Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:23:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ngoại giao Đại Việt  (Đọc 85768 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #50 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:21:05 pm »

Sau này, khi đại bại ở Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn về nước, y bỏ lại tất cả giấy tờ trong đó có chỉ dụ sau đây của vua Càn Long:

“Nghe lời khanh, trẫm cho đem binh mã ra cửa ải, nhưng cứ nên từ từ đi dần, đừng vội. Khanh trước hãy truyền hịch ra oai, rồi thả Lê thần về nước để họ chiêu tập nghĩa binh, tìm Lê tự tôn (tức Lê Chiêu Thống) khoan đương đầu với Nguyễn Huệ đã. Nghe họ chọi nhau ra sao bấy giờ sẽ liệu.

Nếu lòng người Nam còn mến Lê, thấy quân ta đến giúp, ai cũng phấn khích hăng hái thì Nguyễn Huệ tất phải chịu lui. Bấy giờ sau Lê tự tôn tiến hành đuổi bắt, các khanh thì kéo binh đến tiếp ứng sau. Thế thì ta không khó nhọc mà được thành công. Đó là chước thứ nhất.

Nếu trong nước Nam, nửa theo phía kia, nửa giúp phe nọ thì chắc Nguyễn Huệ không chịu lui. Vậy khanh nên đưa thơ, dỗ báo hoạ phúc xem Huệ xoay sở ra sao.

Khi nào quân thuỷ của ta đã từ Mân (tức Phúc Kiểm - TG), Quảng (tức Quảng Đông, Quảng Tây - TG) kéo ra biển khơi; .thì cứ đánh phá lấy Thuận Ngãi tức Thuận Hoá, Quảng Ngãi) trước. Rồi mới thúc quân bộ tiến lên, khiến cho Huệ sau lưng và trước bụng đều thụ địch cả thì thế nào Huệ cũng phải hàng phục.

Thế rồi cứ nuôi sống cả hai: Thuận; Quảng (tức Quảng Nam) về Nam cắt đứt cho Nguyễn Huệ, Hoan, Ái ra Bắc (tức Nghệ An, Thanh Hoá - Tg) chia cho Lê tự tôn. Ta cứ đóng đại binh ở giữa; cai quản cả đôi. Về sau sẽ lại liệu cách xử trí. Đó là chước thứ hai" 1.

Chỉ dụ của vua Càn Long là cả một kế hoạch quân sự và chính trị nhằm từng bước chiếm lấy Đại Việt.  Điều mỉa mai là kế hoạch này nhằm “hưng phục” nhà Lê mà không dám “diệt” Nguyễn Huệ thậm chí còn tính để cho Nguyễn Huệ Thuận Hoá, Quảng Nam, tất nhiên với thâm ý sẽ diệt cả các phái Đại Việt sau này. 

Tôn Sĩ Nghị được phép lấy quân bốn tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông, Quảng Tây. Đội quân viễn chinh dược chia làm ba đạo:

- Một đạo từ Nam Quan đi xuống, do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, đề đốc Hứa Thế Hanh làm phó.

- Một đạo do Ô Đại Kinh chỉ huy gồm quân hai tỉnh Vân Nam, Quí Châu từ Tuyên Quang đi xuống. 

- Một đạo gồm quân Điền Châu do tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy đi từ Cao Bằng xuống.

- Quân tiên phong do Trương Tiểu Long chỉ huy.

- Quân tả dực do Thượng Duy Thanh chỉ huy. 

- Quân hữu dực do Sầm Nghi Đống, thái thú Điền Châu chỉ huy.

Về quân số, mỗi tài liệu nói một cách. Chính sử của Trung Quốc như Đại Thanh lịch triều thực lục nói quân Thanh chỉ có 15.000 người. Con số đó chắc chắn là rất xa sự thật vì một cuộc xâm lược Đại Việt không thể tiến hành với ít quân như thế. Hoàng Lê Nhất Thống Chí nêu tổng số quân Thanh là 50 vạn, con số đó có thể cao hơn sự thật.

Trong tờ chiếu Phát phối hàng binh người nội (tức người Trung Quốc - TG), vua Quang Trung viết: “Viên tổng đốc Tôn Sĩ Nghị của các ngươi, tài đong đâu ra, nghề mọn thêu may, đem 29 vạn quân ra khỏi cửa quan, vượt núi trèo đèo vào sâu hiểm địa, xua lũ dân vô tội các ngươi vào vòng mũi tên ngọn giáo” 2. Chiếu của vua Quang Trung là văn bản chính thức, hai nhà sử học Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, sau khi phân tích rõ ràng và vững chắc, đã cho con số 29 vạn là chính xác.
 
Dưới quyền tiết chế của Tôn S Nghị, đội quân viễn chinh của nhà Thanh rầm rầm vượt biên giới kéo sang Đại Việt, vượt Nam Quan, rồi Lạng Sơn, đại quân của Tôn Si Nghị không gặp sự kháng cự nào.


________________________
1. Ngô Thì Nhậm - Hàn các anh hoa - Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển II - Sđd.
1. Hoa Bằng - Quang Trung Anh hùng dân tộc - Sđd.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #51 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:22:43 pm »

Tối ngày 19 tháng mười một năm Mậu Thân (tức ngày 16 tháng 12 năm 1788) quân Thanh bắt đầu vượt sông Nhị tiến vào chiếm đóng thành Thăng Long. Vua Càn Long nhà Thanh khen Nghị là một “đại thần toàn tài, một người một mình gánh vác, điều khiển có phương pháp cho nên không đầy một tháng mà đã thành công, thật xứng đáng với sự uỷ nhiệm của trẫm” 1.
    
Tôn Sĩ Nghị đóng đại bản doanh tại cung Tây Long (ở trên bến Tây Long phía ngoài cửa Ô Tây Long, nay ở khoảng Viện Bảo tàng lịch sử - TG). Đạo quân chủ lực gồm lính Lưỡng Quảng do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy đóng ở bãi cát hai bên bờ sông Nhị. Đạo quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa (trại Khương Thượng). Đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh đóng ở Sơn Tây; đạo quân Khâm Châu đi theo đường biển đóng ở Hải Dương.

Khi được tin vua Quang Trung đang tuyển quân ở Nghệ An, Thanh Hoá, Tôn Sĩ Nghị mới lo phòng thủ mặt Nam Thăng Long. Y cho lập thêm nhiều đồn luỹ thành một hệ thống phòng thủ từ Gián Khẩu (đồn tiền tiêu) về Hà Hồi, Ngọc Hồi, Văn Điển. Đô đốc Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ huy mặt trận phía Nam. Trong cả hệ thống phòng thủ, đô Ngọc Hồi là cứ điểm then chốt.

Được tin Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh quân Thanh sang giúp nhà Lê, Lê Chiêu Thống dẫn quần thần về Kinh Bắc đón Tôn Sĩ Nghị và đề nghị Tôn tạm vào nghỉ nơi trấn doanh. Tôn nói nên đi ngay và sai bắn chín phát súng rồi tiến về Thăng Long.

Về đến bờ Bắc sông Nhị, Lê Chiêu Thống cho người sang sông trước, sửa soạn nơi ở của Tôn tại điện Kính thiên. Tôn khước từ vì cho rằng không tiện cho việc chỉ huy quân đội, và Tôn ra đóng hành doanh tại cung Tây Long, và sai làm cầu phao để tiện đi lại giữa hai bên bờ.

Tôn Sĩ Nghị bảo Chiêu Thống chọn ngày làm lễ sách phong. Lê Chiêu Thống đề nghị để lùi ngày vì hiện nay lăng tẩm đều nằm trong vùng quân Tây Sơn chiếm.  Tôn Sĩ Nghị không đồng ý: “Hoàng đế đã có lệnh phải làm, không thể hoãn được”. Tất nhiên Lê Chiêu Thống phải tuân theo.

Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị làm lễ phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương tại diện Kính thiên và trao sách và ấn cho nhà vua.

Tuy được phong là vua nước An Nam, Lê Chiêu Thống không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống mà dùng niên hiệu Càn Long nhà Thanh.

Hàng ngày Lê Chiêu Thống có Lê Quýnh theo hầu, và vài chục tên lính hộ vệ, sang đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị để trao đổi việc quân quốc . Nếu không có công việc thì Tôn lại bảo Lê Chiêu Thống về nghỉ. Thật ra việc chính của Lê Chiêu Thống là bắt dân cung cấp lương thực cho quân Thanh; thóc cho ngựa của quân Thanh mặc dầu người dân đã điêu linh vì loạn ly, thiên tai.


TIÊU DIỆT 29 VẠN QUÂN THANH

Tiết chế Ngô Văn Sở đang ở Thăng Long thì ước tin Tôn Sĩ Nghị sắp kéo quân sang xâm lược tước ta và Phan Khải Đức, một trong hai quan trấn thủ Lạng Sơn đã hàng giặc, tiết chế rất lo sợ. Ngô Văn Sở lập tức họp các quan văn võ nhà Lê bàn việc yêu cầu Tôn Sĩ Nghị hoãn binh rồi sai Trần Bá Lân, Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chứ mang bức thư do Giám quốc Sùng Nhượng Công ký giao cho Tôn Sĩ Nghị.

Sứ bộ đến Nam Quan bị một tên hầu lại ngăn cản không cho gặp, nên không đưa được thư.  Ngô Văn Sở họp Chưởng phú Nguyễn Văn Dung, nội hầu Phan Văn Lân, Lại bộ Tả thị lang Ngô Thì Nhậm để bàn kế đánh Tôn Sĩ Nghị.  Nguyễn Văn Dung đề nghị cho phục quân ở nơi hiểm yếu để đợi quân Thanh mới đến là đánh liền. Ngô Thì Nhậm cho rằng thời thế đã khác, không thể làm như thời Lê Lợi.


__________________________
1. Trích dẫn Đại Thanh lịch triều thực lục - Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn - Một số trận quyên chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Sđd.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #52 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:24:23 pm »

“Nay quân Thanh kéo đến, thanh thế đã lừng lẫy rồi, người mình lại lắm kẻ làm nội ứng, đồn đại qua lời làm cho lòng người càng thêm náo động. Ta có việc gì, sai người ra khỏi thành chắc sẽ bị chúng bắt giết. Vả những lính Bắc Hà được dịp này lại dễ trốn lắm. Thế mà chực đem quân đó đi đánh thì khác gì thả dê đánh cọp, tài nào chẳng thua? Muốn đóng cửa thành, cố sức giữ, lại sợ không thể tin cậy ở lòng người, tất có nội biến. Đánh đã không xong, giữ lại không vững; bây giờ chỉ còn một chước rút lui nhử giặc vào trong nội địa” .

Nhậm đề nghì chở thật nhiều lương thực ra Biện Sơn trước, rồi kéo bộ binh trống rong cờ mở lui giữ lấy núi Tam Điệp (tức đèo Ba Dội - TG). Cố giữ lấy chỗ hiểm yếu ấy, bấy giờ phi báo Bắc Bình Vương không muộn gì, Ngô Văn Sở còn lo trách nhiệm với Bắc Bình Vương. Ngô Thì Nhậm, để làm yên lòng Sở nói sẽ giãi bày với Bắc Bình Vương.

Ngô Văn Sở mật truyền cho các trấn thủ Kinh Bắc, Lạng Sơn, Thái Nguyên rút quân lui về nhưng phao tin là đắp luỹ đất bên sông Nguyệt Đức (tức sông Cầu). Các trấn thủ Hải Dương, Sơn Tây về Thăng Long họp. Trấn Sơn Nam sửa soạn thuyền đợi quân thuỷ đến thì cùng tiến phát. Khi lễ duyệt binh xong, Sở hạ lệnh cho các đơn vị phải sẵn sàng.  Sở đem vấn đề rút lui ra bàn với các tướng lĩnh.  Phan Văn Lân phản đối và xin cho một nghìn tinh binh vượt sông Nguyệt Đức sang đánh quân Thanh.  Nhưng quân của Phan Văn Lân bị thiệt hại nặng phải rút lui. Bấy giờ Ngô Văn Sở hạ lệnh quân bí thuật rút lui. Quân Sở đến đóng tại núi Tam Điệp rồi liên lạc với quân thuỷ ở Biện Sơn.

Nguyễn Văn Tuyết đem tin quân Thanh xâm lược đến Phú Xuân. Các tướng sĩ, văn võ đều muốn Nguyễn Huệ sớm định vị hiệu để thu phục lòng người rồi sau ra Bắc tiêu diệt quân xâm lược. Ngày 25 tháng 11, Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang, lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung.

Trong tờ chiếu lên ngôi, Quang Trung vạch rõ tình hình đất nước:

“Trẫm dựng lại nhà Lê, nhưng Lê tự quân để mất xã tắc bỏ nước chạy trốn” .

“Sĩ dân đất Bắc Hà không theo về họ Lê lại dựa vào trẫm, lo không dựng nổi nghiệp lớn”.

“Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình trẫm. Đó là ý trời, há phải việc người?  Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên”.

Và Quang Trung hứa:

“Trẫm có cả thiên hạ, sẽ cùng dắt díu dân trên con đường lớn, đặt vào đài xuân” 1.

Ngày đăng quang, vua Quang Trung tự cầm quân tiến ra Bắc Hà.

Đến Nghệ An, Quang Trung nghỉ hơn mười ngày để tuyển lính và huấn luyện quân. Vua Quang Trung làm lễ duyệt binh, đọc lời hịch kêu gọi binh sĩ:  “Đời Hán có Trưng nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đến chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên; Minh. Các người đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn”.

Ngày hôm sau Quang Trung hạ lệnh trẩy quân. Tại Thọ Hạc (thị xã Thanh Hoá), Quang Trung làm lễ “thệ sư” để động viên tinh thần chiến đấu chống quân Thanh với những lời đanh thép:


__________________________
1. Bản dịch của Mai Quốc Liên - Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #53 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:27:04 pm »

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ


Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (1788), Quang Trung cùng đại quân đến núi Tam Điệp. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân vác gươm ra đón Quang Trung tỏ ý nhận tội bỏ Thăng Long rút về Tam Điệp.

Quang Trung quở trách là thua trận thì tướng phải chém, nhưng lại nói ngay: “Các khanh chịu nhịn, tạm tránh mũi gươm đang bén của giặc, rút quân chẹn các nơi hiểm yếu để mặt trong khêu mối căm tức của quân ta, mặt ngoài tăng thêm cái khí kiêu căng của quân địch. Chước đó kể cũng phải đấy, ta đã đoán được ngay là mưu kế của Thì Nhậm. Kịp hỏi Văn Tuyết, quả nhiên không sai”.

Rồi an ủi họ:

“Các khanh làm vậy cũng là một mẹo nhử giặc rồi đó. Thôi nay ta hãy cho đới tội lập công, trông mong ở chỗ các khanh ráng sức sau này.

Quang Trung nói tiếp:

“Chỉ nội mười ngày nữa thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song le ta nghĩ nước Thanh lớn hơn nước ta gấp mười lần, Thanh bị thua rồi tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài, mãi không yên ổn, thật không phải là phúc nhân dân, lòng ta sao nỡ? Nên chi sau khi chiến thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh. Việc từ lệnh đó, ta sẽ giao cho Ngô Thì Nhậm. Vậy, nhìn Ngô Thì Nhậm, khanh phải tuỳ cơ mà liệu ứng phó với Mãn Thanh về việc bang giao” 1.

Sau khi nhận được sớ của Kinh Bắc hiến sát phó sứ Ngô Tường Đạo đề nghị tiến quân khi quân Tây Sơn rút khỏi Thăng Long, Lê Chiêu Thống sang giục Tôn Sĩ Nghị, Tôn Sĩ Nghị nói:

“Can gì bối rối sợ hãi? Việc này ta chỉ như thò bàn tay vào túi mà móc lấy đồ vật thôi: lấy sớm thì xong sớm lấy muộn thì xong muộn. Nay đã ngày hết Tết đến, đại binh mới từ xa tới, chính là lúc hãy nên nhàn hạ nghỉ ngơi không nên đánh vội... Rồi đợi đến sang năm, đem binh tiến lấy cũng chưa muộn”.

Cái sai lớn của Tôn S Nghị là cho quân lính ăn Tết rồi mới đánh Tây Sơn. Biết Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, dương dương tự đắc, Quang Trung càng muốn cho y kiêu căng hơn nữa.  Quang Trung sai Trần Danh Bình cầm đầu tám sứ thần đưa cho Tôn Sĩ Nghị ba đạo bẩm văn: một của Lê Duy Cẩn, một của quần thần, một của nhân dân, nói rõ vì sao phải thay nhà Lê. Cùng lúc đó, Quang Trung cho thả bọn tù binh Hắc Thiệu Tông 40 người. Các sứ giả Tây Sơn xin Tôn Si Nghị hãy đóng quân ở cửa ải, tra rõ nội tình giữa Lê và Tây Sơn.

Tôn Sĩ Nghị cự tuyệt yêu cầu của sứ bộ, giết Trần Danh Bình, giam cầm các sứ giả khác. (Theo thơ Quang Trung gửi vua Càn Long - TG).  Tôn Sĩ Nghị còn thách thức Quang Trung: “Hãy rút quân về Thuận Hoá để chờ phân xử” 2.

Quân của Tôn Sĩ Nghị là một đội quân viễn chinh, mới chiếm được Kinh thành Thăng Long được hơn một tháng khác với quân nhà Minh không những chiếm Thăng Long mà còn cả hệ thống đồn luỹ ở khắp nơi có thể tiếp ứng cho nhau khi nguy biến. Đánh tan được đội quân của Tôn Sĩ Nghị có nghĩa là đánh tan tham vọng xâm lược của nhà Thanh.

Việc tiêu diệt quân Tôn Sĩ Nghị là yêu cầu tất nhiên nhất là khi chúng chưa mở rộng chiếm đóng và đang nghỉ ngơi ăn Tết. Đây là thời cơ chiến lược không được phép bỏ qua. Ý nghĩ tiêu diệt nhanh chóng quân Tôn Sĩ Nghị đã có trong đầu Quang Trung khi ông tán thành ý kiến của La sơn phu tử Nguyễn Thiếp trong cuộc hội kiến tại Nghệ An: “Chúa công đi ra chuyến này không quá mười ngày giặc Thanh sẽ bị dẹp tan” 3.


_____________________________
1. Hoa Bằng - Quang Trung, anh hùng dân tộc - Sđd.
2. Trích từ Lê Quý ký sự Phan Huy Lê Phan Đại Doãn - Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa - Sđd.
3. Hoàng Lê nhân thống chí - Sđd. 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #54 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:38:13 pm »

Quang Trung quyết định giành quyền chủ động; mở cuộc tập kích chiến lược chớp nhoáng, tung toàn bộ lực lượng ra đánh tan quân địch vào lúc chúng bất ngờ nhất. Từ khi được tin Quang Trung tuyển quân ở Nghệ An, Thanh Hoá, chuẩn bị tiến quân ra Bắc, Tôn Sĩ Nghị vẫn giữ ý kiến cho quân “ăn Tết” những cũng phải lo tăng cường phòng thủ Thăng Long, chủ yếu là mặt Nam.

Tôn Sĩ Nghị cho lập thêm nhiều đồn luỹ mới, tạo thành một hệ thống phòng thủ từ Gián khẩu (Ninh Bình) đến Thăng Long: Gián Khẩu, đồn tiền tiêu, đồn Nguyệt Quyết ở huyện Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam), Nhật Tảo (nay là làng Nhật Tựu, huyện Kim Bảng, Hà Nam), đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi (nay thuộc Hà Nội), Văn Điển (nay thuộc Hà Nội).  Các đồn đều chạy dọc đường thiên lý (tức là đường 1 hiện nay). Quan trọng nhất là hai đồn Hà Hồi và Ngọc Hồi.

ĐÔ đốc Hứa Thế Hanh, phó tướng của Tôn Sĩ Nghị được cử trực tiếp chỉ huy mặt trận phía Nam, phụ trách hệ thống phòng thủ chủ yếu của Thăng Long. Đồn Ngọc Hồi có binh lực lớn, có công sự kiên cố có thể tiếp ứng cho các đồn khác bị uy hiếp.

Bốn đạo quân Thanh vẫn đóng bốn nơi: Tây Long, Đống Đa, Sơn Tây, Hải Dương. ở Tây Long có đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị và đạo quân chủ lực. Ngoài ra còn gần hai vạn quân của Lê Chiêu Thống mà phần lớn đóng trong nội thành Thăng Long. Ở Đống Đa có đạo quân của Sầm Nghi Đống. Như vậy Thăng Long là khu vực tập trung lực lượng cũng là trung tâm phòng thủ của địch. .

Xem cách bố phòng từ Gián Khẩu về Văn Điển thì Tôn Sĩ Nghị đoán quân Tây Sơn chủ yếu sẽ theo đường thiên lý tiến đánh Thăng Long.

Xuất phát từ chủ trương mở cuộc tập kích chiến lược chớp nhoáng, tung toàn bộ lực lượng ra đánh tan quân địch vào lúc bất ngờ nhất, Quang Trung quyết định lấy khu vực Thăng Long làm mục tiêu chiến lược tiến công chủ yếu. Chủ lực của Tây Sơn sẽ tiến công chính diện vào hệ thống phòng thủ phía Nam của quân Thanh.

Một cánh quân khác của Tây sơn tập kích nhanh chóng đạo quân của Sầm Nghi Đống ở Đống Đa để từ đó tràn vào Thăng Long, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị, dồn Tôn Sĩ Ngị và đạo quân chủ lực của hắn vào tình thế tê liệt không kịp trở tay. Một bộ phận khác của quân Tây Sơn đánh vào đạo quân Thanh đóng ở Hải Dương.

Quang Trung chia toàn quân ra năm đạo:

- Đạo quân thứ nhất đảm nhiệm hướng tấn công chủ yếu và do Quang Trung trực tiếp chỉ huy. Đạo quân này có nhiệm vụ tiến công thẳng vào hệ thống phòng thủ của địch ở phía Nam Thăng Long; Đại Tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy quân tiên phong. Hám hổ hầu tức Chiêu Viễn tướng quân đốc suất hậu quân.

- Đạo thứ hai do đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy. Đạo quân này có nhiệm vụ đi con đường “thượng đạo” bất ngờ bao vây tiêu diệt đạo quân Sầm Nghi Đống ở Đống Đa rồi thọc sâu vào thành Thăng Long, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị. Đây là hướng tiến công thứ yếu nhưng rất quan trọng vì nó sẽ làm tán rã đội quân của Lê Chiêu Thống, làm tê liệt đạo quân chủ lực của Tồn Sĩ Nghị.

- Đạo quân thứ ba do đại đô đốc Bảo chỉ huy đi theo con đường nhỏ từ Sơn Minh (huyện Ứng Hoà, Hà Tây) tiến ra Đại Áng (Thường Tín, Hà Tây. Nhiệm vụ của đạo quân này là bất ngờ tham dự vào trận tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, phối hợp với đạo quân chủ lực của ta.

Đạo quân thứ tư là đạo quân thuỷ do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy có nhiệm vụ vượt biển vào sông Lục Đầu, tiêu diệt quân địch ở Hải Dương và tiếp ứng hướng tiến công chủ yếu của ta.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #55 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:42:25 pm »

- Đạo quân thứ năm do đô đốc Lộc chỉ huy cũng là đạo quân thuỷ và cũng theo đường biển tiến vào sông Lục Đầu. Đây là một mũi tiến vào sau lưng địch chặn đường rút chạy của quân Tôn Sĩ Nghị. Ngày 30 tháng chạp năm Mậu Thân, Quang Trung mở tiệc khao quân để động viên tinh thần quân sĩ: “Nhà Thanh từ vua Càn Long lên ngôi đến nay luôn luôn mưu toan khuyếch trương bờ cõi, đã chiếm phía Tây, lại mưu toan lấn phía Nam. Sự mất còn của nước ta là quyết định ở trận này”.

Nhà vua tuyên bố quyết quét sạch giặc ngoại xâm, “làm cho quân chó Ngô từ nay về sau không dám có ý tưởng điên cuồng muốn chiếm lấy đất nước ta làm quận huyện của chúng nữa” 1.

Sau khi trao nhiệm vụ cho các đạo quân nhà vua tuyên bố với các tướng lĩnh: Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến sang xuân ngày mồng 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng thế không  2.

Theo lệnh của Quang Trung, các đạo quân tiến về Thăng Long trong không khí bừng bừng quyết chiến, quyết thắng.

Giữa đêm 30 Tết, quân chủ lực vượt sông Gián Khẩu. Tiến quân bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu Gián Khẩu rồi thừa thắng tiêu diệt luôn hai đồn Nguyệt Quyết và Nhật Tảo. Quang Trung ra lệnh truy kích đến cùng không để lọt tên nào về Ngọc Hồi, đến Phú Xuyên (Hà Tây), ta bắt gọn toàn bộ tàn quân địch. Các đồn khác trong hệ thống phòng thủ phía Nam của quân Thanh hoàn toàn không biết những gì xảy ra ở Gián Khẩu, Nguyệt Quyết và Nhật Tảo.

Nửa đêm ngày. mồng 3 Tết Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn bí mật bao vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây) rồi bắc loa gọi hàng, quân địch khiếp sợ phải đầu hàng.

Vấn đề lớn trước mắt là tiêu diệt cứ điểm Ngọc Hồi cách Hà Hồi 6 Km. Ngọc Hồi là cứ điểm phòng ngự mạnh nhất, quan trọng nhất trong hệ thống phòng thủ Tháng Long của quân Thanh với số quân ước ba vạn tên. Ngọc Hồi đã được xây dựng kiên cố, ngoài có bãi chướng ngại, ở giữa có chiến luỹ, bên trong là các doanh trại và sở chỉ huy của Hứa Thế Hanh. Ngoài Hứa Thế Hanh bộ chỉ huy Ngọc Hồi còn có tổng binh Thượng Duy Thanh, tổng binh Trương Triều Long.

Ngày 3, mồng 4 quân Tây Sơn chỉ tiến công các đồn tiền tiêu rồi rút. Tôn Sĩ Nghị chấm dứt các cuộc vui Tết và ra lệnh cho các đồn phải sẵn sàng chiến đấu.

Đầu trống canh năm ngày 5 Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn thình lình tiến công mặt Nam đồn Ngọc hồi. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Quang Trung, quân chủ lực Tây Sơn được tung vào trận. Đoàn voi chiến đi đầu, theo sau là một đội quân cảm tử 600 người chia làm hai mươi toán tiến thành hàng ngang sau 20 tấm mộc lớn có rơm ướt quấn quanh.

Quân Thanh chống cự quyết liệt nhưng không ngăn nổi quân Tây Sơn tiến đến chiến luỹ, mở cửa đột phá để đại quân ồ ạt xông lên, tiêu diệt sở chỉ huy của Hứa Thế Hanh; đốt phá các doanh trại. Quân Thanh phần bị giết, phần chạy trốn tán loạn. Trong cuộc chiến đấu này, đề đốc Hứa Thế Hanh, chỉ huy mặt trận phía Nam và tổng binh Thượng Duy Thanh đã bỏ mạng.

Một bộ phận tàn quân của đồn Ngọc Hồi theo tướng Trương Tiểu Long chạy ra phía đê sông Nhị để về Thăng Long, nhưng một bộ phận quân ta phục sẵn ở đâu buộc chúng phải chạy về phía Đầm Mực (làng Quỳnh Đô, huyện Thanh Trì) nơi phục kích của đạo quân của đại đô đốc Bảo. Toàn bộ tàn quân của đồn Ngọc Hồi đều bị tiêu diệt kể cả tổng binh Trương Tiểu Long. 

Ý nghĩa quan trọng của việc tiêu diệt căn cứ Ngọc Hồi không phải chỉ là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của địch mà còn là mở rộng cửa cho đại quân ta tiến vào Thăng Long.

Cũng vào rạng sáng ngày 5 Tết, vào khoảng canh tư, trên hướng phổi hợp đô đốc Đặng Tiến Đông mở cuộc tiến công bất ngờ vào đồn Đống Đa.  Đống Đa thuộc trại Khương Thượng, tổng Hạ, huyện Quảng Đức (sau đổi là Vĩnh Thuận (nay là quận Đống Đa, Hà Nội). Trại Khương Thượng nằm ở phía Bắc sông Tô Lịch trên con đường từ Thanh Hoá ra Tam Điệp, qua Nho Quan (Ninh bình), Chương Đức (nay là Chương Mỹ, Hà Tây), rồi qua cầu Nhân Mục (Cống Mọc, xã Nhân Chính, Hà Nội) vào cửa Ô Tây Nam thành Thăng Long (nay là Ô Chợ Dừa, Hà Nội) . . .


______________________-
1. Trích Minh đô sử - Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn - Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Da, Sđd.
2. Trích Đại Nam chính biên liệt truyện - Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn - Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa - Sđd.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #56 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:44:48 pm »


 
Sơ đồ vị trí Ngọc Hồi - Đầm Mực

Theo cuốn “Những cuộc quyết chiến, chiến lược của dân tộc ta” của Phan Huy Lê - Bùi Anh Dũng - Phạm Thị Tấm – Trần Bá Chí - NXB Quân đội Nhân dân - Hà Nội - 1976


Đồn Đống Đa không quan trọng như đồn Ngọc Hồi, không có công sự, chiến luỹ nhưng kiểm soát con đường từ Tây Nam vào Thăng Long; sở chỉ huy của Sầm Nghi Đống đóng trên núi Loa Sơn (tức Cột Cờ). Số quân của đồn ước khoảng ba vạn. Đạo quân của đô đốc Đặng Tiến Đông phải hành quân bí mật theo đường núi. Sau khi vượt sông Tô Lịch lúc trời còn tối, quân Đặng Tiến Đông bắt đầu cuộc tiến công khoảng canh tư, xông thẳng vào đồn địch.

Cũng vào lúc đó, đột nhiên xuất hiện một hàng rào lửa do nhân dân chín xã đốt lên để phối hợp với quân Tây Sơn tiến công đồn. Đó là những mồi rơm tẩm dầu và các chất cháy. Sầm Nghi Đống ở trong tình thế chống đỡ không nổi, phá vây không được, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử ngay tại sở chỉ huy. Sau mấy giờ chiến đấu quân Tây Sơn phá tan đồn trại địch, một bộ phận quân địch bị tiêu diệt, số khác chạy thoát ra ngoài nhưng cuối cùng cũng bị dân bắt hết. Xác giặc ngổn ngang khắp chiến trường từ trại Khương Thượng đến trại Nam Đồng, quân dân ta nhặt đem chôn làm 12 gò đống. Nhà thơ Ngô Ngọc Du thời bấy giờ đã ca ngợi chiến công Đống Đa:

Thành Nam thập nhị kình nghê quán
Chiếu diệu anh hùng đại võ công
.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #57 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2009, 11:48:20 pm »

Dịch :

Phía Nam thành, mười hai gò xác giặc
Rạng rỡ võ công lớn của anh hùng


(Sau này người ta thu thập thêm xương cốt và đắp thành gò thứ 13 ) .

Các gò đó về sau bị phá dần, hiện chỉ còn hai gò: gò Trung Liệt (tức gò thứ 13, trên có đền Trung Liệt), và gò Đống Thiêng (trong khu Thái Hà ấp). 

Vào canh tư, Tôn Sỹ Nghị nghe thấy tiếng súng nổ liên tiếp ở phía Tây Nam thành, vội sai quân đi nắm tình hình. Đầu canh năm đồn Ngọc Hồi lại phi báo đồn Ngọc Hồi đang bị đánh dữ dội . Tiếp đó lại có tin báo đạo quân Diễn Châu, Triều Châu đã tan vỡ đồn Đống Đa có nguy cơ bị diệt. Tôn Sĩ Nghị chưa hết kinh hoàng thì lại có tin quân Tây Sơn đã tràn vào thành; Kỵ binh Tây Sơn lao về phía Tây Long. Tôn Sĩ Nghị chạy trốn. Qua khỏi cầu phao, Tôn ra lệnh cắt đứt cầu phao để quân Tây Sơn không lợi dụng được. Quân sĩ các doanh hoảng hốt, tan rã, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau xuống cầu, đẩy cả tổng binh Lý Hoá Long ngã nhào xuống sông. Người bị chết; “Nước sông Nhị vì thế mà tắc nghẽn không chảy được” 1.
 
Đạo quân đóng ở Hải Dương cũng bị đánh tan.  Đạo quân Vân Nam do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy ven Sơn Tây thì được tin Tôn Sĩ Nghị đại bại hốt hoảng chạy về nước, nhưng cũng bị dân binh địa phương đánh .

Lê Chiêu Thống thấy Tôn Sĩ Nghị dã bỏ chạy cùng một số cận thần chạy đuổi theo. Khi gặp được Tôn Sĩ Nghị, Tôn an ủi nhà vua và mời nhà vua vào nghỉ ở nhà công quán Quế Lâm.

Cuộc tháo chạy của Tôn Sĩ Nghị cũng như của quân sĩ Thanh cực kỳ thảm hại. Theo Trần Nguyên Nhiếp, thư ký riêng và người cùng chạy với Tôn Sỹ - Nghị, bọn họ phải “đói cơm khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày bảy đêm mới đến trấn Nam Quan” 2. .   

Vua Quang Trung đánh vào thành, yết bảng chiêu an, cấm quân lính không được xâm phạm tài sản của dân, không được giết quân Thanh chạy trốn.  Nhà vua lại cho phép quân Thanh ra thú và dân gian không được phép chứa chấp quân Thanh.

Nhân dân kinh thành tràn ngập niềm vui, đổ ra chật phố phường đón chào Hoàng đế Quang Trung, vị anh hùng dân tộc đã giải phóng kinh thành. Nhà thơ Ngô Ngọc Du đã hân hoan ca ngợi võ công của Quang Trung:

Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua nuôi giận, oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương.
Một trận rồng lửa giặc tan tành ,
Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh .
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiên.
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
Mây tạnh mù tan trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa.
Chung vui sát cánh cùng nhau nói:
Cố đô vẫn thuộc núi sông ta
.
                                  (Bản dịch của Vũ Tuấn Sán)

Nhà Thanh đã huy động 29 vạn quân hòng chiếm nước Đại Việt. Nhưng số quân đó cũng như quân Lê Chiêu Thống đã bị đánh tan tành, bị tiêu diệt đại bộ phận, tàn quân đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi Đại Việt Tổn thất về tướng lĩnh cao cấp rất nặng nề, trong đó có đề đốc phó tướng Hứa Thế Hanh, các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Tiểu Long, Lý Hoá Long, tri phủ Sầm Nghi Đống. 

Với hai trận Ngọc Hồi - Đống Đa, chỉ trong năm ngày, từ 1 đến 5 Tết Kỷ Dậu, Quang Trung đã đánh tan đạo quân viễn chinh của Thanh, buộc Tôn Sĩ Nghị phải hốt hoảng chạy trốn một mạch về Trung Quốc mặc dầu trong tay còn nguyên vẹn đạo quân chủ lực tinh nhuệ.

Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa không phải chỉ giải phóng kinh đô Thăng Long mà còn quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước ta, phá tan âm mưu của nhà Thanh muốn chiếm nước ta lập thành quận huyện của Trung Quốc, không phải chỉ đánh thắng một cuộc xâm lược của nhà Thanh mà còn triệt để ngăn ngừa mọi mưu đồ của Trung Quốc cho đến hết đời nhà Thanh.

Ngọc Hồi - Đống Đa mãi mãi là những võ công oanh liệt trong lịch sử bốn ngàn năm của nước Việt Nam.


____________________
1. Hoàng Lê nhất thống chí - Sđd.
2. Trích An Nam quân doanh kỷ yếu của Trần Nguyên Nhiếp - Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn - Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #58 vào lúc: 01 Tháng Sáu, 2009, 12:03:37 am »

KHÔI PHỤC QUAN HỆ HOÀ HIẾU VIỆT - THANH


Ngay khi ở Tam Điệp, Quang Trung đã nói với Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm rằng Trung Quốc là nước lớn, sau khi bị ta đánh thua chắc chắn sẽ tìm cách rửa hận, cho nên ta cần chuẩn bị công tác ngoại giao để dập tắt lửa chiến tranh.

Sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa,  Quang Trung cử ngay một sứ bộ do Hám Hổ Hầu tức Chiêu Văn tướng quân cầm đầu sang Trung Quốc đưa thư gửi tả giang binh bị đạo Thang Hồng Nghiệp và tờ biểu gửi vua Càn Long. Trong thư gửi Thang Hồng Nghiệp, Quang Trung viết: tôi không hề có ý xâm phạm biên cảnh để đắc tội với Thượng quốc.  Tờ biểu nêu nguyên nhân xảy ra chiến tranh, kể tội Tôn Sỹ Nghị và xin xưng thần nộp cống.

Nguyên văn biểu như sau:

“Tôi là Nguyễn Quang Bình, ở khuất nẻo bên An Nam, bấy lâu vẫn được tắm gội trong thanh giáo. Nguyên từ hai trăm năm tới nay, Quốc vương họ Lê nắm. Kịp đến Tiên vương Lê Đức Chuyên (vua Lê Hiển Tông - TG) tuổi gìa, tiền phụ chính Trịnh Bồng mờ tối, biếng nhác, binh kiêu dân oán, trong nước rã rời .

Tôi vốn là kẻ mặc áo vải ở Tây Sơn, nhân thời thế, nổi lên làm việc. Mùa hạ năm Bính Ngọ (1786) cất quân ra diệt họ Trịnh, trả lại nước cho nhà Lê.  Năm ấy tiền Lê vương tạ thế, tôi lại phò lập Tự Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo, không lo chính sự nước nhà: trong thì kỷ cương rối bét ở triều chính, ngoài thì gây hiềm khích với biên giới. Lại còn hãm hại kẻ trung lương, giết chết người đồng tông là khác nữa. Thần dân trong nước chạy đến kể lể với tôi, nài xin đem binh ra trừ kẻ loạn.  Tôi nghĩ nước này là nước đã được thiên triều phong cho, tôi đâu dám làm việc phế truất.

Mùa đông năm Đinh Mùi ( l787) tôi sai một viên tiểu tướng đem quân ra hỏi tội những kẻ ở bên tả hữu giúp Kiệt làm xằng thì Duy Kỳ lại sợ bóng sợ gió đang đêm chạy trốn, tự chuốc lấy cái lo vào mình .

Mùa hạ năm Mậu Thân (l788) tôi đến đô thành nhà Lê, lại giao cho Duy Cận, con tiền Lê vương, giữ lấy nước, coi việc thờ tự. Tôi từng sai sứ giả sang gõ cửa ải, hòng đem hết nội tình trong nước mà .trình bày.

Nhưng mà Duy Kỳ đã trước sang Đản áo ải (có sách viết là Khả Lân Di) kể lể xót xa với Tôn Sỹ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng, rồi lăn lưng cầu cứu.  Sỹ Nghị là kẻ đại thần ở biên cương, đáng lẽ phải xét kỹ căn do, dò tim cái cớ tại sao Duy Kỳ lại trốn bỏ nước và tại sao tôi phải vào nước, rồi tâu cùng Đại hoàng đế, đợi ngài phân xử để dẹp mọi loạn.  Trái lại, vì ham tài sắc, chỉ nghe lời đàn bà, Nghị xé biểu chương của tôi ném xuống đất, làm nhục sứ giả, xua đuổi về, ý hẳn muốn khua dân đẩy binh, tâng công gây chuyện.

Mùa đông năm ngoái (l788), Nghị điều bát, huy động nhiều quân, kéo ra khỏi cửa ải, mượn tiếng khôi phục nhà Lê, truyền hịch đi khắp trong nước, đổ tội cho tôi. Hắn chực đánh xốc đến Quảng Nam, đào cây đánh rễ, để trừ mối lo sau cho Duy Kỳ. 

Tôi ở hẻo lánh tận tít chân trời; đường sá xa xôi, núi sông cách trở, chẳng hay việc đó có hẳn do ý Đại hoàng đế sai làm hay do Tôn Sỹ Nghị vì một người đàn bà xui khiến, rồi mong kiêu hãnh lập công ở biên thuỳ để hòng kiếm lợi lớn?

Hay tin có binh mã thượng quốc ra khỏi cửa ải, tôi nghĩ tấc lòng “sợ mạng trời, phục nước lớn” của mình bấy nay đã bị kẻ khốn thần ngăn trở mà cái cớ Duy Kỳ trốn bỏ nước kia lại bị che lấp không thông đạt lên được, sau này mối binh tranh bùng ra thì tai vạ không phải là ít.

Ngô Hồng Châu, viên tiểu tướng của tôi, bấy giờ đang đóng ở Lê thành. Tôi sai nhóm hỏi ý kiến họ hàng Lê vương, văn võ thần liêu và kỳ lão cùng hào mục trong nước, thì muôn miệng một lời, ai cũng theo về với tôi .

Bản thân tôi không phải tham đất đai và nhân dân của nhà Lê đâu, song vì lòng dân ép buộc, tôi muốn từ chối cũng không sao được. Vì thế tôi phải sai viên gia tướng là Trần Danh Bình cùng tám người sứ thần đem ba đạo bẩm văn của Duy Cận, con Lê vương và của quần thần cùng dân chúng đến gõ cửa tướng doanh, khẩn khoản nài xin Tôn Sỹ Nghị hãy cứ đóng quân ở nơi quan ải, tra rõ nội tình trước đây đã.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Sáu, 2009, 12:13:22 am gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #59 vào lúc: 01 Tháng Sáu, 2009, 12:04:18 am »

Cùng một lúc ấy, tôi lại sai thả trả bọn tuần dương binh Hắc Thiệu Long bốn mươi người mà Ngô Hồng Châu đã bắt được. Thế là tôi vẫn chăm chăm tỏ ý cung thuận, chứ có dám công nhiên chống cự đâu.

Vậy mà Tôn Sỹ Nghị riêng nghe lời ton hót đặt để của mẹ Duy Kỳ xoay hại Trần Thanh Bình, giết bọn tuần dương binh, giam cầm sứ giả, lùa quân vượt sông Nhị Hà, thẳng tới Lê thành (Thăng Long - TG). Tướng tá của tôi phải rút quân về Nam.  Tôn Sỹ Nghị được thể tàn sát dữ quá. Hắn lại phí sức cho các quan nhà Lê lùng những tướng sĩ của tôi ẩn náu ở các nơi thôn trại để bắt đem nộp. Ngày nào hắn cũng giết ba bốn chục người. Chứa dồn lại có tới hàng nghìn mạng.

Duy Kỳ nhân dịp tốt ấy tha hồ chém giết những chức viên sắc mục đã theo tôi. Rất đỗi và phanh mổ cả những đàn bà có mang, không để sót giống lại.  Cái ngón thâm độc ấy còn gì quá quắt hơn nữa?  Ôi kể ra nhân dân ở nơi góc biển này, ai chẳng là con đỏ của Triều đình. Đại hoàng đế là bậc “cửu quá hoá thành”, há lại ưa viển vông, ham công lợi, trước gây sự với ngoài biên cương, khiến hạng dân vô tội phải sa vào vòng tên đạn.

Thế mà Sỹ Nghị không biết lựa theo đức ý bề trên, lại đi giết người như ngoé, chẳng những riêng muốn cam tâm một mạng tôi lại còn chực bắt giết cho kỳ tuyệt vây cánh của tôi nữa. Hắn rao toạc lên tờ hịch, cốt dồn người ta vào chỗ chết mới nghe. 

Ôi! Cứ kể nhân, sĩ, giáp binh ở một dải bờ biển này sánh với Trung Quốc không được một phần muôn. Nhưng lạch sâu trước, cọp dữ ở sau, lòng người sợ chết, tất ai cũng phải cố gắng hăng hái.  Tôi không tránh cái tiếng “ném chuột vỡ đồ”, bèn đem dăm ba tên trai tráng trong làng trẩy ra.  Mồng năm tháng giêng năm nay (1789) tôi tiến đến Lê thành những mong Tôn Sỹ Nghị lại, hoạ may có thể đem ngọc lụa thay đồ can qua, xoay binh xa làm hội xiêm áo. Tôi nhũn nhặn xin yết kiến, nhưng Nghị không hề trả lời .

Qua bữa sau; quân Nghị xông vào đánh trước, vừa mới giao phong đã đổ vỡ, chạy tan bốn ngả, và đè lẫn nhau mà chết, thây xác đầy nội, nghẽn sông. Còn những quân chạy trốn ra các thôn trang ngoài thành lại bị dân gian đánh giết hầu hết. Ấy vì trước đây Nghị đóng đồn ở quanh thành, hắn không biết ngăn cấm quân gia để chúng hiếp gái, cướp chợ, làm cho nhân dân căm giận đến tận xương tuỷ.

Ngay bữa vào thành, tôi lập tức ngăn cấm trong xứ hễ thấy bại binh chạy trốn, nhân dân không được phép giết. Bọn tàn binh ấy được đưa đến đô thành còn hơn 800 người tất cả. Tôi đã sai lấy lương thực trong kho mà ban phát cho.

Trộm nghĩ: binh đao là việc bất dắc dĩ của thánh nhân. Đại hoàng đế thâm nghiêm ngự nơi cửu trùng.  Những chuyện cương thường, Tôn Sỹ Nghị không hề tâu rõ từng việc một. Hắn che lấp tai mắt nhà vua đến nỗi làm cho sự thế rối ren đến thế.

Châu chấu đá xe, tôi thật không dám. Song cửa nhà vua xa cách muôn dặm, hễ tôi nhúc nhích làm gì liền bị kẻ khốn thần hiếp đáp. Không sao nhịn nổi, nên hình tích mới dường như chống cự. Thiết nghĩ nước tôi từ Đinh, Lê, Lý, Trần trở đi, thế đại đổi thay, chẳng phải chỉ là một họ. Hễ ai có thể làm rào giậu ở phương Nam thì Thiên triều, lượng rộng như biển, thường vẫn làm ngơ lỗi nhỏ, lựa theo đạo trời, cốt giữ lòng rất công bình, rất nhân từ, mà vun xới cho cái cây đã mọc, mặc dầu có những chuyện như bọn Ô Mã Nhi, Hoàng Ngũ Phúc đã làm bất lợi cho nước nhỏ này.

Nay lòng trời đã chán nhà Lê, con cháu họ Lê đớn kém, hèn yếu, không được lòng dân theo về.  Tôn Sỹ Nghị vì cớ nông nổi; không thấu suốt sự tình và lý do, nên mới chực vừa giúp gây dựng lại cho nhà Lê ấy. Hắn gây mối binh tranh khiến cho bọn sinh linh phải cay đắng khốn khổ. Hắn lừa dối bề trên, tàn ngược kẻ dưới đến thế là cùng,

Tôi đóng quân ở thành Long Biên, nghển cổ ngóng trông về cửa trời. Gọi có tờ biểu tạ tội và trần tình này nhờ quan Quảng Tây phân tuần Tả giang binh bị đạo (ý nói Thang Hồng Nghiệp - TG) chuyển tâu bày.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM