Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 06:57:17 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường mòn trên biển  (Đọc 40570 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #20 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2007, 11:42:47 am »

Mọi chuyến đi trước đây trên đoạn đường qua vịnh Bắc bộ, Ẩn được rảnh rang nghỉ ngơi, chuyến này khác hẳn. Ngay từ lúc tàu đi được vài chục hải lý, anh đã cầm máy đo thiên văn, chuẩn bị đoán những vì sao dẫn đường. Liệu những “bạn bè” quen thuộc ấy có hé mắt nhìn nhau đêm nay không ? Anh tựa lưng vào hàng lan can, hai tay giữ ống kính đặt trên ngực, mắt đăm đăm nhìn về hướng bắc. Mỗi lần vết rạn nứt của tầng mây đen hé ra một vệt sáng mờ mờ cũng làm anh hồi hộp hy vọng. Nhới lại những đêm trời trong, chỉ cần hướng mắt về phương Bắc là có thể nhìn thấy ngay chùm sao có hình con gấu có cái đuôi dài. Nhưng bây giừ những vệt sáng vừa hiện ra, lại bị những tảng mây khác đè lên. Mãi tới gần sáng, chùm Đại Hùng Tinh mới lóe ra giây lát. Anh vội vàng đưa ống kính lên, nhưng chỉ chộp được sao Anpha. Thế cũng được ! Anh tự an ủi. Ngay lúc đó, nỗi lo khác lại hiện ra. Ngày mai không bắt được ánh mặt trời thì tính sao đây.
Ẩn vào buồng lái. Mùi tanh nồng xộc lên mũi, thứ mùi vị anh thường gặp khi sóng lớn. Nhìn thuyền phó Võ Dáng đang ghi nhật ký tàu, thỉnh thoảng lại cúi đầu xuống cái chậu, cậu Loan vừa lái tàu vừa lấy tay áo quệt nhớt rãi ứa ra miệng, Ẩn biết anh em yếu sóng lúc này đang phải chịu cực hình. Anh cố tìm chỗ khô ráo trong buồng  lái để ngả lưng một chút.
Tiếng sóng va vào mạn tàu, quyện trong tiếng ồn áo của biển cả. Âm thanh quen thuộc ấy khơi gợi sự suy nghĩ của thuyền trưởng tới đoạn đường có nhiều thử thách, anh không chợp mắt nổi.
Sớm  nay, tàu 69 đã đi ngang đảo Hoàng Sa. Từ đây trở đi là khu vực địch hoạt động mạnh. Anh em đã được phổ biến tình hình ấy từ ở nhà. Nhiều người không phải phiên trực cũng đứng lên trên đài quan sát, hoặc thỉnh thoảng lại chạy tới ngó vào buồng hàng hải một lát, chừng như chỉ để nhìn thuyền trưởng một chút cho lòng dạ đỡ bồn chồn. Chưa bao giờ họ đi trên con đường lạ lùng như thế này. Bốn năm ngày lênh đênh chỉ thấy trời với nước, không có bóng dáng một hòn đảo nhỏ, một con thuyền. Liệu đi bằng phương pháp thiên văn có vào được bến không ? Họ gửi gắm vào việc đo mặt trời, đo sao , loại việc chỉ có thuyền trưởng, thuyền phó biết.
Qua ánh mắt, cử chỉ của anh em, thuyền trưởng Ẩn biết h ọ đang chờ đợi mình. Anh rất mừng, việc đo thiên thể mấy ngày qua đã tiến hành được thuận lợi.
Ẩn vừa ngồi vào bàn, định ghi nhật ký hành trình, đã nghe tiếng của báo vụ trưởng Đoàn Văn Biết từ trên đái quan sát báo cáo :
-   Có tàu, chưa rõ loại, đi ngược chiều, mạn trái 30 độ.
-   Màu gì ?
-   Trắng.
Ẩn hạ lệnh đè lái phải 15 độ.
Chiếc tàu loại lớn sơn trắng toát, như từ dưới nước vừa mọc lên khỏi đường chân trời, mỗi lúc một lớn dần.
Ẩn hạ ống nhòm xuống rồi thở dài nhẹ nhõm :
-   Tàu buôn,
Từ lúc gặp chiếc tàu buôn, khoảng 9 giờ tới 14 giờ, tình huống diễn ra liên tục, lúc gặp tàu buôn đi ngược chiều, lúc khu trục hạm địch đi cắt phía sau. Báo động và báo động làm cho cả đơn vị mệt nhoaì.
Khi vắng bóng tàu thuyền trong khu vực tàu 69 đang đi, Ẩn xuống buồng hàng hải ghi nhật ký. Tàu lắc mạnh làm cho dòng viết của anh nguệch ngoạc :
“- 8 giờ ngày 6-11, sóng cấp 6. Gió tạt mạn phải 15 độ. Tốc độ tàu 10 hải lý/giờ.
-9 giờ, một tàu buôn đi mạn trái 30 độ, ngược chiều tàu ta. Sau 20 phút lại có một tàu buôn khác, ngược chiều trùng hướng. Ta đè lái phải 15 độ để tránh. 9 giờ 30 phút , tàu ta trở lại hướng cũ.
- 10 giờ một máy bay vận tải từ hướng Philippin tới, độ cao 3.000 mét, qua mạn phải.
- … “.
Viết xong, Ẩn cất bút vào ngăn kéo rồi đi về phía mặt khoang. Những thủy thủ trẻ ngồi xúm quanh Nguyễn Văn Bé – anh chàng thợ máy có dáng người như quả chuối mắn với biệt danh “Bé lùn”, “cây” vui nhộn của đội tàu.
Câu chuyện gì đó Bé vừa kể làm cho anh em cười như nắc nẻ. Ẩn đến đúng lúc Bé lùn mở đầu câu chuyện khác :
-   Năm ngoái, ở đoàn ta có một thuyền trưởng bị ngồi tù vì buôn lậu ..
Ngoảnh sang bên cạnh thấy thuyền trưởng, tự nhiên Bé cười rũ rượi :
-   Chính ông này – Bé chỉ vào Ẩn – để ổng nói bọn bay nghe,
-   Mày cũng lại bôi bác ..
Ẩn phá lên cười vì một giai thoại do thuyền trưởng Phước lém lỉnh dựng lên.
Hồi ấy, các đội thuyền 125 còn ở Hải Phòng, mỗi khi rảnh việc, một số cán bộ thuyền trưởng ra nhà chính trị viên Đức chơi. Một lần đúng vào thời kỳ Ẩn bận rộn vào những chuyến đi liên tục, mấy tháng không ra nhà Đức, chị Tr (vợ Đức) hỏi “ Lâu lắm không thấy anh Ẩn tới ?”. Thuyền trưởng Phước tỉnh khô trả lời “ Tội nghiệp nó. Nó ngồi tù cả tháng rồi mà chị không hay ư ?”. “Trời ! Sao anh ấy lại ngồi tù ?”. “Buôn thuốc phiện lậu chứ sao ?”. “Rõ tội nghiệp chưa. Ai có thể ngờ được người hiền khô như thế mà dám làm vậy ?”. Chị Tr đinh ninh là Ẩn bị tù thật. Khoảng tháng sau, Ẩn cùng vài anh em đến nhà Đức, vừa tới cửa, chị Tr đã trách Ẩn :” Anh có túng thiếu thì nhờ bạn bè giúp, việc chi mà phải đi buôn lậu ..”. Chị Tr chưa kịp nói hết câu, anh em đã cười ầm lên.
.. Những câu chuyện vui đã tiêu bớt nỗi lo lắng đang diễn ra trên đường dài.
Chập tối hôm đó, tàu đến điểm chuyển hướng. Đoạn đường từ lúc tàu chuyển hướng không khác giai đoạn vượt cửa mở của trận đánh đồn. Ngay từ lúc chuyển hướng, tất cả thuỷ thủ đã vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Các thủy thủ đều chăm chú theo dõi những hiện tượng trước mắt.
Miên – thủy thủ kỳ cựu, nằm bên cạnh chiến sĩ trẻ Cao Sĩ Thập, từ nãy đến giờ vẫn tâm sự với nhau.
Miên nói :
-   Chuyến đi ấy bị mắc cạn ở cửa Vàm Lán Cháo. Đây là vùng quê mình. Tuy đã xa gia đình 10 năm rồi, nhớ lắm, nhưng mình biết khó có điều kiện để gặp dù chỉ là một người thân
Miên ngừng lại, khi thoáng thấy một đốm sáng sao, rồi lại chậm rãi kể tiếp :
-   Cậu biết rồi đó. Công việc của mình phải hết sức bí mật, dù gặp người thân thiết nhất cũng phải né tránh, sợ gặp rồi làm lộ bí mật thì hỏng việc lớn. Mình và bác Đấu được cử lên bờ liên lạc với cán bộ địa phương vận động nhân dân cho mượn lưới để ngụy trang tàu. Vừa ở lối rẽ ra mình thấy ba mình đi ngược chiều. Trong bụng dạ mình cứ rối lên, vui mừng xen lẫn với lo lắng. Ba còn sống, mạnh khỏe thì mừng quá sá, nhưng gặp bây giờ ông cụ mà nhận ra thì lộ con tàu của mình vừa ở miền Bắc vào. Mình tự nhiên nảy ra cái hy vọng kỳ quặc : đi xa lâu rồi chắc ông không nhận ra mình. Ngay lúc đó, ba mình kêu “Thằng Miên dô bao giờ con ?” rồi ổng giang rộng cánh tay như định ôm lấy mình. Mình chẳng còn hiều lúc đó mình suy nghĩ ra sao, mình đã không kêu “Ba” một cách vui mừng, mà mình đã nói một câu lạnh lùng “Có lẽ bác lầm”. Mình đã nói với ba mình như vậy, có tội không. Khi mình lặng lẽ đi qua mặt ông già, ông già mặt tái ngắt, tay bỏ thõng run run, rồi ba mình nói từng tiếng rời rạc “ mày .. mày đúng là thằng Miên, mày vô nhân .. bạc nghĩa .. đi chừng ấy năm đã quên công cha mày. Mày .. là .. đồ .. bỏ”. Lúc đó tai mình cứ ù lên không còn nghe rõ ông già nói gì nữa và nước mắt mình cứ tuôn ra.
Gần một năm sau, nhân vào bến gần nhà, mình được cấp trên cho phép về thăm nhà. Trông thấy mình bước vào ngõ, ba mình té ra ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, ổng nhìn mình bằng con mắt giận dữ. Ổng nói “Mày không phải là con tao, còn về cái đất này làm chi nữa ..”. Cực quá, không biết nói sao cho ông già thông cảm, nhiệm vụ của mình phải giữ bí mật như thế ..
Tiếng chuông báo động cắt ngang câu chuyện của Miên. Mọi người im lặng. Tiếng máy tàu nghe vang dội lạ thường. Thuyền trưởng đi một vòng kiểm tra các vị trí và nhắc nhở mọi người chú ý quan sát.
Miên nhìn thấy phía sau mạn phải tàu của mình có chiếc tàu lớn chắc là tàu buôn có nhiều đèn điện sáng lấp lánh. Lát sau thấy phía mạn trái có ba đốm sáng cách đều đang di động. Anh định báo cáo đã thấy tiếng thuyền trưởng nói to :
-   Chú ý có tàu địch.
Tàu 69 chạy tốc độ lớn nhất, cố chạy song song bên mạn tàu buôn, để tránh quan sát tàu địch.
Những chấm sáng trên tàu địch lùi dần vào bóng đêm.
Tàu 69 đã rời khỏi tuyến đường của chiếc tàu buôn rồi tắt hết đèn chuyển hướng vào Cà Mau.
Thuyền trưởng Ẩn vừa bàn bạc với chính trị viện Huyền cách xử trí tình huống có thể gặp trong đoạn đường tới, tự nhiên trong óc anh duyệt lại từng thủy thủ trẻ mới bổ sung cho đội, xem có điều gì phải giúp đỡ họ khi chiến đấu xảy ra.
Trước khi đi chuyến này, Ẩn biết có đội tàu không muốn nhận “lính nghĩa vụ”, họ không tin anh em trẻ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Đến đây đã có ít nhiều thực tế để kiểm tra điều đó. Chiến sĩ hàng hải Hoàng Thanh Loan chuyến đầu say sóng nằm liệt, chuyến này cậu ấy lại tình nguyện xin đi, và bằng hành động, Loan đã chiếm được sự tin cậy của đội, mặc dầu bị say sóng nhưng vẫn làm tốt những phiên trực của mình. Thủy thủ Cao Sĩ Thập trẻ tuổi nhất đội, chịu sóng gió, việc gì cũng lăn vào và làm tốt không kém gì các thủy thủ lão luyện .. Kiểm lại toàn đội, Ẩn vững lòng tin, nếu gặp tình huống phức tạp, anh em có thể khắc phục được,
Mặt biển vẫn vắng lạnh. Những lớp sóng gợn lên vệt sáng vòng vèo mờ ảo quanh thân tàu. Hy vọng tàu sẽ vào bến an toàn đang bừng lên trong anh em, Họ đang căng mắt hướng về phía bờ, bỗng một đốm sáng xuất hiện trên bầu trời.
Hồi chuông báo đông vừa dứt, máy bay địch đã tới. Nó dùng đèn pha chiếu thẳng vào tàu 69. Ánh sáng hồ quang của đèn pha làm cho một mảng sáng xuất hiện lên xanh lét. Ánh sáng tiếp tục quay vòng xung quanh tàu 69. Ẩn suy nghĩ căng thẳng. Nó sẽ làm gì tiếp nữa. Nó sẽ gọi tàu chiến đấu, hay chúng nó đã phục sẵn ở đâu đó ! Phải làm gì ?
Ẩnh gọi đồng chí bào vụ tới, đọc điện báo cáo gấp về sở chỉ huy “Báo cáo, chúng tôi đang bị máy bay địch bám “.
Máy bay địch mở rộng vòng lượn rồi biến mất. Lát sau nó tới thả một dãy pháo sáng thẳng hướng Hòn Khoai. Màu sơn trắng của con tày 69 lộ ra trên mặt biển đen thẫm, không còn chi tiết nào giấu giếm được.
Tàu 69 vẫn chạy theo hướng dãy pháo sáng như có ý để cho máy bay địch nhìn thấy mình. Đúng lúc máy bay địch vòng ra xa, nó lập tức chạy ngoặt vào phía bờ.
Khoảng 10 phút sau, máy bay địch tiếp tục thả một vệt pháo sáng nữa theo hướng cũ. Rõ ràng chúng mắc mưu thuyền trưởng Ẩn.
Máy tàu rung mạnh như con ngựa chạy hết sức mình, nó chồm lên từng đợt sóng. Mặc dầu chưa nhìn rõ rừng đước nhưng hương vị thoang thoảng của nó đã đến với cảm giác của các thủy thủ. Họ khấp khởi mừng thầm : sắp qua được đoạn đường nguy hiểm.
Máy bay địch mất hút mục tiêu, nó vội vã tuôn pháo sáng rộng ra xung quanh có ý tìm kiếm. Một lần nữa, màu trắng lốp của tàu 69 lại lồ lộ ra trên cái “phông” đen thẫm của mặt biển.
Bé nhận lệnh của thuyền trưởng : tháo cầu chì, mở hết công suất. Tàu chạy rất nhanh theo ven bờ về phía Rạch Gốc. Trong đầu thuyền trưởng hiện ra những hình ảnh ngắn ngủi như những ánh chớp “Tàu địch phục kích xuất hiện”, “máy bay địch thả bom”,” Tàu ta không gặp anh em bến “ ..
-   Cửa Vàm !
-   Cửa Vàm đây rồi !
Tiếng của Biết và tiếng của ai đó nữa hét to. Thuyền trưởng Ẩn gạt tay chuông hạ lệnh ngừng lại.
Tàu chạy chầm chậm rẽ vào cửa Vàm. Những ánh chớp màu gạch phát ra từ chiếc tam bản, cách mũi tàu không xa. Thuyền trưởng nhận được đó là tín hiệu của bến. Anh gọi to :
-   Các đồng chí ơi ! Thôi .. thôi đừng bật lửa nữa. Chng tôi thấy rồi.
Nghe thấy đã liên lạc được với bến giống như được uống một liều thuốc an thần hiệu nghiệm, hệ thống thần kinh của mọi người đang căng thẳng bỗng trở lại dễ chịu. Tiếng cười, tiếng nói lại vọng lên khắp các vị trí trên tàu.
Tàu 69 rẽ vào cái rạch nhỏ kín đáo. Nghe tiếng nổ “bụp bụp” tiếp đó là một chùm ánh sáng đu đưa ở trên không, thuyền trưởng Ẩn nói vui :
-  Giôn xơn tử tế quá, soi đèn cho chúng mình vào tận bến.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #21 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2007, 04:07:57 pm »

Chương bảy

NHỮNG TÌNH HUỐNG CĂNG THẲNG

Giống như đường mòn Trường Sơn, ban đầu có trục đường đi qua làng Ho, qua sông Sê-băng-hiêng, qua Bản Đông đi tới A Sầu .. nhưng rồi bị địch đánh phá ác liệt, nhiều đoạn đường trục không còn là một tuyến đường mà đẻ ra nhiều đường vòng tránh; “Đường mòn trên biển” thời kỳ này cũng gặp nhiều trọng điểm phải vòng tránh, do đó tuyến đường phụ đội khi phải kéo dài tớ gần HongKong hoặc sát tới Ấn Độ Dương.
Người ngoài cuộc khó có thể hình dung nổi, mỗi chuyến đi của con tàu vận tải nhỏ bé sẽ gặp những rắc rối gì trên con đường ngàn dặm đó.
Hạm đội 7 của Mỹ được xác định nhiệm vụ chiến lược : đối phó với Hạm đội Viễn Đông của Hải quân Liên Xô và Hải quân Trung Quốc. Phạm vi hoạt động của nó trải rộng khoảng 300 triệu hải lý vuông, kể từ eo biển Bê-ring (đồng Liên Xô) tới Nam Cực; phía đông tới đảo Gu-am; tây tới vùng Ấn Độ Dương. Nhưng thời gian này (sau năm 1965), chúng tập trung lực lượng chủ yếu vào vùng Đông Nam Á và dồn vào vùng biển Việt Nam tới 40% lực lượng với nhiệm vụ chiến lược số một là “ngăn chặn sự xâm nhập” từ miền Bắc vào miền Nam, thực chất là ngăn chặn tuyến vận tải của đoàn 125.
Lực lượng so sánh trên biển giữa ta và địch quá chênh lệch, gần nửa hạm đội 7 cộng với lực lượng hải quân ngụy chăng ra, chưa kể không quân, để đối phó với một hai chiếc tàu vận tải có lượng giãn nước một trăm tấn. Nếu như đội tàu vận tải của ta khéo léo, dũng cảm luồn lách vượt qua được cái hàng rào dày đặc đó, vào tới bến an toàn; hoặc chạm trán buộc phải chiến đấu mà giành được thắng lợi, thì quả là không có tính từ nào xứng đáng để ca ngợi chiến công của nó.
Thật vậy, với lực lượng địch đông và mạnh như thế, không thể không có sự lo ngại ám ảnh trong tư tưởng cán bộ và thủy thủ đoàn 125. Tuy vậy từ sau vụ Vũng Rô đến năm 1966 đã có 8 chuyến đi, chỉ có một chuyến phải quay về vì địch chặn đường, còn lại đã vào bến an toàn. Nhưng tính chất các liệt khó khăn ngày càng tăng, nên mỗi chuyến đi, từ lúc rời bến tới lúc trở về, không chỉ những người đi chịu đựng căng thẳng, mà cả người ở nhà cũng chia sẻ.
..  Dạo này đoàn trưởng Đoàn Hồng Phước ốm yếu luôn. Ngoài bệnh đau dạ dày, anh còn mắc nhiều thứ bệnh khác, do chín năm kháng chiến gian khổ để lại. Mỗi lần kiểm tra sức khỏe, bác sĩ lại ghi vào sổ khám bệnh “ .. Cần được an dưỡng hồi sức” .. Cấp trên khuyên “đi an dưỡng”, bạn đồng cấp khuyên “nên nghỉ ngơi cho lại sức”, anh chỉ cười xòa “ Cán bộ kháng chiến ai chẳng có vài ba bệnh mãn tính, nghỉ cũng chẳng khỏi, làm việc nó quên đi ..”.
Trung tá Vũ Huy Phúc biết rất rõ đặc tính người bạn cũ của mình. Từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến nay, Hồng Phước vẫn như thế. Lòng hăng hái với nhiệm vụ cách mạng của anh lúc nào cũng sôi nổi, trẻ trung, không biết mệt mỏi, chỉ khi nào bệnh tật làm anh không nhấc nổi cái đầu, mới chịu nằm một chỗ.
Mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh phá hoại do giặc Mỹ gây ra ngày càng tăng. Các loại phương tiện của hải quân là một mục tiêu chúng tìm kiếm đánh phá. Để tránh thiệt hại, đoàn 125 phải phân tán tàu thuyền trên một vùng biển khá rộng. Giữa lúc gặp khó khăn tring nhiệm vụ vận tải, lại ở phân tán, khó tránh khỏi những diễn biến tư tưởng phức tạp, nếu thiếu sự lãnh đạo chặt chẽ. Thời gian này, các thủ trưởng của đoàn hầu như không có ngày nghỉ và chẳng mấy đêm được ngủ trọn 8 tiếng đồng hồ. Họ phải thay phiên nhau đi kiểm tra , giáo dục bộ đội.
Hôm ấy đoàn trưởng Hồng Phước đi kiểm tra công tác chuẩn bị của tàu 100, sẩm tối mới về. Anh không về phòng riêng mà đi thẳng tới sở chỉ huy.
Chính ủy Phúc và phó đoàn trưởng Huỳnh Công Đạo đang đứng trước bức hải đồ khổ lớn treo trên tường, trao đổi với nhau về tình hình đang diễn ra trong chuyến đi của tàu 69.
Thấy đoàn trưởng Phước đến, đồng chí Phúc nói :
-   Anh về nghỉ đi, tôi với anh Đạo trực, có gì đặc biệt tôi sẽ gọi.
-   Đêm nay khó có thể ngủ được. Về cũng thế thôi ! Anh em đã báo cáo gì chưa ?
-   Có ! Hồi 8 giờ, máy bay địch vòng sát tàu ta hai vòng ở gần hòn Ngự.
Mắt đoàn trưởng đăm chiêu nhìn theo đầu cái que đang xê dịch trên hải đồ. Anh trầm ngâm :
-   Tình hình ấy nhất định sẽ có tàu địch tới bám.
-   Tôi đã nhắc anh em cảnh giác quan sát tàu khu trục.
Đoàn phó mắt vẫn không rời khỏi hải đồ, tưởng như anh nhìn thấy tàu 69 đang di động trên cái khoảng màu xanh lơ ấy.
Đoàn trưởng ngồi xuống chiếc ghế tựa, lấy thuốc hút, mắt anh đuổi theo làn khói mỏng manh bay lượn.
Tiếng chuông điện thoại trong phòng chỉ huy chốc chốc lại vang lên. Điện từ Bộ tư lệnh, từ Cục tác chiến hoặc từ phòng quân báo tới. Thông thường mỗi lần con tàu của đoàn 125 đi vào vùng trọng điểm, những người chỉ huy có liên quan tới việc vận tải biển ít ai được ngủ tròn giấc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng lo lắng và nhắc Cục phó Cục tác chiến Phan Hàm “Có tình huống cần, bấy kỳ lúc nào cũng có thể đến báo cho tôi biết”.
Đêm nau tàu 69 đang đi ngang quần đảo Hoàng Sa, cái rốn của các trận bão và cũng là nơi hạm đội 7 Mỹ thường rình mò. Từ đoạn đường này trở đi, ở sở chỉ huy đoàn 125 ai cũng có tâm trạng bồn chồn mong đợi, muốn biết thật nhiều tin tức diễn ra đối với con tàu của mình.
Nhưng hàng giờ và có khi hàng ngày họ mới nhận được một bức điện cộc lốc “Máy bay địch đang lượn trên đầu tôi”, “Một khu trục hạm đang bám tôi “ .. Không thể hỏi nhiều và càng không thể đàm thoại qua không gian một cách tùy tiện, vì như vậy có thể lộ bí mật và rối bận anh em. Đôi lúc thật khó xử. Giả sử khi xảy ra chiến đấu, anh em cần có sự chỉ huy (ở nhà) mà sở chỉ huy chỉ ném vào được lời khuyên chung chung “bình tĩnh xử trí” hoặc “cho quay trở về” .. rất có thể bức điện đó chưa kịp giải mã, thuyền trưởng đã phải hạ lệnh phá hủy con tàu rồi.
Trong sở chỉ huy, từ chập tối đến giờ đã gần nửa đêm mới nhận được một lần báo cáo của đội tàu 69. Bỗng có tiếng chuông điện thoại reo. Trợ lý tác chiến nghe điện xong, báo cáo :
-   Hồi 21 giờ 35 phút, tàu khu trục địch đuổi theo tàu 69 ở tây nam Hoàng Sa.
Mọi người đều hướng về phía hải đồ như nhìn theo chiếc tàu địch đang đuổi tàu ta trên đó.
Một giờ sau lại nhận được bức điện của tàu 69 “Tàu chiến địch đang đuổi theo tôi. Máy bay địch đang vòng lượn xung quanh tôi”.
Đột nhiên có tiếng bom và tiếng súng cao xạ nổ rền phía Hạ Lý làm cho mọi người giật mình, và thoáng có sự lẫn lộn trong cảm nghĩ : tưởng như trận đánh đang diễn ra trên biển.
Sau đó nửa giờ, sở chỉ huy nhận được bức điện “ Tôi bị máy bay, tàu chiến địch bao vây. Vĩ độ 15 độ 20, kinh độ 113 độ 50”. Nghe xong bức điện, mọi người nhìn nhau lo lắng.
Tàu 69 đang bị địch bao vây ở ngoài khơi xa xôi ấy, có cách gì để cứu anh em. Hạ lệnh cho họ nổ súng, đã đúng lúc chưa ? Hạ lệnh cho anh em phải bình tĩnh khéo léo thoát vây. Thừa. Mọi người im lặng, bồn chồn và bất lực. Hồi lâu đoàn trưởng mới lên tiếng :
-   Trên vùng biển quốc tế, nó không dám đánh, dù sao nó cũng còn phải dè dặt trong việc đụng chạm tới công pháp về hàng hải quốc tể. Đường biển quốc tể có nhiều tàu bè qua lại, nếu đánh lầm sẽ chấn động dư luận.
Mỗi người thêm ý kiến vào điều đoàn trưởng vừa mới nêu ra. Tuy chưa chỉ ra được cách giải quyết cụ thể, nhưng không khí trong sở chỉ huy đỡ căng hơn. Lát sau, đoàn trưởng nói với trợ lý tác chiến :
-   Báo cho nó quay lại hướng Manila.

Bây giờ chúng ta hãy đi theo đội tàu 69.
Đội tàu 69 có 16 người, gồm 9  đảng viên, còn lại tất cả là đoàn viên. Hầu hết anh em đã dày dạn với sóng gió. Thợ máy Nguyễn Văn Bé, đảng viên, quê ở xã Biển Bạch, huyện An Biên, tỉnh Bạc Liêu, đã đi 12 chuyến. Nguyễn Hữu Phước, đảng viên, quê ở Vĩnh Hóa, huyện Hồng Dân, Bạc Liêu, đã đi 7 chuyến. Tăng Văn Huyền, chính trị biên, bí thư chi bộ, quê xã Tân Thánh Bình, huyện Mỏ Cày, Bến Tre, đã đi 6 chuyến. Thủy thủ Nguyễn Ngọc Kiểu, đảng viên, quê xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, đi 6 chuến. Nguyễn Tiến Hai, thuyền phó, quê xã Tịnh Hòa, huyện Sơn Tình, Quảng Ngãi, đi 5 chuyến. Phan Hải Hồ, báo vụ, đảng viên dự bị, quê ở xã Nam Vân, huyện Nam Trực , Nam Hà đã đi 3 chuyến .. Qua chất lượng của đội tàu 69, chúng ta có thể tin cậy anh em sẽ vượt qua được mọi thử thách khắc nghiệt.
.. Sau mấy ngày đường, tàu 69 đã đi ngang vùng quần đảo Hoàng Sa. Một chiếc máy bay bay rất thất, nhìn rõ cả chữ “NAVY” sơn trắng dưới bụng. Nó vòng lượn nghiêng ngó mạn phải, mạn trái tàu 69 mấy vòng rồi bay đi. Máy bay vừa khuất sau những đám mây, thuyền phó Hai và Hải Hồ lại tiếp tục tâm tình, Hai hơn Hải Hồ sáu tuổi, nhưng đều là trai chưa vợ. Họ rất thân nhau, mỗi lúc rảnh rỗi là không dứt ra được. Hải Hồ mơ ước sau này hết chiến tranh sẽ tiếp tục theo chương trình đại học và làm nghề viết văn. Hai hy vọng sẽ viết được những chuyện hay mà đời lình hải quân mình đã trải qua.
Hải Hồ hỏi Hai :
-   Anh có yêu thơ không ?
-   Rất yêu, và say mê là đằng khác. Đôi khi tâm hồn trống trải, thơ là một thứ bù đắp lành mạnh.
-   Và yêu biển nữa chứ ?
-   Tất nhiên. Vì biển đã cho mình cái mênh mông lãng mạn của tâm hồn, biển cũng nói những điều sâu kín như thơ ấy. Không phải là mơ mộng mà biển đã cho chúng ta nhiều thứ và sẽ còn cho chúng ta. Theo tin tức khoa học thế giới, ở thềm lục địa vùng biển của ta là vùng trũng của dầu mỏ. Có dầu mỏ, chúng ta sẽ có nhiều thứ : Ê-ti-len, A-mô-ni-ăc, Ptô-li-ê-ti-len , VPC , các hợp chất dầu thơm .. đều từ dầu mỏ mà ra. Thu nhập cá biển hàng năm cũng rất lớn. Nước ta có hàng nghìn cây số bờ biển, việc phát triển nghề đánh cá rất thuận lợi. Nếu nước Nhật, 50% nhu cầu đạm động vật đã được cung cấp cho đời sống là nhờ các sản phẩm của biển thì sau này đất nước ta thống nhất, chúng ta cũng có thể làm như vậy.
Thiên nhiên của đại dương cho ta cảm xúc về vẻ đẹp của đất nước, tài nguyên của nó đưa đến cho ta sự giàu có và niềm yêu biển sâu sắc. Có phải thế không ?
-   Có lý. Kể từ ngày xa xưa, ông cha ta đã daỵ cho con cháu yêu rừng, yêu biển. Câu chuyện cổ tích rừng vàng, biển bạc, chẳng đã nói điều đó ư !
Hải Hồ vừa ngắm những làn sóng đều đều đang xô đuôi nhau vừa kể câu chuyện cổ tích :
-   Ngày xưa, sau một trận lụt lớn, người chết hết, chỉ còn lại một người con trai và một người con gái giạt lên núi. Trời cho phép hai người lấy nhau và đẻ ra một đàn con. Vùng núi dần dần trở nên chật chội. Trời thưởng cho hai kho vàng. Một kho ở rừng , một kho ở biển. Bố mẹ cho người anh cả (là người Kinh bây giờ) xuống núi. Người Kinh dần dần biết đánh cá, lấy nước biển khơi làm muối .. Tài nguyên của biển, các cụ ta xưa khai thác còn ít ỏi. Thế hệ của chúng ta, biết kho vàng của biển lớn gấp ngàn lần. Tôi cũng nghĩ như anh, biển đáng yêu và chúng ta đã yêu biển không chỉ vì cáu màu sắc huyền ảo của nó. Thú thật với anh lắm khi đi biển gặp lúc nó nổi khùng lên cũng ớn nhưng xa nó ít ngày lại nhớ.
Hải Hồ ngâm nga :
Nếu anh không được về với biển
Thì khác nào máu chẳng chảy về tim
Nếu anh phải sống xa cách biển
Khác náo phải sống xa em.

-   Nghe được chứ anh Hai !
-   Được đấy. Nhưng mình muốn có những bài thơ nói về những con tàu của chúng ta, mà người đọc ở bất kỳ nơi nào đó cũng hình dung ra được sóng đang gầm thét muốn nuốt phăng con tàu, hoặc lúc con tàu đang lặng lẽ đi trên biển đầy thơ mộng như bây giờ đây, tâm hồn thủy thủ chúng ta thảnh thơi có thể nô đùa với cá heo ngay sau khi máy bay Mỹ nhòm ngó. Nghĩa là đừng thi vị hóa biển là cái gì mênh mông mơ hồ mà phải gợi được tình cảm người đọc yêu mến người bảo vệ biển, người khai thác biển và yêu cái gì biển đã làm lợi ích cho con người.
Hải Hồ chỉ tay về phía mặt trời đang lặn :
-   Anh lý trí nhiều quá. Anh bảo hình ảnh kia không nên thơ à. Thiên nhiên trên biển thật tuyệt vời. Giá có một thứ hóa chất gì cực mạnh, rải một dúm xuống làm cho tuyến đường ta vừa qua đông cứng lại, giữ được cả hình ảnh mặt trời kia nữa trên biển, để sau này mọi người có thể xem con “đường mòn trên biển” đẹp như thế nào.
-   Cậu lãng mạn quá đấy !
Hai người cùng cười và ngắm cảnh hoàng hôn trên biển.
Mặt trời như một quả cầu màu lửa đang rơi từ từ xuống sát mép nước. Ánh sáng dịu dần. Những ai chưa đi khơi xa khó có thể tưởng tượng ra được thứ ánh sáng huyền diệu ấy. Màu sắc của trời, của biển lúc này thay đổi từng giây. Đám mây xung quanh mặt trời lung linh như dát vàng, đang bị màu mây ánh bạc bên ngoài choán dần. Nhìn gần, biển giống tấm sa tanh khổng lồ từ maù tím xẫm chuyển sang màu đen mịn màng, càng xa, màu sắc càng kỳ lạ. Từ mặt trời đến mắt người nối liền một vệt sóng lấp loáng như khảm bằng sà cừ. Vệt sáng đó cứ thu nhỉ dần và bỗng nhiên đứt quãng.
Hải Hồ reo lên :
-   Thấy không anh Hai ! Kỳ lạ chưa, giây phút tận cùng của muôn màu sắc.
Từ ban nãy, thuyền trưởng Phước vẫn lắng nghe câu chuyện của đôi bạn trẻ; khi vọng gác cuối tàu báo cáo “có vệt khói phía sau 30 độ góc mạn phải !” , lúc này anh mới tham gia câu nói vui :
-   Có cả điểm khói ở nơi tận cúng phía sau ta nữa.
Hai và Hồ nhìn về phía sau tàu. Từ vệt khói đó đã nhô lên sát gờ cong của chân trời một ánh đèn đỏ.
Hải Hồ cười nói với thuyền trưởng :
- Anh xem, thằng Mỹ là thằng kém văn hóa nhất thế giới, nó phá phách mọi cái đẹp trên đời này. Đến một chút xíu hạnh phúc thiên nhiên ban cho chúng mình nó cũng nhảy xổ vào phá rối.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #22 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2007, 11:13:29 am »

Trời đêm. Biển như thu hẹp lại, nhưng trong cảm giác của thủy thủ tàu 69, chiều rộng của biển trở thành vô hạn. Có giây phút nào đó, tưởng như trên thế gian chỉ còn lại chiếc tàu cỏn con này với cái chấm sáng đỏ ngầu quỷ quái kia.
Thuyền trưởng cho chuyển góc lái 30 độ. Vài chục phút sau lại thấy “con quỷ mắt đỏ” ấy vẫn đi theo với góc mạn như cũ. Rõ ràng tàu chiến Mỹ rồi. Không chờ lệnh, anh em thủy thủ đã vào vị trí chiến đâu. Bỗng nhiên từ cái chấm sáng đỏ, bùng lên hàng trăm ngọn đèn, giống như căn nhà ba tầng lầu nổi trên biển vừa bật điện. Ái chà “sói đội lốt cừu”. Thằng Mỹ xảo quyệt này giả đò thắp đèn như tàu buôn. Làm sao mày giấu được tốc độ đang chạy và những khẩu pháo, những cột rada lởm chởm như răng cá sấu kia.
Khoảng cách của chiếc tuần dương hạm CLG Mỹ với tàu 69 rút ngắn dần. Năm hải lý, ba hải lý rồi đi song song cách nhau hơn một hải lý. Thân hình đồ sộ của tuần dương hạm địch gấp hơn trăm lần tàu 69. Nó tạo ra một luồng sóng làm cho tàu 69 lắc lư mạnh.
Tày Mỹ vượt lên và đi vào tuyến đường tàu 69 đang đi. Nó vờ vịt đi thẳng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thuyền trưởng cho tàu mình trở lại hướng cũ, đi chừng hơn nửa giờ không còn thấy ánh sáng trên tàu địch.
Anh em trở lại sinh hoạt bình thường. Hải Hồ vào buồng lái, thấy thuyền phó Hai đang ghi nhật ký hành trình. Anh đứng im lặng nhìn bạn làm việc. Ánh đèn công tác hắt lên khuôn mặt hơi dài xương xương của Hai, trông anh già hơn tuổ, không còn vẻ trẻ trai như hồi chiều. Viết xong vài dòng nhật ký, Hai quăng bút chì xuống bàn rồi xoay người về phía Hải Hồ. Hai cười nói :
-   Thế nào, nhà văn có ghi lại được gì trận chiến đấu không nổ súng sáng vừa qua không ? Có thấy căng không ?
-   Khi cái gì mình đã đoán biết trước chắc chắn nó sẽ xảy ra như thế, thì khi xảy ra cũng chẳng có gì nặng nề lắm. Chúng ta đã nói với nhau nhiều lần : nếu cần, sẵn sàng lấy biển khơi làm nấm mồ, nhưng không bao giờ bỏ nhiệm vụ chi viện cho miền Nam. Trên biển, thằng Mỹ khiêu khích căng nhất đến mức dùng súng chọi nhau là cùng. Mà thực ra khi nổ súng cũng không dễ gì đưa nhau xuống mồ.
-   Chúng ta đang đi trên đường hàng hải quốc tế, nó có gây gổ ..
Trên đài chỉ huy báo “có máy bay”, Hai dừng câu nói nửa chừng. Hải Hồ bước ra cửa, bám vào hàng lan can, nhìn lên trời. Ánh sáng đỏ từ trên máy bay giội xuống làm cho cả con tàu, mặt biển thành một maù thẫm dữ dội.
Thuyền trưởng Phước nói với chính trị viên Huyền :
-   Thằng tuần dương bị mất mục tiêu, thằng máy bay đến phát tín hiệu chỉ điểm, thế nào thằng tuần dương cũng quay lại bám mình.
Phước xuống mặt khoang kiểm tra công tác trực canh ở các vị trí. Vừa bước đến mặt khoang đã nghe phía mạn có tiếng báo cáo “Có đèn tàu”. Qua ánh đèn, Phước đoán tốc độ của tàu kia khoảng 15 hải lý/giờ. Chỉ thằng tuần dương mới có tốc độ ấy. Anh hạ lệnh báo động.
Chuông đổ hồi đứt quãng dồn dập trong khoang máy và buồng ngủ. Mấy thủy thủ đang dở giấc, cáu tiết vừa chửi Giôn-xơn vừa vào vị trí sẵn sàng chiến đấu.
Lần này tàu chiến Mỹ không giấu mặt, các nòng pháo để trần hướng cả về tàu 69. Đúng bộ mặt của tên cướp biển. Nó hùng hổ chạy vòng quanh tàu 69. Một chiếc tàu khác đón đầu tàu 69 ở góc mạn 25 độ. Máy bay lại bay tới vòng lượn trên đầu. Chúng muốn nuốt và thừa sức nuốt chửng chiếc tàu vận tải cỏn con này, nhưng tại sao chúng chỉ nhe nanh múa vuốt. Nó kèm ta tới gần bờ mới hành động chăng. Các cán bộ thuyền đang trao đổi cách xử trí thì nhận được điện của sở chỉ huy “Quay lại hướng Manila”.
Chờ chiếc tàu địch vòng ra xa, thuyền trưởng Phước cho tàu mình ngoặt về phía sau.
Mấy chiếc tàu địch đi tiếp hướng cũ, chúng không ngờ tàu ta đã chuyển hướng.
Ánh đèn trên những chiếc tàu tuần dương chìm dần vào bóng đêm.

Đã qua 7 ngày đêm trên biển. Hầu như ngày đêm nào cũng có vài lần tàu chiến, máy bay địch do thám.
Sớm nay vừa bảnh mắt ra đã thấy một ngọn khói trắng từ mép nước bay lên, tàu 69 vẫn tiếp tục đi về phía HongKong. Anh em ta ai làm việc nấy, người lái tàu, người nấu cơm, số đông còn lại làm vệ sinh trên mặt boong và phơi lưới, giống như một chiếc tàu đánh cá đang trên đường về.
Thủy thủ trưởng Dĩ lôi ở đám giẻ lau một cái áo va-rơi màu vàng, khoác lên người và chụp lên đầu cái mũ phớt “phở” chùm gáy, râu ria xồm xoàm với bộ quần aó loang lổ dầu mỡ .. Cứ nhìn nhau “đóng kịch” trên mặt boong lúc này cũng tức cười.
Vừa làm việc, Bé “lùn” vừa kể đủ mọi thứ chuyện “cổ tích” của đơn vị . Nào chuyện ông Nguyên già, thuyền trưởng bậc thầy về hàng hải của đoàn, một chuyến đi vào cái bến X hiểm hóc quá, tàu mắc cạn, đã phải phá tàu. Sau chuyến đi căng thẳng đó, ông đã bị đứt mạch máu não, được chữa chạy thoát chết, nhưng liệt một chân, phải bỏ nghề .
Khi Bé nói đến ông già Sang, thợ máy chuyên “ăn cắp” phụ tùng. Mấy cậu thủy thủ trẻ đứng thộn ra nghe, Bé lùn quát :
-   Nói chuyện vui để bọn bay làm, chứ đứng như phỗng thế ư ?
Mọi người cười ồ lên và Bé lại tiếp tục kể :
-   Ở đơn vị này mấy anh già kho sợ nhất ông Ba Sang. Ông ấy vào kho lĩnh phụ tùng máy thì thế nào cũng kèo nèo thứ này thứ kia; thủ kho không phát ông cũng nhặt cho vào túi. Một lần thuyền trưởng Ba Râu nói đùa ông già trước mặt thủ kho “Anh Quang chú ý, khi anh Ba đã mặc áo mưa đi vào kho là phải coi chừng”. Ông Ba Sang xạc cho thuyền trưởng Ba Râu một chặp “Tao ăn cắp đấy, nhưng tao có mang về cho vợ con tao đâu. Tàu về cảng còn có kỹ thuật đến sửa, ra giữa  biển ở đâu”. Ông già có máy me nghề nghiệp lạ lung. Đi dọc đường phố thấy một cái bu-lông hoặc một đoạn ống nước cũng nhặt tuốt. Trong hòm phụ tùng của ông thôi thì đủ thứ tầm tầm, rắc-co, đệm máy, muống phun cũ .. Mấy thằng thợ máy trẻ khôn lỏi lúc nào thiếu phụ tùng là mời chú Ba sang uống trà rồi nịnh chú chú cháu cháu. Uống trà xong, chú Ba đổ hòm phụ tùng ra, bới tìm bằng được thứ nó đang thiếu. Và có khi nó còn lôi chú Ba xuống tàu sửa giúp nó cả buổi,
Mấy thằng tinh ma hay trêu chọc ông Ba. Biết tính ông Ba thích ăn cua biển. Một lần tàu vào bến, cậu Sinh “đen” bàn với cậu Phú đem luộc một con cua, mang giấu vào một cái hang gần chỗ tàu đậu. Phú ra gọi chú Ba về ăn cơm. Ông Ba hỏi “ Hôm nay chúng bay có bắt được cua không ?”. Phú trả lời “Chú xem nước trong thế kia làm gì có cua”. Phú cố ý làm cho ông ba nhìn thấy cái hang cua (đã giấu con cua luộc trong đó).
Ông Ba trợn mắt nói “Chúng bay là đồ lười, cua ngay ở đây chứ có phải đi đâu xa ..”. Ông già vừa xắn quần lội vừa nói “Cả lũ lười .. dấu chân cua còn mới thế này, không cua là cái gì đây”. Ông móc ở trong hang ra một con cua đã luộc, màu đỏ gạch. Biết bọn trẻ chơi khăm, ông vứt con cua xuống nước rồi chửi tục một câu. Cậu Phú chạy về , reo to “Chú Ba vừa bắt được con cua luộc anh em ơi”. Thế là một trận cười được nổ ra.
Khi cái ngọn khói “ma quái” ở sát mép nước biến mất, thuyền trưởng sà tới chỗ anh êm định tán chuyện bù khú một chút. Nhưng anh lại đứng im lặng, để nhận thức một điều mới đến với mình. Với lớp thuỷ thủ trẻ, có lần anh đã nhận xét “đi với họ sẽ không có cơm mà ăn”. Đến bây giờ anh đã sống với họ qua mấy ngày thử thách, anh tự nhủ “Mình lầm. Họ là lớp người tuyệt diêu. Phải đánh giá như vậy mới công bằng”. Mấy hôm sóng gió, Hoàng Thanh Loan nôn ra máu, tự lấy dây buộc chặt vào ghế lái để hoàn thành nhiệm vụ. Phan Haỉ Hồ không vắng mặt trong bất cứ việc nặng nhọc nào. Hồ Quanh Phụng, Lưu Kim Nhật, Bá Châu Báu, Cao Sĩ Thập, Lê Xuân Khảm .. mỗi người một vẻ. Họ hăng hái, bình thản bước vào những thử thách khắc nghiệt, như người ta nhón chân bước vào dạ hội.
Thấy thuyền trưởng đến, một thủy thủ hỏi :
-   Ta đang đi ở đoạn nào đó anh ?
-   Đang tới gần Manila, nếu nó còn bám, ta sẽ đi về phía Hong Kong.

Ngày thứ tám trên biển. Mưa dăng đầy trời. Mặt biển sa sầm giận dữ. Những cơn sóng màu đen đang khum tấm lưng mềm mại đùa giỡn tàu 69. Chiếc máy bay của hải quân Mỹ và tuần dương hạm Mỹ vẫn không bỏ cuộc. Thỉnh thoảng chúng lại tới “kiểm tra” cái mục tiêu đã mất công bám mấy hôm nay.
Thuyền phó Hai làm công việc đo đạc và tính toán thiên văn, dở quyển nhật ký hành trình ra xem. Mới đi vài ngày mà đã ghi đầy gần bốn trang. Những nội dung lặp đi lặp lại như làn sóng đều, lướt qua mắt anh :
-   21 giờ 23-6-1966, một tàu địch kèm man trái rất lâu. Ta chuyển hướng 69 độ, nó chuyển theo. Mất hút vài giờ lại thấy nó xuất hiện.
-   7 giờ 30 phút, sáng 27-3, hai máy bay vòng rất thấp quanh tàu . Vừa bay vừa chớp đèn đỏ.
-   22 giờ 27-3, một tàu cách ta hai hải lý, lúc lên đèn lúc không. 2 giờ 30 ngày 28-3, nó chuyển sang mạn trái.
-   ..
Hai bỏ quyển nhật ký vào ngăn kéo rồi lên đài chỉ huy. Thấy Hai tới, Phước hỏi :
-   Nếu như tính toán của chúng ta đúng thì khoảng một giờ nữa sẽ tới mũi Thuận Xuyên.
Đôi mắt to tinh lợi của Hai thoáng đượm nỗi buồn .
-   Kiểu này có khi phải quay về. Đi nữa cũng không vượt qua được mặt nó. Nó phát hiện ta rồi. Anh xem, hàng ba bốn giờ ta không thấy địch rồi bỗng chốc lại thấy nó bám đằng sau. Nó đã bám ta bằng rada, vì vậy khi thằng tàu chiến bị mất hút mục tiêu thì lập tức có máy bay đến.
-   Phải đưa “cái bà bụng mang dạ chửa” này về thì ngán không để đâu cho hết.
Phước xem đồng hồ rồi gọi Khảm lên đài chỉ huy. Khảm nhanh nhẹn tới đứng cạnh thuyền trưởng Phước và hỏi :
-   Anh bảo gì ?
-   Cậu qua lại đường này nhiều, xem đây thuộc khu vực nào.
Nhìn vùng biển trước mặt đen sẫm, phía tây nổi lên một quầng sáng như lúc mặt trời sắp mọc và phía đông có khoảng sáng rộng hơn, Khảm nói :
-   Chỗ sáng nhiều kia là Hong Kong, nếu mình cứ đi thẳng thì có thể tới đẩt Quảng Châu.
Tàu chạy tốc độ chậm, anh em thủy thủ đo độ sâu và liên tiếp báo cáo “35 mét .. 30 mét, 20 mét, 15 mét “.
Thuyền trưởng hạ lệnh :
-   Thả neo.
Tàu 69 dừng lại nghỉ một ngày cạnh hoang đảo ngang Thuận Xuyên (Trung Quốc) để tránh địch và né cơn bão.
Hai ngày sau lại tiến về phía Biển Đông, sóng gió vẫn chưa ngớt và địch lại bám. Chi bộ họp bàn “đi hay về ?”. Tâm trạng anh em đều không muốn có cuộc hành quân chữ O ( Hành quân chữ O hoặc chiến thuật chữ O có nghĩa là mang hàng đi lại mang hàng về , hoặc chiến đấu phá tàu rồi hành quân bộ trở về). Nhưng thấy khả năng không thể lọt qua hàng rào của địch được, đành phải ra nghị quyết : Quay về.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #23 vào lúc: 12 Tháng Mười Hai, 2007, 10:40:30 am »

Tàu 69 đã trở về đến vịnh Hạ Long. Như thường lệ, tàu vừa neo đậu vài giờ, đã có đoàn cán bộ cấp trên đến thăm hỏi, kiểm tra, và hậu cần cũng tới tiếp thêm nước ngọt và nhu yếu phẩm. Chẳng cần nói, anh em cũng ý thức rằng táu của mình chuẩn bị đi tiếp chuyến đi bỏ dở. Độ này không riêng gì đội tàu 69 mà toàn đoàn 125 đã có nhiều tàu hành quân chữ O, thậm chí có tàu vào gần bến gặp địch đã chiến đấu dũng cảm rồi tự phá hủy tàu và hành quân bộ trở về.
Sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Hải quân, đảng bộ đoàn 125 và cả những tội ác man rợ của đế quốc Mỹ hàng ngày, hàng giờ dạy anh em lựa chọn cái sống, cái chết thế nào cho xứng đáng. Giải phóng miền Nam và chiến thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ từ lâu đã trở thành nguyện vọng thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước; đối với anh em đoàn 125, nguyện vọng đó đã trở thành hành động để đạt tới. Giờ đây trước mặt họ biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, và cái chết luôn vươn tay ra đón chờ; nhưng họ sẵn sàng lựa chọn cái chết để cuộc sống mai sau đâm chồi naỷ lộc. Khó khăn, nguy hiểm gấp năm, gấp mười lần trước đây thì tinh thần kiên trì, dũng cảm của họ được trau giôig sâu sắc gấp mười gấp trăm lần làm cho kẻ thù kinh ngạc :” Việt cộng chuyên chở vũ khí bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín, không hiểu nổi”. ( Một đại tá phó đô đốc hải quân ngụy viết trong Tập san quốc phòng ngụy số 18) Thiết tưởng chúng ta không cần phải giải thích thêm điều đó.
.. Các cán bộ thuyền được mời về họp ở sở chỉ huy đoàn.
Sở chỉ huy ở hang Vua thuộc huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), nơi theo truyền thuyết, khi chỉ huy trận đánh phục kích tiêu diệt cánh quân Ô mã nhi trên sông Bạch Đằng (3-1288), Trần Hưng Đạo đã dừng lại nơi đây.
Thuyền trưởng Phước , chính trị viên Huyền vừa bước tới cầu thang đã thấy đ/c chính ủy đoàn 125 ra đón. Đ/c chính ủy đoàn thân thiết bắt tay từng người :
-   Anh em ta khỏe mạnh cả chứ ! Cánh mình ở nhà trông các cậu từng giờ, từng phút. Biết trước sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng nhiều lúc vẫn không khỏi hồi hộp, lo lắng.
Thấy thuyền trưởng Phước có vẻ tò mò nhìn chiếc án thư và bia đá bên cạnh lối đi, chính ủy chỉ tay vào tấm bia giới thiệu :
-   Các ông có biết di tích gì đây không. Cái bia và án thư bằng đá này do nhân dân địa phương dựng lên rất lâu rồi, để tưởng nhớ tới công lao Trần Hưng Đạo. Nghe nói ngài đã ở trên hang kia. Vì vậy mới gọi là hang Vua.
Tiện dịp nhắc nhở truyền thống, chính ủy nói vui :
-   Ngày xưa ông cha mình đã từng đánh tan thủy quân của giặc Nguyên, một đội quân xâm lược mạnh nhất thời kỳ ấy. Mang truyền thống ông cha, chẳng lẽ chúng ta không chọc thủng được sự phong tỏa của hải quân Mỹ ư ?
Cuộc họp đã đông đủ, chỉ còn chờ cán bộ thuyền 69 tới. Tư lệnh Hải quân, thủ trưởng đoàn 125, một số cán bộ tham mưu thuộc cục tác chiến và phòng tham mưu hải quân đã ngồi xung quanh chiếc bàn khá rộng trong hang Vua. Mọi người đang sôi nổi chuyện trò về thời cuộc thì cán bộ tàu 69 đến, tất cả đều ra khỏi chỗ ngồi bắt tay vồn vã như đón khách quý.
Trung tá Hồng Phước, giới thiệu thành phần và nội dung cuộc họp , rồi giới thiệu thuyền trưởng Phước báo cáo chuyến đi.
Thuyền trưởng Phước vừa nói vừa cầm que chỉ các vị trí trên hải đồ vùng biển Đông Nam Á treo ở vách sát đầu bàn họp.
Câu chuyện sinh động về chuyến đi của Phước kể có sức hấp dẫn các cử tọa, mỗi lúc nói đến địc bám ai cũng tỏ thái độ lo lắng như chính mình đang ở trong tình huống ấy.
Sau báo cáo của thuyền trưởng 69, đoàn trưởng Hồng Phước nêu tóm tắt những đánh giá về ta, về địch. Cán bộ có mặt trong cuộc họp sôi nổi đống góp ý kiến. Đ/c Nguyễn Bá Phát chăm chú lắng nghe ý kiến của hội nghị. Thỉnh thoảng lại ghi chép một vài điều vào sổ tay của mình. Gần tới giờ kết thúc cuộc họp, đồng chí đứng lên phát biểu :
-   Những chuyến đi vừa qua, kể cả đội 69, cho chúng ta thấy rõ, địch không những theo dõi ta ở ven bờ mà còn theo dõi ta từ ngoài khơi xa. Trên đường biển quốc tế, nhiều tàu bè nước ngoài đi lại, nhưng cũng có hành động hăm dọa, dò xét, để từ đó tìm ra và phân loại tàu nào là của ta. Ví dụ : vừa qua có hai tàu của Liên Xô và một tàu của Ba Lan chở hàng vào Hải Phòng. Chiếc thứ nhất của Liên Xô, chúng cho máy bay tới đánh tín hiệu hỏi “Chở gì ?”. Trả lời “Chở sữa”, nó cứ bám theo hỏi mãi “ Còn chở gì nữa ?”. Chiếc thứ hai của Liên Xô chúng cũng hỏi “Chở gì ?”, các đ/c Liên Xô trả lời “Cút đi, không có quyền hỏi “, và nó phải cút. Gặp tàu Ba Lan nó hỏi “ Đi đâu”, anh em trả lời “ Đi Việt Nam dân chủ cộng hòa” nó theo một đoạn rồi bỏ.
Chúng ta đi hợp pháp trên đường biển quốc tế, chúng ta phải triệt để khai thác tính chất hợp pháp ấy. Có thể nghiên cứu trả lời câu hỏi của nó một cách hợp lý. Cách xử trí chuyến vừa qua còn chưa thích hợp. Hướng tàu ta đang đi về vịnh Thái Lan, gặp chúng tự nhiên ta quay về phía Manila, như vậy chỉ làm cho chúng tăng thêm nghi ngờ..
Sau 10 ngày nghỉ ngơi và lấy thêm dầu mỡ, nước ngọt, thực phẩm. cải dạng tàu, ngày 15-4-1966, đội tàu 69 lại lên đường.
Tàu 69 vẫn đi thep đường cũ. Biển êm. Tàu buôn qua lại nhiều. Có vài lần tàu chiến, máy bay Mỹ tới thăm dò.
Chuyến đi này có kinh nghiệm hơn, từ việc ngụy trang tàu đến động tác xử trí gặp địch không để lộ tung tích mình.
Đã đến điểm chuyển hướng, báo vụ Diệp Minh Hiếu nhận lệnh lên máy. Lần này Hiếu không say sóng và không có lúc nào phải buộc mình vào ghế khi làm việc; anh cảm thấy sảng khoái khi đặt ngón tay lên maníp. Tiếng tích tích ..tà vang bên tai ấm áp, nhẹ nhõm, tưởng như Hải Phòng với tàu mình không có khoảng cách hàng ngàn hải lý mà gần gũi đâu đây.
Hiếu đọc bức điện cho chính trị viên Huyền nghe :
-   Đèn Hòn Khoai còn sáng. Chú ý : ban đêm thường có máy bay đi tuần tiễu , tàu chiến địch thả trôi trước bến, cách bờ năm đến mười hải lý. Tìm cách tránh. Vào bến Bồ Đề tốt hơn.
Huyền thì thầm nhắc lại bức điện :
-   Tàu chiến thả trôi .. vào bến Bồ Đề tốt hơn.
Hiếu tưởng chính trị viên hỏi gì mình, ngoảnh lại đã thấy Huyền bước ra  khỏi phòng.
Trời trong xanh không có một gợn mây. Vào lúc này, người mới đi biển thường có nhiều cảm xúc, như muốn gieo vài vần thơ về cái mênh mông xao xuyến của bầu trời và mặt biển bao la. Trái lại các thủy thủ tàu 69 chỉ mong mưa lớn, hoặc đám sa mù nào đó bay tới che kín con tàu của mình. Nhưng thiên nhhiên vô tri chẳng đáp lại chút nào những điều ao ước. Triệu triệu những vì sao vẫn tỏa ánh sáng lạnh lùng như cố tình làm cho con taù trắng toát trần trụi phơi mình trên mặt biển tím thẫm.
Thuyền phó Hai ít có thì giờ suy nghĩ vào việc khác, ngoài việc tính toán hàng hải. Một câu hỏi luôn đến với anh “Liệu có sai lệch gì không ?”. Từ tối đến giờ đã ba bốn lần anh cung cấp cho thuyền trưởng biết điểm dừng của con tàu, nhưng anh vẫn chưa yên tâm. Bây giờ là một giờ sáng rồi, nếu đi đúng đường thì phải bắt được đèn Hòn Khoai, tại sao vẫn mù mịt tăm hơi. Từ đây vào bờ là khu vực địch kiểm soát gắt gao, loay hoay ở đây vài giờ nữa thì khó thoát khỏi nguy hiểm. Quay ra chăng ?
Các cán bộ thuyền cũng một tâm trạng như Hai. Chính trị viên Huyền đã tới từng vị trí chiến đấu của anh em thủy thủ để tham khảo ý kiến. Anh em nhất trí vào. Không dễ gì có thời cơ yên ổn lọt vào tới đây. Trở ra bây giờ cũng muộn, vả lại ra rồi lại lênh đênh vài ngày đêm nữa liệu có vào nổi không ? Nhưng có ý kiến ngược lại : chưa bắt được đèn Hòn Khoai, thì lấy gì làm căn cứ tàu mình đi đúng tuyến đường. Cứ lao bừa vào bờ, chỉ làm mồi ngon cho chúng .. Cán bộ thuyêng vẫn chưa tìm cách gì giải quyết thỏa đáng. Giá như không có bức điện ở nhà báo đèn Hòn Khoai còn sáng lại đi một lẽ (thực ra hải đăng Hòn Khoai đã tắt hơn nửa tháng rồi, anh em bến không biết vẫn báo cáo ra Bộ nó còn sáng).
Con tàu vẫn chạy theo hướng đã tính toán. Hai lên đài chỉ huy, cầm ống nhòm nhìn phía trước. Một hòn núi lọt vào ống kính, lúc đầu mờ như ảo ảnh, rồi rõ dần.
-   Có núi anh Phước ơi !
-   Cậu nhìn kỹ xem núi nào ?
-   Chưa rõ lắm. Chẳng lẽ Hòn Khoai .. sao không có đèn ?
-   Đi đo nước xem.
Vài phút sau, Dĩ báo cóa độ sâu 37 mét. Cán bộ thuyền bàn bạc và đi tới khẳng định : đây là vùng biển Cà Mau. Nhưng cái tin đèn Hòn Khoai còn sáng ám ảnh, làm cho họ nghi ngờ ở kỹ thuật hàng hải của mình.
Thấy thời gian gấp quá, rồi họ liều lĩnh xử trí : cứ vào tới bờ đã rồi tính sau. Nếu không tìm thấy bến, sẽ tạm giấu tàu, đêm hôm sau đi tiếp.
Tàu 69 đi gần tới bò. Các loại ánh đèn đánh cá dăng thành hàng dài như một thành phố nổi, khó có thể phân biệt được đâu là ánh sáng của tàu địch len vào đó. Tàu 69 tìm cách né tránh khu vực có ánh đèn. Các thủy thủ vẫn trực sẵn ở vị trí chiến đấu, căng mắt nhìn phía trướcl
“Bờ kia rồi”. Tiếng của ai làm cho mọi người vui mừng nhìn về phía bờ. Rõ ràng rừng đước kia rồi. Cả hình dạng lồi lõm như răng cưa và mùi vị nồng nồng hăng hăng của nó đều rõ ràng. Nhưng điều quan trọng đây là chỗ nào thì không ai xác định được.
Tàu chạy chậm lại. Thuyền trưởng Phước phát đèn tín hiệu vào bờ. Không có ánh sáng nhỏ nào phía bờ đáp lại.
Phía ngoài biển có một chiếc tàu dạng cao tốc của địch đang chạy. Các cán  bộ thuyền 69 hội ý xử trí khẩn cấp. Nếu tìm được cửa lạch nào cũng phải lao vào tìm chỗ giấu tàu, luẩn quẩn ở đây khó tránh khỏi bị địch phát hiện. Thuyền trưởng đánh điện về sở chỉ huy : báo cáo bến đêm mai tiếp tục đón ( Điện của tàu chỉ liên lạc được với sở chỉ huy, không chung mạng với bến ).
Tàu 69 chạy vào sau hàng đáy. Những người dân làm đáy, thấy tàu lạ đến gần, họ hoảng hốt, kéo máy cho xuồng chạy. Còn lại một xuồng máy, người đàn ông mải miết giật máy, người đàn bà hoảng sợ nhảy xuống nước hai tay vẫn bám vào mạn xuồng để trốn tránh.
Thuyền trưởng Phước hỏi :
-   Ông làm ơn chỉ bảo, đây gần cửa vàm nào ?
Người dân đánh cá nói :
-   Tôi từ xa tới làm ăn ở đây .. không biết.
-   Chúng tôi đang đánh cá bị tàu nhà binh đuổi. Tên địa phương chỗ này là gì, ông chỉ giúp tôi xin hậu tạ.
Người dân cố ý trì hoãn, vừa kể dài dòng vừa giật máy đẩy. Máy vừa nổ, người phụ nữ nhanh như cắt vọt lên ngồi trên xuồng và chiếc xuồng lao như bay. Xuồng chạy một đoạn, tiếng người đàn ông vang lại một câu chửi tục “Con bà chúng mày, đây là Cà Mau hiểu chưa ?”
Tàu 69 chạy theo hút chiếc xuồng vừa ngoặt vào một cửa rạch nhỏ. Những cành cây vướng vào tàu, gãy “rốp rốp”. Có tiếng súng trường bắn đuổi theo tàu.
Dĩ hô to :
-   K.44 của du kích. Nằm xuống.
Nghe tiếng nổ của K.44, anh em vừa mừng vừa lo.
-   Đừng bắn nữa, tàu của chúng tôi làm ăn lương thiện.
-   Dẫn chúng tôi vào, chúng tôi xin biếu 500 đồng.
“Pằng, pằng, pằng “..
Tiếng súng ngưng nổ. Hai đứng lên thương lượng :
-   Chúng tôi sẽ cho hai người vào làm tin, các anh cử một người ra tàu chúng tôi.
Một anh du kích đứng ở công sự gần đó ngờ là tàu của mình ở miền Bắc vào, anh hỏi :
-   Chúng tôi hỏi thiệt, có phải tàu các anh ở ngoài kia dô ,, cứ nói thẳng tôi sẽ dẫn đường.
Nghe thuyền phó nói cử người vào, Dĩ làm ngay. Anh vừa bơi đến bờ, một chiến sĩ du kích hô :
-   Giơ tay lên.
-   Người ta đã đến đây rồi còn giơ tay, giơ chân gì nữa cha nội. Cho người dẫn nhanh lên, không sáng rồi.
Con tàu tiến thêm một đoạn nữa thì mắc cạn . “Thế là hỏng rồi”. Thuyền trưởng nóng nảy, gắt om sòm. Tưởng như chỉ còn một cách là : phá tàu. Anh em khuyên giải còn nước còn tát, thuyền trưởng mới trở lại bình tĩnh.
Tàu lui lại, thoát khỏi bãi cạn.
Trời đã sáng rõ. Nhân dân ở hai bên rạch thấy con tàu lạ họ la lối rồi bồng con bế cái chạy trốn. Mấy anh du kích phải dùng loa gọi “ Dừng lại, tàu của ta”, mọi người dừng lại ngơ ngác chưa hiểu đầu đuôi ra sao.
Con tàu tiếp tục chạy rồi rẽ vào một cái rạch nhỏ hơn, nó vừa rướn được quá nửa thân tàu vào thì bị mắc cạn. Chân vịt tàu vùng vẫy hết sức trong đám bùn, nhưng không thể tiến thêm được một bước nào.
Bà con trong xóm xúm lại, mỗi người một câu, ồn ào như mổ bò.
-   Nào de chút nữa.
-   Có phải ghe của nhà bà đâu mà de được.
-   Tàu chi mà trắng lốp, trắng láp.
-   Trời, tàu của ta to, đẹp quá.
-   Thôi .. người nào không có diêch, dề .. máy bay nó tới bom thấy mồ bây giờ.
-   ..
Anh em du kích vận động nhân dân mang cây tới ngụy trang và lấy bùn xoa lên chỗ sơn trắng của con tàu. Không đầy nửa giờ, con tàu đã lẫn vào màu xanh của rừng đước.
Vừa giấu xong tàu, mấy cán bộ thuyền nằm ngủ thiếp ngay trên mặt khoang. Mấy anh em du kích nhìn cảnh tượng ấy, phát hoảng :
-   Liệu có phải chích thuốc cho anh em không ?
Dĩ nghe mấy chiến sĩ du kích bàn bạc, anh cười nói :
- Không sao, cứ để họ ngủ hết ngày hôm nay sẽ tỉnh lại.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #24 vào lúc: 12 Tháng Mười Hai, 2007, 05:31:25 pm »

Ngày hôm đó, đội tàu 69 được nhân dân xã Rạch Gốc rất mực chiều chuộng. Du kích tổ chức cảnh giới bảo vệ tàu từ xa. Các mẹ, các chị khênh tới nồi cháo gà còn nóng bỏng và cả rổ cua luộc, mực nướng. Giả thử có thứ sơn hào hải vị ngày xưa chỉ dành cho việc tiến vua thì bà con cũng chẳng tiếc. Mấy bà mẹ xuýt xoa “Các con theo lệnh Bác từ miền Bắc đưa vũ khí vượt biển vô đây cho nhân dân Cà Mau đánh giặc .. thật là một kỳ công !”.
Anh em thủy thủ đưa mắt nhìn nhau, vừa cảm động trước sự săn sóc của bà con, vừa lo lộ bí mật. Có ai nói gì đâu, tự các bà mẹ đoán ra cả. Tàu to như thế này, chỉ có miền Bắc mới có, và từ miền Bắc vô đây, chắc chắn là chở vũ khí.
Bà con muốn được lên xem tàu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Mấy anh du kích ngăn lại. Mấy bà già bướng bỉnh lý sự :
-   Tôi hỏi các anh ! Nếu Bác Hồ vô đây, dễ các anh cũng ngăn không cho chúng tôi gặp Người hả ?
-   Bác Hồ vô thì khác. Đây là việc bí mật.
-   Khác chi ? Đây là tàu Bác Hồ cho vô. Các anh biết bí mật, chúng tôi không để bụng những điều gì nói ra có hại cho nước cho dân sao ?
Mấy anh du kích thua lý các mẹ, và chính họ cũng muốn xem tàu, một anh đã đến nói với cán bộ tàu “Dân yêu cầu quá xá”.
Bà con ùa lên. Anh em thủy thủ đành phải dẫn họ đi xem buồng lái, buồng ngủ của mình. Được xem tàu của ta, người nào người nấy đều tỏ ra rạng rỡ sung sướng. Mấy cô gái bấu chí nhau rồi cười khúc khích.
-   Mầy xin các anh ấy cho đi theo.
-   Được ở taù này tao coi như ở nhà .. sợ các anh không cho đi.
Một thủy thủ nói vui :
-   Xin mời các cô cứ ở lại.
Tiếng cười trẻ trung râm ran.
Mấy ông bà già đi lại ngắm nghía hết cái này đến cái khác. Có người khẽ đụng tay lên cái la bàn, làm cho nó lắc lư; có cụ xoa tay lên cái mặt bàn bóng loáng. Khi nói chuyện với nhau, ai cũng nhấn mạnh “tàu của ta” như nhắc tới niềm tự hào của chính  mình. “Ta đã có tàu “ gợi các ông, bà già có liên tưởng. Tàu của ta kém gì tàu của nó. Trước kia ta chỉ có gậy tầm vông, bây giờ có tàu to và đẹp như thế này .. chở bao nhiêu là vũ khí nhất định sẽ đánh thắng Mỹ.
Làm xong nhiệm vụ triển lãm bất đắc dĩ, anh em thủy thủ lại quây quần trên mặt boong, kể với nhau những suy nghĩ riêng của mình về tình huống xảy ra hôm qua. Một chuyện lúc này đều trở thành lý thú : cả chuyện lúc xảy ra “muốn rụng tim” bây giờ cũng gây cười. Họ coi những nguy hiểm vừa vượt qua như một niềm vui hạnh phúc. Có lẽ những người có cuộc đời bằng phẳng, chẳng bao giờ được hưởng hạnh phúc này.
Thấy thuyền trưởng đi tới, Bé “lùn” đứng dậy trịnh trọng :
-   Mời thuyền trưởng ngồi xuống đây, tôi xin biếu 500.
Bé nhại lại câu nói của thuyền trưởng lúc tàu bị du kích bắn, làm anh em cười bò ra.
Tính thuyền trưởng Phước đôi khi nóng nảy, nói năng “bạt chiêng”, nhưng lúc bình thường lại rất cởi mở, dễ gần. Anh thanh minh :
-   Lúc đó tao nghĩ, phải nói thế để giữ bí mật.
-   Nhờ vậy mà suýt nữa thì xài đạn K.44
Nói chuyện vụ đùa, nhưng các cán bộ vẫn ngóng chờ anh em bến tới liên lạc. Khi nghe tiếng xuồng máy, mọi người đều nhìn về phía đó. Một cô gái có nước da trắng, mặc bộ bà ba đen, ngồi trên xuồng đang giữ cái “đuôi tôm” cho nó khua trong không khí, để xuồng dừng lại. Cô cười và định nói gì đó với các thủy thủ, thì thuyền phó Hai đã reo lên :
-   Ồ, cô Thanh Phương,
Cô gái không giấu nổi vui mừng, nói to :
-   Anh Hai, anh Năm, các anh đã tới đây tối qua ư. Chúng em trông quá.
Vừa dứt câu nói, cô gái đã cho xuồng quay ngoắt và nói với lại.
-   Em phải về ngay, kẻo chú Tư chờ.
Mấy thủy thủ ngỡ ngàng, chưa hiểu cô bé người ở đâu đến, sao nói năng thân thiểt, mềm mỏng như vậy, mà đến rồi lại vụt đi như một ánh sao băng. Họ bàn tán vui vẻ :
-   Cứ như nàng tiên trong quả thị vừa hiện ra ấy.
-   Chắc ngày mai chúng ta sẽ đến chỗ nàng tiên ấy.
-   Con người không hoa lá mà dễ thương làm sao. “Chú Hai” !
-   Xin thôi! Người của bến đó !
-   …

Tàu 69 đã được đón về bến. Chân vịt của tàu bị hỏng nặng. Hỏng chân vịt khác chi người bị cụt chân, làm sao trở về được. Nghe biển gầm ầm ì anh em nghĩ tới đường trường càng lo.Tất nhiên phải sửa chân vịt, nhưng lấy phương tiện đồ nghề ở đâu. Những thủy thủ chưa kịp hình dung ở giữa rừng sình lầy này làm gì có đốc nâng được chiếc tàu 100 tấn lên mà sửa chân vịt.
Đối với anh em bến – đoàn 962 – gặp chuyện rắc rồi như thế này không phải là lần đầu. Anh Tư Mao nói với các thủy thủ “ Các đồng chí cứ yên trí, khỏi lo ..”. Nhưng chẳng có phép gì làm cho anh em  khỏi lo được. Trên thế giới này, chưa có nơi nào sửa chân vịt tàu khi nó nằm ở dưới nước. Chỉ có cách lôi nó vào xưởng rồi đưa vào đốc. Ở giữa rừng này không có công xưởng mà cũng chẳng kiếm đâu ra đốc nổi. Nhưng “ các đồng chí cứ yên trí ..”.
Thật đúng như có phép màu, chỉ sau một ngày, cái công trường thủ cồng làm xong loại giá đỡ đặc biệt để thay đốc nổi. Việc này phải nhắc đến vai trò của phó đoàn trưởng Tư Mao (đơn vị bến), một người chỉ huy thông minh và gan góc hiếm có. Với công việc khó khăn đại loại như thế bao giờ anh cũng là người dẫn đầu trong việc tháo gỡ.
Không khí nhộn nhịp trong khu rừng Vàm Cái Bần giống như một công trường mới bắt đầu xây dựng. Nhịp độ lao động rất khẩn trương .. Con tàu đã được đẩy vào rạch, giữa lúc thủy triều lớn nhất. Anh em dùng cây gỗ làm thành cái giá đỡ dưới đáy tàu. Nước triều rút xuống gần cạn khỏi rạch, con tàu nghiễm nhiên đứng trên giá đỡ, giống như lúc nó vào đốc. Xung quanh con taù đắp đê cao để ngăn nước. Tuy vậy vẫn có nước ngấm, ngoài việc dùng máy, anh em phải dùng thùng, chậu thay nhau tát. Một đại đội của bến do anh Tư Mao chỉ huy cùng với thủy thủ tàu 69 đã làm việc cật lực, để tạo ra cái công trường đó, và phục vụ cho thợ máy có điều kiện sửa chữa tốt.
Bốn thợ máy do thợ cả Nguyễn Văn Bé phụ trách. Ngày nào họ cũng phải làm việc từ sớm tinh mơ đến khi mặt trời lặn. Họ dùng đèn khò (đèn hàn) nung nóng rồi dùng búa đập uốn lại chân vịt. Một việc tưởng như không thể khắc phục được bằng vài cái công cụ giản đơn, nhưng trái lại nó đã có hiệu quả cụ thể. Tàu 69 đã có “bộ chân” lành lặn và sẵn sàng lên đường.

Theo kế hoạch thì đêm 9-5-1966 nếu tàu 100 đến bến an toàn thì tàu 69 sẽ rời bến vào đêm sau, hoặc đêm sau nữa.
Chờ đợi tàu bạn và suy nghĩ tới đường ra của tàu mình, nhiều thủy thủ thấp thỏm khó ngủ. Có đôi bạn ngồi dậy hoặc nằm trong màn thì thầm tâm sự. Họ không hề nhắc đến điều lo lắng đang nảy nở, mà lại kể những chuyện riêng tư của mình. Mãi tới khuya mọi người mới ngủ được.
Nghe có tiếng nổ ở phía biển, có người vừa chợp mắt được một lát cũng vùng dậy. Mọi người ra khỏi lán nhìn theo những chớp pháo sáng của máy bay địch thả. Họ hồi hộp theo dõi và bàn tán :
-   Chỗ nó đang quần ở khoảng nào ?
-   Cửa Rạch Giá . Kiểu này là tàu 100 gặp địch rồi,
-   Chưa thấy nổ súng ! Như vậy là chúng mới nghi ngờ.
-   …
Trời sáng dần. Một số anh em bến nhận được lệnh hành quân cấp tốc ra bến Rạch Giá để bảo vệ tàu. Tại sao lại bảo vệ tàu ở cửa Rạch Giá ? Người nhận lệnh cũng chỉ biết tới chừng ấy, chẳng ai giải thích được rõ hơn. Anh em đội tàu 69 ngồi chờ đợi tin thêm về tàu 100. Vài giờ sau, anh em trên đài quan sát co biết tàu địch đang đi lại ở cửa Bồ Đề. Rồi lại bặt tin. Ai cũng phán đoán : tàu 100 gặp nạn, nhưng vẫn nóng lòng muốn biết những gì đang diễn ra đối với nó.
Gần trưa, ba chiếc máy bay lên thẳng bay tới bắn phá ở khu vực Bồ Đề, tiếp theo là phản lực F.105 tới giội bom.
Tiếng bom nổ, tiếng đạn liên thanh và tiếng máy bay rộ lên hàng giờ liền như xói vào ruột gan các thủy thủ tàu 69. Họ vừa lo cho đội taù 100, vừa lo cho chính mình. Việc lộ bến Bồ Đề, chắc chắn địch sẽ phong tỏa chặt chẽ khu vực này, sẽ không dễ dàng gì đưa được tàu ra tới đường biển quốc tế.
Chiều hôm sau vừa nhìn thấy bóng dáng lùn lùn của phó đoàn trưởng Tư Mao ở trong rừng ra, anh em đã chạy xô tới, quây xung quanh. Chỉ cần nhìn cái băng quấn trên đầu còn thấm máu và khuôn mặt phờ phạc của anh Tư Mao, anh em đã đoán được tình thế không có gì sáng sủa.
-   Tình hình ra sao anh Tư ?
-   Anh em trên tàu có an toàn không ?
Tư Mao nhếch một nụ cười mệt mỏi, không đáp ngay vào những câu hỏi của anh em vừa tới rấp đặt ra, anh hỏi :
-   Các cậu có nước cho mình uống một chút, khát khô cháy cổ.
Qua cử chỉ bình tĩnh của Tư Mao, làm mọi người bớt lo lắng. Họ đi theo anh vào trong lán.
Uống xong bát nước, Tư Mao chậm rãi kể :
-   Tôi được tin của đài quan sát báo địch thả pháo sáng. Có hai chiếc tàu đi về phía cửa Rạch Giá, chiếc đi trước có thể là của ta, chiếc đi sau là tàu địch. Một mặt tôi cử người huy động lực lượng bảo vệ, mặt khác tôi và cậu Việt Hải chạy một mạch đến Rạch Giá. Lúc đó trời đã sáng rõ. Tôi thấy thuyền phó Điển và anh Cớt thợ máy đang núp vào gốc cây nhìn ra biển. Tôi hỏi tình hình, Điển nói : Khoảng ba giờ sáng tàu 100 đã tới gần bờ thì gặp tàu địch. Tàu ta kéo cờ Đái Loan, chúng phát tín hiệu tàu chở gì, đi đâu. Anh em mình lặng thinh. Nó lại phát tín hiệu xin cặp mạn. Ta vẫn lặng thinh. Nó chạy vượt lên có ý chặn đường, nhưng thấy tàu ta tiến thẳng, nó phải nhường đường. Anh em đã chuẩn bị nổ súng thì nhìn thấy đống lửa (tín hiệu) ở cửa Bồ Đề.
Nói tới đó, Tư Mao thở dài lặng lẽ, một lát rồi mới móc bọc thuốc trong túi áo ra vê một điếu, với cử chỉ không giấu nổi xúc động. Châm thuốc hút một hơi, rồi anh nói tiếp :
-   Chỉ sơ suất một chút xíu mà để xảy ra thiệt hại quá lớn. Đã quy định với ngoài kia là : nếu hải đăng Hòn Khoai không sáng, bến đốt lửa ở rạch Bồ Đề và tàu sẽ vào cửa Rạch Giá. Trực ban cho biết đèn Hòn Khoai sáng nhưng lại không quên báo cho anh em thôi đốt lửa mới nên cơ sự này .. Tôi ra xem, tàu của ta đã giạt vào chỗ cạn, tàu địch đứng bên ngoài không dám vào gần. Tôi hỏi anh Điển đã xử trí thế nào. Điển nói đã rút chốt an toàn rồi, không hiểu sao bộc phá vẫn chưa thấy nổ. Nghĩ đến cái tàu nguyên vẹn thế kia, địch chỉ tròng cáp vào là lôi tuột đi mất, tôi bảo Điển chạy về bến huy động thật nhanh lực lượng ra bảo vệ tàu.
Chiếc tàu của địch cách taù ta khoảng 200 mét, nó kéo còi xin cặp mạn. Chắc nó vẫn tưởng tàu của ta còn người. Kéo còi vài lần không thấy ta đáp lại, chúng cho một tên lội về phía tàu 100. Tiểu đội của Bảy Nhỏ đã bố trí xong, các cậu ấy bắn mấy loạt tiểu liên, tên địch vội chạy trở lại tàu của nó.
Tàu địch có thể kéo tới đông hơn và dùng máy bay bắn phá, khả năng giữ được con tàu cho đến tối thật khó. Nghĩ tới việc phải tranh thủ giữ lấy khẩu DKZ, thu nhặt giấy tờ anh em mình còn bỏ lại, tôi bảo Việt Hải và Cớt bơi ra tàu làm việc đó. Ra tới nơi thấy nước sâu, tôi bảo Cót mở máy tôi lái cho tàu vào. Đi được 10 mét lại mắc cạn.
Thấy tàu ta chạy, địch giội đạn vào như mưa. Tàu ta chỉ cách bờ vài chục mét. Tôi giục Hải và Cớt tháo nhanh khẩu DKZ 57 đưa vào, thu thập số tài liệu , giấy tờ rồi ôm cuộn dây dứa, đã buộc một đầu vào lan can tàu,còn kéo đầu kia buộc vào một gốc cây trong bờ. Tính rằng : nếu giữ được đến tối sẽ có cách xử trí.
Khoảng gần trưa thêm hai chiếc tàu địch đến, chúng dàn đội hình sáp dô tàu 100, vừa đi chúng vừa trút đạn vào bờ. Tiểu đội của Bảy Nhỏ bắn trả dữ dội vào tàu địch, buộc chúng phải quay lui. Máy bay trực thăng , phản lực đến bắn phá, thả bom kéo dài mấy giờ liền. Chúng phát quang cả mảnh rừng kéo dài theo ven biển hàng kilômét.
Sau một đợt bắn phá, tàu địch lại vào , lại bị ta đánh giạt ra. Tiểu đội của Bảy Nhỏ rất dũng cảm, đã giữ tàu 100 được đến tối. Tôi đang mong lực lượng tiếp viện thì anh Hai Dĩa đưa thêm người tới. Tôi bàn với anh hai cử người cảnh giới, dồn sức xuống tàu lấy hàng. Anh em chúng tôi kéo đi, chỉ cách tàu khoảng 200 mét bỗng có tiếng nổ dữ dội, nhìn phía tàu 100 chỉ thấy một đám khói đen và những cụm lửa hoa cà hoa cải như pháo hoa, không thấy hình tàu 100 đâu. Lúc này vẫn có pháo sáng, sáng như ban ngày, không thấy có máy bay ném bom, như vậy là khối thuốc nổ gài sẵn ở tàu đã tự nổ.
Khi đám khói đen đã tan rồi, chúng tôi nhìn chỗ tàu 100 đậu ban nãy, chỉ còn lại một khoảng trống.
Bọn tàu địch bị mất mục tiêu, chúng kéo nhau ra xa hơn.
Một thủy thủ tàu 69 hỏi :
-   Anh Tư .. anh em tàu 100 thế nào ?
-   An toàn cả.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #25 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2007, 08:10:37 pm »

Trong chiến đấu giành giật với địch ba ngày liền, anh em bến đã lập công lớn : bắn chìm một tàu LCV của địch và không để một mảnh thép nào của tàu 100 lọt vào tay địch. Chiến thắng ấy không làm cho mọi người vui hơn. Trái lại, nỗi lo lắng ngày một đè nặng : từ nay các bến của Cà Mau không còn là nơi dễ đến, dễ đi của đoàn 125 nữa.
Hàng ngày maý bay địch đi bắn phá, xăm rộng ra vùng xung quanh. Anh em đội tàu 69 rất chật vật trong việc giữ gìn cho chiếc tàu của mình khỏi bị lộ. Lúc di chuyển tàu, lúc ngụy trang, lúc chuẩn bị đánh quân địch đổ bộ .. làm cho các thủy thủ mệt mỏi.
Ba tháng trôi qua, không biết bao nhiêu lần tàu 69 chuẩn bị rời bến, rồi lại hoãn vì hàng rào tuần tiễu của địch vẫn khép kín. « Thôi thì bỏ quách cái tàu lại, đi bộ vượt Trường Sơn ra Bắc, lấy tàu khác ta lại vào ». Chẳng hiểu ai đã nêu ra ý kiến ấy, thế là việc tìm cách đưa tàu rời bến gần như quên lãng. Anh em thủy thủ lao vào chuẩn bị tinh thần, vật chất cho chuyến đi bộ 3000 cây số một cách hào hứng. Họ rèn dao găm, khâu bao gạo, tìm dây võng .. không cần ai đôn đốc.
Biết được tin đội tàu 69 ngán trở về bằng đường biển, Đảng ủy đoàn 125 đã đánh điện chỉ thị « .. kiểm điểm sâu sắc tư tưởng tiêu cực, ngại gian khổ, hy sinh .. ». Chi bộ họp thực hiện chỉ thị của Đảng ủy, mất mươi phút đầu trầm lắng. Mọi người như phải sắp xếp lại cách suy nghĩ của mình. Nhớ lại buổi họp chi bộ lần trước, ý kiến đi bộ trở về có lý do nghe rất hợp lý, cấp trên cho phép, trong trường hợp đặc biệt đưa tàu vào bến mà buộc phải phá tàu, cũng được coi là hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ những lý do « hợp lý » ấy đang được điều chỉnh lại bằng câu hỏi : Đến này đã hết thời cơ rời bến chưa ? Không khí đấu tranh tư tưởng bén dần vào những ý kiến tranh luận. Đi bộ ra để tiếp tục đi chuyến khác không chịu bó tay ngồi lì ở đây mà coi là tiêu cực ư ? Khi tàu còn tốt, dầu còn đủ chỉ do địch phong tỏa mà ta chịu bó tay, chẳng lẽ chúng ta không đủ can đảm tạo ra thời cơ để vượt qua khu tuần tiễu của địch ! Ý kiến ban đầu chưa gặp nhau, dần dần các đảng viên đều nhận thấy mình đã có phần nào xao lãng quyết tâm ban đầu. Thế là cuộc họp của chi bộ lại lao vào bàn tính tới quyết tâm đi bằng đường biển.
Từ đó mỗi tháng hai lượt con nước ròng và cũng là hai lần đội tàu 69 bắt tay tạm biệt anh em bến. Có lần lên ngồi trên tàu, tàu đã mở máy, có lần tàu đã chạy được một đoạn, anh em bến gọi trở lại vì có tàu địch đã cặp kè ở cửa vàm.
Ngày 1 -1 -1967, ở các đài quan sát Hốt Năng, Cái Bầu, Bồ Đề đều báo cáo quan sát tình hình biển yên tĩnh. Anh em hoan hỉ nói với nhau : Thời cơ đây rồi, bọn Mỹ-ngụy nghỉ ăn Tết. Đêm nay chúng chè chén phè phỡn chắc sẽ chểnh mảng việc tuần tiễu ..
Sao đêm bắt đầu lấp lánh trên bầu trời, cũng là lúc tàu 69 đã ra khỏi cửa Vàm Lũng. Thuyền trưởng Phước, chính trị viên Huyền đứng trên đài chỉ huy chăm chú quan sát. Biển vắng lặng không một ánh đèn, không một con thuyền qua lại. Toàn đội vẫn nêu cao tinh thần cảnh giác, Không khí yên lặng vắng vẻ này , có thể chỉ là tạm thời. Biết đâu địch chẳng dùng rada rình mò từ xa. Phải lợi dụng chúng chưa kịp tới, để vượt ra đường biển quốc tế.
Thuyền trưởng Phước hạ lệnh cho tàu chạy tiến ba.
Gió đông nam mát dịu, nền trời tím thẫm mịn màng như một thảm nhung vĩ đại, được đính vào đó triệu triệu hạt kim cương đang tỏa sáng. Giá như rời bến lúc bình thường chắc chắn sẽ có tiếng hát, giọng ngâm .. nhưng bây giờ mọi cặp mắt của các thủy thủ đang dõi vào bóng đêm và họ đang nghĩ tới thời cơ may mắn, hoặc một tình huống rất xấu sắp xảy ra.
-   Báo cáo ở phía Rạch Gốc có pháo sáng bắn nhiều.
-   Các vị trí chú ý tăng cường quan sát.
-   Có thể đêm nay chúng vui tết, bắn chơi.
-   Hình như có đèn tàu.
-   Đèn tại chỗ hay đang đi ?
-   Có thể địch đang xuống mũi, phải chú ý theo dõi.
-   Báo cáo có đèn tàu, mạn phải 35 độ.
Thuyền trưởng Phước hạ lệnh :
-   Ngoặt 15 độ trái.
Thuyền phó Hai ở trong phòng hải đồ mỗi lần nghe báo cáo lại ghi lên hải đồ một hình nửa quả trám, tượng trưng tàu địch. Hình nửa quả trám thứ hai đã đi song song với tàu ta, lúc ta chưa chuyển hướng.
Khoảng 20 phút sau, vị trí quan sát phía sau báo cáo, Hai lại vẽ nửa hình quả trám khác theo tọa độ được xác định. Thấy tàu địch vẫn đi song song với tàu của mình, anh quăng bút chì rồi báo cáo lên đài chỉ huy :
-   Góc mạn phải đèn tàu phía sau không thay đổi, Như vậy là có con tàu đang đi theo ta cùng hướng, cùng tốc độ.
Phước cho tàu chạy về tuyến đường cũ vẫn thấy góc độ ánh đèn phía sau không thay đổi. Không còn nghi ngờ gì nữa, địch đang bám sát ta. Các thủy thủ nhận lệnh nạp đạn sẵn sàng, kiểm tra vòi rồng và sẵn sàng chiến đấu.
Tàu 69 đã cách bến gần 30 hải lý, đang cố hết sức để bỏ xa ánh sáng ma quái phía sau đang bám theo mình. Đột nhiên có một tàu cao tốc xuất hiện cách 69 không đầy một hải lý. Hồ Quanh Phụng nhìn thấy một khối đen, đang vun vút lao vào mạn trái tàu của mình, anh chỉ kịp hét to :
-   Tàu địch định chạy vượt qua .
Thuyền trưởng hạ lệnh cho Loan – chiến sĩ hàng hải :
-   Đánh hết tay lái phải.
Tàu ta vừa chiếm được góc thuận lợi nhất thì tàu địch vào chỉ còn khoảng cách 20 đến 25 mét. Nó bật đèn pha và có tiếng kêu «  Vi xi, vi xi .. ». Máy bay địch đến thả một tràng pháo sáng đang nổ lụp bụp trên đầu.
Khẩu đội 14,8 của Lưu Kim Nhật đã cướp thời cơ, găm vào tàu địch một loạt đạn dài, trung liên của Hải Hồ bồi tiếp. Khẩu trọng liên của địch nổ được nửa băng vào tàu ta, còn nửa băng đạn lửa bay vọt lên trời. Tên Mỹ đứng trên đài quan sát, chiếu đèn pha bị trúng đạn, ngã bổ nhào xuống. Tàu địch bị hỏng máy, quay tròn tại chỗ.
Biên đội tàu địch ở phía sau xông tới, bắn như mưa vào tàu 69. Thủy thủ trưởng Dĩ hy sinh.
Thuyền trưởng Phước hạ lệnh thả thùng khói mù và cho quay tàu về hướng bến.
Đám khói đùn lên rồi trải rộng ra che khuất tàu của ta.
Chiếc máy bay C.130 thả một vành đai pháo sáng xung quanh đám khói. Biên đội tàu chiến địch xông vào tiến công đám khói. Chúng không ngờ tàu 69 đã ra khỏi đám khói mù từ lâu.
Tiếng súng địch xa dần. Lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh giữa hai đợt chiến đấu, anh em tranh thủ nạp đạn, thông nòng súng.
Chính trị viên Huyền thông báo động viên :
-   Trong đợt chiến đấu vừa qua, chúng ta đã phá hủy một tàu và diệt một số tên địch. Toàn đội ta đã nêu cao tinh thần dũng cảm. Trận đánh còn có thể tiếp diễn, chúng ta phát huy tinh thần chiến thắng, kiên quyết đánh tan các đợt tiến công của địch, trả thù cho đ/c Dĩ
Tiếng n ói của chính trị viên như thôi thúc, làm tăng thêm sự vững vàng, tin tươngt ở sức chiến đấu của đội mình. Ở các vị trí chiến đấu, anh em trao đổi với nhau những việc cần làm mà đợt chiến đấu vừa qua còn thiếu sót.
Nghe tiếng máy bay C.130 và một tràng tiếng nổ bục .. bục .. ở lưng trời, mọi người ngẩng nhìn chùm pháo sáng rồi lại nhìn khu vực mình được phân công quan sát.
Màu trắng của tàu 69 dần dần lộ rõ trên mặt biển. Cái màu trắng lúc bình thường duyên dáng đáng yêu, lúc này trở nên vô vị làm sao. Nhưng sự việc đã diễn ra như thế, không có cách nào lựa chọn khác là kiên quyết chiến đầu đến cùng.
Bé nhanh nhẹn trở về buồng máy. Nhật cầm càng súng 14,8 lia đường ngắm trên mặt biển. Hải Hồ đứng im lặng bên khẩu trung liên ghim trên trụ lan can tàu ..
Đạn pháo cỡ lớn từ chiếc hộ vệ hạm của Mỹ, từ hàng chục kilômet phóng về phía tàu 69 quả nổ xa, quả nổ gần. Thỉnh thoảng lại có cột nước vọt lên cao, rồi như một trận mưa rắc xuống đầu mọi người.
Hải Hồ vẫn đứng ngắm về phía những tia chớp nhỏ chìm dưới chân sóng. Nếu đưa anh lên màn ảnh lúc này, người xem có thể tưởng đó là tư thế của nhà thơ, giữa lúc tứ thơ hình thành trong tư duy. Cái sống, cái chết của đợt chiến đấu sắp tới, anh đã dàn xếp ổn thỏa từ lúc bước chân xuống tàu. Trong tâm hồn anh lúc này không một chút rối ren mà chỉ thấy những hình ảnh chiến thắng ẩn hiện.
Anh em gác phía sau tàu báo cáo «  Có ba chiếc CPF đang bám ta ». Hải Hồ nhanh nhẹn tì vai vào báng súng, quay nòng về phía địch chờ sẵn.
Bằng những chuỗi đạn lửa nối tiếp nhau không ngớt, từ tàu địch đan chéo phía trước, phía sau tàu 69. Đạn va vào thành tàu kêu keng, keng ..
Chờ địch vào trong tầm bắn có hiệu quả, tàu 69 quật trả địch không kém phần ác liệt. Thập đặt nòng DKZ.57 lên vai quỳ bắn vào chiếc tàu gần nhất. Khẩu 14,8 do Lê Xuân Khảm siết cò, xỉa từng loạt đạn vào cái khối đen đang phun ra những chớp lửa. Những loạt đạn của Hải Hồ, của thuyền phó Hai Hân quyện vào muôn ngàn tiếng nổ khác.
Một viên đạn trúng bàn chân Hải Hồ. Anh cố giữ vững tư thế bắn để tiếp tục trận đánh, nhưng máu ra nhiều làm anh choáng váng, không còn nhìn thấy gì trước mặt. Hải Hồ bỏi Báu :
-   Địch chỗ nào chỉ cho mình bắn với.
-   Góc mạn phải phía sau 30 độ.
Hải Hồ nghiến răng siết cò. Anh hy vọng đường đạn của mình sẽ góp phần uy hiếp kẻ địch.
Lát sau, Hải Hồ lại tỉnh táo. Anh cảm thấy bên bắp chân bị thương như có một sợi dây thép nung đỏ siết vào xương mình. Muốn chặt phăng cái bàn chân lắt lẻo vướng víu ấy, nhưng anh không còn đủ sức làm việc đó. Thấy thuyền phó Hân tới, Hải Hồ nói :
-   Anh chặt cho tôi cái chân này, vướng quá.
-   Ai lại làm thế.
Hải Hồ vẫn khẩn khoản với Hân chặt đoạn ống chân bị gãy.
Hân ga rô lại vết thương cho Hải Hồ, rồi vội vã trở về vị trí của mình.
Trận chiến đang ở giờ phút nghiêm trọng nhất. Lời kêu gọi của bí thư chi bộ Tăng Văn Huyền vang lên «  Các đồng chí hãy trả thù cho đồng chí Dĩ, hãy noi gương kiên cường dũng cảm chiến đầu của đ/c Hải Hồ. Tôi thay mặt chi bộ công nhận từ giờ phút này đ/c Hải hồ là đảng viên chính thức ».
Tiếng reo, tiếng kêu thét hòa vào tiếng nổ hỗn loạn.
-   Trúng rồi, nó lui rồi.
-   Thôi bắn, nó chạy xa rồi.
-   Báo cáo thuyền trưởng : cháy .. cháy.
-   Dập lửa ngay, ở đó có chất nổ.
-   Vòi rồng đâu ?
Chính trị viên Huyển chạy bổ đến chỗ đám cháy ở cuối tàu. Mấy thủy thủ đứng lặng trước cái vòi rồng đã bị đạn xuyên thủng nhiều chỗ. Ngọn lửa đỏ như máu đang phun ra trong đám khói đặc sệt. Làm gì để dập tắt đám cháy. Họ chờ đợi cái chết xem chừng khó tránh khỏi. Họ chờ khoảnh khắc nào đó, hàng tấn bộc phá sẽ nổ tung và thế là hết. Anh giáo viên trung cấp hàng hải Lê Xuân Khảm vẫn bình thản. Trong óc anh thoáng những hình ảnh xa xôi về người mẹ, người yêu và lời hứa hẹn lúc ra đi. « Chúng mình ra xa quá rồi, vào bờ không kịp nữa ». Nghe tiếng Nhật vừa nói như một âm thanh mơ hồ, không còn là tiếng nói của thường ngày.
-   Các đồng chí hãy tìm cách cứu con tàu.
Chính Huyển cũng có khoảnh khắc đứng lặng bất lực, nhưng anh tự cảm thấy có điều gì hết sức vô lý với sự bất lực đó. Anh kêu lên « hãy tìm cách cứu tàu », nhưng chính anh cũng chưa nghĩ ra cách gì. Nói xong, Huyển chạy về phía buồng lái.
Câu nói của chính trị viên đến với Khảm niềm hy vọng mãnh liệt, sự băng lạnh của cái chết đã đến trong tâm hồn anh bỗng có một ngọn lửa xua tan. Khảm chạy theo sau Huyền.
Thanh Loan đang ngồi lái, nghe nói đám cháy phía sau chưa dập tắt được, vòi rồng bị đạn bắn thủng, anh cố bới óc tìm cách cứu chữa và chợt nhớ tới nó. Mừng quá, Loan gọi Kiểu lái thay, rồi vội vã chạy vào buồng lấy vòi rồng.
Vòi rồng dự trữ để trong buồng lái từ lâu, ít ai để ý đến, vì không ngời lại có sự cố như thế này xảy ra.
Mọi người chạy theo Loan , vừa chạy vừa thúc nhau « nhanh lên ».
Phụng giật một đầu vòi rồng từ tay Loan để lắp vào máy bơm. Giây phút sau, một luồng nước từ vòi rồng phun ra trắng xóa dìm ngọn lửa xuống. Ngọn lửa dịu dần rồi tắt ngấm, chỉ còn những đụn khói đặc sệt tiếp tục tuôn ra.
Báu, Khảm, Nhật thay nhau chui vào đám khói để chặt đứt dây théo buộc những quả hỏa mù, rồi họ bưng những hộp sắt nóng bỏng đó vứt xuống biển. Bàn tay họ bị lột từng mảng da, nhưng họ cảm thấy vui mừng, sung sướng. Một lần nữa họ đã đẩy lùi được cái chết.
Ba chiếc tàu địch lại dàn đội hình tiến công vào tàu 69. Tiếng các loại đạn nổ dữ dội, những chuỗi lửa hình cầu vồng đan xung quanh tàu ta. Đơn vị bảo vệ bến đã nhìn rõ trận đánh đang diễn ra. Tàu 69 vưa chạy vừa bắn trả lại địch. Nhìn thấy bờ, mọi người mừng thầm. Phước bàn với Huyển : Tìm được cửa lạch là thượng sách, nếu không thì cứ lao vào bờ, nhanh chóng đưa thương binh tử sĩ lên bờ rồi phá hủy tàu.
Hai chiếc BCF ( loại tàu tuần tiễu ven bở cỡ nhỏ ) cố ý chặn đường tàu 69. Thuyền trưởng vừa hạ lệnh « chú ý quan sát phía trước », ngay lúc đó, có lửa đạn ở trong bờ bắn ra. Anh em sung sướng reo lên :
-   Ở trong bờ chi viện cho chúng ta.
-   Cửa vàm kia rồi.
Súng trong bờ, súng trên tàu 69 xả đạn như mưa, tạo ra một thế trận rất đẹp, vây địch từ hai phía. Hai chiếc tàu BCF vừa chống cự vừa tháo chạy.
Pháo sáng, máy bay địch thả cả một vùng rộng năm , sáu kilômet, sáng như ban ngày. Nhìn rõ cửa Vàm, Thanh Loan cho tàu lao vào.
Đến bến, anh chị em trong bến chạy xô tới, ôm lấy các thủy thủ. Vui mừng xúc động không ai cầm nổi nước mắt; mỗi người phải cố ghìm tiếng khóc đang nghẹn trong cổ họng cho khỏi bật ra.
Trên trời, 2 chiếc máy bay Thần sấm tức tối gào thét. Những loạt bom nổ vu vơ giữa rừng.
Một thủy thủ nhận xét :
- Cái thằng hải quân Mỹ ăn tham quá, khi không nuốt nổi mới gọi thằng không quân đến vét đĩa.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #26 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2007, 04:48:35 pm »

Chương tám

BỐN MŨI TIẾN CÔNG TÁO BẠO

Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã tiến tới đỉnh cao quyết liệt nhất. Nhân dân và quân đội ta ở cả hai miền đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt tăng quân để thực hiện kế hoạch chiến lược “Tìm và diệt”, chúng huy động hầu hết những binh đoàn tinh nhuệ nhất : sư đoàn I “Anh cả đỏ”, sư đoàn “Lính cổ da” mở chiến dịch phản công mang tên At-ten-bo-rơ nhưng đã thất bại thảm hại.
Cuộc chiến tranh phá hoại của chúng vào miền Bắc, với quy mô ngày càng ác liệt, muốn biến miền Bắc “trở lại thời kỳ đồ đá” không còn đủ sức chi viện cho miền Nam, nhưng trái lại miền Bắc vẫn đứng vững và việc chi viện cho tiền tuyến lớn không ngừng tăng lên. Trong lúc các mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Việt Nam đều bị phá sản, thì phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ với khẩu hiệu “phản đối đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam” lên cao chưa từng thấy. Nhà trắng và Lầu Năm góc Mỹ lâm vào thế bị động, lúng túng đối phó ở mọi phía. Bộ Chính trị TW Đảng ra rất sáng suốt, nhìn thấy thời cơ chiến lược đã đến, đã lãnh đạo quân và dân miền Nam thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt giành thắng lợi to lớn vào giữa Tết Mậu Thân (1968).
Để góp phần chi viện cho tiền tuyến lớn giành thắng lợi trong trận đánh có ý nghĩa lịch sử ấy, Quân ủy TW và Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo lực lượng vận tải chiến lược đường biển bằng mọi giá kịp thời tiếp tế vũ khí cho chiến trường.
Đoàn 125 nhận được một kế hoạch tuyệt mật từ Bộ Tổng tham mưu đưa xuống, chuẩn bị bốn chiếc tàu loại 100 tấn chở đầy vũ khí, sẽ vào bến đúng đêm ba mươi Tết. Mỗi chiếc tàu đi một hướng, nếu tàu nào bị lộ không được vào bến sẽ trở thành mũi nghi binh thu hút địch, để mũi khác rảnh rang tiến vào điểm đã định.
Tàu C.165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đi vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Tàu C.235 do thuyền trưởng Phan Vinh chỉ huy, vào bến Hòn Hèo (Phú Khánh), tàu C.43 do thuyền trưởng Đắc Thắng chỉ huy, vào bên Đức Phổ (Quảng Ngãi), tàu C.56 do thuyền trưởng Ba (Râu) chỉ huy vào bến Bà Rịa.
Ngay từ đêm các đội tàu xuất phát , bộ phận B cục tác chiến, sở chỉ huy đoàn 125 luôn có người thường trực theo dõi. Những ngày đêm các đội tàu đã vào tới vùng biển địch kiểm soát, mối lo lắng của những người chỉ huy tăng lên. Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát thường xuyên có mặt ở sở chỉ huy đoàn 125 để kịp thời giúp các đội taù xử trí các tình huống phức tạp.
.. Khi nhận được bức điện của tàu C.235 “ Tôi đã thả hàng xong”, trong sở chỉ huy đoàn 125 vui mừng xôn xao. Thắng lợi ấy đã được tính toán tới ngay từ khi làm kế hoạch; đã gửi gắm hy vọng và tin tưởng vào đội tàu C.235, nhất là thuyền trưởng Phan Vinh, nhưng khi bức điện này tới, mọi người vẫn cảm thấy đột ngột.
Hồi 22 giờ 30 phút còn nhận được điện của thuyền trưởng Phan Vinh nói “Cách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám”, như vậy đội C.235 đã luồn lách thế nào mà vào được bến an toàn ?
Những người  chỉ huy, ai cũng biết, đưa con tàu vào bến Hòn Hèo trong thời kỳ này là việc làm vượt xa sự táo bạo. Cái cửa hẹp để thắng lợi có thể lọt qua được là sự khéo léo, dũng cảm tuyệt vời trong việc lựa chọn thời cơ, mà thời cơ chỉ đến với không gian, thời gian ngắn ngủi nhỏ nhoi, đúng lúc, đúng chỗ địch sơ hở. Bến Hòn Hèo chỉ cách Nha Trang khoảng 12 kilomet, gần quân cảng Cam Ranh, nơi hang ổ của hải quân địch. Hai căn cứ rada gần đó, cùng với tàu chiến, máy bay trinh sát, tuần tiễu không hở một phút.
Thuyền trưởngt Nguyễn Phan Vinh thật xứng đáng với niềm tin cậy của lãnh đạo. Tên anh được những người chỉ huy hải quân có mặt ở sở chỉ huy đoàn 125 nhắc đến như niềm tự hào của chính mình. Người vui nhất lúc này là trung úy tiểu ban tác chiến Trần phong. Phan Vinh là bạn tri kỉ của anh. Cái thằng bạn con chấy cắn đôi ấy đã lập được kỳ công. Nó đã đem lại vinh dự cho bạn bè.
Các đồng chí chỉ huy người đứng, người ngồi trước một cái bàn lớn, trải hải đồ ở trên. Ngọn đèn măng-sông sáng lóa. Khói thuốc lá bay như một lớp sương mỏng khắp căn hầm. Từng nhóm trao đổi cảm nghĩ của mình. Tiếng chính ủy Phúc trầm ngâm :
-   Bây giờ là 2 giờ 30, vẫn có khả năng ra kịp.
Chính ủy Phúc ngoảnh lại hỏi anh trợ lý thông tin :
-   Bức điện biểu dương C.235 đã gửi chưa ?
-   Báo cáo. Gửi rồi !
Tiếng trung tá Huỳnh Công Đạo vang lên :
-   Alo .. này .. đồng chí động viên anh em canh máy theo dõi xem C.43 và C.165 có gọi về không. Alô .. C.56 à ..ừ ..ừ .. chúng tôi rất nóng mong tin của nó. Động viên anh em trực canh không được rời máy một phút.
Không khí trong sở chỉ huy bỗng lắng xuống. Mọi người nhìn về phía đoàn phó Huỳnh Công Đạo chờ đợi, lo lắng. Đạo buông ống nghe, cúi xuống xem hải đồ, rồi nói :
-   C.156 và C.43 có thể xảy ra chiến đấu, đến bây giờ vẫn chưa có tin gì. C.56 đang gặp ba tàu địch ở khoảng này. Đạo đưa ngón tay xuống một điểm trên hải đồ. Chúng phát tín hiệu yêu cầu ta dừng máy. Máy bay thả pháo sáng, tàu ta vẫn đi. Cán bộ thuyền C.56 nhận định có thể xảy ra chiến đấu. Khả năng C.56 hôm nay vẫn chưa có thể vào được.
Mỗi người góp một ý kiến về cách xử trí cho tàu C.56. Nếu cứ cho tiếp tục vào sẽ xảy ra chiến đấu. Cho nó quay ra liệu có tránh được không. Thôi cứ cho nó ra để thu hút địch. Địch chẳng đã bám C.56 ba ngày liền mà không dám nổ súng là gì ..
Đang bàn bạc sôi nổi chưa ngã ngũ việc xử trí của C.56 nên thế nào, thì nhận được điện của tàu C.235. Bức điện cộc lốc “ Tôi bị tàu chiến, máy bay địch phát hiện – Phan Vinh”.
Sở chỉ huy bỗng im phắc. Tiếng rào rào nhè nhẹ của mấy con dơi đang chao đi chao lại xung quanh đèn. Khuôn mặt các cán bộ đều đăm chiêu.
Chưa nắm hết kết quả trận tiến công “4 mũi” này, nhưng mọi người đều thấy thắng lợi rất hạn chế. Không biết những anh em đi trên những con taù ấy ra sao. Trần Phong nghĩ nhiều đến Phan Vinh. Mới 10 ngày qua, hôm chia tay nhau, Vinh siết chặt tay mình tạm biệt “hẹn gặp nhau trong ngày quang vinh”, nhưng làm sao có thể lường hết được những gì xảy ra trong chiến tranh. Nỗi lo lắng chung, nỗi thương nhớ bạn cồn cào xé ruột, xé gan. Tiếng nói, hinh ảnh của Vinh như còn đâu đây “ mày có bộ cánh nào khá hơn đưa tao mặc để đi kiếm cô vợ ..”, “Thôi hãy xếp lại. Tao thấy lúc này suy nghĩ nhiều đến riêng tư sẽ khó tiến bước”. “Trời gầm, cái đầu tao cũng không thay đổi .. tao đã tình nguyện làm con lạc đà trong bãi sa mạc cách mạng ..”, “ Mầy sẽ lục trong va-li của tao, cái gì cần mầy cứ lấy, đưa cho thằng Châu hộp dao bào, cho thằng Thạnh những thứ gì để nó chuẩn bị cưới vợ, đưa cho anh Sử tao mấy chục ..”. Liệu những lời lẽ đó có phải là lời trăng chối cuối cùng không ? Đến nay là hơn hai chục năm liên tục chiến đấu, công tác chưa có lúc nào cậu ấy dừng lại tính toán cho riêng mình. Ngay cả số lương hàng tháng cậu ấy cũng đem chia cho bạn bè nào gặp khó khăn. Chưa bao giờ Trần Phong thấy rõ phẩm chất cao quý của Phan Vinh như giờ phút này. “ Dù có chết giữa biển cả vì lý tưởng cao đẹp còn hơn cuộc sống yên ổn tầm thường”. Lý tưởng ấy đã trở thành sức mạnh, không có khó khăn, nguy hiểm nào có thể lay chuyển được tinh thần cách mạng của Phan Vinh.
Phó đoàn Đạo , chính ủy Phúc trực suốt ngày đêm để chờ một dòng điện của các đội tàu C.235, C.165, C.43 gửi về, nhưng vẫn biệt vô âm tín.
Qua nhiều ngày không liên lạc được, thấy không còn hy vọng, Đạo hạ lệnh cho thông tin nghỉ thu canh.
Mọi người xoay sang tìm nguồn tin của những con tàu ấy qua các đài phát thanh công khai của địch. Vào các giờ chúng đưa tin chiến sự, các cán bộ chỉ huy, tham mưu cắt canh nhau nghe đài BBC, đài Tự do, đài phát thanh Sài Gòn.
Hồi 13 giờ ngày 24-3-1968 nghe đái Tự do giới thiệu có tường thuật đặc biệt một trận đánh trên biển. Các cán bộ chỉ huy đoàn 125 gọi nhau tới ngồi xúm quanh chiếc đài thu bán dẫn. Tiếng lè nhè của phát thanh viên nói :
“ Đây là bài tường thuật vụ đuổi bắt chiếc “tàu ma” ở Nha Trang”. Nghe tới đó mọi người biết là nó đang nói tới chiếc tàu của Nguyễn Phan Vinh. Chính ủy Phúc thở dài nặng nhọc. Anh vặn núm âm lượng cho đài nói to hơn.
..” Cộng sản được lệnh chuẩn bị tăng cường lực lượng vũ khí nhất là bằng đường biển ở Nha Trang.
Hồi 19 giờ 30 ngày 29 tháng 2, phi cơ không tuần của hải quân báo cáo phát hiện nhiều tàu lạ ở ngoài khơi hải phận quốc tế. Gần hải phận Việt Nam có ba, bốn tàu lạ sắp vào hải phận chúng ta ..
Sau khi một chiếc xâm nhập vùng 2 duyên hải lúc 22 giờ (29-2), chiến hạm Ngọc Hồi, H.Q 617, bốn thuyền của duyên đoàn 25 được chỉ thị chặn bắt sống tàu này. Công việc săn đuổi “tàu ma” vô cùng hồi hộp. Trong đêm tối, tàu ta và tàu địch đuổi nhau trên biển. Lúc 22 giờ 30 tàu lạ còn cách Hòn Hèo 10 hải lý, có tốc độ 10 hải lý/giờ. Tàu ta không thắp đèn phải theo dõi bằng rada. Tàu địch bị lộ. Lúc 2 giờ (1-3) cách Hòn Hèo năm hải lý, sau đó tàu lạ chạy vào bờ lẩn trốn. Hồi 1 giờ 36 phút, chiến hạm Ngọc Hồi dùng rada phát hiện được tàu địch, HQ.12. HQ.17 và các thuyền ta đang tìm cách chặn bắt tàu trên. Lúc này, tàu ta được lệnh thắp đèn, tàu không thắp đèn là tàu địch bị khép chặt vào giữa, trong là bờ cạn. Sau hơn một giờ tìm kiếm, địch không chạy thoát. Lúc 1 giờ 51 phút ngày 1 tháng 3, bộ chỉ huy ra lệnh bật đèn sáng và tàu ở sát bờ không đèn là taù địch. Đến 2 giờ 20 phút, ta nhận thấy một tàu nằm sát bờ sau khi đã xác minh chính xác, các tàu được lệnh bắn các loại súng lớn nhỏ từ 12,7 trở xuống với ý định bắt sống tàu. Các pháo lớn bắn vào bờ không cho địch trên tàu tẩu thoát, đồng thời gọi phi cơ đến thả hỏa châu soi sáng. Biết không thể nào tẩu thoát, Việt Cộng ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo. Lực lượng trên bờ của địch khoảng một tiểu đoàn, có lẽ đã nhận nhiệm vụ yểm trợ tàu. Biết vậy, các chiến hạm của ta đã lệnh bắn pháo lớn vào tàu địch. Sau 30 phút chống trả, tàu địch bốc cháy. Thời gian này phi cơ được gọi đến bắn phá dọn đường ở dọc biển cho một cuộc lục soát. Đến 2 giờ 41 phút (1-3), chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực Việt Cộng bắn ra dữ dội nên lực lượng đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện ..”.
Nghe xong bài tường thuật lủng ca lủng củng của đài Tự do, anh em đưa ra nhiều nhận xét. Bọn chúng không bao giờ dám đưa ra hết sự thật, mà đã phải nói tới một trận đánh trả quyết liệt và không thu được kết quả gì rõ rệt, như vậy chắc chắn chúng sẽ bị thiệt hại lớn. Ở bến, từ lâu ta đã mất liên lạc, lực lượng nào có pháo lớn phối hợp với tàu lên, đã bị đánh phải bốc quân đi. Anh em tàu C.235 hay ai đánh ? .. Cuối cùng, các thủ trưởng đoàn 125 dựa vào bức điện của thuyền trưởng Phan Vinh báo cáo “ .. đã thả hết hàng” và tin địch vừa đưa, để sơ bộ kết luận : .. như vậy là taù C.235 đã hoàn thánh xuất sắc nhiệm vụ.
Nhiều công việc khác thúc bách cán bộ chỉ huy đoàn 125 rời khỏi sở chỉ huy. Nhưng những con tàu biệt tăm kia vẫn còn khắc khoải trong tâm trí mọi người. Mõi lần họp với cấp trên hoặc có một chuyến đi nào đí vừa trở về, các thủ trưởng đoàn thường tìm hỏi : Có tin gì thêm không ? Và mỗi lần đồng chí trợ lý tác chiến báo cáo có tin của bến nói về tàu C.165, trên cho biết thêm về tàu C.43, là các anh lại vớ lấy cuốn sổ điện, đọc ngấu nghiến.
Hôm ấy, chính ủy đoàn vừa đi họp trên Bộ tư lệnh để nhận nhiệm vụ mới trở về thì nhận được thư của căn cứ sơ tán di tham mưu trưởng Nguyễn Văn Tê viết .. “ Anh em tàu C.56 đã trở về an toàn” – Chính ủy đọc một đoạn lại dừng, vì hình ảnh anh em trên những con tàu biệt tăm kia dồn dập hiện lên trong óc, làm anh phân tán tư tưởng. Anh đọc tiếp “ Sức khỏe anh em giảm sút nhiều. Tinh thần căng thẳng mệt mỏi nhưng không có hiện tượng tỏ ra tiêu cực. Gần nửa tháng đi trên biển, địch bám sát, anh em dũng cảm mưu trí né tránh, quyết tâm đưa hàng vào bến”. Đ/c Ba ( thuyền trưởng ) kể : “ Khi chuyển hướng vào bờ có một máy bat trinh sát địch lượn hai vòng rồi đi thẳng. Không có hiện tượng rada theo dõi. Đến khoảng 7 giờ tối, có bảy, tám ánh đèn taù dàn hình vòng cung chặn đường. Chúng tôi cho tàu lao thẳng chẻ đôi đội hình tàu kia. Đến nơi mới rõ là tàu địch cản đường mình. Tôi cho tàu bẻ góc 80 độ, tự nhiên dãy đèn tàu kia tắt dần. Khi tàu ta lại quay hướng vào bờ, thì các đèn đó lại bật sáng. Cùng lúc, đ/c Ngọc thuyền phó phát hiện một tuyến đèn tàu nửa ở gần bờ, tôi lại cho tàu quặt lên hướng bắc 0 độ. Tất cả những tuyến đèn kia đều tắt hết. Cấp ủy, chúng tôi họp xác định : địch đã biết rõ hướng tàu ta vào, quyết định cho tàu mình quay ra. Vừa quay ra một đoạn, thì đèn pha trên một tàu địch phục sẵn chiếu thẳng vào chúng tôi. Nó phát tín hiệu “ đứng lại không sẽ bắn”. Tôi hội ý với anh Sạn chính trị viên thống nhất nhận định : có thể xảy ra chiến đấu. Toàn tàu anh em sẵn sàng đánh. Tôi hạ lệnh tàu bật đèn hành trình như các tàu đánh cá bình thường. Nó bắn một loạt đạn 20, hai phát đạn 57 phía trước mũi, và phía sau tàu ta. Tàu ta bị gãy cột ăng-ten. Ban chỉ huy tàu chúng tôi (Ba, Ngọc, Sạn) đứng trên đài chỉ huy thấy địch bắn cao, phán đoán như vậy là nó vẫn còn bắn dọa. Tôi nhắc anh em không được nổ súng khi chưa có lệnh.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #27 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2007, 03:40:20 pm »

Máy bay địch đến thả pháo sáng. Một tàu khu trục địch thả trôi đèn trước mũi tàu chúng tôi. Nó phát tín hiệu “ Dừng lại, không tôi bắn”. Chúng tôi tiếp tục đi tới gần, trông rõ cả số 67 trên mạn tàu khu trục. Anh em đều có ý nghĩ, chúng kèm chặt đến sáng mai chúng mới đánh. Sáng hôm sau, vẫn chiếc tàu khu trục 67 bám theo. Nó đi rất gần. Nó lại phát tín hiệu đòi chúng tôi dừng lại nếu không sẽ nổ súng. Chúng tôi không trả lời. Nó bắn một phát 57 đón trước mũi tàu ta. Ngay lúc đó chúng tôi nhận được lệnh cho tàu trở về ..
Thư náy sơ bộ báo cáo các anh biết một vài diễn biến của tàu C.56. Tôi sẽ hướng dẫn anh em rút kinh nghiệm gửi về sau. Hiện nay, anh em đang nghỉ. Râu tóc cậu nào cậu ấy mọc rậm cứ như người rừng. Nhất là Ba “Râu”, không còn nhận ra được nữa. Anh em gửi lời thăm sức khỏe các anh”.
Đọc xong bức thư, chính ủy nói với phó đoàn trưởng :
-   Như vậy là đi bốn về được một. Chuyện hy sinh tổn thấy mình đã lường trước là khó tránh nhưng vẫn thấy đau quá. Tàu mất còn chịu được, chứ người thì .. toàn là những chiến sĩ ưu tú kiên cường, lão luyện đi biển. Đào tạo được một thuyền trưởng như Phan Vinh đâu phải dễ.
-   Trước chuyến đi tôi nói đùa với cậu Vinh “ Việc lấy vợ cậu để chúng mình tìm cho, sau chuyến này về cưới” – Đoàn phó nhắc đến Phan Vinh bằng tình cảm hết sức đặc biệt, như nói tới người em ruột mình đang ở rất xa – Tính cậu ấy cũng lạ. Nói là kén vợ thì cũng chưa hẳn như vậy, nhưng chẳng hiểu nhiều đám cũng khá, nhìn hình thức thì ưng nhưng gặp gỡ nhau vài lần lại chê “lý tưởng yế”. Cậu ấy nêu tiêu chuẩn vợ đẹp cần vừa phải nhưng tâm hồn phải cao thượng. Có ai đó giới thiệu một cô chiến sĩ thi đua của nhà máy dệt Nam Định. Được mấy ngày phép, cậu ấy nhảy xổ xuống Nam Định để tìm hiểu. Khi trở về hỏi .. “ Thế nào ?” .. Cậu ấy trả lời “ Cô ấu có thể trở thành anh hùng, nhưng là vợ tôi thì còn phải xem xét đã”. Tôi có ý định bàn bạc kỹ với cậu ấy về việc lo liệu vợ con cho nó ổn định. Năm nay 32 tuổi rồi còn gì. Nhưng rồi công việc bận bịu cứ lôi đi, chưa giúp đỡ cậu ấy được gì cả. Bây giờ cảm thấy ân hận ..
Lắng nghe đoàn phó Đạo nói, mắt chính ủy Phúc nhìn đăm đăm vào khoảng không. Anh cũng có cảm nghĩ giống như Đạo : mình lo việc chung thì không đến nỗi .. nhưng chăm lo đến đời sống riêng của anh em thì chưa được bao nhiêu ..
Tuy chưa ai biết ai còn ai mất, nhưng cảm nghĩ chung của người ở nhà về tổn thất vừa qua là lớn. Mỗi lúc rảnh rỗi, anh em thường nhắc đến kỷ niệm của từng người đã đi xa ấy.

Bước vào năm 1968, đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề ở hai miiền Nam – Bắc nước ta. Sau thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết mậu thân của quân dân ta ở miền Nam. Giôn-xơn buộc phải ngừng ném bom miền Bắc. Nhưng bản chất ngoan cố, hiếu chiến và nham hiểm, xảo quyệt của chúng không hề thay đổi. Đế quốc Mỹ vẫn dồn sức vào ngăn chặn đường chiến lược Trường Sơn, gây cho ta không ít khó khăn. Đoàn 125 trong lúc tạm ngừng trên tuyến đường biển Nam-Bắc, đã ghé vai giải quyết một phần khó khăn của tuyến vận tải bộ, bằng cách đưa hàng từ Hải Phòng vào cảng Sông Gianh lập chân hàng cho Đường mòn Hồ Chí Minh. Công việc bề bộn xô tới nhưng không thể làm cho mọi người lãng quên “những chuyến tàu bặt tin”. Họ vẫn theo dõi và lâu lâu lại có một tin đưa tới với nội dung thật bất ngờ và xúc động :
-   Anh em đội tàu C.235 sau khi thả hết hàng, gặp địch đã chiến đấu dũng cảm, bắn đắm một tàu địch. Thuyền trưởng Phan Vinh cùng một số thủy thủ đã chiến đấu với một tiểu đoàn địch có máy bay, tàu chiến yểm hộ, buộc địch phải rút lui. Toàn đội C.235 còn lại năm người, đã mở một cuộc hành quân cực kỳ gian khổ để trở về đơn vị.
-   Đội tàu C.43 do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và chính trị viên Tuấn chỉ huy, gặp địch còn cách bờ 20 hải lý, đã chiến đấu với tàu chiến và máy bay địch. Bắn chìm và bắn hỏng mọt tàu, bắn rơi một máy bay địch. Sau đó đã phá hủy tàu rồi bơi vào bờ. Anh em đã hành quân vượt Trường Sơn trở về đơn vị.
Riêng tàu C.165 lần lượt đưa về nhiều tin khác nhau. Anh em ở bến báo cáo : đêm 29 – 2 – 1968, anh em gác nhìn ra biển thấy có nhiều ánh chớp và đường đạn lửa vạch lên trời. Địch thả pháo sáng ở khu vực lửa đạn. Anh em phán đoán có một trận đánh ở khơi xa. Trận đánh kéo dài chừng 30 phút, bỗng có ánh chớp lóa phụt từ mặt biển lên cao rồi tung ra như pháo hoa. Chỉ thấy ánh đèn pha quét ngang dọc. Ngay hôm sau, anh em ở bến cử người đi ven theo biển tìm kiếm anh em ta có ai trôi giạt vào không. Mấy ngày đi tìm chỉ thấy những mảnh gỗ bị trôi giạt vào bờ. Ít lâu sau, anh em trong đoàn lại truyền nhau câu chuyện nữa về những chiến sĩ cảm tử C.165. Không rõ nguồn tin ở đâu ? Có người nói qua tình báo ta thu lượm, do một tên lính ngụy đã dự trận chiến đấu đó kể lại. Khi gặp địch, anh em nổ súng trước bắn chìm một tuần tiễu của địch. Nhiều tàu địch dùng pháo bắn, tàu C.165 bị hỏng máy. Thấy anh em ngừng bắn, chúng cho hai chiếc tàu tuần tiễu (cỡ nhỏ) áp mạn C.165 với ý định bắt sống. Hai chiếc tàu địch vừa áp mạn thì C.165 nổ tung, cả ba chiếc tàu cùng chìm nghỉm.
Tất cả những câu chuyện vể những chiếc tàu “mất tích” lúc đầu chỉ có một số cán bộ biết, sau lan rộng dần ra toàn đoàn. Anh em say sưa kể cho nhau như kể về những truyền thuyết của những người bất tử.

Trong câu chuyện về “ những đội tàu mất tích” , thực hư thế nào, chúng ta hãy theo dõi những gì đã diễn ra trong chuyến đi đặc biệt của họ.
.. Tàu C.235 đi trên biển đến ngày thứ năm thì máy bay địch phát hiện.
Thuyền trưởng Phan Vinh đứng trên đài quan sát, mắt anh không rời chiếc máy bay địch. Khi máy bay địch bay đi, Vinh ném theo một câu “ chúng mày định giở trò gì đây ?”. Câu nói đó đang bắt thuyền trưởng phải giải đáp.
Mỗi khi gặp tình huống phức tạp, Lâm Quang Tuyến, chiến sĩ hàng hải thường thăm dò thái độ của thuyền trưởng. Dường như làm thế anh thấy vững tâm hơn. Lần này khi máy bay địch đã bay đi lâu rồi, chốc chốc Tuyến lại nhìn sang phía thuyền trưởng. Anh vẫn thấy thuyền trưởng của mình giữ vững tư thế, hai tay bám vào lan can, người hơi rướn về phía trước, khuôn mặt trái xoan gân guốc già hơn lúc bình thường tới vài tuổi. Dáng dấp tươi trẻ trên khuôn mặt đẹp trai của thuyền trưởng đã mất đi một phần. Nhưng vẻ đẹp khác của anh lại được biểu hiện rõ rệt hơn, đó là sự bình tĩnh, tự tin. Lúc bình thường, anh em thường nói đùa “thuyền trưởng có số đào hoa”, thì bây giờ anh có sức hấp dẫn cấp dưới mình sẵn sàng lao vào nơi nguy hiểm để giành thắng lợi.
Từ ngày đầu chung sống trong đội tàu, các thủy thủ đội C.235 đã “mê” thuyền trưởng Phan Vinh. Không riêng trong đội mà toàn đoàn 125 đều khen anh là người thuyền trưởng tài năng, dũng cảm, đã giành thắng lợi 11 chuyến đi. Không phạm sai sót gì đáng kể. Anh đã dành tình cảm của mình cho con tàu, cho con đường đầy sóng gió, cho các thủy thủ trong đội của mình. Hôm trước, trong lúc thư thái, Tuyến ngồi một mình ở mũi tàu ngắm trời, ngắm biển. Vinh lại ngồi bên, hỏi Tuyến :
-   Cậu đang nhớ người ở đất liền phải không ?
Tuyến cười hóm hỉnh :
-   Tôi đang nghĩ đến giải phóng miền Nam..
-   Vào lúc rảnh rang như thế này, mình thường nghĩ đến một người bạn gái. Cho phép mình suy diễn nhé. Vừa rồi cậu nhớ đến cô ả nào đó chứ đâu có chuyện nghĩ tới quốc gia đại sự.
Tuyến cười xòa, thừa nhận như vậy, rồi cả hai thổ lộ chuyện riêng tư như đôi bạn. Lúc này, Tuyến càng thấy thương yêu và kính phục người chỉ huy của mình.
Mấy hôm nay, toàn đội ăn chế độ “tự do” có nhiều thức ăn, nhưng mỗi bữa Vinh chỉ ăn một lưng cơm và uống một ly rượu. Anh em tỏ ra lo lắng cho sức khỏe của thuyền trưởng.
Máy bay địch đi được một lát. Mùi mang lên đài chỉ huy một tô moến và một đĩa cổ cánh gà. Vinh thấy tiếng bát đũa va nhau, anh ngoảnh lại hỏi Mùi :
- Có chất cay nữa chứ ?
Mùi rút chai rượu từ trong túi quần ra, giơ lên :
- Chừng này liệu đủ ấm bụng chưa ?
Vinh dặn Tuyến quan sát, rồi ngồi xuống mâm rượu. Anh đỡ ca rượu của Mùi đưa cho tợp một ngụm ngon lành. Vinh hỏi Mùi :
-   Anh có biết tại sao khi uống một ly rượu vào làm trong người ta khoan khoái lâng lâng lúc đi khơi xa không ?
-   Hơi men kích thích làm cho nhịp tim đập mạnh hơn, maú lưu thông thì trong cơ thể ta thấy dễ chịu.
-   Còn gì nữa ?
-   Càng uống thần kinh càng giãn nở và yếu dần không tiếp thu nổi các đề tài suy nghĩ phức tạp, lắt léo. Anh thấy đấy, người say rượu thường suy nghĩ thiếu chín chắn.
Phan Vinh cười ha hả thú vị :
- Suy luận về hoạt động chức năng của cơ thể con người của ông thợ máy thật dễ hiểu. Người say rượu giống bộ máy khi sợi dây chuyền lực bị nhúng vào dầu nhờn “ Khà .. khà . khà ..”. Thật tuyệt . Uống quá vào một chút, thần kinh lại bị tuột “cua roa”, khi gặp địch lại phải đấm vào ngực đọc bài thần chú mới tỉnh ( Một câu chuyện vui, anh em đoàn 125 thương hay nhắc lại : Một lần tàu vào Trà Vinh mắc cạn. Đồng chí X, ở lại bảo vệ taù. Thấy máy bay địch đến, anh hồi hộp quá nhưng tự trấn tĩnh, bằng cách đấm vào ngực mình và nói : X ơi ! Mày quên rồi à, hồi 9 năm mày đã từng là xạ thủ diệt bao nhiêu là địch).
Chuyện trò vui vẻ của thuyền trưởng làm cho mọi người vui lây.
Ăn uống xong, Mùi cầm bát xương gà hất xuống biển, tuột tay liệng luôn cả bát. Lại một trận cười nữa rộ lên.

Tàu sắp đến điểm chuyển hướng. Thuyền trưởng Vinh và thuyền phó Đàm Văn Nhi xách máy ra đo mặt trời. Thu thập được đủ số liệu thiên văn, hai anh cùng vào phòng hàng hải để tính toán. Trên bàn đặt một chồng sách bảng tra số liệu thiên văn. Mỗi tập sách dày hai ba trăm trang.
Vinh bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải :
-   Cậu tìm cho “đen ta tê một” khoảng trang 15 – 16.
Tuyến giở trang 15 thấy ngay hàng số mình cần tìm.
Một lát sau Vinh lại bảo :
-   Tìm bảng 8, số trang khoảng 50.
Tuyến giở bảng tra, thấy ngay tham số gốc X ở trang 50. Tuyến phục trí nhớ của thuyền trưởng. Cả về đo đạc tính toán, đáp số anh tìm được bao giờ cũng nhanh. Khi tính toán xong, Vinh có động tác như một thầy giáo, hỏi Pi bao nhiêu ? Lăm-đa bao nhiêu ? .. Anh xem xong mới xòe đáp số của mình ra.
Vinh đánh dấu lên hải đồ đoạn đường vừa tìm được. Nhìn đoạn đường vừa tính vượt qua điểm dự định chuyển hướng khoảng 10 hải lý về phía nam, Tuyến toan hỏi nhưng Vinh đã nói trước :
-   Chúng ta sẽ đi vào con đường địch hoàn toàn bất ngờ.
Nhìn điểm chuyển hướng của thuyền trưởng vừa chấm trên hải đồ, Tuyến vẽ một con đường thẳng tưởng tượng trong óc, thấy tàu của mình sẽ qua Hòn Lớn sát Cam Ranh. Nếu đi đường này sẽ phải ngoặt trở lại phía bắc, qua sát một bãi cạn, “trèo” qua bãi đá ngầm có độ sâu chừng 10 mét, rồi vào Hòn Một … Tuyến đường hết sức mạo hiểm, nếu người thuyền trưởng nào không gan góc và tự tin vào tài năng của mình thì không giám nghĩ đến.
Tàu C.235 vừa qua Hòn Một đã thấy dãy đèn trước mặt. Dự kiến xử trí của thuyền trưởng : trong lúc địch không ngờ ta ở phía nam lên, tàu ta tắt hết đèn hành trình lách qua đội hình tàu địch, đã được chi ủy đồng ý.
Tất cả thủy thủ vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Thuyền phó Nhi đi tới từng vị trí kiểm tra và nhắc lại lệnh của thuyền trưởng “Khi nào có lệnh mới được nổ súng”. Không khí vô cùng căng thẳng. Liệu tàu của mình có lọt qua nổi không ?
Tàu địch vẫn dàn sẵn đội hình. Những tàu lớn cách vài hải lý, thả trôi phía ngoài, nhưng hải thuyền loai PCF, Bo Bo, Mai-cơ lăng xăng chạy ở tuyến trong.
Ta vừa bắt được tin qua máy bộ đàm của địch báo cho nhau “ Tối nay có một chiếc tàu Việt cộng chạy vào hướng nam, hiện nay mất hút, phải tuần cảnh cẩn mật. Tàu nào không có đèn là tàu Việt cộng “. Khi tới gần khu vực tàu địch, thuyền trưởng Phan Vinh hạ lệnh bật đèn hành trình và cho tàu đi xen vào đội hình hải thuyền địch. Con tàu dường như cũng có linh hồn, nó cảm thấy mình đang đi giữa nơi nguy hiểm, tiếng máy bỗng trầm xuống êm hơn tiếng sóng, chân vịt thôi không gây ra một vệt bọt sáng kéo dài như trước; nó nhẹ nhàng lách qua giữa khoảng cách của hai chiếc Mai-cơ như anh lính đặc công trườn mình qua hàng rào thép gai.
Nhìn thấy bờ chỉ còn cách vài trăm mét nữa, mà bọn địch chưa hề biết, anh em thở phào. Sắp ổn rồi, còn việc giao hàng nữa là hoàn thành nhiệm vụ.
Thuyền trưởng Phan Vinh từ đài chỉ huy xuống đứng bên mạn tàu, chớp đèn tín hiệu gọi bến. Một lần, hai lần, chớp đền lần thứ ba .. thứ bốn, nhìn vào bờ vẫn thấy tối đen và lặng thinh không có tín hiệu đáp lại. Máy trưởng Mùi thở dài :
-   Chờ khuya quá, chắc quân ta đi ngủ rồi, nên không có người đón.
Tiếp lời thuyền trưởng, chính trị viên Tương động viên :
-   Đã năm sáu ngày đêm sóng gió vất vả, mệt mỏi .. nhưng không có cách nào khác. Địch đang ở bên cạnh chúng ta, nếu chờ đợi liên lạc với  bến sẽ mất thời gian .. chúng ta hãy dồn sức lực làm thật nhanh ..
Chính trị viên chưa nói dứt lời, ở dưới hầm hàng đã nói :
-   Nào  .. chuyển nhanh lên !
-   Chú ý nghe tôi phân công cảnh giới. Mai gác sườn phải. Tu sườn trái. Thứ sau lái .. Chú ý quan sát thấy hiện tượng gì khác báo cáo ngay.
-   Xuống hầm hàng thêm một người nữa !
-   Hai chúng tôi đủ rồi. Nào cố lên nào !
-   Liệu con kiến có cõng nổi con sâu to hơn mình không.
-   Cứ yên trí !
Tiếng lịch kịch , lục cục, tiếng ho khan, tiếng thở dốc bị tiếng sóng biển đè lên. Dây chuyền chuyển hàng đã được luyện tập, bây giờ khép kín hơn, không có động tác thừa, không có khâu nào chậm chạp. Sức mỗi người như có liều thuốc thần diệu nào đó kích thích, tăng lên gấp rưỡi, gấp đôi. Hòm hàng 50 kilogam cùng một người vác, 60 kilogam cũng chỉ có một người. Những hòm hàng to nhỏ đang loang loáng tuôn chảy từ hầm tàu qua mặt khoang rồi xuống biển.
Mọi người vừa chuyển hàng vừa bàn tán :
-   Ngoài biển sao có nhiều đèn sáng thế nhỉ ?
-   Pháo sáng.
Thuyền trưởng gọi đồng chí báo vụ :
-   Đồng chí đánh điện báo cáo về đoàn, tàu của chúng ta đã thả hết hàng.
Tiếng chuông điện báo động liên hồi, Không khí bỗng hết sức khẩn trương. Tiếng chân chạy, tiếng gọi nhau vội vã :
-   Báo động, về vị trí chiến đấu.
-   Anh Vinh đâu ? Điện của đoàn chúc mừng thắng lợi của tàu chúng ta.
-   Anh ấy trên đài chỉ huy.
-   Phong hử ?
-   Tuyến đó ư ? Tao lên đạn rồi, chỉ còn chờ nó tới gần.
-   Tao mà tiếp đạn thì mày thả sức bắn.
Trên tàu C.235, trật tự lao động đã biến đổi thành trật tự của đội hình chiến đấu chỉ trong vài giây. Thuyền trưởng Phan Vinh, chính trị viên Tương đã đứng trên đái chỉ huy đang dõi theo những ánh đèn pha nhiều màu đan nhau ở phía ngoài tàu mình .
Tàu ta đã nổ máy sẵn sàng cơ động. Các thủy thủ đã đặt ngón tay lên cò súng , đợi lệnh.
Pháo sáng, ánh đèn pha, đèn tàu nhích dần vào trong vịnh. Bọn Mỹ ở đây hiện lên như những con quái vật , có những cặp mắt luôn luôn đổi mày và bàn tay xòe ra với các loại móng vuốt muốn bóp nát con tàu C.235 nhỏ bé.
Một chiếc PCF lao qua cửa vịnh, chiếc khác lao tiếp .. rồi chúng rọi đèn pha về phía tàu ta.
Thuyền trưởng Phan Vinh hét to :
-   Bắn !
Hạ sĩ Hà Minh Nhật phóng một phát DKZ vào chiếc taù PCF gần nhất, các loại hỏa lực khác của ta bồi tiếp theo. Chiếc PCF bị trúng đạn, tuôn ra một luông khói đen, rồi chệnh choạng quay tròn tại chỗ. Một chiếc PCF khác vào tiếp.
Khẩu trọng liên của trung sĩ Nguyễn Văn Phong liên tiếp phun những luồng lửa vàng chói, giăng vào tàu địch. Các loại trung liên, tiểu liên trên tàu C.235 rung lên từng nhịp, hướng vào chiếc hải thuyền của địch. Tiếng đạn nổ, tiếng thép va vào thép,  tiếng gầm rít của máy. Những chuỗi lửa đạn đan nhau rối mắt. Vùng biển Hòn Hèo như đang bị sấm sét đốt cháy.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #28 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2007, 11:32:18 am »

Những tàu cỡ nhỏ của địch không chịu đựng được nổi cuộc tiến công của tàu C.235, phải lui ra phía ngoài. Một khoảnh khắc im lặng. Thuyền trưởng Phan Vinh đi quanh tàu kiểm tra lại lực lượng, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Gần nửa giờ chiến đấu, quân số tàu có 20 người, mất 5 người hy sinh, 2 bị thương nặng, 7 bị thương nhẹ. Chỉ còn 6 người lành lặn.
Đầu thuyền trưởng quấn băng như đội một chiếc mũ nồi trắng, tay xách khẩu tiểu liên. Anh nói dõng dạc :
-   Chúng ta sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên con tàu này. Quyết tâm hực hiện phương án hai ( khi bị lộ cho tàu chạy thẳng vào cảng Nha Tranh, áp tàu mình vào tàu địch hoặc áp sát vào cảng, rồi giật kíp cho 3 tấn bộc phá đã gài sẵn, phá hủy tàu mình đồng thời phá luôn bến cảng và tàu địch.
Âm thanh của thuyền trưởng lan nhanh ra khắp các vị trí chiến đấu như tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, dội vào tâm hồn mỗi thủy thủ. Những cảm nghĩ cháy bỏng như đang vọng lên lời trăng trối “ Chỉ còn giờ phút ngắn ngủi nữa, chiếc tàu của chúng ta sẽ cùng chiếc tàu nào đó của địch nổ tung. Thịt xương chúng ta sẽ nát vụn cùng với con tàu thân yêu của mình. Nhưng chúng ta tự hào ngay trong giây phút vĩnh biệt cõi đời này, chúng ta vẫn làm thêm một việc có ích cho Tổ quốc”.
Những điều suy nghĩ ấy, anh em đội tàu C.235 đã chuẩn bị từ nhiều chuyến đi trước nhưng chưa phải dùng đến, tới giờ phút này nó sắp sửa thành hiện thực.
Tàu C.235 rùng mình rồi lao ra cửa vịnh. Pháo địch từ các khu trục hạm, từ các căn cứ đất liền xối đạn tới. Những cột nước, những cột khói vụt lên chi chít trên mặt vịnh. Một quả đạn pháo  trúng gần buồng máy, tàu C.235 bỗng nhiên chậm lại rồi dừng hẳn. Ý định thực hiện phương án hai của anh em buộc phải thay đổi.
Trung sĩ thợ máy Vũ Văn An từ buồng máy đi về buồng lái báo cáo với thuyền trưởng “ Máy tàu hỏng nặng”.
Ánh pháo sáng, ánh chớp của đạn pháo soi rõ vào buồng hàng hải. Buồng này trở nên chật chội, ngột ngạt và căng thẳng. Thuyền phó Nhi đứng tựa vào bàn hải đồ, máu đang chảy thành vũng dưới bàn chân. Máy trưởng Trương Văn Mùi nằm co người dưới sàn, một tay đặt vào nơi vết thương ở ngực, tay kia nắm chặt.
Một hồi chuông rền rĩ kéo dài, báo chuẩn bị phá tàu.
Tiếng chận chạy vội vã, tiếng gọi nhau, nhắc nhở nhau gấp gáp.
-   Phao cứu sinh xuống chưa ?
-   Đưa đồng chí Tương xuống.
-   Tôi cõng đồng chí Hải.
-   Ôi trời ! Đằng nào tôi cũng chết, để cho tôi chết ở trên tàu.
-   Báo cáo .. Hải không chịu đi.
-   Tôi là thuyền trưởng hạ lệnh, anh có chấp hành không ?
-   Tôi sẽ trở thành gánh nặng cho các anh.
-   Không được ! Gắng chịu một chút nào.
-   Cậu ấy bị cả hai chân, làm thế nào đưa xuống.
-   Có áo phao, cứ đưa cậu ấy xuống .. Này này .. các cậu ở dưới kia nghe rõ không, đưa Hải lên phao cứu sinh nghe không ?
-   Nhớ mang theo súng đạn.
-   Kìa, nhảy xuống, thêm người đẩy phao cứu sinh, không nó giạt.
An và Thứ chạy theo thuyền trưởng xuống buồng maý. Tiếng máy phụ nổ trầm trầm. Ngọn đèn công tác lắc lư theo nhịp sóng.
Thuyền trưởng Phan Vinh nói bình thản :
-   An đóng kíp, rút chốt an toàn. Bình tĩnh làm thật cẩn thận.
Một tay Thứ bị thương giơ lên ngang đầu máu đang nhỏ giọt, tay kia ôm chặt lấy chân An để An nhoài người xuống hầm tàu. Vài phút sau, An đu người lên, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, anh giơ cái chốt an toàn ra trước mặt, có ý bào cáo với thuyền trưởng.
Vinh hỏi :
-   Chắc chắn chưa ?
-   Lửa xanh rì ra rồi. Tôi đã đậy lỗ kíp.
-   Vặn kíp hẹn giờ 15 phút.
Các vị trí phá hủy khác do Trung, Thật , Mai cũng đã rút chốt an toàn.
Phan Vinh giục mọi người :
-   Các cậu xuống trước đi, mình còn kiểm tra lại xem.
An, Thật và Thứ nhanh nhẹn nhảy xuống biển.
Tuyến và Phong vẫn dùng khẩu 14,5 bắn máy bay địch. Thuyền trưởng vỗ vai Tuyến :
-   Thôi bắn, rời tàu.
Phong chạy về buồng giật vội cái ba lô khoác lên vai, chiếc bi đông buộc ở balô toong teng vướng vào chân.
Tuyến hét :
-   Vứt cha nó đi ! Tàu nổ bây giờ ! Nhanh lên.
Phong vứt chiếc balô nhưng vẫn tiếc mấy bộ quần áo. Anh mặc mỗi bộ quần áo lót, xách khẩu súng nhảy xuống biển theo Tuyến.
Tuyến đang bơi nhìn sang bên cạnh, có người tỏ ra đuối sức lúc chìm nghỉm, lúc nhô lên vầng trán hói. Trong lúc vội vã, Tuyến bơi tới dìu người đuối sức đó vào bờ, không kịp nhận mặt, anh chỉ có cảm nghĩ người đó là thuyền trưởng hoặc thuyền phó.
Một phát đạn pháo nổ gần, sóng mạnh xô Tuyến vào một tảng đá, và tay người bạn được anh cứu đã rời khỏi vai anh lúc nào không tõ. Tuyến ngoảnh lại tìm bạn, bỗng có tiếng nổ dữ dội và một đợt sóng lớn hất anh lên bờ. Trong vài giây, Tuyến bị choáng. Khi anh tỉnh lại, nhìn ra mặt vịnh thấy đám lửa cháy loang trên nước, không còn con tàu của mình nữa. Anh lẩm bẩm :
“ Tàu nổ rồi”.
-   Ai đó ? Có tiếng hỏi bên cạnh, làm Tuyến giật mình.
-   Tuyến đây.
Tuyến bò lên phía sau một tảng đá để tránh đạn. Người bên cạnh cũng bò theo :
-   Phong đấy ư ?
-   Ừ. Các cậu ấy đâu cả rồi ?
-   Mình bơi gần cậu. Pháo bắn quá chẳng nhìn thấy ai !
Chờ lúc địch ngớt bắn, Phong và Tuyến rủ nhau lên một ngọn đồi.
Tình huống khẩn trương, đêm tối, địch bắn đuổi theo, anh em bơi vào bờ mỗi người giạt một chỗ, mãi tới sáng hôm sau (1-3-1968), thiếu úy thuyền phó Đàm Văn Nhi mới tập hợp được 7 người gồm trung sĩ cơ điện Vũ Long An, hạ sĩ báo vụ Lê Duy Mai, hạ sĩ hàng hải Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến, hạ sĩ thủy thủ Hà Minh Nhật, trung sĩ thủy thủ Nguyễn Văn Phong. Trong số 7 người, có 2 người bị thương nặng và 5 người bị thương nhẹ. Họ cố dìu nhau lên núi để tìm căn cứ của bến.
Họ đã cố gắng hết sức đi gần hết buổi sáng rồi mà vẫn nghe thấy tiếng hò hét của bọn địch vừa đổ bộ ở dưới chân núi. Trong anh em đã có những ý nghĩ rối ren nảy nở “ Đã chắc gì anh em bến còn ở căn cứ, khi đã lộ như thế này”.” Thôi .. cố đi thật nhanh ra khỏi chỗ nguy hiểm này đã ..”.” Đi lầm vào vùng địch thì sao”.”Nó bắn rất gần rồi .. nhanh lên … đã bảo cứ đi đã” !” Nhưng mà đi đâu mới được chứ ?”. “ .. Đi xa cái bọn kia kìa ..”.
Giục nhau, nhưng không làm sao có thể đi nhanh hơn được, vì sức lực của mọi người đã dốc vào những ngày đêm vất vả trên biển và vết thương đang rỉ máu. Thuyền phó Nhi bị thương cả hai chân. Hạ sĩ Khung bị thương vào ngực máu vẫn rỉ ra theo nhịp thở. Họ không kêu rên một lời. Sức chịu đựng của mỗi người ở đây đã vượt xa sự tưởng tượng. Giá ở lúc bình thường, họ đã gục xuống không thể gượng dậy nổi. Họ đang dìu nhau đi không phải do bản năng ham sống, mà do lý trí tỉnh táo của mỗi người tự nhắc nhở “mình cần phải sống, bạn mình cần phải sống để còn tiếp tục những chuyến đi khác vì sự nghiệp giải phóng miền Nam”.
Một chiếc máy bay lên thẳng bay rất thấp. Đám lá khô dưới nền đất bốc lên cao xoáy tròn như một trận gió lốc. Rừng cây lưa thưa, vào mùa thay lá càng trống trải. Anh em phải tạm chui vào bụi cây mớm đầy gai, nằm ngửa mặt theo dõi xem máy bay địch làm gì. Một tên Mỹ mặt đỏ như mào gà chọi, ló cổ qua cửa sổ máy bay nhìn xuống. Chờ cho máy bay địch bay đi xa, anh em lại tiếp tục dìu nhau tiếp tục đi. Đến một gốc cây cổ thụ, có tán lá xòe rộng, anh em tạm dừng lại nghỉ.
Sau một đêm chiến đấu, bây giờ mới có thời giờ nhìn kỹ hình dạng của nhau. Ôi ! Lạ lùng quá. Người nào người nấy mặt mũi hốc hác, nhem nhuốc, quần áo rách toạc. Khuôn mặt vuông đầy đặn, đôi mắt hiền lành của cậu An lại thay đổi đến thế kia ư ? Hai gò má nhô cao lên, mặt gầy tọp, hai quầng mắt đầy bóng tối, râu ria xồm xoàm như một ông già chứ không phải con trai tuổi đôi mươi nữa. Anh Nhi nữa, nước da xám nhợt như người đã chết, đôi chân quấn đầy băng, đôi môi lúc nào cũng mím chặt đè nén chịu sự đau đớn .. Liệu anh có đủ sức chống đỡ với sự thử thách đang tới nữa không ? ..
Nhi cố gắng mới nói thành lời :
-   Có cậu nào .. gặp anh Vinh không ?
An trả lời :
-   Anh Vinh và Thứ đã lên bờ, tôi gặp. Anh ấy bảo cậu Thứ đi cùng để kiểm tra nơi giấu các tử sĩ.
-   Có thể anh ấy .. đi đường khác .. bây giờ làm thế nào gặp được.
Tiếng súng nổ rất dữ dội, rõ ràng có trận chiến đấu nổ ra ở rất gần. Mọi người im lặng lắng nghe. Trong mớ âm thanh hỗn độn ấy, anh em nhận ra sự khác biệt những tiếng nổ cách đây vài giờ.
-   Các cậu có thấy AK nổ không .. đấy .. đấy. Trầm đục hơn tiếng nổ của M.16.
-   Chắc bộ phận của anh Vinh gặp địch.
-   …
Mỗi người lo lắng hướng về phía trận đánh đang diễn ra. Khoảng nửa giờ sau không thấy tiếng AK nổ nữa, chỉ thấy tiếng nổ liên hồi chồng chéo của tiểu liên M.16, cối tay M.79 và đạn pháo. Như thế có nghĩa là anh em mình đã rút rồi. Mãi sau này anh em mới biết anh Vinh và Thứ ở giữa hai gọng kìm của chúng. Các anh đã chiến đấu dũng cảm chặn cả hai mũi tiến công của địch. Chiến đấu khoảng nửa giờ, các anh đã hy sinh. Bọn địch tiếp tục nổ súng bắn vào nhau, hai cánh quân đều có nhiều thương vong và kêu ầm lên “đã gặp địch mạnh, buộc phải rút lui”.
.. Tiếng đạn pháo vẫn nổ thưa thớt đây đó bên sườn núi. Máy bay lên thẳng vòng lượn ngoài ven biển, chúng đến đổ quân hay làm gì chưa rõ.
Nhi bảo Phong và Tuyến là hai người khỏe nhất đi trinh sát tìm đường.
Hai anh em vừa đi vừa tránh đạn pháo của địch. Họ đi về phía tây bắc được hơn một kilomet , nghe tiếng động phía trước, họ dừng laị thận trọng xem xét. Đi thêm vài chục bước nữa họ nhìn thấy bọn lính Nam Triều Tiên đang đào công sự. Hai anh em quay lại đi hướng khác, vẫn gặp lại cảnh ấy.
Tuyến thở dài nói khẽ với bạn :
-   Chúng ta bị bao vây rồi !
Thấy Tuyến và Phong trở về, anh em hỏi dồn :
-   Lâu thế !
-   Liệu có đi được không ?
Tuyến chống súng ngồi bệt xuống đất, ngẩng mặt nhìn theo tiếng máy bay bay qua. Anh thủng thẳng trả lời các bạn :
-   Phải mở đường máu.
-   Đã cần làm thế chưa, hay ta chờ đến tối rồi tìm cách luồn qua.
Mọi người bàn bạc một hồi rồi lại im lặng nhìn nhau. Cảnh ngộ thật éo le, Những bài võ để đánh kẻ thù trên mặt biển, bây giờ dùng như thế nào đây. Từ nãy đến giờ , thuyền phí Nhi vẫn nằm gác đôi ống chân quấn đầy băng ướt sũng máu lên một tảng đá, lưng anh tựa vào thân cây, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không. Nhi phải cố gắng lắm mới nói được từng tiếng rời rạc :
-   Tuyến hiểu về cách .. đánh của bộ binh .. hơn. Từ bây .. giờ sẽ phụ trách về .. quân sự.
Tuyến nhìn địa hình xung quanh rồi suy nghĩ về đội hình chiến đấu. Tuy là lính bộ binh chuyển sang hải quân, nhưng vốn liếng hiểu biết chiến thuật của anh quá ít ỏi, anh cố bới óc ra tìm tòi nhưng chẳng có gì rõ ràng. Vì anh chỉ mới tập luyện tới đội hình của tiểu đội cảnh giới. Có lẽ bây giờ cũng phải làm như vậy. Phải rồi, đội hình kiểu “trâu ngủ rừng” thì hướng nào cũng quan sát được. Tuyến xem địa hình xong, chỉ định từng người vào vị trí. Cái đội hình rất đặc biệt ấy hình thành. Dù sao có người đứng ra chỉ huy anh em cũng thấy yên tâm hơn.
Trời nắng khô như rang. Lần đầu tiên trong đời họ cảm thấy thứ nắng kỳ lạ ấy, nó như có những cái vòi vô hình hút cạn chất nước ở trong cơ thể mỗi người. Tuyến thấy miệng mình đắng ngắt, nước bọt giống như chất hồ dẻo quẹo không nuốt vào nổi. Tuyến nói với Khung :
-   Được một bát hoặc chén nước lã thôi cũng dễ chịu.
-   Giá mình mang theo được bi đông nước dứa thì ..
Nghe nói nước dứa, mọi người đều nuốt nước miếng.
Tiếng loa chiêu hồi ở trên máy bay trực thăng oang oang phóng xuống “ Các anh em đoàn 125. Anh em đã bị bao vây. Con đường sống của anh em là hồi chánh quốc gia ..”
-   Hồi chánh cái thằng bố mày.
Nghe câu chửi của An, anh em bật cười.
Tiếng lòa vẫn lải nhải giội từ trên trời xuống, từ sườn núi vọng lên, làm cho không khí càng oi ả thêm.
Thuyền phó Nhi nằm gối đầu lên mô đất cao, khẽ rên rỉ :
- Khát .. qu ..á ..
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #29 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2007, 03:52:38 pm »

Những đám mây đen từ phía đông đùn lên cao rồi tản ra đầy trời. Khung trời dần dần hạ thấp xuống. Anh em nhìn qua khoảng trống của vòm cây, mắt sáng lên hy vọng. Nhưng hy vọng chẳng hề làm cho cơn khát dịu đi được phần nào, trái lại nó càng làm cho cơn đói, cơn khát hành hạ cơ thể các anh em thêm.
Mỗi người còn đem theo được một ít viên sinh tố, từ sáng đến giờ chỉ dám nhấm nháp một hai viên C. Họ coi đó là nguồn “lương thực” chủ yếu trong cuộc hành quân này, không ai dám sử dụng tùy tiện.
Tuyến nêu ý kiến :
-   Đề nghị tập trung tất cả sinh tố lại giao cho một người giữ và cấp phát vào bữa ăn.
-   Ai giữ ?
-   Tôi đề nghị đồng chí Mai quản lý.
Mai là một đảng viên chín chắn, ít nói. Lúc bình thường cũng như lúc khó khăn, trong những chuyến đi biển anh luôn tận tình chăm sóc anh em yếu mệt. Nói tới Mai làm quản lý lập tức được mọi người ủng hộ.
-   Mai này .. mình còn 10 viên pô-li.
-   Mình còn 20 viên C.
-   Mình còn 50 viên ..
-   …
Mai dồn số “lương thực” vừa thu được vào một cái bao, rồi anh đổ ra đếm trước mặt mọi người.
-   Tất cả được 123 viên. Mai nhìn anh em một lượt rồi nói tiếp – Tôi đề nghị phát cho hai đồng chí bị thương nặng mỗi ngày 4 viên pô-li; còn anh em ta mỗi ngày, mỗi người hai viên.
-   Đồng ý.
-   Đồng ý .. nhưng ngay bây giờ cấp cho mỗi người một xuất, để lấy sức vượt vòng vây đêm nay.
Từng người nhận phần rồi bỏ viên sinh tố vào miệng nhai ngon lành. Anh em nói vui :
-   Cảnh voi uống thuốc gió này sẽ kéo dài bao lâu nữa.
-   Nhưng ít nhất cũng có tí chất vào ruột.
-   Ngày mai sẽ phải cố tìm lá rừng.
Trời gần sáng. Mưa lâm thâm. Họ đi suốt một đêm trong mưa. Mỗi lúc tạm dừng lại, họ lại tranh thủ liếm những lá cây dính chút nước mưa. Cơn khát có dịu đi nhưng cơn rét lại đến. Không ai còn đủ sức điều khiển hai hàm răng của mình buộc nó thôi không gõ vào nhau. Tiếng thì thào ngập ngừng run rẩy động viên nhau :
-   Cố lên .. vượt qua được .. vòng vây của .. chúng nó rồi .. đi một đoạn nữa.
-   Để tôi cõng anh Nhi một đoạn.
-   Xốc nách ..  mình .. đi được.
Trời sáng lâu rồi mà không gian vẫn xam xám như màu khói. Nghe tiếng súng liên thanh vọng rất xa ở phía sau. Anh em vui mừng đã vượt qua được đoạn đường khó khăn nhất. Họ tìm chỗ tạm nghỉ.
Tuyến trèo lên một cây cao, nhìn trở lại đoạn đường mình vừa đi qua. Biển hiện ra trước mắt, làm cho Tuyến giật mình. Như vậy là suốt đêm qua mình đi quanh co chỉ được hơn một kilômét thôi ư. Tàu địch vẫn xúm xít ở khu vực tàu của ta tự hủy. Tiếng loa chiêu hồi lại dội vào tai. Nghe chúng nó lảm nhảm làm cho Tuyến điên tiết, muốn chửi cha chúng một hồi. Giả sử có phép gì, tọng luôn vào họng cái con đĩ đang léo nhéo lếu láo kia một quả lựu đạn thì mới hả.
Tuyến tụt từ trên cây xuống. Anh im lặng nhìn mọi người. Khung và Nhi nằm co quắp. Thấy Khung thở khó khăn, tiếng “ khò ọ o .. khò o ọ c” kéo dài như tiếng thở hắt ra của người đang hấp hối. Tuyến lo lắng , tới lay gọi bạn :
-   Khung .. Khung tỉnh lại.
Khung mở to mắt bang hoàng, cố nhỏm dậy :
-   Gì thế ?
-   Tôi tưởng .. Vết thương còn ra  máu không ?
-   Cầm rồi.
Tuyến mừng thầm, sức khỏe của Khung không đến nỗi suy sụp lắm. Cậu ấy vẫn cố gắng đi được, không cần đến người dìu. Chỉ có sức khỏe của thuyền phó là đáng lo ngại.
Tuyến nói lại tình hình vừa quan sát được. Anh em bàn bạc một lát rồi tiếp tục đi.
.. Cuộc hành quân đã đến ngày thứ tư. Mỗi bữa vài viên sinh tố nhỏ xíu. Đói, khát đã lên tới mức cùng cực. Không riêng gì những người bị thương nặng mà cả những người bị thương nhẹ cũng đã kiệt sức. Nhiều lúc cậu Mại bước chệnh choạng và không đủ sức đeo khẩu súng, phải kéo lê nó dưới đất. Hôm nay mỗi đợt chỉ đi được nửa giờ lại phải ngồi nghỉ.
Tuyến và Phong sức khỏe còn khá hơn anh em khác. Mỗi lần dừng chân, hai anh lại đi kiếm một ít ngọn lá cơm tẻ mang về. Mùi vị hăng hăng nhơn nhớt của lá cơm tẻ rất khó nuốt. Có anh vừa ăn vài ngọn vào đã nôn ọe, nhưng rồi cũng phải cố nhai để có một thứ gì vòa ruột cho đỡ đói, khát.
Từ hôm qua, cậu Mai đã phải tự uống nước đái của mình. Bây giờ Mại lại bụm cái lá rừng để lấy nước đái. Chỉ được một chén nước lờ lờ như máu loãng mà khai khú không chịu nổi. Mai đưa lên miệng nhắm mắt định uống, nhưng anh nhăn mặt rùng mình rồi hắt toẹt nó xuống đất.
Tuyến và Phong vẫn cặm cụi dùng que ngoáy vào một hốc cây. Thấy trong hốc có nước. Tuyến mừng quá gọi Mai.
Nghe nói có nước mọi người xô lại.
Cái hốc nằm sâu trong thân cây, gần ngập một cánh tay mới tới nơi, có ít nước lẫn vào mùn gỗ. Chẳng có ai mang theo bát. Tuyến xé phăng vạt áo của mình rồi nhúng vào nước trong hốc cây. Lần lượt mỗi người được nhận phần nước bằng cách vắt nước từ cái vạt áo vào miệng. Nước có mùi ung ủng của gỗ mục, nhưng dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái chất nhựa nhơn nhớt của lá cơm tẻ.
Được độ một bát nước mà chia đều cho 7 người, chẳng thấm tháp gì nhất là đối với những người bị thương đã mất nhiều máu. Thuyền phó Nhi bảo Tuyến và Phong bốc hết cả gỗ mục trong hốc ra chia đều cho mọi người. Mỗi người được chia ít mùn gỗ mục ẩm bỏ vào miệng nhai, rồi hít lấy nước như ăn mía.
Nhìn thấy một con ốc sên ở hốc cây bò ra, Nhi bảo Phong bắt lấy đưa cho mình, anh lấy lưỡi lê gạt bỏ vỏ và lấy ruột ốc, bỏ vào miệng nhai ngon lành.
-   Ăn được không anh ? – Khung hoỉi.
-   Ngọt lắm .. ăn được.
Nghe Nhi nói ăn được,  mấy anh em còn khỏe đi bắt về được khoảng hai chục con, chia cho nhau ăn thử. Có người ăn khen ngon, có người vừa bỏ vào miệng đã nôn ọe ra.
Mọi thứ vừa kiếm được chỉ làm dịu nỗi đói khát chút đỉnh, nhưng một lát sau thôi, khi nghe tiếng sóng biển ồn ào dưới chân núi thì cơn khát cháy ruột lại thức dậy. Anh em bàn bạc tìm cách xuống bãi biển tìm nước ngọt. Tuyến và Thật xung phong đi tìm, để anh em được nghĩ.
Phần vì đói khát quá, phần vì chờ đợi người đi tìm nước trở về, không ai ngủ được. Gần nửa đêm, có một con hổ lớn mò tới, nó vòng đi vòng lại xung quanh chỗ anh em đang nằm. Mùi mồ hôi và hơi thở của nó phả ra hôi thối. Tiếng chân nó đi “xàm xạp ..” trên lá khô nghe sởn tóc gáy. Những anh em khỏe nằm phía ngoài đã lên đạn, rê đầu súng theo bước chân của nó, nhưng không dám bóp cò vì sợ lộ bí mật. Khi con hổ chuồn đi chỗ khác, họ thì thầm kể với nhau câu chuyện “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”. Từ lúc con hổ đến đã làm tăng thêm vẻ bí ẩn hoang dã của rừng núi trong sự suy nghĩ của mọi người.
Sáng hôm sau vẫn không thấy Tuyến và Thật về. Anh em phán đoán đủ thứ tình huống các cậu ấy có thể gặp : hổ vồ, địch phục kích hoặc đi lạc đường. Họ phải lần theo dấu vết chân để tìm các bạn mình. Đến gần tối mới gặp Tuyến ngơ ngác trở về.
Anh em hỏi dồn :
-   Cậu Thật đâu ?
-   Có nước không ?
-   Chờ lâu quá tưởng rằng phải vĩnh biệt nhau.
Tuyến buồn thiu, kể lại :
-   Chúng tôi đi tìm gần đến sáng mới thấy có một vũng nước bẩn lẫn bùn ở gần đây. Cậu Thật về đón các anh. Chắc là đi lạc rồi. Bây giờ làm thế nào ?
Lại thêm một tình huống éo le nữa. Biết tìm cậu Thật ở đâu, giữa nơi rừng núi xa lạ này. Sức lực của mọi người đã cạn rồi, bây giờ biết tính sao. Không lẽ đang tâm bỏ rơi đồng đội trong cơn hoạn nạn này ư ? Bàn bạc mãi không ra kế gì. Anh em quyết định ngủ lại một đêm bên cạnh vũng nước mà Thật đã biết. Nếu cậu ấy không trở về thì đành vậy.

Hướng theo ngọn núi cao, anh em lại tiếp tục cuộc hành trình đói, khát. Trong rừng không có một lối mòn, anh em lúc đi, lúc bò trong những lùm gai dại. Thuyền phó Nhi không còn sức đứng vững nếu không có hai người dìu hai bên. Đúng ra vết thương của anh phải nằm trên cáng hoặc chí ít cũng phải có người cõng, nhưng bây giờ chẳng ai có đủ sức làm việc đó.
Mấy ngày đạp lên gai góc, đôi bàn chân của họ đã mọng lên nhiều nốt mủ trắng. Những người không mang được giầy dép, đều phải lấy cỏ quấn vào chân để đi cho bớt đau. Có đôi dép lúc này quý giá biết nhường nào.
Nhìn đôi bàn chân trần đỏ mọng của Nhi, rón rén đặt lên những gai đá, Phong thấy như chính mình đang chịu nỗi đau đớn, anh cởi đôi dép của mình đang đi đưa cho Nhi.
Cầm đôi dép , tay Nhi run run, nước mắt chảy vòng quanh. Anh không giấu nổi sự xúc động khi xỏ đôi dép vào chân mình. Cái nắng khô nó lại một lần nữa vắt kiệt nước trong cơ thể họ. Nghe tiếng sóng biển gầm, nhìn nước biển đầy như một mâm xôi càng thấy khát khô cháy cổ họng.
Khung rên rỉ :
-   Xuống biển .. uống.
-   Xuống biển để chểt ư ?
-   Đằng nào .. cũng chết .. tôi không chịu được nữa. Tôi đi ..
Nói xong, Khung chống gậy đi xuống dốc.
Vì tìm nước uống đã mất một người rồi, không thể để mất thêm một người nữa. Họ tranh cãi nhau một hồi. Người tán thành, người không tán thành hành động của Khung. Dù sao Khung cũng đã đi rồi. Nhi bảo An đi theo giúp Khung.
Vết thương của An trên đùi đang sưng tấy, anh khập khiễng lần theo lối đi của Khung. Đi được khoảng vài trăm mét, An gặp những tảng đá to bằng mái nhà, xếp chồng lên nhau, từng tảng phẳng lỳ, có độ nghiêng tới 90 độ, không có chỗ bám víu, phải liều mạng lắm mới dám tụt xuống. Không hiểu Khung đi bằng cách nào, mà chỉ cách nhau nửa giờ đã mất hút. Có lẽ sự thôi thúc của cơn khát đã xô cậu ấy xuống những bậc đá kia.
An đang lần mò tìm lối xuống, bỗng có tiếng súng nổ ran ở bên dưới, cách chừng 100 mét. Anh vội vã nép mình vào sau một tảng đá nghe ngóng. An thở dài “ Nguy rồi. Bây giờ không còn cách gì cứu được cậu ấy”. Anh rút lựu đạn, để trước mắt , chờ địch.
Nghe tiếng súng và tiếng lưu đạn dưới sườn núi, tiếp theo đó là tiếng loa chiêu hồi oang oang “ Hỡi anh em binh sĩ đoàn 125, chúng tôi hẹn trong 15 phút nữa nếu không chịu hồi chánh sẽ bị tiêi diệt ..”.
Anh em  nhìn nhau lo lắng. Không ai nói nửa lời. Họ đều tự hiểu sự việc gì đang xảy ra đối với Khung và An. Các cậu ấy có thể hy sinh hoặc bị bắt.
Chúng nỏ lải nhải “ chiêu hồi” chán rồi lại bắn. Bắn chán lại “chiêu hồi” .. Thời gian đã qua bốn lần 15 phút của chúng ra điều kiện, mà không thấy có hành động gì khác. Như thế có nghĩa là các cậu ấy đã hy sinh hoặc có bị bắt cũng không khai báo gì. Nếu có một người khai báo thì chúng ngốc gì không đẩy vòng vây gần lại .. Anh em nằm sát nhau trao đổi. Họ xác định : nếu địch tới sẽ chiến đấu tới cùng.
Tiếng súng xa dần và nổ về hướng khác.
Thuyền phó Nhi gọi anh em lại, ngồi xung quanh mình.
Anh nói :
-   Cứ để tôi ở lại đây .. Các đồng chí còn sức .. cố gắng đi nhanh lên tìm căn cứ - Nhi đứng lại đốt một điếu thuốc lá, hít một hơi rồi nói tiếp. Tiếng nói của anh yếu dần – Đi đi .. dùng dằng sẽ chết tất cả. Để mình tôi ở đây chờ Khung và An ..
Tiếng nói khẳng khái của anh em :
-   Chết thì cùng chế, không bỏ ai ở đây.
Anh em nói gằn từng tiếng, gần như cãi nhau, với thuyền phó :
-   Anh sợ chúng tôi không đủ sức dìu anh đi ư ! Bỏ nhau trong cơn hoạn nạn ở giữa rừng,  lúc kẻ địch đang bám theo từng bước. Anh nghĩ xem, chúng tôi còn mặt mũi nào mà trở về đơn vị.
Lúc bình thường , tính tình Nhi rất điềm đạm, nhưng lúc này anh gắt lên :
-   Thôi ! Không bàn nữa .. Tôi lệnh – Mặt anh trắng bệch như sáp, anh nói trong tiếng thở gấp – Nếu .. cứ để .. tôi .. đi cùng chết đói .. chết khát .. giữa rừng .. các cậu .. đi .. trước .. còn … hy vọng.
Sự thật khắc nghiệt có thể xảy ra “chết đói, chết khát” như thuyền phó nói, anh em đã nghĩ đến điều đó. Hôm trước họ còn phủ định nó bằng những ảo tưởng gặp cái may mắn nào đó. Bây giờ cảnh ngộ Nhi vừa chỉ ra đã ở trong tầm tay rồi. Thuyền phó nói có lý và anh là người chỉ huy, có quyền ra lệnh. Có cách gì loại bỏ điều kiện cay đắng đó nữa không ? Để lại anh em bị thương nặng nằm giữa rừng. Liệu đến bao giờ mới đi đón các đồng chí đó ? Mọi người đều khóc, nước mắt chảy trên gò má, không giấu giếm. Đây là giờ phút tạm biệt hay vĩnh biệt nhau. Mắt thuyền phó vẫn khô lạnh, cố giấu sự xúc động, nhìn từng thủy thủ.
-   Anh Nhi ! – Phong mếu máo và ôm chặt lấy Nhi – Chúng em hứa cố gắng tìm được anh em bến, sẽ tới đón anh ngay.
Nhi gỡ tay Phong và nói :
-   Đi nhanh .. rồi đón mình và các cậu ấy.
Anh em cố gạt nỗi đau buồn baỏ nhau thu xếp chỗ ở cho thuyền phó.
Không đấy một giờ, anh em đã làm xong công sự vừa là nơi ở phòng thú dữ và phòng địch đến. Tuyến và Phong bắt được khoảng hai ki lô ốc sên và một bó lá cơm tẻ. Mai kiểm tra lại “kho” còn 10 viên đa sinh tố cũng để lại cho Nhi.
Nhi không muốn anh em lưu luyến như vậy. Thỉnh thoảng anh lại nhắc “ Đi đi .. nhanh lên .. rồi đón mình”.
Mọi người lần lượt bắt tay thuyền phó, ai nấy đều lưu luyến, không muốn xa rời nhau. Trong cuộc đời mỗi thủy thủ, biết bao nhiêi lần tạm biệt người thân, nhưng chưa bao giờ họ đau buồn trước cảnh kẻ ở người đi như thế. Tuyến nhìn lại không thấy anh Nhi ngồi trên thành công sự nữa, chỉ thấy những tảng đá xếp lên nhau như một nấm mồ. Anh bàng hoàng. Và lúc đó nếu không nghe tiếng nói của anh Nhi thúc giục “ Đi đi .. nhanh lên! “ từ trong công sự vọng ra, thì không sao bước nổi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM