cơ sở của bến tôi quành lại đón .. nghe thấy súng nổ, thì các anh đi tránh.
Thuyền trưởng căn dặn :
-   Đi phải quan sát cẩn thận đề phòng nó phục kích.
Năm cởi cái võng và đôi dép đưa cho thuyền phó Đức rồi nhanh nhẹn theo con đường mòn lên núi.
Suy nghĩ một lát, Thắng thấy việc để Năm đi một mình có phần mạo hiểm. Anh nói với chính trị viên :
-   Anh Tuấn đi với bộ phận sau, tôi đi cùng với Năm , sợ cậu ấy đi một mình không an toàn.
Thắng đi mải miết vẫn không sao theo kịp được Năm; tới sườn núi chân lại giẫm lên chùm gai mỏ quạ, gỡ được gai thì Năm đã đi mất hút. Trời gần sáng, Thắng vừa bước vội vừa lo. Để đến trời sáng không đưa được đơn vị vào cơ sở, gặp địch càn thì tránh vào đâu. Thấy có tiếng người nói to, cách chừng 100 mét và có ánh đèn Thắng dừng lại lắng nghe. Anh đi giật lùi vài bước rồi quay ngoặt trở lại chạy xuống núi.
   Bộ phận do chính trị viên phụ trách chờ đợi lâu quá, sốt ruột không theo hợp đồng cũ. Họ đi men theo những ruộng mía dưới chân núi. Dưới ánh pháo sáng, Tuấn nhìn thấy một em bé chừng 10 tuổi, đang lúi húi trong ruộng mía. Tuấn lấy tay ra hiệu cho anh em dừng lại, rồi một mình anh rón rén tới gần em bé. Bất thình lình anh chộp được em. Em nhỏ hoảng sợ kêu ú ớ một lát sau mới nói được :
-   Tôi .. tôi đi nhặt dù hỏa châu.
-   Du kích chỗ nào, đưa các anh tới.
Một tay bị thương, còn tay kia Tuấn giữ em bé. Trong lúc chờ nó bình tĩnh lại để trả lời, anh sơ hở để em chạy mất, Tuấn rượt theo.
Anh em du kích đứng trong bụi cây, nhìn thấy mấy người đầu trần, tay không súng đuổi theo em bé, họ đoàn “ Không phải là địch .. có thể là các thủy thủ”.
Tuấn đang mải miết đuổi theo em bé, bỗng nghe thấy tiếng quát “ Dừng lại”, tiếp đó là một người lăm lăm khẩu tiểu liên bước ra khỏi lùm cây.
Tuấn vừa dừng lại, anh chưa kịp suy nghĩ xem tình huống gì đến với mình, thì người cầm súng kia nói dịu giọng :
- Có phải các anh vừa dưới tàu lên không ?
Tuấn vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, nhưng anh không trả lời. Anh vỗ tay ba lần để thay lời đáp. Người cầm súng vỗ tay hai lần vào báng súng.
Họ đã nhận ra nhau qua mật hiệu ! Mọi người đều vui mừng xúc động, cùng reo lên một câu “ Các đồng chí ! ..”
Anh em du kích kéo ra mỗi lúc một đông. Họ phân công nhau cáng thương và dìu thương binh vào xóm. Mọi người chuyện trò hỏi han nhau :
-   Chúng tôi được lệnh đi đón các anh. Ngay từ lúc địch thả pháo sáng .. đã rất lo. Còn ai bị thương chưa tới không ?
 - Đồng chí bị thương vào đâu để chúng tôi cáng .. thôi cứ để chúng tôi cáng .
- …
Tuấn kiểm tra lại số người đã gặp nhau trên bờ, thấy thiếu Thơm và Đức. Mấy người đi trước tìm đường cũng chưa thấy tới. Tuấn vừa nói với chiến sĩ du kích tìm giúp đã thấy Năm xách súng đến.
-   Anh Thắng đâu ? – Tuấn hỏi Năm.
-   Tôi không gặp ai cả.
Một chiến sĩ du kích nói xen vaò :
-   Các anh khỏi lo. Nếu các anh em đã lên bờ được, chúng tôi sẽ tìm thấy ngay thôi. Các anh vào trỏng nghỉ ngơi đã !
Không đầy nửa giờ, các thủy thủ đã về đầy đủ. Họ đứng, ngồi thành từng nhóm trên một cái sân khá rộng. Riêng Thơm và Tài vẫn nằm liệt trên hai chiếc cáng.
Các mẹ, các chị em phụ nữ ngồi quây xung quanh Thơm và Tài vừa thăm hỏi vừa khóc nức nở.
Tiếng đồng chí xã đội trưởng dõng dạc :
-   Khi anh em bộ đội ăn uống xong, theo như phân công, ai có trách nhiệm đưa thươg binh xuống hầm nghỉ, ai dẫn anh em khỏe về từng nhà thì ở lại. Còn tất cả về ngay vị trí của mình. Gần sáng rồi, phải khẩn trương.
Xã đội trưởng hạ nhỏ giọng nói với Thắng và Tuấn đứng bên cạnh :
- Ngày mai thế nào địch cũng càn tới đây. Chúng tôi đã xếp chỗ an toàn để các đồng chí đi nghỉ ngơi. Việc chống càn đã có chúng tôi lo liệu.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #33 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 10:45:08 am »

Chương chín

PHÁ PHONG TỎA

Đợt tiến công “bốn mũi” nếu xét về hiệu quả công tác vận tải thì không thành công, nhưng đứng trên bình diện chiến tranh để xét, lại hoàn toàn khác. Những đội tàu của chúng ta đã hành động vượt xa sự tưởng tượng bình thường, đã chiến đấu rất xuất sắc và giành được thắng lợi.
Dù sao thực tế trên biển vừa qua cũng buộc người chỉ huy vận tải phải dừng lại để tìm hiểu thêm về tình hình địch và nghiên cứu chiến thuật mới mới mong phá vỡ có hiệu quả sự phong tỏa của địch.
Tạm dừng vận tải đường dài trên biển lần này đúng vào thời kỳ mới của cuộc chiến tranh. Thời kỳ “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới – thời kỳ giành thắng lợi quyết định” ( Nghị quyết lần thứ 13 của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng, tháng 1-1968 ). Thời kỳ “chúng ta đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”. Sau những thất bại nặng nề ở cả hai miền, đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Ở miền bắc, chúng phải ngừng ném bom không điều kiện, ở miền Nam, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị quân và dân ta đánh bại một bước rất cơ bản.
Việc mở rộng côngg tác vận tải trên tuyến đường Trường Sơn đang có nhiều thuận lợi. Trung đoàn 125 nhận lệnh của Bộ Tổng Tham mưu tham gia chiến dịch vận tải VT5, một chiến dịch đưa hàng ào ạt vào lậo chân hàng cho công tác vận tải đường bộ.
Cùng ngày Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom ở miền Bắc (1-11-1968), hai chiếc tàu của đoàn 125 đã di chuyển vào sông Gianh mở màn cho chiến dịch.
Khí thế thi đau mới như một cơn lốc cuốn hút tâm trí các thuỷ thủ. Một lần nữa, đoàn 125 anh hung nêu cáo truyền thống vinh quang của mình. Qua 90 ngày đêm vận chuyển liên tục, đoàn đã vượt 217,3% chỉ tiêu của cấp trên đề ra.
Trong lúc đơn vị đang làm công tác vận tải trên miền Bắc, một kế hoạch tuyệt mật do Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành nghiên cứu đã được Bộ Tổng Tham Mưu xét duyệt. Có thể gọi tên nó là “Kế hoạch phá phong tỏa “. Bản kế hoạch đó do Bộ tư lệnh Hải quân trực tiếp điều khiển từng bước rất chặt chẽ.
Ngày 12 – 8 -1969, đội tàu 42 nhận được lệnh vào Nghệ An, đưa tỉnh ủy đi nghiên cứu một số hòn đảo và ven biển của tỉnh.
Lệnh đi gấp, không kịp chuẩn bị như các chuyến đi thường lệ. Anh em thủy thủ thắc mắc “Không hiểu tỉnh ủy Nghệ An nghiên cứu gì mà vội vã thế. Nếu đi dài ngày thì lấy dầu mỡ , lương thực ở đâu ?”/
Đ/c Chi, phó tham mưu trưởng đoàn 125 là người chuyền đạt mệnh lệnh đã giải đáp gọn lỏn “Mọi thứ đã có tỉnh ủy Nghệ An lo”.
Thuyền trưởng Trường Sơn hạ lệnh nhổ neo, nhưng anh vẫn chưa thông. Chỉ có mọt đoạn đường từ Hải Phòng vào Nghệ An mà phải đưa cán bộ nghiệp vụ hàng hải xuống làm hoa tiêu, sao không để cán bộ thuyền tự lo liệu.
Nghe tiếng chuông rung, các thủy thủ của tàu bạn ra chào hỏi xôn xao :
-   Các cậu đi đâu đấy ?
-   Nghệ An.
-   Cặp ở Cửa Hội, tranh thủ tí, khoái nhỉ ?
-   Tạm biệt nhé ! ..
Trường Sơn đứng bên cạnh phó tham mưu trưởng Chi và chính trị viên Trần Ngọc Ẩn trên đài chỉ huy : họ im lặng nhìn dọc theo dòng sông Cấm. Trường Sơn suy nghĩ miên man, quên phắt điều phó tham mưu trưởng đoàn nói trong mệnh lệnh “ Đồng chí Thu, trợ lý hàng hải của đoàn sẽ dẫn đường chuyến đi”. Khi thấy tàu ngoặt vào dòng sông đào, anh hét to :
-   Sao lại ngoặt về hướng ấy ?
-   Lệnh của đồng chí Thu.
Muốn đi Nghệ An phải qua cửa Nam Triệu ra vịnh Bắc Bộ, con đường ấy trình độ hàng hải hạng bét cũng hiểu. Sao Thu lại có thể lầm lẫn được.
Tuyến đường con tàu đang lao tới, sẽ về đâu, có người đã ngầm hiểu. Ẩn ghé vào tai Trường Sơn :
-   Đến đây là rõ rồi.
-   Sao ??
-   Chậm hiểu quá. Đi chơi với hạm đội 7 chứ sao.
Trường Sơn cười cởi mở và đưa bàn tay to bè ra nắm chặt lấy bàn tay Ẩn.
Cùng khoảng ngày tàu 42 nhổ neo, đoàn 125 có biến động nhỏ về nhân sự và vài cuộc chia tay vội vã.
Anh Thôi Văn Năm nghiệp vụ cơ điện của tiểu đoàn 4 nhận lệnh thuyền trưởng về trung đoàn 126. Y tá Dấu đang ở trạm xá, được lệnh chuyển về đoàn bộ ..
Riêng việc thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé « bắt buộc » phải chia tay đột ngột, đã gây ra buồn phiền cho đội tàu 68. Cách đây ít bữa, viện kiểm soát của quân chủng đã gọi Bé lên hỏi cung về việc đơn vị anh đã để đắm một chiếc tàu trong chiến dịch VT5. Từ hôm đó, rộn lên dư luận « thuyền trưởng Bé có thể bị đi tù ». Anh em trong đoàn xôn xao về vụ này. Họ tỏ thái độ bênh vực thuyền trưởng Bé «  Tòa án cũng phải xét chứ, cứ lý lẽ trần trụi như vậy nghe không xuôi ». « Việc xếp hàng không đúng quy cách để tàu đắm không phải do anh Bé gây ra. Chức trách của thuyền trưởng không phải là xếp hàng hóa ». «  Vả lại cũng phải chiếu cố công lao của anh ấy. Vào sống ra chết, đi hàng chục chuyến đưa vũ khí vào chiến trường ». « Trình độ chuyên môn, tinh thần, đạo đức không chê vào đâu được, chỉ vì sơ ý có một lần mà xóa sạch cả cuộc đời người ta à ? ». Dư luận ồn ào một hồi rồi cũng lắng xuống, vì Bé vẫn là thuyền trưởng và chẳng có tòa án nào hỏi.
Mọi người vẫn đinh ninh rằng : Khuyết điểm của Bé chỉ đến hạ chức hoặc cảnh cáo là cùng. Đột nhiên hôm nay có lệnh của quân pháp xuống « bắt » thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé.
Thủy thủ tàu 68 bàng hoàng trước giờ tạm biệt với người thuyền trưởng tài năng, dũng cảm và đáng yêu ; họ không biết nói gì với anh trước cảnh chia tay đáng buồn này.
Một thủy thủ không kiềm chế nổi xúc động, để nước mắt chảy tràn , xô tới ôm chặt thuyền trưởng Bé :
-   Dù bao giờ .. dù thế nào tôi vẫn nghĩ rằng : anh là cán bộ tốt.

Chiếc com-măng-ca của Bộ tư lệnh Hải quân đã đứng chờ bên lề đường Hồng Bàng ( Hải Phòng). Đại úy phó tham mưu trưởng Nguyễn Ngọc Ẩn đứng bên cạnh xe chờ đợi. Anh được giao nhiệm vụ đón một số anh em để đưa đến một địa điểm bí mật, không được phép phổ biến . Đến đó để làm gì, anh chưa hiểu. Từ lâu do yêu cầu của công tác đặc biêt, đã trở thành một thói quen, không phải việc của mình không hỏi, không nói, nhưng cái tên địa điểm kia, đã gợi anh nghĩ đến một chuyến đi xa.
Thượng úy Trần Phong đang công tác ở Hà Nội nhận được điện « về ngay ». Khi xe khách Hà Nội – Hải Phòng dừng lại bến, Phong lật đật đi bộ đến địa điểm hẹn. Gặp Ẩn, sau cái siết tay chặt , Phong hỏi ngày :
-   Việc gì mà khẩn trương thế anh ?
-   Họp hành gì đó.
-   Không phải .. chắc có nhiệm vụ mới.
Ẩn im lặng không tiếp câu hỏi của Phong đặt ra. Phong linh cảm thấy mình sắp nhận một nhiệm vụ gì đó hết sức quan trọng.
Một lát sau thấy anh thợ máy Thôi Văn Năm khệ nệ xách vali tới : tiếp đến một trợ lý bảo vệ của quân chủng đi cùng với thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé ..
Số người đã tới đủ. Ẩn cho xe chạy. Xe qua bến đò Bình, qua Thủy Nguyên .. rồi dừng lại ở Đá Bạc. Mọi người xuống xe, nhìn ra bến đã thấy tàu 42 đậu ở đó.
Thuyền trưởng Trường Sơn và chính trị viên Ẩn mời họ xuống tàu.  Tất cả những điều anh em suy nghĩ từ lúc nhận lệnh, đến đây đã bật lên tiếng nói «  Vào Nam »..
Mắt thuyền trưởng Bé long lanh tha thiết, nhìn những nụ cười đang mở trên môi các bạn mình.
Đã lâu lắm rồi, anh em mới được  nhận nhiệm vụ với không khí đặc biệt trọng thể như thế này. Đại tá Tư lệnh, đại tá chính ủy Quân chủng Hải quân, đại diện Bộ Tổng Tham Mưu tới động viên, kiểm tra. Cùng một lúc, hậu cần phát ba bộ quần áo, giày dép đúng thời trang Hong Kong. Các nhu yếu phẩm khác như thuốc lá, rượu, thuốc đánh răng .. đều được cấp bằng loại hàng của các nước phương Tây hoặc không có nhãn hiệu. Tất cả thứ gì, từ cái máy lửa, bút chì .. có dấu hiệu của miền Bắc đều gửi lại.
Tàu 42 đã được lột xác từ màu xám tro thành nhiều màu sắc : dưới mạn là màu xanh da trời, đái chỉ huy sơn trắng, các đường viền màu vàng đỏm dáng, với cái tên bằng chữ ngoại quốc. Cả trang phục của người và của con tàu đều mang dáng dấp nghiên cứu biển.
« Hoàn thành được chuyến đi này, là một thành công lớn, là một chuyến đi anh hùng ; một chuyến đi lịch sử nối lại con đường biển chiến lược ; một chuyến đi phá vỡ thế phong tỏa của bọn Mỹ-ngụy. Trong lúc các đồng chí đi, không chỉ riêng Bộ tư lệnh mà Bộ Chính trị, Quân ủy TW cũng rất quan tâm theo dõi .. ».Tầm quan trọng được đ/c Chính ủy quân chủng chỉ ra và ngay cả trong công tác tổ chức chuyến đi cũng nói rõ điều đó. 100 % cán bộ và thủy thủ là đảng viên được lựa chọn. Thuyền trưởng Trường Sơn tạm xuống làm phó cho thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé. Ngoài ra còn tăng cường thêm hai thuyền phó nữa. Phó tham mưu trưởng Nguyễn Ẩn, thượng úy Trần Phong làm chuyên gia cho cán bộ thuyền. Đội ngũ từ máy trưởng , thủy thủ trưởng trở nên hầu hết là người tài năng, dũng cảm, đã lập nhiều chiến công trên đường biển.
Nhiệm vụ của đội là tìm một con đường bất ngờ đối với địch và trinh sát một số đảo đặt bến trung chuyển. Hải trình theo đường biển quốc tế qua Hoàng Sa, tới vùng biển Philipin , Malaysia rồi vòng về vịnh Thái Lan, tìm hiểu các đảo Nam Du, Thổ Châu ..đi chừng 4000 hải lý.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #34 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2007, 10:45:54 am »

Chuyến đi viễn dương khó khăn nhất, đường dài nhất lần đầu tiên của quân chủng đã gây ra một tâm trạng chộn rộn khác thường. Ai cũng háo hức và lo lắng lao vào công tác chuẩn bị tất bật. Họ dồn hết sức lực để chuyến đi đạt kết quả cao nhất. Trong lúc các thủy thủ tập thao tác chiến đấu trên biển, cán bộ thuyền ngồi quây quần xung quanh hải đồ để nghiên cứu hướng đi và dự kiến đối phó với các tình huống.
Thuyền trưởng Bé vốn điềm đạm ít nói, cái « vấp » vừa rồi làm cho anh trầm lặng hơn. Mặc dầu đến lúc này trong lòng anh đã thanh thoát không bận bịu tới « vụ án » đắm tàu, nhưng anh vẫn ít cười ít nói. Sau khi nghiên cứu phương án hành quân xong, anh đến chỗ thủy thủ tập bắn, đến buồng máy kiểm tra, hỏi han từng thủy thủ.
Mọi công việc đã chuẩn bị xong. Buổi chiều, trước giờ xuất phát mới có chút ít thì giờ ngồi bù khú với nhau. Những chuyện do yêu cầu bí mật của chuyến đi sinh ra những giai thoại khá lý thú. Khi nói đến chuyện của thuyền trưởng Bé, đại úy Nguyễn Ngọc Ẩn hỏi Bé .
-   Tôi là chánh án, kết án anh « tù đứng » lưu động một tháng trên biển. Chịu không ?
Bây giờ mới thấy thuyền trưởng Bé cười thực sự, cười mà nước mắt cứ trào ra. Bé nói :
-   Trong cuộc đời bộ đội có việc gian khổ, nguy hiểm hơn cả ngồi tù .. mình vẫn sẵn sàng chọn việc ấy. Nhưng nói đến ngồi tù thì thật đáng sợ, đáng nguyền rủa – Bé ngoảnh sang nói với Ẩn – vì vậy cái án của tôi, tôi xin vui lòng chịu tù ba đến năm tháng tù như anh kết án.
Mọi người cười ; chuyện trò vui vẻ, cứ như thế kéo dài tới giờ tàu nhổ neo.

Đi được 4 ngày (24-8-1969), tàu 42 đã bắt được điểm chuẩn Hòn Đông như dự tính. Niềm tin ở sự dẫn đường của cán bộ thuyền trong anh em thủy thủ tăng lên. Các thuyền trưởng xếp Bé vào hàng « đáng kính nể về nghiệp vụ hàng hải thiên văn », điều đó không có gì quá đáng.
Sau khi bắt được Hòn Đông (quần đảo Hoàng Sa), tàu tiếp tục đi qua quần đảo Trường Sa ; đoạn đường này rất nhiều đá ngầm lập lờ dưới mặt nước. Nơi đây ít ra cũng có tới hàng chục tàu, thuyền bỏ xác lại, không bao giờ trở về được lục địa nữa. Luồn lách trên một phần đảo ngầm không chỉ là sự táo bạo, mà trước hết là phải tài năng mới có thể lọt qua được cái trận đồ bát quái ấy.
Thuyền trưởng Bé không giây phút nào rời mắt khỏi vùng biển lạ. Những quãng sáng lạc lõng, những maù sắc thay đổi trên mặt biển cũng lưu ý anh. Hải đồ không thể nào chỉ dẫn hết được sự thay đổi địa hình dưới mặt nước. Vả lại còn độ giạt, độ lệch do sóng gió, thủy lưu hoặc tính toán chưa chuẩn xác gây ra. Nếu sơ hở một chút thôi cũng có thể gánh lấy tai họa khôn lường.
Tàu vượt ra khỏi khu vực đá ngầm, đi theo tuyến đường quốc tế. Một chiếc máy bay P.3B đang vòng lượn trên một chiếc tàu buôn. Ẩn nói với Bé «
-   Nó vờ vịt làm như kiểm soát hết thảy các con tàu nhưng vẫn chú ý đến tàu của mình, mình cần đánh lạc hướng.
Bé hạ lệnh cho người lái :
-   Bẻ góc lái 5 độ đông.
Tàu 42 chạy về hướng Phi-lip-pin như những tàu buôn khác . Chiếc P.3B bỏ tàu buôn tới vòng lượn trên tàu của ta.
Chính trị viên phó Nhậm xách máy ảnh trèo lên đài chỉ huy, mở ống kính chụp chiếc máy bay, rồi chỉ trỏ cười nói :
-   Máy bat của nó bị hỏng rồi. Các anh xem kìa !
-   Hỏng mà nó vẫn bay.
-   Rõ ràng một cánh quạt không chạy nữa.
Ẩn và Bé quá quen mặt bọn P.3B, các anh cười to. Ẩn nói :
-   Thôi ông ơi. Nó có 4 động cơ, khi lượn chậm cho một động cơ tạm ngừng .. đấy nó lại quay rồi .. cánh quạt bên trái lại ngừng .. thấy không.
Thuyền phó Trường Sơn dáng người to béo, mặt trắng trẻo, râu quai nón như một người châu Âu. Từ nãy vẫn đứng chống nạnh nhìn theo chiếc máy bay. Anh tức giận chửi thái độ hỗn xược của bọn Mỹ :
-   Chúng nó có quyền gì mà kiểm soát tất cả các con tàu đi trên đường biển quốc tế. Mình không hiểu nổi sao các quốc gia có vai vế trên thế giới cũng cứ làm ngơ trước hành động ăn cướp của bọn này được !
Ẩn cười lớn :
-   Cậu có tướng làm bộ trưởng ngoại giao. Với thằng Mỹ lên tiếng phản đối thì có nghĩa gì. Tên côn đồ ngoại hạng ấy không có nghe lời khuyên bảo mà chỉ có oánh !
Bé vẫn im lặng nhìn theo chiếc tàu buôn màu sơn trắng toát, còn cách mình năm sáu hải lý.
Tâm trạng chung của những người sống trên biển, lâu lâu mới gặp một con tàu, bất kỳ của quốc gia nào, cũng thấy vui và muốn tỏ cử chỉ ưu ái đối với nhau. Nhưng ở đây, do thằng Mỹ khốn nạn, nó đã phá vỡ mối quan hệ tốt vốn có của loài người. Khi nhìn con tàu buôn qua lại lần nào cũng vậy, niềm vui của Bé cũng bừng lên, nhưng lập tức bị tinh thần cảnh giác dập tắt. Biết đâu tàu kia cũng một giuộc với bọn Mỹ, và nó cũng được giao việc báo cáo tàu lạ qua lại đây.
Chiếc P.3B bay tới lượn vài vòng trên chiếc tàu buôn rồi bay về Phi-lip-pin. Thuyền trưởng Bé nhắc cán bộ đang trực dưới buồng hàng hải chú ý ghi nhật ký tỉ mỉ những việc diễn ra trên đoạn đường.
Thuyền phó Tam và thượng úy  Trần Phong đang chụm đầu trên chiếc bàn có đặt tấm hải đồ khu vực vùng biển X, vừa đo đạc vừa rì rầm trao đổi. Tam lấy compa đo đoạn từ tọa độ tàu mình tới hải đăng Xu-ma-tơ-ra. Nghe thấy tiếng thuyền trưởng Bé, Tam báo cáo :
- Hiện nay tàu của ta đang đi vào tuyến đường HongKong – Philippin- Malaysia. Có thể gặp nhiều tàu buôn qua lại. Chiếc máy bay vừa rồi cũng hướng về Phi-lip-pin giống như lần trước, như vậy có thể đó là nơi nó xuất phát.
Phong nói với Tam :
-   Tình hình thuận buồm xuôi gió cũng phải bà ngày nữa mới bắt được đèn Tăng-gôn.
-   Chúng nó bị bất ngờ nên cũng không có hành động bám.
-   Nhưng vẫn phải coi chừng .. vì chúng ta còn đang ở đường quốc tế ..
Hai người đang trao đổi, thấy phía ngoài có tiếng cười nói xôn xao và tiếng còi tàu kéo dài. Các anh chạy ra đứng bên lan can nhìn về chiếc tàu đi ngược chiều.
Hành khách của chiếc tàu kia ra đứng bên mạn vẫy tay. Có một hành khách cao hứng, tung mũ, chẳng may bị gió đưa mũ xuống biển. Anh em thủy thủ tàu 42 cũng ra đứng bên mạn vẫy vẫy đáp lại.
Những bàn tay của những người ngoại quốc xa lạ kia đã đưa tới anh em tàu 42 niềm tự hào, vì một sự liên tưởng tự nhiên. Nếu họ là những người thiện chí mà biết được tàu 42 đang đi đâu, chắc chắn sẽ cùng với những bàn tay thân ái đang vẫy kia là tiếng hô «  Việt Nam – Hồ Chí Minh ». « Việt Nam là lương tri của thời đại .. » .. và đó sẽ là lời chào con tàu bé nhỏ, gan góc của mình.
Chiếc tàu lớn đi qua tạo ra những đợt sóng cấp năm, cấp sáu, làm cho tàu 42 chòng chành. Hai con cá chim từ dưới biển bay lên mặt boong. Các thủy thủ reo hò, chạy tới vồ cá :
-   Hoan hô ! Được bữa nhậu rồi.
-   Nhân dân thế giới ủng hộ đấy !
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #35 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2007, 10:01:46 am »

Ngày thứ chín, tàu 42 đã đến vùng biển gần Liên bang Malaysia. Lúc trời trong, nhìn bằng mắt thường đã thấy dáng dấp lô nhô của những hòn đảo. Có thể là quần đảo Na-tu-na.
Qua hai ba ngày không có địch theo dõi, mấy thủy thủ rỗi rãi, tính tới chuyện câu cá. Họ buộc một mảnh vải trắng vào cái lưỡi câu cỡ đại ở đầu một sợi dây cáp nhỏ rồi thả xuống sau tàu. Khoảng 10 phút đã có tiếng reo « ăn rồi » !. Thuyền trưởng cho tàu chạy chậm lại để bắt cá.
Hai ba người xúm lại kéo sợi dây câu. Con cá gì đó rất lớn, phải hàng tạ chứ không ít, nó kéo ba người suýt ngã. Một cuộc kéo có với cá đầy thú vị. Những thủy thủ trẻ reo hò, văng tục, rồi cười với nhau. Con cá bị lội đi gần một hải lý đã đuối sức, bụng nó thỉnh thoảng lật trắng lên mặt nước. Họ thả xuồng cao su và cho hai người xuống để kéo cá lên. Một con cá khác, lưng bóng nhãy nhô cái đầu khổng lồ lên đớp một miếng, con cá bị mắc câu đứt phăng một nửa. Máu loang đỏ mặt nước. Con cá « ăn cướp » nguẩy cái lưng dài thưỡn, tạo ra quầng sóng làm nước tràn vào xuồng cao su. Các thủy thủ la rầm lên :
-   Kéo mau.
-   Leo may lên không mất mạng bây giờ .
-   ..
Một anh chàng thủy thủ gan lỳ tướng quân cố đấm ăn xôi, vẫn kép được khúc cá còn lại lên xuồng của mình. Khúc cá còn lại nặng khoảng 60 kg, điều đó làm cho mọi người nhìn vùng biển màu xanh đen này mà dựng tóc gáy.
Chuyện ồn ào về con cá làm cho mọi người bớt căng thẳng lo lắng tới chuyện bắt đèn Tăng-gôn.
Trời mờ tối. Các cán bộ tranh thủ đo sao. Mắt thuyền trưởng Bé rất tinh, động tác thành thạo ; cùng một thời gian các cán bộ khác chỉ đo được bốn năm thiên thể. Bé đã đo được bảy thiên thể. Vị trí đứng hiện tại (tọa độ) của con tàu do anh tính toán ra, được anh em công nhận là chuẩn xác nhất.
Theo tính toán, thì tàu 42 đang nằm trong khu vực quần đảo A-nam-ba. Ngoài thực địa có một hòn đảo cách tàu khoảng 10 hải lý, tìm trong hải đồ lại không thấy. Các cán bộ bàn cãi :
-   Hay đã tới Na-tu-ma.
-   Cách xa nhau mấy trăm hải lý, sao lại có thể sai lệch đến thế.
-   Ở đây còn quần đảo nào nữa, soi kỹ xem.
Họ thay nhau lấy kính lúp rê đi rê lại trên mặt hải đồ, rồi lại đặt xuống, nhìn nhau. Bé cầm kính lúp nhìn khá lâu vào một điểm, rồi lấy đầu nhọn com-pa găm xuống một cái chấm nhỏ như vết mực xíu dây vào. Anh khẳng định :
-   Chỉ có điểm này, nó là cái đảo kia không thể kháca .. hòn đảo này không có tên.
Mọi người lại chuyền tay nhau kính lúp, xem cái điểm Bé vừa chỉ và đều gật đầu công nhận sự phát hiện của Bé.
Tìm được tọa độ tàu làm cho không khí vui vẻ, hồ hởi. Như vậy là trong đêm nay có thể bắt được đèn Tăng-gôn rồi.
Con taù đi lách qua quần đảo. Đêm tối. Mặt biển phẳng lặng như mặt hồ. Chưa bao giờ, ngay ở vịnh Hạ Long, họ cúng không thấy mặt biển lại êm ả đến thế. Nếu thỉnh thoảng không có con cá bơi vẽ lên một đường xanh lét, thì tưởng như mặt nước đã đông cứng.
Anh em cán bộ bàn tính. Nên vaò gần để « bắt » cho chắc, hay « bắt » hải đăng từ xa. Vaò gần lỡ ra xâm phạm hải phận của họ thì phiền. Cũng có ý kiến : liều một phen cho chắc ăn hơn. Hải đăng ở đây chắc không có người .. Bàn vậy thôi, hải đăng Tăng-gôn có thể bắt từ xa 20 hải lý, việc gì phải làm như thế.
Bàn tính nhưng mắt họ vẫn chăm chú nhìn mặt biển. Trường Sơn nhìn thấy một  bóng đen mờ, anh nói :
-   Hình như có tàu .. không lên đèn.
Bé chụp lấy cái ống nhòm, nhìn về hướng Trường Sơn chỉ rồi nói :
-   Tàu đang đi về hướng mình.
-   Không có đèn .. chỉ có tàu quân sự mới làm như thế. Ẩn nói và chìa tay nhận ống nhòm ở Bé. Nhìn vài giây Ẩn nói tiếp :
-   Đúng rồi ! Thôi tránh voi chẳng xấu mặt nào !
Họ quyết định mở hết tốc độ chạy trở lại, tạm né tàu kia đêm mai sẽ quay trở lại.
Nghe thấy tiếng chuông báo động. Mấy thủy thủ đang nghỉ vùng dậy, chẳng hiểu nếp tẻ gì, chạy ra ngồi cạnh súng. Họ văng tục chửi bới Giôn-xơn một hồi.
Chiếc tàu lạ lẵng nhẵng bám tàu 42 chừng hơn chục hải lý rồi quay trở lại. Có thể chiếc tàu kia là của “anh bạn” Malaysia chứ không phải của Mỹ. Ta chẳng có ý gì xấu với họ. Có thể vì chưa nhận rõ hải phận của họ mà “dấn qua vài bước” thôi !
Chiều hôm sau, tàu 42 quay trở lại. Ý định của họ là cố gắng bắt đèn vào lúc hoàng hôn. Khi mặt trời vừa rới sát mép nước, thuyền trưởng đã cho vời tất cả “những cặp mắt tinh tường” lên đài quan sát. Hàng chục cặp mắt hướng về phía trước, lục lọi trong khoảng không tranh tối tranh sáng. Không khí hồi hộp, im lặng. Chốc chốc lại có người nói “hình như có ánh đèn ..”. Lòng mong mỏi đã đánh lừa cảm giác của họ. Tới lúc nhìn thấy ánh chớp đều lờ mờ, thì họ lại chưa tin rằng đó là hải đăng, e cảm giác lại lừa mình lần nữa. Mãi tới khi có sự xác nhận “Bây giờ mới đúng ..” của thuyền trưởng Bé, thì tiếng cười nói vui vẻ mới bung ra.
Ánh chớp đều của hải đăng Tăng-gôn sáng đậm dần trước mặt họ.

Ngày 30 tháng 8, tàu 42 đã vào gần vịnh Thái Lan. Sắp đến khu vực địch phong tỏa dày đặc , và sắp đến những mục tiêu trinh sát chủ yếu.
Qua gần mười ngày đêm vừa sóng gió vừa tránh né địch, anh em đã mệt mỏi, cần tìm một chỗ nghỉ ngơi lấy lại sức, chuẩn bị đối phó với những tình huống khó khăn. Nếu là toán trinh sát trên bộ chắc dễ dàng hơn, lúc mệt có thể tìm tới một khu rừng, một căn nhà bỏ hoang nơi địch ít chú ý, treo võng lên là có thể đánh một giấc ngon lành. Trên mặt biển chẳng có gì giấu nổi con tàu. Nếu vào cạnh đảo nào đó có thể che khuất, nhưng là nơi địch thường nhòm ngó. Các cán bộ bàn đi tính lại rồi quyết định một “cú” táo bạo : Đưa tàu vào thương cảng X, thuộc một quốc gia Y gần đó.
Thuyền trưởng Bé cho tàu mình kẻ thẳng một đường vào thương cẳng X. Anh em thủy thủ tháo luôn biển số tàu 632 thay bằng bốn chữ Trung Quốc “Nguyên Xương Nhất Hiệu”, tên một công ty thăm dò biển của Đài Loan.
Trời chạng vạng tối. Thành phố và tàu bè đã lên đèn. Những cụm ánh sáng lòe loẹt sặc sỡ nhấp nháy xung quanh những bảng quảng cáo phô ra cửa biển. Thứ ánh sáng nhảy múa kia dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái thứ ánh sáng láo xược của P.3B hoặc đèn pha của tuần dương hạm.
Tàu 42 tới thả neo khuất sau một chiếc tàu buôn lớn. Neo chạm đất cũng là lúc hàng đống việc xô tới. Cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức mừng ngày Quốc khánh .. Việc nặng nhất là ngụy trang lại tàu, sau một hai ngày phải choàng lên con tàu “tấm áo” màu hoàn toàn khác.
Anh trợ lý tác chiến Trần Phong đã nắm trong tay một xếp giấy có vẽ cảnh đồ của các đảo; phó chính trị viên Nhậm đã chụp được ba cuốn phim những hình ảnh có liên quan tới tuyến đường mới. Những trang nhật ký hành trình đầy ắp các sự kiện ..Đây là những nhát dao chém vào thân cây để đánh dấu đường của các chiến sĩ trinh sát.
Thuyền trưởng Bé rất quan tâm đến việc ghi chép nhật ký hành trình. Những trang viết đó sẽ giúp anh và cấp trên nghiên cứu nắm được tình hình thực tế trên tuyến đường dễ dàng hơn. Vừa họp rút kinh nghiệm xong, Bé tới lục nhật ký ra đọc lại.
.. “ Ngày 30 tháng 8 hồi 4 giờ 40 phút, có tiếng máy bay cánh quạt bay thấp từ đông sang tây. Có thể là máy bay trinh sát.
5 giờ 30 phút, phát hiện đảo Thổ Chu ở 78 độ cách 18 hải lý. Ta giảm tốc độ để nhận dạng.
5 giờ 40 phút, một máy bay trinh sát P.3B từ phía đảo Thổ Chu tới lượn ba vòng.
6 giờ 35 phút, có một tàu buôn loại vừa ở phía sau. Ta tăng tốc độ đi về phía quần đảo Vay ..”.
Anh dừng lại khá lâu ở đoạn ghi “ .. Phát hiện một tàu cách sáu hải lý cùng chiều. Lúc đầu tưởng tàu đánh cá Nhật. Nhìn trước mũi có hàng chữ la tinh, mạn phải có hàng chữ lớn giống chữ Nhật. Boong sau có hai khối hình vại lớn sơn xanh đỏ giống như ống khói tàu buôn Nhật Bản. Sau cùng, đằng lái có thiết bị cần cẩu của tàu thả phao. 14 giờ ta gặp nó cặp tàu công trình đang nghiên cứu đáy biển (có lẽ đang thăm dò mỏ dầu). Chiếc tàu công trình rất lớn, có thiết bị boong rộng đủ chỗ cho máy bay lên thẳng đậu. Có dàn dựng ống khoan. Ống khoan cao 50 mét đến 70 mét “
Những dòng nhật ký vừa đọc lu lại trong Bé một sự giận dữ. Anh nói với các bạn :
Nó chuẩn bị khai thác dầu lửa. Có thể bọn Mỹ và bọn Nhật đã bí mật làm việc này. Xem hàng phao ngăn cấm các tàu bè qua lại, rõ ràng công việc của nó quy mô. Vùng biển của mình mà chúng ngang nhiê..
Trường Sơn chỉ huy công việc làm vệ sinh boong xong cũng vào tham gia bàn tán về cái dàn khoan. Và từ “ .. cái dàn khoan” lan tới chuyện công nghiệp dầu mỏ; khai thác tài nguyên và hàng hải trên đại dương .. Những câu chuyện ấy dẫn tới những liên hệ xa xôi và rộng lớn về tiền đồ xán lạn của đất nước.
Qua một đêm ngủ ngon lành, mờ sáng các thủy thủ đã xắn tay chuẩn bị bữa liên hoan chào mừng Quốc Khánh.
.. Mới có 10 ngày đêm trên đường biển quốc tế, mà trong cảm giác của mọi người tưởng như mình ở xa đất nước 10 năm. Khi trở về vùng biển Tổ quốc trong lòng họ cũng rộn ràng, xúc động, vui mừng không khác người đi xa về thăm quê trong lòng địch.

Tàu đã vào vùng biển Phú Quốc. Các thủy thủ đứng ở vị trí sẵn sàng chiến đấu nhìn về quầng sáng mờ nhạt của thị trấn Dương Đông. Họ thầm ước ao : giá mình có con tàu lớn hơn, chở quân đổ bộ lên đảo để giải phóng cho anh em đang bị tù đày.
Tàu đi ngang qua quần đảo An Thới (gần đảo Phú Quốc), những ý nghĩa mới mẻ, táo bạo nảy nở trong các cán bộ thuyền : Nhân đà thuận lợi, địch không bám, ta đi thẳng vào đảo Phú Quốc, tìm nơi đặt bến trung chuyển ở đó không được hay sao ? Một hòn đảo với 99 ngọn núi cao, với một vạn rưỡi dân mà hơn chục năm nay Mỹ-ngụy không bình định nổi; phong trào chiến tranh du kích vẫn lớn mạnh. Hẳn rằng nơi đây phải có căn cứ rất vững chắc, việc lập một cái bến bí mật đâu phải là chuyện không thể làm được. Thuyền trưởng Bé đánh điện về sở chỉ huy “Chúng tôi có thể vào Phú Quốc tìm nơi đặt bến. Xin ý kiến”. Ở sở chỉ huy điện trả lời “ Đi dảo Nam Du theo kế hoạch”.
Vùng biển đen tối vắng lặng. Bỗng một cơn mưa dông ào đến. Tình trạng thiếu nước tắm, mồ hôi nhớp nháp khó chịu, ai cũng thèm được tắm một bữa thỏa thích. Nghe tiếng những hạt mưa rơi trên vải bạt, những thủy thủ không phải phiên trực, vội cởi quần áo và reo mừng, chạy ra ngoài mặt boong. Nhịp mưa mau thêm, niềm khoái trá tăng lên, họ nhảy tâng tâng, cười nói :
-   Tắm kiểu này chỉ có nhất.
-   Đưa mình bánh xà phòng.
-   Xăng-gai chính hiệu đấy.
-   Em ơi ! . tắm nước mưa giữa biển sung sướng nào bằng ..
-   Chết cha .. tạnh rồi, làm sao bây giờ. Thuyền phó ơi, nới tay cho anh em xin một xô nước.
Họ chưng hửng ngửa mặt nhìn thấy khoảng trời trên đầu mình đầy sao. Mấy chàng đầy bọt xà phòng trên người, vừa cười rũ rượi vừa chạy đi lấy gàu múc nước biển tắm vậy. Họ biết rõ khối lượng nước ngọt mang theo phải tằn tiện mới đủ. Mỗi người một tuần lễ được một xô để lau người, hôm trước họ đã lĩnh rồi, bây giờ có nài xin cũng chẳng được. Chi bằng xối vài xô nước biển cho xong chuyện.
Các cán bộ chỉ huy vẫn không rời đài quan sát. Một ánh đèn vừa xuất hiện ở rất xa. Nơi đó là vùng dân chài lưới làm ăn, nhưng khó mà phân biệt đó là tàu đánh cá hay tàu chiến của địch.
Tàu 42 vẫn giữ nguyên tốc độ chạy về phía cái chấm sáng chập chờn ấy. Họ không chú ý nghe tin tức trên đài phát thanh, mà lắng nghe tiếng nhiễu rào rào để xem rada của địch có theo dõi tàu mình không. Nhậm vừa xoay cái đài đi hướng khác, ngẫu nhiên gặp đài Tiếng nói Việt Nam đang thông báo tin Bác Hồ ốm nặng .
Mọi người nhìn nhau lo lắng. Nếu Bác .. Họ sợ phải nói ra từ “chết” đối với Bác. Nghĩ rằng Bác Hồ chết là ý nghĩ dại dột. Từ xưa tới nay không ai dám nghĩ đến Bác Hồ chết. Trong niềm kính yêu của mọi người. Bác Hồ đã trở thành bất tử. Giây phút xúc động tràn ngập, tâm hồn họ đang gửi về nơi thiêng liêng xa vời, họ quên phắt tất cả nỗi nguy hiểm đang rình mò xung quanh.
Nghe tiếng máy bay qua và tiếng thuyền trưởng nhắc nhở việc sẵn sàng chiến đấu. Nhậm mới nhớ công việc mình đang làm. Anh xoay lại chiếc đài để tìm xem có làn sóng bí ẩn nào bám tàu mình không.
Thuyền trưởng Bé cùng Nguyễn Ẩn, Trần Phong, Trường Sơn bàn bạc về những tình huống vừa diễn ra. Ánh đèn ban nãy vẫn đứng nguyên tại chỗ, xung quanh nó có thêm vài chấm sáng lờ mờ khác. Có thể là thuyền đánh cá. Nếu tàu chiến nó quầng tại chỗ làm gì. Liệu tàu địch có trà trộn trong đó không ?
Chính trị viên Trần Ẩn từ phòng hải đồ lên đứng bên cạnh Bé. Anh toan thông báo cái tin vừa nhận được về sức khỏe của Bác. Nghĩ lại, anh thấy chưa cần thiết, và im lặng lắng nghe các bạn đang chuyện trò.
Đoạn đường này là một “cửa ải” phải vượt qua. Dù biết rằng phái trước mình, địch đang ẩn nấp, rình mò, nhưng quyết tâm của họ không thay đổi. Tàu 42 lên đèn đi lách qua khoảng cách của các tàu đánh cá.
Hòn Hoa Lư, hòn Tố Yến, hòn Nham, hòn Mộc .. vài phút trước đây họ biết chúng trên hải đồ, bây giờ chúng lân lượt  hiện ra trước mắt. Dưới ánh trăng suông, những hòn đảo thấp, cao nổi trên mặt biển giống như ở vịnh Hạ Long, Nam Du đó : Một quần đảo khá hẹp, thuận lợi cho ngư dân cư trú, cách mũi Cà Mau 64 hải lý, có diện tích 60 kilômét vuông, gồm 12 hòn đảo nhỏ, thành hai dãy; nhìn trên cao xuống như hai chuỗi hạt cườm, ở giữa có dòng hẹp, thuyền ghe nhỏ có thể qua lại. Khoảng 600 dân ngụ trên đảo sống bằng nghề đánh cá.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #36 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2007, 03:14:17 pm »

Dựa vào tài liệu đã biết và vừa thu được, các cán bộ thuyền có ý định thả 40 tấn hàng xuống ven đảo, rồi báo tọa độ cho anh em bến Cà Mau biết cho thuyền nhỏ ra lấy. Thuyền trưởng Bé đánh điện hỏi ý kiến sở chỉ huy. Vài phút sau nhận được điện trả lời “Tiếp tục trinh sát đảo Thổ Chu”.
Mờ sáng ngày mồng 1 tháng 2, tàu 42 đã tới bắc đảo Thổ Chu. Đây là mục tiêu trinh sát cuối cùng. Anh em tỏ ra phấn chấn vì chuyến đi sắp kết thúc tốt đẹp. Các cán bộ làm việc thư thái đường hoàng như buổi tập trên biển. Bé đứng trên đài chỉ huy, nói dõng dạc những kết quả vừa quan sát được.
Thuyền phó Duy Tam ngồi ở phòng hải đồ, lắng nghe và lần lượt ghi lên nhật ký hành trình.
“- 6 giờ 30 . phía sườn bắc đảo có vách núi đứng, cây thấp, đất đỏ có lẫn những tảng đá lớn, không có nhà cửa.
8 giờ 20 phút, tàu chuyển hướng xuống vịnh phía tây, phía này cây cối rậm rạp, nhiều tre nứa. thấy một dãy nhà mái tôn. Ở bãi khô có cột tiêu đóng thấp trên cột cờ bảng hình tam giác, bên cạnh cột cờ có một thuyền bỏ đã lâu. Đây có thể là căn cứhải thuyền cũ của địch.
- 9 giờ 30 phút, tàu đến trước vịnh phía đông thấy 30 nóc nhà sát nhau trên bãi, nhiều cây xanh có hàng lối, bốn thuyền lắp máy đang đậu trong vịnh ..

Qua 2000 hải lý, với bao nhiêu nỗi vất vả lo âu, đội tàu 42 đã đến những nơi cần đến. Họ là những chiến sĩ trinh sát dũng cảm, mưu trí vượt qua vùng địch tạm chiếm, cắm những “lộ tiêu” đầu tiên cho tuyến đường mới hình thành.
Tàu vừa chuyển hướng, có một máy bay P.3B bay lướt qua, nửa giờ sau lại có một chiếc máy bay khác tới lượn vòng trên chiếc tàu buôn rồi bay sang quan sát tàu của ta. Từ đó đến trưa chốc chốc lại có máy bay địch tới nhòm ngó. Anh em phán đoán thế nào chúng cho tàu chiến tới khiêu khích. Họ chuẩn bị tinh thần đối phó. Cùng những ngày đó, sóng gío tăng dần. Những đợt sóng tạt sườn, tàu lắc ngang làm cho người yếu chịu sóng thật khốn khổ.
Sóng biển làm cho tàu nghiêng, dầu đựng trong bể chứa bằng cao su dồn về một phía, túi cao su căng phồng một bên, dầu chưa kịp trở về vị trí cũ đã bị cơn sóng tạt sườn khác đánh tới, làm cho độ nghiêng của tàu quá lớn. Nhiều phen nó muốn lật úp xuống. Nguy cơ đắm tàu hiện ra trước mắt. Có nhiều ý kiến giải quyết khác nhau. “ Đổ bớt dầu xuống biển”. “ Nếu đổ dầu gặp tình huống phải kéo dài ngày đường thì sao ? “ ..
Những thuyền trưởng cự phách như Ẩn, Bé, Trần Phong vẫn thay nhau đứng cạnh tay lái để chỉ huy luồn lách tránh sóng. Họ quyết định phải chuyển hướng đi sớm hơn để tránh sóng lắc ngang; mặt khác cho chằng buộc lại bể dầu.
Hầu hết các thủy thủ có sức chịu đựng sóng trung bình đã bị sóng đánh gục. Tàu lắc mạnh quá không sao nấu nổi nồi cơm, hai ngày liền phải ăn lương khô.
Đại úy Ẩn nói với Trường Sơn :
-   Nhớ cơm lắm, cậu xem có cách gì nấu được không ?
-   Hết cách : Vừa rồi mấy cậu thay nhau bê nồi nước hơ lên ngọn lửa, nước gần sủi, sơ ý sóng đánh ngã, suýt nữa bị bỏng.
-   Tàu mình phải sắm loại nồi có gioăng cao su và vít chặt vào bếp mới chịu được sóng.
Trường Sơn reo lên :
-   Có cách rồi .. Nhất định nấu được !
-   Cách gì thế ?
-   Rất đơn giản. Anh có thấy mấy bà gánh nước bỏ vào thùng mảnh lá chuối không náo. Cậu Hạc tìm cho mình một mảnh vải nhỏ, giặt sạch đi. Ta đặt mảnh vải lên mặt nước của nồi cơm .. sẽ hạn chế được sóng.
Hơn nửa giờ, anh em đã xúm lại quanh nồi cơm đang bốc hơi. Thuyền phó Trường Sơn rất vui vì cái sáng kiến của mình đã đem lại kết quả.
Mỗi người vừa ăn được miệng bát cơm, đã nghe thấy chuông báo động đổ hồi. Họ buông bát chạy vội vào vị trí sẵn sàng chiến đấu.
Trường Sơn trở về buồng lái, nhìn phía trước đã thấy cột rada và ống khói của chiến hạm nhô lên khỏi mép nưỡc. Ngay lúc đó, một chiếc máy bay trinh sát bay trước mũi tàu.
Chiếc tàu chiến sơn màu xám sáng hiện rõ dần mọi chi tiết. Ăng ten rada quay liên tục. Hai tầng súng pháo trên chiến hạm im lặng không thấy quân lính đi lại. Dường như chiếc tàu này đi có việc khác không dính gì tới việc săn tìm tàu 42; nó cứ đi thẳng hướng cũ.
Một giờ sau lại có một chiếc tàu chiến khác lẵng nhẵng bám tàu 42 cách khoảng 10 hải lý.
Nguyễn Ẩn nói vui :
-   Thằng ăn trộm đang rình mò. Sẽ lòi đuôi ra cho mà xem.
Các cán bộ thuyền bàn luận :
-   Nó bám ở xa nhằm biết rõ tuyến đường của mình. Ta không nên chuyển hướng theo kế hoạch mà cứ thẳng tiến về phía Hong Kong, khi nào nó rời ta, ta quay lại.
-   Nó cứ bám tới cùng thì sao ?
-   Đến một điểm nào đó ta rẽ vào Hoàng Sa tạm lánh. Nó không thể theo mình vào đó được.
Chính trị viên phó Nhậm ở dưới buồng hàng hải đi lên, mặt anh tái nhợt, nước mắt chảy vòng quanh, tay xách chiếc đài bán dẫn đang nói về lễ tang Bác. Nhìn thấy Nhậm, anh em đã cảm thấy có chuyện gì chẳng lành. Họ hỏi dồn :
-   Có tin về Bác hả ! Sức khỏe của Bác thế nào rồi ?
-   Sao ?
-   Bác .. mất .. rồi !
-   Nghe có chắc không ?
Nhậm vặn núm âm lượng, đài phát thanh đang phát lời kêu gọi của Ban chấp hành TW Đảng.
Mọi người bàng hoàng, xúc động, nước mắt trào ra. Bác đã đi xa .. Trong cảm nghĩ của họ trở nên mung lung, mơ hồ, không tin ở điều mình vừa nghe. Bác mất rồi ư ? Không thể xảy ra điều ấy được. Không bao giờ .. Bác vẫn hằng theo dõi những chuyến đi của chúng con. Trên mặt biển mênh mông naỳ, mỗi lần nghĩ đến Bác, chúng con thêm vững lòng. Bác không bao giờ mất. Bác còn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta .. Tiếng nói của đài phát thanh nghe tiếng được, tiếng mất giống hệt diễn biến trong tâm trạng của anh em.
Chính trị viên Ẩn lấy mùi xoa lau nước mắt rồi nói với các cán bộ :
-   Tình hình này chưa để tang Bác được, tôi đề nghị tổ chức lễ truy điệu Bác tại vị trí chiến đấu.

Đêm đã khuya.
Kiểm tra thấy sóng rada vẫn quét theo tàu mình, anh em biết chắc tàu địch vẫn còn bám. Các cán bộ quyết định cho tàu tắt đèn và chuyển hướng một góc độ lớn để đánh lạc hướng địch.
Thuyền trưởng Bé thông báo “ Chuẩn bị đối phó với địch, khi chúng mất mục tiêu chúng sẽ lùng sục ráo riết và không giấu mặt nữa ..” Quả nhiên, taù 42 chuyển hướng được hơn nửa giờ đã thấy pháo sáng sáng trưng cả một góc trời.
Nhìn những tín hiệu đỏ chớp chớp trên máy bay, họ khoái chí cười nói :
-   Nào, bây giờ chúng bay không giấu mặt nữa chứ !
-   Con cáo đã lòi cái đuôi ra.
Sớm hôm sau, một chiếc tuần dương hạm chạy ngược chiều với tàu 42. Cách nhau khoảng bảy, tám hải lý, 42 rẽ sang trái 5 độ để né nó. Chiến hạm địch chạy sang bên phải chặn đường. Tàu 42 trở lại tuyến đường cũ, chiến hạm địch cũng trở lại tuyến cũ. Thằng địch ương bướng , xỏ lá, thuyền trưởng Bé cho tàu mình lao thẳng. Hai con tàu chỉ còn cách nhau mươi phút thì chúng húc vào nhau. Chiếc tuần dương hạm với lượng giãn nước một vạn tấn, hay chiếc tàu vận tải 100 tấn sẽ thắng cuộc. Nếu có người thứ ba đứng xem, sẽ lo cho số phận con tàu 42 nhỏ bé.
Taù 42 vẫn giữ nguyện tốc độ không nhân nhượng. Tàu Mỹ to xác quen lối xử sự “mềm thì nắn “ .. vội vàng ngoặt hướng khác để nhường đường cho tàu 42.
Vài giờ sau, chúng tăng cường thêm lực lượng. Một chiếc kèm mạn phải, một chiếc kèm mạn trái của tàu 42 với góc độ 140 đến 150, cự ly cách đều sáu đến bảy hải lý. Chúng bao vây tàu 42 theo kiểu đó, kéo dài gần một ngày đêm.
Các cán bộ thuyền quyết định thực hiện phương án đã dự định. Cho tàu tắt đèn hành trình ngoặt vào quần đảo Hoàng Sa. Tàu địch vẫn bám theo. Tàu 42 lách qua một luồng hẹp có nhiều đá ngầm. Chiếc tàu Mỹ to kềnh càng chưa quen luồng lạch, đành chịu bỏ mục tiêu.
Trời nổi gió và mưa lớn. Thậy là một ngày “đẹp trời”.
Tàu 42 neo cạnh một hòn đảo hoang. Hải âu từng đàn từ xa bay tới đậu trên tàu để tránh gió. Năm sáu con chui hẳn vào trong khoang. Các thuỷ thủ trẻ hò nhau bắt chim hải âu; họ đóng sập cửa lại. Những con chim biển ngây ngô bay lao vào cửa kính rồi rơi xuống. Anh em được bữa reo cười thỏa thích. Chim hải âu màu đen to như con ngỗng, có cặp mỏ bè ra đến lạ. Họ chuyền tay bóp vào cái diều no căng cuẳ nó, nó nhè ra ba con cá mực. Thấy hiện tượng lạ, anh em cười nói ồn áo :
-   Sơ sơ cũng gần một kilôgam mực. Nếu nuôi được ba con anỳ, bắt nó đi kiếm cá là đủ cho gia đình xài phong lưu.\
-   Nhưng cả gia đình đi kiếm cá cũng không nuôi đủ ba con hải âu này.
-   Há há .. làm thịt, nấu cari, mình đang thiếu thức ăn.
Hùng, Hạc xúm lại vặt lông chim. Vài thủy thủ ham câu cá, tìm ra mồi câu, khoái trá reo lên :
-   Đây rồi, chim ăn cá, bây giờ ta cho cá ăn chim.
-   Thôi các ông ơi. Lấy vừa thôi còn để làm bữa ca-ri chim.
-   Tanh ngòm, đã chắc gì ăn được, để mình kiếm con cá hồng ăn chơi.
Vừa thả câu vài phút đã có tiếng reo hò. Một anh câu được con cá bống mú nặng tới 50 kg và con cá nhồng đang dẫy đành đạch trên mặt boong.
-   Đổ thịt chim để lấy nồi nấu cá đây !
-   Vùng biển này cá cứ như thả trong chậu ấy. Vừa thả câu xuống đã có cá cắn rồi. Sau này bình yên, đến đây đánh cá, bắt chim đời sống cũng đủ ung dung.
-      …
Trời có triệu chứng sắp bão. Mưa gió tăng dần . Con tàu lắc lư như điên. Để tàu ở đây khó tránh khỏi chìm nếu bão đến. Chi bộ bàn bạc và quyết định nhổ neo, tiếp tục hành trình, lợi dụng thời tiết xấu để né tránh địch.
Sáng ngày mồng 7 tháng 9 năm 1967, tàu 42 đã vượt qua đảo Hoàng Sa về phía tây bắc. Mưa dữ dội, tầm nhìn bầu trời nối với mặt biển một màu xám đục, tầm nhìn không vượt quá một hải lý. Con tàu 42 nhào lên ngon núi nước khổng lồ , rồi lại ở dưới vực sâu thẳm. Suốt một ngày đường không gặp bóng taù thuyền qua lại.
Nhận được điện tàu 42 đã về đến vịnh Bắc Bộ an toàn, đại diện Bộ tư lệnh Hải quân, đại diện Bộ Tổng Tham mưu đã đến bến Đá Bạc chờ đợi. Tàu vừa cặp bến, mọi người không kìm được xúc động. Đồng chí Tư lệnh Hải quân, nước mắt chảy tràn, ôm lấy thuyền trưởng Bé và nói trong tiếng nấc :
- Các đồng chí thành công trở về thật đáng mừng .. Nhưng .. nhưng .. các đồng chí về .. Bác Hồ đã đi xa. Giá Bác còn sống, chắc Bác sẽ khen ngợi .. chuyến đi này.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #37 vào lúc: 02 Tháng Giêng, 2008, 11:13:07 am »

Năm 1970, quân khu 9 ở vào tình thế rất khó khăn. Vùng giải phóng vẻn vẹn còn lại một phần rừng U Minh và rừng Đước – Cà Mau. Bộ đội phải chiến đấu triền miên, nhưng các nguồn bổ sung quân số và vũ khí hầu như không có.
Từng ngày, những khó khăn chung của quân khu đều tác động tới đoàn 962, đơn vị bến mật. Nhiều cán bộ, chiến sĩ làm công tác ở bến, chuyển về bổ sung cho đơn vị chiến đấu. Số thủy thủ của tàu 100, tàu 69 (đoàn 125) mắc kẹt ở bến Vàm Lũng, được biên chế thành một phân đội thuộc đoàn 962, nghiễm nhiên trở thành lực lượng bảo vệ bến. Riêng đội tàu 69 có thêm nhiệm vụ bảo vệ con tàu của mình.
Con tàu nằm buồn thảm trên cái rạch cạn, những vết thương chằng chịt trên thân nó chưa được hàn vá, những đám gỉ mỗi ngày một loang rộng không được sơn lại. Hàng ngày anh em đến thăm con tàu đã cùng mình sinh tử trong trận chiến đấu để vào bến, nhưng chẳng có cách gì để hồi phục nó như xưa. Ngày tháng qua đi, càng vơi dần hy vọng con tàu này sẽ cùng với mình vể miền Bắc.
Những khó khăn dồn đến, những trận chiến đấu liên tiếp, anh em thủy thủ quên mình là người lính biển, hòa mình vào cuộc sống chung của bến. Đã hơn một tháng náy trên không cấp sinh hoạt phí, phải tự lo liệu lấy để sống. Giá như lúc này căn cứ của bến ở thời kỳ thịnh vượng, một người có thể chạy vạy nuôi được hai người. Độ này một bước đi cũng canh cánh việc sẵn sàng chiến đấu, thời gian để săn bắt còn rất ít ỏi. Từ sáng sớm, Thập rủ Hai, thuyền phó đi câu cá. Vừa ra khỏi lán đã nghe thấy tiếng súng nổ như pháo rang ở phía Rạch Gốc.
Hai nói với Thập :
-   Ta ra câu ở cửa vàm vừa xem hoạt động của địch thế nào – Hai nói với anh em ở nhà – Các cậu ở nhà đừng lăn ra ngủ hết, nó đến là ăn cám đó. Nghe súng gần lắm !
Hai anh em ra đến cửa Vàm, nhìn mặt biển vằng ngắt không có một bóng thuyền. Tiếng súng nổ ở phía Rạch Gốc thưa dần rồi im lặng. Họ yên tâm quăng mồi câu xuống nước. Không đầy ba phút, Thập đã giựt lên con cá ngát, nặng tới một ki-lô. Anh dựa tay nắm lấy đầu cá gỡ ra khỏi lưỡi câu, nhưng tỏ ra không hào hứng lắm.
-   Ăn mãi loại cá “rau  muống” này phát ngán lên được ! – Thập nhét con cá vào bao bố rồi đẩy về phía sau, nói tiếp – Anh xem hàng ngày chúng ta có thể cử một người đi đánh bẫy lợn rừng xa hơn được không.
Hai vẫn im lặng nhìn cái phao bị gió đưa lắc lư. Thập nói tiếp :
-   Giá như độ này còn con Giôn cũng có thể cải thiện bữa ăn khá hơn.
-   Mình nhớ mãi lần bắt con kỳ đà trên cây mắm. nó nhào xuống, nếu như không gặp con Giôn thì mất tong. Con kỳ đà ấy bự nhất trong số chúng ta bắt được.
Câu chuyện đã gợi họ hồi tưởng vài kỷ niệm vui nho nhỏ về săn thú, từ khi bị mắc kẹt ở bến. Hồi đó, mấy ngày đầu chẳng có việc gì để làm, mấy cậu máu mê đi săn cứ bám riết lấy anh Ba Cụt ( Ba Trung) để học nghề săn bắt. Những câu chuyện đã pha chút huyền thoại vể những chuyến đi săn thú của anh Ba Cụt càng làm tăng thêm sự hấp dẫn mấy thủy thủ trẻ. “Ông chúa sơn lâm” ấy đã đi vào rừng là không bao giờ chịu về tay không; chí ít cũng phải xách về một con cầy hoặc con kỳ đà. Có lần anh Ba đánh bẫy được ba con lợn, con lớn nhất nặng hơn một tạ, nó bị đâm một nhát, nhưng đã giựt chân ra khỏi bẫy, rồi nhào tới húc vào anh Ba. Anh chỉ kịp né một bước, con lợn hung dữ đã vượt qua trước mắt. Như người khác, thì chắc là sẽ bỏ chạy, nhưng anh Ba lập tức nhảy một bước dài theo con lợn và phóng mũi lao cắm ngập vào sườn nó, rồi ấn mũi lao cho tới khi nó chết mới thôi. Nhiều chuyện đại loại như vậy nói về người thương binh đã cụt một bên tay. Cậu Thập đã được anh Ba Trung truyền nghề cho và thực hành có kết quả. Đôi khi trong đội đã được ăn bữa thịt kỳ đà, hoặc bữa chè trứng kỳ đà lạ miệng. Thập luôn ước ao có một con chó săn. Ai đã sống ở rừng đều thấy được giá trị của con chó săn, nếu có nó sẽ làm cho người đi săn đớ tốn sức và hiệu quả tăng lên. Nhưng các thủy thủ không có một đồng xu dính túi, thì cái biết và ước muốn cũng đành xếp lại.
Một lần đi công tác, ở nhờ nhà dân, nhà chủ có ba con chó con gày guộc, ghẻ lở, Thập chăm sóc mấy con chó đó như của chính mình, đun nước lá đắng tắm cho chúng, câu cá cho chúng ăn. Chỉ hơn một tuần lễ, đám chó con đã hết ghẻ. Bà chủ nhà thấy vậy mừng quá, nói với Thập :
-   Nếu không có chú chữa chạy thì nó cũng đến chết mất. Chú thích nuôi tôi biếu chú một con.
Thập khiêm tốn nhận con chó còi nhất đàn. Anh bế nó về đơn vị.
Anh đặt tên con chó là Giôn. Được chăm sóc đặc biệt, không mấy bữa thiếu cá hoặc cua trộn với cơm, bụng cu cậu lúc nào cũng no căng và Giôn lớn nhanh như thổi. Sớm sớm, Giôn chạy theo Thập vào rừng để tập luyện, tìm hang cầy cáo hoặc theo dõi dấu chân của lợn cỏ. Giôn tỏ ra con nhà dòng dõi đi săn, có cái mũi rất tình, thoáng thấy hơi con mồi là sủa nhặng xị lên. Một vài lần nó đã đuổi theo kỳ đà nhưng nó cũng chưa lập được kỳ công nào.
Buổi chiều hôm ấy, sau bữa cơm anh em đang ngồi bù khù với nhau, nghe tiếng con Giôn sủa rất dữ. Anh em phán đoán «
-   Cái thằng này lại gặp hang chồn gì đó thôi.
-   Có thể là kỳ đà, nếu thấy hơi không thôi thì không sủa như vậy.
Nhiều anh em còn chưa tin Giôn giữ nổi đối thủ lớn hơn mình. Riêng Thập hiểu kỹ về nó, nghe tiếng sủa vội vã thúc giục như thế, chắc chắn sẽ gặp con mồi to. Anh ra khỏi lán, cầm theo mũi lao chạy nhanh về phía con Giôn đang sủa.
Con lợn rừng bị Giôn đẩy lui vào đám rễ đước, đang ngoạc cái mồm sần sẹo « hộc .. hộc .. » đớp vào không khí. Ăn chắc rồi « Suỵt .. suỵt, suỵt » Thập ra hiệu cho con Giôn tiến công mạnh hơn. Con chó tinh khôn quá thể, vừa thấy chủ để nó đã xô vào gần con lợn. Lợn đang mải nhìn chó, Thập tới được khoảng cách thuận tiện, phóng mũi lao xuyên qua mạng sườn con lợn. Nó kêu « ẹc, ẹc » như bị cắt tiết. Mấy cậu khoái chí reo lên :
-   Hoan hô Thập .. hoan hô cả Giôn nữa.
-   Đừng xỏ xiên nhau nữa .. thôi xắn tay lên khênh về đí.
-   Phải có chất cay vào mùi dậy mũi .. cậu nào xung phong đi kiếm.
Thật thú vị, khi cuộc đi săn không tốn sức mà đạt kết quả. Giôn càng được đơn vị cưng, nhất là Thập. Một lần Giôn bị rắn hổ đước cắn, sưng phù người lên, tưởng chết. Tới bữa, Thập đổ cháo, đổ sữa cho nó ăn. Nửa đêm thẩy nó rên ư ử, anh vùng dậy vuốt ve, an ủi nó. Cũng may cơn hoạn nạn của Giôn qua khỏi. Thập càng quý con Giôn bội phần. Thỉnh thoảng anh lại bắt nó há mồm, thè cái lưỡi đốm đen ra khoe với mọi người «  Đó thấy không, loài chó đốm lưỡi này hổ đước cắn không chết đâu nhé ».
Sau những vũ khí, Giôn trở thành tài sản rất quý của đội tàu 69. Ở vùng rừng đước này nếu ai có đàn chó săn khoảng bốn, năm con là có thể nuôi cả gia đình sống đường hoàng. Khi người ta lùa đàn chó ấy ra rừng, trong một ngày chí ít cũng đưa về cho chủ ba đến năm ki lô thịt thú rừng. Con Giôn đã góp công vào việc cải thiện bữa ăn của đội tàu 69. Những bữa thịt gà xé phay, những bữa thịt chồn đậm đà, những bữa thịt lợn rừng .. nặng đũa ngon lành. Nhiều lần săn về, ăn không hết, anh em đã nhờ dân đem bán lấy tiền mua các thứ cần dùng khác.
.. Hai anh em chuyện trò về thời hoàng kim của việc săn bắt, nhưng thỉnh thoảng lại nhìn ra biển. Tiếng súng ở phía Rạch Gốc chừng như xê dịch vào bên trong, mỗi lúc một tăng lên. Nghĩ tới tình huống địch có thể nghi binh, Hai sốt ruột, cầm cần câu trở về.
Vài chục phút sau, từ cửa Rạch Gốc có bảy chiếc tàu BCF lao ra biển hướng về cửa Lũng.
Ở nhà nghe thấy tiếng động cơ tàu, anh em đã chuẩn bị sẵn sàng. Thấy Thập hớt hải chạy về, không cần hỏi, mọi người đã biết có tàu địch vào cửa vàm.
- Bảy chiếc .. có thể vào chỗ chúng ta.
Nghe Thập nói dứt câu, mọi người đã vác súng chạy ra trận địa. Anh em nhanh nhẹn vào các vị trí đã quy định.
Thuyền phó Hai nhìn dọc sông ra phía biển. Dòng sông nước đục ngầu uốn khúc vào sau rừng đước. Anh nghĩ tới trận đánh sắp diễn ra. Lực lượng của mình vẻn vẹn chỉ có sáu người, khẩu B.40 có hai quả đạn, khẩu đại liên và hai tiểu liên. Nếu địch đổ quân lên, giỏi lắm kéo dài trận đánh được một ngày, rồi sau đó ra sao ..
Ý nghĩ đó của Hải bị cắt đứt bởi những tiếng gầm rú của tàu địch tới gần. Hai nắm chặt bình ắc quy, sẵn sàng cho nổ quả mìn định hướng vào tàu địch. Các mũi súng của Thập, Kiểu, Khảm, Đính đều hướng về cửa vàm.
Trận địa im lặng căng thẳng. Một chiếc tàu nhỏ màu xám vừa hiện ra ở chỗ ngoặt.
-   Chuẩn bị !
Hai vừa dứt lời, một chiếc tàu đã vụt qua trước mặt. Quý bắn hụt. Quý lắp vội viên đạn thứ hai vào súng. Chiếc tàu thứ hai của địch vừa tầm bắn, lập tức viên đạn B.40 của Quý lao tới, đồng thời một đám lửa hình sao chổi ở quả mìn định hướng của Hai chụp lên tàu địch. Chiếc tàu bốc cháy, bọn lính trên tàu hoảng hốt nhào xuống sông. Ngay lúc đó, đại liên, tiểu liên của Đính, Thập bắn quét làm chúng gục ngã, chết chìm không đứa nào thoát. Những chiếc tàu khác vội vã quay ra biển.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #38 vào lúc: 02 Tháng Giêng, 2008, 01:41:31 pm »

Bẵng đi một thời gian dài không có trận đánh nào xảy ra ở khu vực cửa Lũng. Lúc nhàn rỗi trong rừng, những thủy thủ càng cảm thấy mình bị tù túng. Tiếng sóng ầm ì của biển và khi nước triều lên lại gợi họ nhớ tới những chuyến đi. Họ thường gặp nhau để ôn lại những ngày sống phóng khoáng trên biển.
Sớm nay, anh em ngồi xúm xung quanh ấm trà. Nghe tiếng « xành xạch » của máy « đuôi tôm » đi qua, thuyền trưởng Xả nói :
-   Tao thấy sáng sớm náy xuồng máy của anh Ba Cụt đi ra cửa vàm, hình như có tàu vào.
Anh em nín thở nghe cái tin của Xả đưa , rồi ồn ào bàn tán :
-   Cần quá rồi ! Chỉ cần một chuyến tàu vào lúc này cũng có ý nghĩa rất lớn. Đấy các anh xem, súng đạn của đoàn này còn có gì nữa. Đánh tàu mà cứ phải mót từng viên đạn b.40 thối, đi kiếm từng quả bom lép như du kích thời đánh Tây ấy. Chọi với thằng Mỹ mà vũ khí của quân chủ lực như thế thì cò cưa đến bao giờ. Tôi tin chắc Trung ương đã nắm được tình hình này. Nghe tin các cậu ấy chiến đấu ở trên lộ Vòng Cung ( Cần Thơ ) còn cực gấp mười lần ở đây.
-   Thế cậu tưởng ngoài kia không tích cực à ? Chẳng qua khó khăn quá, thì phải chịu chứ. Chúng mình chỉ còn thiếu chết mới vào tới đây rồi đành mắc kẹt.
-   Vấn để là thời cơ. Chẳng lẽ để chúng vây mãi.
-   Thời cơ ! Chuyện đó chẳng đơn giản chút nào. Tôi thấy chỉ còn một cách cho đi nhiều chuyến theo đường biển quốc tế. Bến phải có điện đài liên lạc với tàu, khi bến êm là gọi tàu vào.
-   Thôi ông ơi ! Điều đó không phải chờ ông mách nước. Tôi hỏi mắt của bến nhìn xa được bao nhiêu hải lý nào.
-   Tranh luận làm quái gì. Có nóng ruột cũng vô ích. Lúc nào có thời cơ, suy mình ra, cũng không bỏ lỡ.
Nhiều lần họ đã trao đổi với nhau nội dung như vậy. Lần nào bàn bạc cũng sôi nổi, có khi nóng mặt to tiếng rồi lại xẹp đi và chuyển nội dung sang hướng khác.
Thấy mọi người im lặng, vừa lúc đó có tiếng bìm bip kêu, Bé pha trò :
-   « Kịp .. kịp .. kịp » .. đố  biết tại sao con bìm bịp lại kêu như vậy ?
-   Cậu thử kể nghe chơi.
-   Ngày xưa có một người cho ông bạn láng giếng bên kia sông mượn một cái chảo, lúc nước đang lên thì ông ta đòi. Người mượn bảo không kịp. Ông ta la lên «  kịp kịp kịp ». Ông bạn hàng xóm đội chảo ra tới giữa sông, nước lên to lôi đi và chết đuối. Hồn ông ta hóa ra con bìm bịp. Và từ đó, cứ lúc triều lên thì bìm bịp lại kêu lên ai oán « kịp kịp kịp ».
Cô giao liên đến, nói xen vào giữa tiếng cười vui vẻ :
-   Các anh có chuyện gì vui thế ?
-   Chuyện riêng không kể cho đàn bà con gái nghe được ?
-   Em cũng chẳng cần nghe .. Lệnh của thủ trưởng đoàn : Anh Xả và anh Hai bàn giao công việc lại cho anh Bé, đi về đoàn ngay nhận công tác.
-   Việc gì mà gấp thế.
-   Em chịu .. không biết.
Hai và Xả bàn giao công việc, đeo bòng lên lưng rồi tạm chia tay với đơn vị.
Chính ủy đoàn khi trao việc chỉ nói với họ vài câu “ Các đồng chí quen sông nước.. Đoàn tổ chức một bộ phận đi đo lại độ sâu của các bến, anh em đã tập trung đầy đủ. Tối nay có xuồng đưa các đồng chí tới đó để hướng dẫn anh em.
Hai thầm nghĩ : một việc bình thường của bến, sao lại phải làm gấp vội như vậy. Chắc có gì bí mật, chính ủy chưa tiện nói .
Đêm hôm đó, xuồng đưa họ vượt qua sông Thủ vào Lán Nước, nhìn thấy ánh đèn xanh chớp, người lái xuồng tắt máy, rồi cặp mạn chiếc xuồng vừa phát tín hiệu.
-   Các anh chuyển sang xuồng này.
-   Anh Xả, anh Hai phải không ? Khỏe chứ ?
-   A cánh ta cả.
Hai và Xả bước sang chiếc xuồng bến, cùng ngồi lên những hòm đạn. Ở dưới chân họ là những bó súng AK vẫn còn lớp mỡ bảo vệ.
Hai rỉ tai với Xả :
-   Caí gì đây, ông thử đoán xem.
-   Súng đạn, thuốc men vừa mới đưa vào.
Xả nắm tay Hai, biểu thị sự thông cảm niềm vui vừa được phát hiện. Nhìn hai bên bờ rạch thấy từng đám cây đước vừa bị chặt, họ càng tin điều mình vừa phán đoán là đúng.
Đến địa điểm tập trung «  Những người đi đo mức nước ». Hai chiều đèn pin vào tring lán, thấy màn mắc chật ních. Anh lật màn nhìn từng người. Tuy đã nghĩ đến, nhưng được nhìn thấy anh em cùng đơn vị vừa từ miền Bắc vào vẫn làm cho Hai sung sướng bất ngờ. Thuyền trưởng Đỗ Văn Bé, thuyền trưởng La Văn Tốt, chính trị viên Viễn ..
Tốt đang nói chuyện với Viễn, thấy ánh đèn chiếu vào màn, anh ngồi dậy hỏi :
-   Ai đó ?
-   Hai, Xả đây. Anh em chúng tôi chờ đợi ..
Họ xúc động vui mừng ôm chặt lấy nhau không nói lên lời. Rất lâu câu chuyện mới trở laị mạch lạc. Theo yêu cầu của Hai và Xả, Tốt và Viễn kể lại chuyến đi và tình hình đơn vị ngoài Bắc ..
-   Trước chuyến đi vào đây đã có chuyến đi trinh sát – Tốt thì thầm kể - chuyến đi trinh sát ấy do cậu Bé phụ trách đã tìm một con đường tránh sự theo dõi của địch. Chuyến đi này ngang tới Côn Đảo, máy bay địch bay thấp qua trước mũi tàu của mình. Ngay từ khi nghe có tiếng máy bay, tàu mình đã tắt đèn hành trình. Nó bay qua rồi không thấy trở lại, không biết nó đã phát hiện được mình chưa. Khi vào gần bờ khoảng mười hải lý, gặp ba ánh đèn tàu ngược chiều, chúng mình cho tàu chạy bọc hậu những tàu kia rồi vào  bờ an toàn.
-   Các anh vào chuyến này đẹp quá. Đúng lúc các đơn vị chiến đấu đã cạn nguồn vụ khí.
-   Chuyến đi này , cả lãnh đạo cũng như anh em mình quyết tâm rất cao. Sẵn sàng chấp nhận một trận đánh ác liệt, kể cả phá tàu. Ngoài đó cũng biết tin trong này đang thiếu vũ khí. Chuyến đi này có hai nhiệm vụ, một là đưa kỳ được tàu vào bến dù có trả giá để anh em mình có vũ khí, hai là đón các cậu về ngoài ấy.
-   ...
Đã lâu ngaỳ sống trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bạn bè xa cách nhau, bây giờ mới được gặp lại, họ kể cho nhau nghe hết chuyện này đến chuyện khác, tưởng như không bao giờ dứt.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #39 vào lúc: 02 Tháng Giêng, 2008, 04:50:44 pm »

Chương mười

CHI VIỆN ĐẶC BIỆT

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt xuân Mậu Thân (1968), ta sơ hở ở vùng nông thôn đồng bằng, địch lợi dụng sơ hở ấy phản công quyết liệt bằng « bình định » càn quét lấn chiếm, đẩy chủ lực ta lui xa các thị trấn, thành phố. Cho đến năm 1970, thực hiện « Việt Nam hóa chiến tranh », Mỹ-ngụy đã chiếm lại gần hết vùng nông thôn đồng bằng, kể cả những vùng ta giải phóng từ lâu. Về phía ta, đây là một thời kỳ khó khăn nhấy của cuộc chiến tranh. Có chiến trường đã buộc phải quay trở lại hình thức tác chiến du kích, bởi chủ lực đã mất địa bàn đứng chân và thiếu thốn lương thực, vũ khí, nhất là chiến trường miền Trung và miền Tây Nam Bộ.
Với bản chất cực kỳ phản động, kẻ thù Mỹ-ngụy còn muốn tiến xa hơn những mục tiêu đã giành được. Chúng ép bọn tay sai làm cuộc đảo chính ở Campuchia (18-3-1970), phá vỡ tuyến đường vận tải bí mật của ta qua cảng Công Pông Xôm vào miền Nam. Chúng tăng cường đánh phá ngăn chặn đường Trường Sơn và đường biển chiến lược với hy vọng « bóp ngẹt tới mức tối đa » làm cho cuộc chiến tranh giải phòng của chúng ta ở miền Nam « tàn lụi dần ».
Điều không ngờ đối với đế quốc Mỹ, là muốn « bóp ngẹt » đối phương, phải mở rộng chiến tranh ra khắp bán đảo Đông Dương, nhưng chúng đã bị thực tế phản lại. Chẳng những chúng không xóa nổi vùng « đất thánh » của Việt cộng, không bóp nghẹt được « cổ họng » hậu cần chiến lược mà bị rải mỏng lực lượng ra, để chịu đòn ở khắp mọi nơi. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân dân Campuchia và Lào được sự giúp đỡ có hiệu quả của quân tình nguyện Việt Nam, đã giải phóng một vùng rộng lớn, nhiều tỉnh nối liền, biến Đông Dương thành một chiến trường hoàn chỉnh hỗ trợ lẫn nhau. Con đường bộ chiến lược từ miền Bắc qua Lào – Campuchia của chúng ta, nghiễm nhiên công khai được mở rộng và việc tiếp tế hậu cần tại chỗ cho lực lượng vũ trang Khu 5 và B.2 cũng có nhiều thuận lợi hơn. Kết cục, « cuộc chiến tranh bóp nghẹt » của đế quốc Mỹ thời gian này chỉ có ý nghĩa đối với một số vùng mà con đường bộ chiến lược của ta chưa vươn tới được ; đó là các tỉnh miền Trung và miền Tây Nam Bộ.
Nhiều bức điện từ Quân khu 8 ,Quân khu 9 đến Bộ Tổng Tham mưu và Bộ tư lệnh Hải quân đã toát lên tinh thần « Chúng tôi sắp phải lấy cùi tay để đánh giặc », « Chúng tôi sắp phải lấy cây để đánh giặc .. », « Đoàn 125 giải tán rồi chăng ? »
Những người trực tiếp chỉ đạo công tác vận tải chiến lược đường biển biết rất rõ mình phải làm gì trong thời gian này. Nếu đưa được vũ khí vào cho Quân khu 8 và quân khu 9, không chỉ có ý nghĩa giải quyết khó khăn cho địa phương ấy giành lại quyền chủ động ở chiến trường, mà còn tác động phối hợp tới các chiến trường khác. Lúc này, Thiếu tướng Phó Tổng Tham Mưu trưởng Nguyễn Đôn được phân công trực tiếp chỉ đạo vận tải chiến lược. Cục nghiên cứu nhận lệnh bám sát và báo cáo hàng ngày về tình hình địch hoạt động ở ven biển Khu 8 và Khu 9. Bộ phận B cục tác chiến thay nhau thường trực suốt ngày đêm để nắm tình hình địch và chỉ huy những chuyến đi. Nhiều cuộc họp giữa Bộ Tổng Tham Mưu , Bộ tư lệnh Hải quân và đoàn 125 về các phương án cải dạng tàu, thả hàng bến ngang và nhất là việc đưa vũ khí đến Quân khu 8 được tổ chức khẩn trương.
Nghe tin Bộ Giao thông vận tải mới nhận được 10 chiếc tàu cỡ 200 tấn, bộ phận B cục tác chiến vội đến thương lượng. Tất cả cho công tác chi viện miền Nam ruột thịt, Bộ Giao thông vận tải đã bàn giao cho Bộ tư lệnh Hải quân số tàu nói trên.
Có tàu mới, bộ phận B cục tác chiến lập tức xây dựng phương án đưa hàng cho Quân khu 8. Phương án đã đặt ra những khả năng : nếu vào gặp bến thuận lợi, nhưng không ra được thì dùng tàu đó làm kho chứa. Nếu không gặp bến, sẽ thả hàng bến ngang, cử một tổ người nhái tìm liên lạc với bến. Tàu thả hàng xong quay ra. Tổ người nhái sẽ cùng anh em bến vớt hàng lên...
Được cấp trên chuẩn y phương án, bộ phận B cục tác chiến thay nhau đôn đốc, kiểm tra việc triển khai phương án. Người đi kiểm tra việc đóng gói hàng hóa ; người đi kiểm tra việc tổ chức tập luyện của đội tàu. Hầu như họ không còn ngày nghỉ, giờ nghỉ. Khi công tác chuẩn bị cho chuyến đi của đội tàu 121 đã đầy đủ, đồng chí Phan Hàm từ đoàn 125 trở về, vào thẳng cơ quan. Đồng chí Hữu Tâm ở bộ phận B đang ngồi đọc lại những bức điện của các bến gửi về trong ngày. Thấy nah Hàm tới, anh đặt cuốn sổ điện xuống mặt bàn và nói :
-   Mấy hôm nay không có tàu địch hoạt động ở khu vực bến Cồn Lợi (Bến Tre) và bến Vàm Lũng (Cà Mau). Có thể địch cho rằng ta không đủ gan để đưa tàu đến bến này, cũng có thể chúng tăng cường kiểm soát vòng ngoài mà lơ là vòng trong ..
-   Tôi cũng nghĩ thế - Đồng chí Hàm cười nói – Vì rất lâu rồi ta không có một chuyến nào vào được bến Cồn Lợi. Tôi hy vọng nhiều vào chuyến này. Dù sao cũng phải hết sức thận trọng. Tôi sẽ gửi điện cho bến Cồn Lợi kiểm tra lại.
Đồng chí mở tủ lấy cuốn sổ điện, rồi ngồi viết :
«  Ngày 28-9-1970
Gửi J.310
Đã nhận được các điện của anh và đã nắm được tình hình ở chỗ anh. Tôi đang chuẩn bị gấp để có thể đến thăm anh sớm. Vị trí X và Y tôi đã nắm được.
Anh cho biết ngay kế hoạch tiếp nhận của X gồm các việc triển khai lực lượng đón, quy định ám hiệu nhận nhau, xử trí các tình huống có thể xảy ra ..
Phan Hàm «
Viết xong bức điện, anh dặn anh Hữu Tâm :
-   Nếu có điện của Cồn Lợi, bất kể lúc nào anh cũng gọi tôi nhé !
Khoảng 22 giờ đêm hôm đó, thiếu tá Hữiu Tâm đã nhận được bức điện của bến Cồn Lợi. Anh nhẩm đọc :
«  Tình hình ở X.2 vẫn thuận lợi. Cần chú ý , ban đêm thỉnh thoảng có một tàu lồng cu đậu ở Tân Thủy, lạch Bà Đông, có lúc hải thuyền đậu ở eo cột đáy sông Cầu đuôi cồn Chiêm, cồn Nhàn , cồn Hổ qua cửa sông Ba Lai.
Điểm Y ở X.2 như đã báo cáo, nên tạm dùng tín hiệu đã quy định.
Đã triển khai đón theo thời gian anh quy định.
Tư Chương ».
Đọc xong bức điện, Hữu Tâm mừng thầm : đội tàu 121 có thể xuất phát được rồi ! Anh cầm sổ ghi điện đi tới chỗ máy điện thoại, báo tin cho phó cục trưởng Phan Hàm.

Đã mấy năm nay không có chuyến tàu nào đến bến Cồn Lợi. Mỗi lần nhận được điện của Bộ Tổng Tham Mưu «  .. đón tàu vào », anh em lại cắt cử nhau canh gác ngày đêm, kéo dài hàng nửa tháng liền. Trông chờ mỏi mắt không thấy tàu của mình vào, họ mới rút khỏi vọng gác đi làm việc khác..
Suốt từ năm 1969 đến năm 1970, địch càn quét liên miên, chúng lấn dần vào căn cứ. Tiểu đoàn 518 phụ trách bến, nghiễm nhiên trở thành đơn vị chiến đấu. Họ tổ chức nhiều trận chống càn thắng lợi. Trong hoàn cảnh rất khó khăn về vũ khí và lương thực, họ vẫn bám trụ bảo vệ được căn cứ của bến. Hồi tháng 3 năm 1970, địch đổ bộ bằng trực thăng xuống một đại đội, ta chỉ có một trung đội xuất kích. Trong trận đánh giáp lá cà, quân ta rất kiên cường, diệt 70 tên địch tại chỗ. Và, những trận đánh tiếp sau đó, tiểu đoàn đã tiêu diệt 370 tên địch, phá vỡ trận càn của địch.
Sau những trận đánh, tất cả cán bộ chiến sĩ trong đơn vị lại tỏa ra các ngòi lạch kiếm cua, kiếm cá để đổi gạo, tự nuôi sống mình.
.. Khi nhận được tin có tàu vào lần này, số anh em trực tiếp làm công tác bến chỉ còn lại 25 người, tổ chức thành ba trạm gác. Những cặp mắt trông đợi suốt ngày đêm laị nhìn ra biển. Vùng biển trước cửa bến vẫn yên tĩnh, không có tàu bè của địch hoạt động, anh em nuôi hy vọng tàu mình sẽ vào bến an toàn.
Thời gian đón theo kế hoạch đã hết, vẫn chưa thấy tàu đến. Anh em bến lo lắng : không hiểu tàu của ta gặp trắc trở gì ở ngoài khơi mà không đúng hẹn.
Đảng ủy bến quyết định kéo dài thời gian gác thêm hai ngày đêm nữa. Đêm gác cuối cùng, anh em nhìn thấy một chiếc tàu lạ, ngỡ là tàu địch, họ vội rút vọng gác vào trong rừng. Tiểu đoàn trưởng Tư Sơn đi kiểm tra, thấy tổ gác bỏ vị trí, anh hỏi :
-   Sao lại bỏ gác vào trong này ?
-   Báo cáo : có một chiếc tàu to lắm, chắc là tàu của địch, nó đang đi vào .
-   Có khi là tàu của ta thì sao ..
Chưa dứt câu, anh Tư Sơn đã chạy vội ra bãi biển. Nhìn thấy một chiếc tàu lớn, không giống như những chiếc tàu của đoàn 125 đã vào bến trước đây, trong lòng nửa tin nửa ngờ, nhưng anh vẫn đuổi theo nó. Chạy vấp vào gốc mắm ngã, lại vùng dậy tiếp tục chạy. Anh quên cả dùng tín hiệu, vừa chạy vừa gọi to – Có phải Phan Vinh , Tư Nguyên .. đó không ? Tư Nguyên đó phải không ? .. Phan Vinh ơi !
Lúc đó, anh Tư Sơn chỉ nhớ tên mấy thuyền trưởng đã vào bến này nhiều chuyến, anh đâu biết Phan Vinh đã hy sinh và thuyền trưởng Tư Nguyên đã mất sức chiến đấu rồi.
Nghe thấy có tiếng ở trên tàu đáp lại «  Có phải Tư Sơn không ? ». Anh mừng quá, để nguyên cả áo quần nhảy ùa xuống nước, bơi về phía tàu.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM