Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:08:04 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Danh tướng Việt Nam - Tập 3  (Đọc 63522 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 08:50:52 pm »


Tên sách: Danh tướng Việt Nam-Tập 3
Tác giả: Nguyễn Khắc Thuần
Nhà xuất bản: Giáo dục
Năm xuất bản: 1998
Số hoá: ptlinh, chuongxedap




“ĐÁNH CHO ĐỂ DÀI TÓC,
ĐÁNH CHO ĐỂ ĐEN RĂNG.
ĐÁNH CHO CHÚNG CHÍCH LUÂN BẤT PHẢN,
ĐÁNH CHO CHÚNG PHIẾN GIÁP BẤT HOÀN.
ĐÁNH CHO SỬ TRI NAM QUỐC ANH HÙNG CHI HỮU CHỦ”.


QUANG TRUNG
(Lời hiểu dụ tướng sĩ đọc tái lễ Thệ Sư
tổ chức ở Thọ Hạc, Thanh Hóa, năm 1788)







LỜI NÓI ĐẦU

Bạn đọc yêu quý,

Các nhà sử học vẫn gọi thế kỷ thứ XVIII của lịch sử nước ta là “thế kỷ của chiến tranh nông dân”. Gần trọn cả thế kỷ này, những người nông dân áo vải ở khắp mọi miền của đất nước, từ đồng bằng đến trung du và rừng núi, từ Đàng Ngoài đến Đàng Trong... đã quả cảm vùng lên “khuấy nước chọc trời”, tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của giai cấp phong kiến bóc lột đang trên bước đường sa đọa ngày một thảm hại. Hoảng sợ trước sức mạnh quật khởi phi thường ấy, các tập đoàn phong kiến thống trị không chỉ cam lòng phản dân mà còn nhẫn tâm hại nước. Bấy giờ, nếu Nguyễn Ánh phạm tội ác “trời không dung, đất không tha” là rước năm vạn quân Xiêm về giày xéo lên một phần thiêng liêng của lãnh thổ xứ Đàng Trong, thì Lê Chiêu Thống cũng phạm trọng tội đáng để cho “đời đời lên án” đó là đã rước hai mươi chín vạn quân xâm lược Mãn Thanh về chà đạp lên một phần giang sơn gấm vóc của xứ Đàng Ngoài. Vận mệnh dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng cả từ bên trong lẫn bên ngoài, cả từ phía Nam lẫn phía Bắc. Trong bối cảnh đặc biệt như vậy, lớp lớp những người nông dân áo vải chẳng những đã hiên ngang đứng lên đấu tranh giành quyền sống cho mình, mà còn khảng khái đảm đương sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc. Từ trong khói lửa của cuộc chiến đấu một mất một còn chống thù trong và giặc ngoài, tên tuổi của một loạt các bậc danh tướng đã xuất hiện, vừa góp phần làm rạng rỡ truyền thống ngoan cường của cả dân tộc, vừa đóng góp cho kho tàng kinh nghiệm thao lược của tổ tiên những tri thức vô giá.

Với tất cả niềm tự hào mãnh liệt và sâu sắc của mình, tác giả xin dành trọn tập thứ ba của bộ
DANH TƯỚNG VIỆT NAM để trân trọng giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của các bậc danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn.

Nếu trước đó, tên tuổi của các danh tướng trong sự nghiệp giữ nước từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV và danh tướng Lam Sơn
1 nhìn chung đều được các bộ chính sử xưa trân trọng ghi chép, do đó, việc tái hiện cuộc đời và sự nghiệp của họ có những thuận lợi nhất định, thì rất tiếc là danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn, hoặc là rất ít được các bộ chính sử cũ chép đến, hoặc là chỉ được chép đến với dụng ý xuyên tạc rất rõ ràng. Nghịch lí này cũng không có gì là khó hiểu, bởi lẽ, sử cũ nói đến ở đây là sử biên soạn vào thời Nguyễn, mà dưới con mắt của hầu hết các sử gia thời Nguyễn, mọi phong trào nông dân đều bị coi là “giặc cỏ”, còn Tây Sơn là “kẻ thù không đội trời chung”. Sự hụt hẫng của chính sử tuy có được bù đắp bởi những trang ghi chép của dã sử và đặc biệt là những lời kể hào hùng phản ánh niềm kiêu hãnh bất diệt của nhân dân, nhưng, việc tập hợp, xác minh và chỉnh lí tài liệu cũng không phải nhờ vậy mà giảm bớt được khó khăn.

Giới thiệu các bậc danh thắng là việc làm rất dễ nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, nhưng, sắp xếp thứ tự trước sau của các danh tướng trong từng tập sách cụ thể thì thường có nhiều ý kiến khác nhau. Mục đích cao nhất, cũng là mục đích xuyên suốt của tác giả đặt ra cho cả bộ sách 5 tập này là làm sao để có thể tạo ra những mạch vấn đề thật nhất quán, nhằm giúp bạn đọc theo dõi một cách thuận tiện nhất. Vị trí và tầm vóc của từng vị danh tướng không hề phụ thuộc vào thứ tự trước sau của họ trong tập sách này. Xuất phát từ nhận thức ấy, tác giả chia tập 3 của bộ
DANH TƯỚNG VIỆT NAM thành bốn phần chính sau đây:

- Những danh tướng xuất thân áo vải đầu tiên: gồm toàn bộ những trang viết về những thủ lĩnh tiêu biểu và xuất sắc nhất, cũng là những danh tướng có nhiều công lao trong phong trào chiến tranh nông dân thế kỷ thứ XVIII như: Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất. Có một danh tướng khá đặc biệt cũng được tạm ghép vào phần này, đó là Lê Duy Mật. Sở dĩ gọi là “tạm ghép” bởi vì ông xuất thân từ hoàng tộc chứ không phải từ đội ngũ những người nông dân áo vải, nhưng, cuộc đời và sự nghiệp của ông lại gắn bó mật thiết với nông dân trong cuộc chiến đấu quyết liệt đương thời.

- Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ - ba lãnh tụ của phong trào Tây Sơn, ba danh tướng kiệt xuất nhất của thế kỷ XVIII: là một trong những phần quan trọng nhất của tập 3. Phần này được chia làm bốn nội dung khác nhau như sau:

      + Giới thiệu chung về lai lịch, quê hương và gia đình của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Tất cả được dừng lại khi ba anh em Tây Sơn đồng tâm hiệp lực, dựng cờ xướng nghĩa ở ngay trên quê hương của mình.

      + Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Nhạc.

      + Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Huệ.

      + Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Lữ.


- Danh tướng Tây Sơn: cũng là một trong những phần quan trọng nhất của tập 3. Ở đây, cuộc đời và sự nghiệp của các danh tướng Tây Sơn, những người từng vào sinh ra tử, từng có những cống hiến xuất sắc cho phong trào Tây Sơn sẽ lần lượt được giới thiệu.

- Phụ lục: là phần dành riêng để viết về những nhân vật đặc biệt, như Ngô Thì Nhậm, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp,... v. v. Họ không hề là võ tướng, nhưng, những ý kiến xuất sắc của họ lại có ảnh hưởng tích cực rất to lớn đối với thắng lợi chung của phong trào Tây Sơn.

Bạn đọc yêu quý.

Trận đánh nào cũng có nhiều võ tướng tham gia, bởi vậy, dẫu đã ý thức một cách đầy đủ và dẫu đã rất cố gắng, tác giả cũng không sao có thể tránh khỏi một vài sự trùng lặp nhất định. Đành rằng, tập 3 là tập chung cho tất cả các danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn, nhưng nếu tách riêng ra, phần viết về mỗi danh tướng lại có tính độc lập rất rõ rệt. Thiết nghĩ, đang đọc ở giữa hay cuối tập mà phải lật ngược trở lại để tra cứu ở đầu tập hoặc đang đọc chuyện danh tướng này lại phải dò tìm thêm tư liệu ở chuyện của danh tướng khác... cũng là điều rất bất tiện. Từ suy nghĩ ấy, tác giả thấy cần thiết phải chấp thuận sự trùng lặp trong một liều lượng và một khuôn khổ cho phép. Suy cho cùng, đấy cũng là sự cần thiết nẩy sinh từ ý định tạo điều kiện thuận lợi nhất cho bạn đọc khi theo dõi những diễn biến phức tạp của các sự kiện xảy ra cách đây trên hai thế kỷ mà thôi.

Khi tập 3 bắt đầu được khởi thảo thì một tin vui lớn đã đến với tác giả, đó là tập 1 và tập 2 của bộ
DANH TƯỚNG VIỆT NAM, dù mới được in và phát hành với một số lượng khá lớn, cũng đã được tái bản. Càng vui hơn nữa, khi mà cùng với việc tái bản tập 1 và tập 2 của bộ DANH TƯỚNG VIỆT NAM, Nhà Xuất bản Giáo dục còn cho tái bản lần thứ ba, trọn bộ VIỆT SỬ GIAI THOẠI (8 tập) và THẾ THỨ CÁC TRIỀU VUA VIỆT NAM cũng đều do tác giả biên soạn. Đó thực sự là một hạnh phúc nghề nghiệp của năm 1997 mà tác giả đã may mắn được hưởng. Tác giả chẳng biết nói gì hơn là chân thành cám ơn sự chăm sóc ân cần của Nhà Xuất bản Giáo dục, chân thành cám ơn sự cổ vũ hào hiệp và vô tư của bạn đọc gần xa.

                                                                                       Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17-1-1998
                                                                                                  NGUYỄN KHẮC THUẦN
_____________________________________
1. Xin vui lòng tham khảo thêm tập 1 và tập 2 của bộ DANH TƯỚNG VIỆT NAM.
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Hai, 2010, 04:20:00 pm gửi bởi ptlinh » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 09:19:48 pm »


Chương thứ nhất
NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN


I - ĐÀNG NGOÀI Ở ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII

“Nhân nghĩa mễ mục,
Thanh trung thủ chương.
Chung luận yểm muội,
Mạc tiến minh xương”
.


(Nhân nghĩa chỉ như bụi cám trong mắt,
Người thanh cao chỉ ôm giữ từ chương.
Rốt cuộc công luận bị mờ tối, Lời sáng đẹp làm sao chuyển đạt được).

   
LỊCH TRIỀU TẠP KỶ
   (quyển 2)1



1. Quá trình băng hoại về nhân cách và phẩm giá của tập đoàn phong kiến thống trị.

Lần giở những trang ghi chép của thư tịch cổ, chúng ta có thể kết luận rằng, quá trình băng hoại về nhân cách và phẩm giá của giai cấp phong kiến thống trị đã thể hiện khá rõ ngay từ dầu thế kỷ thứ XVI. Sau khi vua Lê Túc Tông qua đời2, cuộc khủng hoảng của nội bộ triều Lê diễn ra với một mức độ ngày càng nghiêm trọng. Bấy giờ, Lê Uy Mục (1505-1509) là một kẻ thất đức, dám cả gan giết chết bà Trường Lạc Thái Hoàng Thái Hậu3 và nhiều bậc đại thần không cùng phe cánh. Tháng 1 năm Đinh Mão (1507), nhà Minh cử một phái bộ sứ giả sang nước ta để làm lễ tấn phong cho Lê Uy Mục, gồm Chánh Sứ là Thẩm Đào và phó Sứ là Hứa Thiên Tích. Ngay sau khi tiếp xúc với Lê Uy Mục, viên Phó Sứ là Hứa Thiên Tích đã viết rằng:

An Nam tứ bách vận vưu trường,
Thiên ý như hà giáng quỷ vương
4.

(Nghĩa là: Vận đẹp của An Nam những bốn trăm năm dài5, chẳng rõ ý trời thế nào mà lại giáng sinh tên vua quỷ). Nhân có câu trên của Hứa Thiên Tích mà người đương thời cũng như hậu thế đều gọi Lê Uy Mục là vua quỷ. Cuối năm 1509, Lê Uy Mục bị giết, Lê Tương Dực6 được đưa lên ngôi và đó là một nhầm lẫn khó tha thứ của những người nắm quyền điều khiển vận mệnh quốc gia đương thời, bởi vì như thế, chẳng khác nào họ đã đổi nỗi khổ này lấy sự bất hạnh khác. Tháng 4 năm 1516, đến lượt Lê Tương Dực bị giết, ngôi vua trên danh nghĩa là thuộc về Lê Chiêu Tông7 và sau đó là Lê Cung Hoàng8, nhưng thực quyền lại hoàn toàn nằm trong tay Mạc Đăng Dung.

Trên ngai vàng, nếu Lê Uy Mục là vua quỷ thì Lê Tương Dực là vua heo9 và Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng chỉ là những con rối tội nghiệp của Mạc Đăng Dung. Sau, cả Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng đều bị Mạc Đăng Dung giết hại10.

Tháng 6 năm 1527, Mạc Dăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, triều Mạc được dựng lên kể từ đó. Triều Mạc11 cũng là một trong những triều đại chính thống của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, nhưng, triều Mạc không có may mắn được tồn tại trong bình ổn. Đất nước từ năm 1527 trở đi liên tục bị chấn động dữ dội bởi những cuộc nội chiến ác liệt và triền miên. Cục diện Nam-Bắc triều12 chưa chấm dứt thì cục diện đàng Ngoài-đàng Trong13 lại nổi lên. Không khí chết chóc và điêu linh bao trùm lên khắp cõi.
___________________________________
1. Nguyên là Bài châm khá dài của Đặng Đình Tướng và Nguyễn Quý Đức, được Ngô Cao Lãng chép lại trong bộ Lịch triều tạp kỷ.
2. Tên là Lê Thuần, làm vua từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1504 thì mất, hưởng dương 16 tuổi. Ông là vị vua thứ bảy của thời Lê sơ.
3. Tên thật là Nguyễn Thị Hằng. Bà là thân mẫu của vua Lê Hiến Tông (1497-1504), tức là bà nội của Lê Uy Mục.
4. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kí thực lục, quyển 14, tờ 43-b).
5. Triều đình phong kiến Trung Quốc xưa chỉ coi ta thực sự là một nước riêng kể từ giữa thế kỷ thứ X nên mới viết như thế.
6. Tên thật là Lê Oánh, làm vua sáu năm (1510-1516).
7. Tên thật là Lê Y, làm vua sáu năm (1516-1522), được đưa lên ngôi lúc mới 10 tuổi.
8. Tên thật là Lê Xuân, làm vua năm năm (1522-1527), được đưa lên ngôi lúc 15 tuổi.
9. Theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, thực lục, quyển 15, tờ 19-b), thì vào tháng 1 năm 1513, nhà Minh sai Trạm Nhược Thủy làm Chánh Sứ và Phan Hy Tăng làm Phó Sứ sang nước ta để làm lễ tấn phong cho Lê Tương Dực. Sau khi gặp Lê Tương Dực, viên Phó Sứ Phan Hy Tăng có nói với viên Chánh Sứ Trạm Nhược Thủy rằng: “Quốc vương của nước An Nam tuy gương mặt đẹp nhưng người lại bị lệch, tướng háo dâm như tướng heo, loạn vong tất không còn xa nữa”. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 26, tờ 19) cũng chép tương tự như vậy. Bởi lời ấy của Phan Hy Tăng, người đương thời cũng như hậu thế đều gọi Lê Tương Dực là vua heo.
10. Lê Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung giết vào tháng 12 năm 1530, hưởng dương 24 tuổi. Lê Cung Hoàng bị Mạc Đăng Dung giết vào khoảng tháng 8 năm 1527, hưởng dương 20 tuổi.
11. Tuy danh nghĩa có dài hơn, nhưng thực chất, triều Mạc chỉ tồn tại 65 năm (từ 1527 đến 1592).
12. Tức cuộc hỗn chiến giữa triều Lê (Nam triều) với triều Mạc (Bắc triều).
13. Tức cuộc phân tranh giữa họ Trịnh (Đàng Ngoài) với họ Nguyễn (Đàng Trong), từ 1558 đến 1786.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 09:46:07 pm »


Năm 1592, sau nhiều cuộc giao tranh quyết liệt và lâu dài, Nam triều đã đè bẹp được Bắc triều, giành quyền thống trị đối với hầu hết các địa phương trong cả nước lúc bấy giờ1. Một thời kì mới được mở ra và sử cũ thường gọi đó là Thời Lê trung hưng. Khái niệm này được sử dụng rất phổ biến, nhưng rất tiếc là không chính xác, bởi vì Nam triều thắng thế là điều có thật, nhưng, quá trình thắng thế ấy cũng chính là quá trình mất dần quyền lực của vua Lê, mà một khi vua Lê bị đẩy nhanh vào vị trí bù nhìn thì không thể gọi đó là Thời Lê trung hưng được. Quyền lực thực sự của Nam triều lúc đầu nằm trong tay Nguyễn Kim2 nhưng chẳng bao lâu sau thì chuyển sang tay con rể của ông là Trịnh Kiểm và kế tiếp hơn hai thế kỷ liền là con cháu của Trịnh Kiểm3. Nếu Trịnh Kiểm chỉ có tước vị cao nhất là Quốc Công thì tất cả con cháu kế nghiệp của Trịnh Kiểm đều có tước Vương4. Nước đã có vua lại còn có chúa, mà đâu phải chỉ một chúa?5 Chính sự rối bời đến độ không thể rối hơn được nữa.

Các chúa Trịnh không những chỉ nối nhau nắm giữ quyền lực mà trong thực tế, còn nắm cả tính mạng của vua Lê. Bấy giờ, các chúa Trịnh chọn ai trong hoàng tộc nhà Lê lên làm vua thì người đó được làm vua, và bắt vua nào chết thì vua đó cũng phải chết. Từ khi có chúa Trịnh, tính ra, có đến ba vua Lê bị chúa Trịnh giết hại. Đó là:

- Lê Anh Tông (1556-1573) bị chúa Trịnh Tùng (1570-1623) giết hại vào ngày 22 tháng 1 năm 1573.

- Lê Kính Tông (1599-1619) cũng bị chính chúa Trịnh Tùng giết hại vào ngày 12 tháng 5 năm 1619.

- Lê Đế Duy Phường (1729-1732) bị chúa Trịnh Giang (1729-1740) phế truất ngày 15 tháng 8 năm 1732 và giết hại vào tháng 9 năm 1735.

Sau Trịnh Giang mấy chục năm, Trịnh Sâm tuy không giết vua nhưng giết Thái Tử Lê Duy Vĩ - người sắp được kế vị ngôi vua. Sự kiện này xảy ra vào tháng 3 năm 1769. Điều đáng nói là cuộc thanh trừng đẫm máu không phải chỉ có giữa phủ chúa đối với cung vua mà còn diễn ra quyết liệt ngay trong chính nội bộ phủ chúa. Có thể kể ra mấy cuộc “nồi da nấu thịt” nổi bật nhất sau đây:

- Tháng 2 năm 1570, Trịnh Kiểm chết và theo di mệnh thì lẽ ra, con trưởng của Trịnh Kiểm là Trịnh Cối sẽ được lên nối nghiệp. Nhưng, Trịnh Cối chưa kịp nắm quyền thì đã bị em là Trịnh Tùng đem quân đến đánh để giành quyền. Do không chống đỡ nổi, tháng 8 năm 1570, Trịnh Cối phải đầu hàng nhà Mạc. Sau, Trịnh Cối chết trên vùng đất do nhà Mạc quản lí vào ngày 4 tháng 9 năm 1584.

- Tháng 9 năm 1780, Trịnh Khải (con trưởng của Trịnh Sâm, lúc này đang là Thế Tử) bị Trịnh Sâm truất bỏ hết cả ngôi Thế Tử lẫn ngôi con trưởng và tống giam. Con thứ của Trịnh Sâm là Trịnh Cán (lúc này mới lên hai tuổi) được đưa lên làm Thế Tử.

- Tháng 10 năm 1782 (một tháng sau khi Trịnh Sâm mất), Trịnh Khải cùng phe cánh nổi lên, phế truất Trịnh Cán và tự lập làm chúa.

Trên đây chỉ mới là những cuộc thanh trừng lớn, đã xẩy ra, chưa tính những cuộc mưu phản cũng có quy mô không phải là nhỏ6. Khi mà đạo làm vua và đạo làm chúa bị rẻ rúng thì hẳn nhiên, đạo làm quan cũng chẳng thể được coi trọng. Triều đình liên tục chia bè kết cánh, vu oan, giáng họa và hãm hại lẫn nhau. Thế kỷ thứ XVIII là thế kỷ có rất nhiều vụ đại án của triều đình7. Dần dần, cương thường và đạo lí buộc phải nhường chỗ cho tham vọng nắm giữ quyền lực.

Cũng trong thế kỷ thứ XVIII, giai cấp phong kiến thống trị Đàng Ngoài đã lao rất nhanh vào con đường ăn chơi xa xỉ. Các bộ chính sử cũng như dã sử xưa đều ghi chép về sự hoang phí của các chúa Trịnh:

    * Tuy đã cho xây dựng rất nhiều chùa chiền, nhưng vào năm 1714, Trịnh Cương vẫn bắt nhân dân ba huyện Gia Bình, Lang Tài và Quế Dương đóng góp không biết bao nhiêu tiền của để đại tu chùa Phúc Long. Công việc nặng nhọc và tốn kém này phải kéo dài đến sáu năm mới hoàn tất8.

    * Trong kinh thành Thăng Long, phủ chúa đã được xây cất rất tráng lệ, nhưng, vào năm 1727, Trịnh Cương vẫn cho xây thêm hành cung ở Cổ Bi (Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Cũng trong năm này, nhiều cung điện và chùa chiền khác được lệnh tu bổ hoặc xây cất thêm9.

    * Năm 1729, nghĩa là ngay khi vừa lên nối nghiệp chúa, Trịnh Giang đã hạ lệnh cho xây cất rất nhiều công trình tốn kém. Năm 1730, Trịnh Giang đã sai người phá hành cung Cổ Bi để lấy vật liệu trùng tu chùa Quỳnh Lâm và chùa Sùng Nghiêm. Ngoài ra, Trịnh Giang còn cho xây cất nhiều nơi thờ tự cho bà con bên ngoại10.
____________________________________
1. Tính đến trước thế kỷ thứ XVII, lãnh thổ của nước ta chỉ mới tương ứng với vùng từ Bình Định ngày nay trở ra. Trong phạm vi lãnh thổ đó, ngoài một số nơi họ Mạc còn chiếm giữ được, khu vực từ Quảng Bình trở vào đến Bình Định đang có xu hướng bị Nguyễn Hoàng tách ra để xây dựng cơ đồ riêng.
2. Nguyễn Kim (1467-1545) là người đã tôn lập Lê Ninh lên làm vua ở Thanh Hóa vào năm 1533, tức là người đã có công lập ra Nam triều.
3. Trịnh Kiểm (?-1570), người Thanh Hóa, con rể của Nguyễn Kim, được phong là Lượng Quốc Công (năm 1546).
4. Trịnh Tùng (1570-1623): Bình An Vương. Trịnh Tráng (1623-1657): Thanh Vương. Trịnh Tạc (1657-1682): Tây Vương. Trịnh Căn (1682-1709): Định Vương. Trịnh Cương (1709-1729): An Vương. Trịnh Giang (1729-1740): Uy Vương. Trịnh Doanh (1740-1767): Minh Vương. Trịnh Sâm (1767-1782): Tĩnh Vương... v.v.
5. Ngoài chúa Trịnh, phía Nam còn có chúa Nguyễn.
6. Ví dụ cuộc mưu phản của Trịnh Xuân (con Trịnh Tùng) vào năm 1623, nhằm tranh giành ngôi chúa với anh là Trịnh Tráng.
    Năm 1767, một cuộc mưu phản khác đã nổ ra, đó là cuộc mưu phản của Trịnh Đệ (cũng đọc là Trịnh Lệ) - em ruột của Trịnh Sâm.

7. Ví dụ vụ án Nguyễn Công Hãng (1732), vụ án năm Canh Tí (1780) dẫn đến cái chết của một loạt các đại thần. Vụ kiêu binh nhiều lần nổi lên... v.v.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 35 và quyển 36). Lịch triều tạp kí (quyển 2).
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 35 và quyển 36). Lịch triều tạp kí (quyển 2).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 36, 37 và 38). Lịch triều tạp kỷ (quyển 2).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 10:15:14 pm »


Để có đủ tiền của cung đốn cho những cuộc hoang chơi và xây cất tốn kém nó trên, các chúa Trịnh đã đánh thuế rất nặng. Đời sống của nhân dân vì thế mà ngày càng trở nên tồi tệ. Thực tế bi đát nhất của Đàng Ngoài trong thế kỷ thứ XVIII là hàng vạn nông dân bị tước đoạt ruộng đất, bị đuổi khỏi quá trình sản xuất và trở thành lớp người được sử cũ gọi là “dân vong mạng” (dân phải bỏ quê cha đất tổ mà trốn đi nới khác). Đó là thực tế không thể nào tránh khỏi, bởi ở Đàng Ngoài, công điền dần dần trở thành cơ sở nuôi lính của chúa Trịnh. Số ruộng công ít ỏi còn lại không đủ để chia cấp cho xã hội, đã thế lại còn liên tục bị giai cấp địa chủ tìm cách bao chiếm. Sử cũ đã ghi chép được khá nhiều con số cụ thể về mức độ phá sản và phiêu bạt hàng loạt của nhân dân các làng:

    * Năm 1730, toàn Đàng Ngoài có 527 làng dân dắt díu nhau bỏ đi phiêu tán gần hết. Chúa Trịnh Giang phải sai 12 viên đại thần đi chiêu tập dân về nguyên quán làm ăn nhưng không thu được kết quả gì đáng kể1.

    * Năm 1741, số làng xã của Đàng Ngoài bị phá sản và phải phiêu tán lên tới 3691 làng, trong đó có 1730 làng được coi là “đặc biệt điêu tàn” vì vắng người, thôn xóm và ruộng đồng đã trở nên hoang dã2.

    * Sang nửa sau của thế kỷ thứ XVIII, theo một bản điều trần của Ngô Thì Sĩ (1726-1780), thì tình hình phá sản và phiêu tán của nông dân các làng xã vẫn còn rất nặng nề:

          + Vùng đồng bằng Bắc Bộ có tất cả bốn trấn và tổng cộng chung là 9668 xã thôn thì đã có tới 1076 xã thôn bị phiêu tán, chiếm tỉ lệ hơn 11%.

          + Trấn Thanh Hóa có 1393 xã thôn thì đã có tới 297 xã thôn bị phiêu tán, chiếm tỉ lệ hơn 21%.

          + Trấn Nghệ An có 706 xã thôn thì đã có tới 115 xã thôn bị phiêu tán, chiếm tỉ lệ hơn 16%.

Bản điều trần nói trên của Ngô Thì Sĩ3 cho thấy sự phá sản và phiêu tán của nông dân Đàng Ngoài trong thế kỷ thứ XVIII là càng ngày càng nghiêm trọng. Nông dân bị buộc phải rời bỏ nông thôn nông nghiệp, nhưng Đàng Ngoài lúc bấy giờ chưa có các công trường thủ công lớn, càng chưa có những trung tâm công nghiệp để có thể tiếp nhận họ. Đây chính là hiện tượng các Chúa Trịnh tự mình xô đẩy nông dân về phía cực đối kháng gay gắt nhất với chính mình.

Sự tham tàn của giai cấp phong kiến thống trị đương thời là lẽ tự nhiên, bởi một bộ phận rất quan trọng của giai cấp này, từ thế kỷ thứ XVIII, đã được tuyển lựa một cách rất kì lạ. Bấy giờ cả đến học vị và chức tước cũng được đem ra mua bán. Chỉ tính riêng trong khoảng hai mươi năm giữa thế kỷ thứ XVIII, chúa Trịnh Doanh (1740-1767) đã ba lần chính thức hạ lệnh cho dân, rằng: “ai nộp thóc sẽ được làm quan”4. Phép tuyển lựa quan lại thông qua thi cử Nho học tuy vẫn còn tồn tại, thậm chí là vẫn rất được đề cao, nhưng, “học trò đã quen thói đua nhau chạy chọt, quan trường thì coi nhẹ kỷ cương, công khai gửi gắm (con em cho nhau). Vì thế, người đỗ đạt phần nhiều không có thực học, miệng thế bàn tán rất xôn xao”5. Nhưng, hiện tượng “gửi gắm” có lẽ cũng không đáng sợ bằng hiện tượng công khai gà bài và thi thay, đặc biệt, nghiêm trọng nhất là hiện tượng mua bán học vị. Chúa Trịnh đã nhiều lần cho phép thu tiền thông kinh. Ai nạp đủ ba quan tiền thông kinh thì sẽ được miễn sát hạch ở huyện. “Vì lẽ này, kẻ làm ruộng, người đi buôn, cho đến cả đám hàng thịt và bọn buôn bán vặt cũng nhất nhất làm đơn xin nạp tiền thi. Đến ngày vào thi, sĩ tử đông đến nỗi dẫm đạp lên nhau, có kẻ chết ở cửa trường. Còn trong trường thi, kẻ mang theo sách, kẻ hỏi chữ, lại có kẻ mượn người thi thay, chúng ngang nhiên làm bậy, chẳng biết kiêng nể phép tắc là gì”6. Dân đương thời gọi tất cả những người đỗ Sinh Đồ7 nhờ nạp tiền thông kinh là Sinh Đồ ba quan!

Khi chức quan được đổi bằng thóc lúa thì hẳn nhiên là ngay sau khi nhận chức quan, người ta sẽ tìm đủ mọi mánh khóe để thu lại số thóc đã bỏ ra, để vơ vét mà làm giàu. Khi học vị có được là nhờ mua bán thì cũng hẳn nhiên là ngay sau khi có học vị người ta sẽ tìm đủ mọi thủ đoạn để thu lại số tiền đã bỏ ra, để tính kế vinh thân phì gia.

Quan trên mà vô đạo thì bọn cường hào ác bá trong khắp mọi xã thôn lại càng vô đạo hơn. Chưa bao giờ thân phận của người dân thấp hèn bị đọa đày đến như vậy:

Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
8

Chưa bao giờ nạn đói kém xảy ra khủng khiếp và liên tục như trong thế kỷ thứ XVIII. Năm 1702, nạn đói bắt đầu ở Thanh Hóa mà nguyên do trực tiếp là bởi đê sông Mã, đê sông Chu cùng bị vỡ. Năm 1703, nạn đói lan ra khắp cả bốn trấn vùng Bắc Bộ. Bấy giờ, một tiền chỉ đong được khoảng 4 bát gạo9. Các năm 1712 và 1713, nạn đói lại xẩy ra trầm trọng hơn, “một đấu lúa nhỏ mà giá những một tiền, trăm họ phải ăn vỏ cây, rau cỏ và lá rừng, thây chết đói chất đầy đường, thôn xóm trở nên tiêu điều kì lạ”10. Năm 1737, khu vực Sơn Tây vừa bị đói kém lại vừa bị bệnh dịch, người sống sót chỉ còn lại độ một hoặc hai phần mười11. Đặc biệt nghiêm trọng nhất là nạn đói năm 1741. Năm ấy “dân vong mạng dắt díu bồng bế nhau đi xin ăn đầy đường, giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không mua nổi một bữa ăn, dân phần nhiều ăn rau cỏ, thậm chí là ăn cả chuột và rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn nổi một phần, mười, làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn lại độ dăm ba hộ nữa mà thôi”12. Cũng trong năm 1741 này, ở khu vực Nghệ An, một mẫu ruộng tốt cũng chỉ đổi được một cái bánh đa nướng! Dân nghèo chết đã đành, có những nhà giàu tiền của chất đống mà vẫn cứ phải chết đói vì không tìm đâu ra lương thực13.

Sự phân hóa và phân cực vốn dĩ đã xuất hiện và trở nên sâu sắc từ rất lâu dài trước đó, đến đây, nạn thiên tai, mất mùa và đói kém triền miên đã khiến cho sự phân hóa và phân cực đó ngày càng trở nên quyết liệt và dữ dội hơn. Con đường tất yếu của những người cùng khổ lúc này là phải cầm lấy vũ khí và nổi dậy.
______________________________________
1, 2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 36, 37 và 38). Lịch triều tạp kỷ (quyển 2).
3. Dẫn lại của Giáo Sư Phan Huy Lê trong Lịch sử Việt Nam (Tập 2: 1406-1858). Bản in ronéo, đại học Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1979. Phần tích tỉ lệ phần trăm là của tác giả DANH TƯỚNG VIỆT NAM.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 1, quyển 40, tờ 25 và quyển 42, tờ Cool.
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 9).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 27 và 28).
    Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Khoa mục chí)

7. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Khoa mục chí).
8. Nguyễn Du: Truyện Kiều.
9, 10. Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp kỷ (quyển 2).
11. Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút.
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 16 và 17).
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 16).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 10:32:40 pm »


2. Những nghĩa sĩ tiên phong

Ngay từ những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XVII, các cuộc vùng dậy của nông dân nghèo khổ với quy mô khá lớn đã bùng nổ ở nhiều địa phương khác nhau, nhất là những địa phương gần biên giới. Đó là những nghĩa sĩ tiên phong, những người đầu tiên có công nhen lên ngọn lửa đấu tranh một mất một còn với giai cấp thống trị tàn bạo. Trong phạm vi năm năm (từ năm 1690 đến năm 1695), Đàng Ngoài đã liên tục bị chấn động bởi ba phong trào lớn:

* Phong trào của nhân dân vùng Vạn Ninh nổ ra tháng 4 năm Canh Ngọ (1690) do Phương Vân Long và Tân Án Sủng cầm đầu1. Đất Vạn Ninh từ thời Trần trở về trước là một châu, sang thời thuộc Minh thì đổi làm huyện. Thời Lê sơ, Vạn Ninh lại đổi làm châu. Đến thời Nguyễn, Vạn Ninh được thăng làm phủ, đó là phủ Hải Ninh. Phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yên, nay là tỉnh Quảng Ninh. Phương Vân Long và Tân Án Sủng đều là người gốc Hoa, vì thế, hai ông chẳng những tập hợp được rất đông người Việt mà còn huy động được không ít người Hoa tham gia. Lực lượng của Phương Vân Long và Tân Án Sủng lúc thì tung hoành ở Vạn Ninh, lúc thì kéo sang tận Trung Quốc, vì thế, chúa Trịnh Căn (1682-1709) phải đàn áp rất vất vả. Sau, Trịnh Căn phải sai quan giữ chức Trấn Thủ Tuyên-Hưng2 là Lê Huyến sang Trung Quốc, phối hợp với quân của Trấn Tướng Long Môn là Diệp Thắng mới dẹp yên được. Tiếc thay, phong trào của nhân dân Vạn Ninh bị đàn áp, nhưng, chính tướng nhà Thanh là Diệp Thắng lại nhân cơ hội đó, cướp bóc nhân dân ta rất thậm tệ. Sau, hắn bị nhà Thanh xử chém.

* Phong trào của nhân dân vùng Cao Bằng3 nổ ra vào tháng 3 năm Nhâm Thân (1692). Trước đó, đồng bào các dân tộc ở vùng La Thượng Đàn (tên một vùng đất thuộc Cao Bằng) đã từng nổi dậy. Chúa Trịnh Căn từng phải sai quan giữ chức Trấn Thủ của Cao Bằng là Ngô Sách Tuân4 đem quân đi đàn áp. Ngô Sách Tuân đã đàn áp rất dã man nhân dân vùng La Thượng Đàn, nhưng, ngọn lửa đối kháng cũng không hề vì thế mà bị dập tắt hẳn. Nhân lòng phẫn uất của dân Cao Bằng, dư đảng của họ Mạc do Mạc Kính Chư cầm đầu đã kéo về hoạt động rất ráo riết ở vùng này. Ngô Sách Tuân chống đỡ rất vất vả, vì thế, chúa Trịnh Căn lại phải điều động thêm một số tướng lĩnh khác như Lê Bật Huân, Bế Công Quỳnh và Nguyễn Công Ban, đem nhiều quân sĩ đến đàn áp. Lực lượng của Mạc Kính Chư tuy không lớn, số dân Cao Bằng tập hợp dưới ngọn cờ của Mạc Kính Chư cũng không phải là quá đông, nhưng, sự trở lại của dư đảng họ Mạc đã khiến cho dư luận đương thời rất chú ý, ảnh hưởng của Mạc Kính Chư vì thế mà trở nên khá mạnh mẽ.

* Phong trào của nhân dân Đa Giá Thượng5 nổ ra năm Giáp Tuất (1694). Đa Giá Thượng là tên của một xã thuộc huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên. Nay, đất Gia Viễn thuộc tỉnh Ninh Bình. Đa Giá Thượng cũng là tên của cả một căn cứ lớn mà các nghĩa sĩ vùng Gia Viễn (Trường Yên) đã dựng lên nhằm chống lại chính quyền thống trị của họ Trịnh ở địa phương lúc bấy giờ. Sử cũ không cho biết cụ thể tên tuổi của lãnh tụ phong trào này, tuy nhiên, từ những dòng ghi chép về quá trình đàn áp của họ Trịnh, chúng ta cũng có thể hình dung được rằng, lực lượng nghĩa sĩ ở Đa Giá Thượng khá đông. Chỉ tính riêng cuộc đàn áp do Thạc Quận Công Lê Hải tiến hành vào tháng 5 năm Giáp Tuất (1694), 290 nghĩa sĩ ở Đa Giá Thượng bị bắt và 52 người trong số đó đã bị xử chém đầu6.


3. Bốn phương rầm rộ khởi binh

Ở một trong những bộ sách lớn của mình gồm đến sáu mươi quyển là Tư trị thông giám cương mục, triết gia vĩ đại của Trung Quốc đời Tống là Chu Hy (1130-1200) có viết đại để rằng: những ai từng vì việc nghĩa mà nổi dậy thì gọi là khởi binh, còn những ai tuy không phải hoàn toàn là vì việc nghĩa mà nổi dậy, nhưng, kẻ đối địch với họ lúc ấy cũng không có tư cách gì để gọi họ là giặc, thì những người nổi dậy ấy gọi là binh khởi7. Các nhà viết sử của nước ta thuở xưa, nói chung, đều theo cách gọi nói trên của Chu Hy. Bởi lẽ này, phần lớn các phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đều được các bộ sử cũ chép là khởi binh hoặc binh khởi. Ở một chừng mực nào đó chúng ta cũng có thể nói rằng, trong nửa đầu của thế kỷ thứ XVIII hiện tượng nổi bật nhất của cả xứ Đàng Ngoài là bốn phương rầm rộ khởi binh. Nếu ở những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XVII, phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra chủ yếu ở miền biên giới, thì sang nửa đầu thế kỷ thứ XVIII, phong trào đã lan rộng khắp mọi nơi, dồn dập và quyết liệt chưa từng thấy, trong đó, nổi bật lên mấy phong trào lớn sau đây:

* Đợt sóng dữ thứ hai ở Yên Quảng: Bởi cuộc đàn áp đẫm máu của Lê Huyến vào tháng 4 năm Canh Ngọ (1690), cuộc nổi dậy của nhân dân Yên Quảng mà trung tâm là vùng Vạn Ninh, do Phương Vân Long và Tân Án Sủng cầm đầu buộc phải tạm lắng xuống. Đến đây, sau hơn hai mươi năm âm ỉ, một đợt sóng dữ thứ hai ở Yên Quảng lại nổi lên. Sử cũ không cho biết thủ lĩnh của nhân dân Yên Quảng lúc này là ai, nhưng lại ghi chép khá rõ về sự lo lắng của triều đình vua Lê Dụ Tông (1705-1729) và chúa Trịnh Cương (1709-1729). Bấy giờ, Trịnh Cương đã phải nhiều lần đốc thúc quan giữ chức Lưu Thủ ở Yên Quảng là Văn Đình Nhậm về việc tập trung lực lượng để đánh dẹp. Tháng giêng năm Canh Ngọ (1714), Văn Đình Nhậm đã dốc toàn bộ lực lượng, tổ chức một cuộc đàn áp có quy mô rất lớn, bắt sống và giết được hơn 70 người, chiêu dụ được hơn 300 người khác. Yên Quảng đến đó mới tạm yên8.

* Thủ lĩnh người họ Đèo lại cầm quân xuống núi: Thời vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương, vùng Tây Bắc nước ta ngày nay gọi là phủ An Tây. Phủ An Tây quản lĩnh ba châu, đó là Chiêu Tấn Châu, Lai Châu và Quỳnh Nhai Châu. Chiêu Tấn Châu đại để tương ứng với đất đai của hai tỉnh Lao Cai và Yên Bái ngày nay. Ở Chiêu Tấn Châu, họ Đèo là một dòng họ lớn, có ảnh hưởng khá mạnh đối với nhân dân địa phương. Khi Trịnh Cương mới lên cầm quyền, Thổ Tù người họ Đèo là Đèo Mỹ Lâm đã nổi dậy, chẳng những chiếm Chiêu Tấn Châu mà còn đánh chiếm cả Lai Châu và cũng không ngần ngại cho quân tràn sang đánh cả vào Quỳnh Nhai Châu. Chúa Trịnh Cương hoảng sợ, sai Nguyễn Công Chính và Bùi Sĩ Tiêm đem cả một lực lượng lớn đi đàn áp. Nhưng, vừa đến Chiêu Tấn Châu, Nguyễn Công Chính đã bị giết chết, cuộc đàn áp kể như thất bại, Bùi Sĩ Tiêm buộc phải kéo quân về.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1722), con của Đèo Mỹ Lâm là Đèo Mỹ Ngọc lại tập hợp nghĩa sĩ, tiến xuống tấn công dữ dội vào quan quân của chúa Trịnh trấn giữ ở vùng này. Trịnh Cương vội sai quan Lưu Thủ Hưng Hóa là Nguyễn Thành Lý huy động lực lượng các địa phương lân cận đến đàn áp. Đèo Mỹ Ngọc liền rút lui lên các căn cứ ở trên núi cao. Sau, vì quá mệt mỏi với cuộc đánh dẹp xa xôi này, Trịnh Cương bèn hạ lệnh cho Nguyễn Thành Lý lui quân9.

* Quách Công Thi xướng nghĩa ở Lạc Thổ: Quách Công Thi nguyên là Thổ Tù ở vùng Lạc Thổ, người có uy tín rất lớn trong nhân dân địa phương. Lạc Thổ là tên huyện. Huyện này thuộc phủ Thiên Quan, trấn Thanh Hoa. Thời Nguyễn, Lạc Thổ đổi là Lạc Yên. Huyện này nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân đối với chính sách bóc lột thậm tệ của chúa Trịnh Cương, Quách Công Thi đã dựng cờ xướng nghĩa, trước là chống lại chế độ thuế khóa nặng nề, sau là trừng trị bọn tham quan ô lại. Tháng giêng năm Giáp Dần (1734), hoạt động của nghĩa quân Quách Công Thi đã lan khắp vùng Lạc Thổ. Quan giữ chức Lưu Thủ của chúa Trịnh Cương ở Lạc Thổ lúc này là Nguyễn Thọ Trường đã dốc toàn lực đánh dẹp mãi vẫn không xong. Đứng trước tình thế đó, Nguyễn Thọ Trường liền làm tờ khải tâu lên chúa Trịnh Cương, cốt để xin quân cứu viện. Chúa Trịnh Cương cho là Nguyễn Thọ Trường không làm tròn bổn phận, bèn xuống lệnh nghiêm trách và bắt phải đánh dẹp cho bằng được mới thôi. Sau, Nguyễn Thọ Trường mất ở Lạc Thổ bởi những cuộc hành quân mệt mỏi này10.

* Nhà sư Nguyễn Dương Hưng nhập cuộc: chính sách cai trị của tập đoàn phong kiến Đàng Ngoài lúc này tàn bạo đến nỗi, cả đến các bậc tu hành từ bi cũng không thể nào chịu nổi. Đầu năm Đinh Tị (1737), trên khắp một địa bàn rộng lớn, tương ứng với các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thái Nguyên ngày nay, có một cuộc khởi nghĩa rất lớn do nhà sư Nguyễn Dương Hưng cầm đầu. Nguyễn Dương Hưng đặt bản doanh tại khu vực Tam Đảo. Ông đã tập hợp được một đội quân đông đến hàng ngàn người. Những trận tập kích đầu tiên của nghĩa quân Nguyễn Dương Hưng đã khiến cho chúa Trịnh Giang (1729-1740) rất lo sợ. Bấy giờ, kinh thành Thăng Long cũng phải náo loạn, dù Nguyễn Dương Hưng chưa hề tấn công vào. Sử cũ cho biết: “Khi ấy, dân không hiểu biết việc binh, chợt nghe có tin báo nguy cấp thì xa gần đều lo sợ, người trong kinh đô dắt díu ra ngoài thành, dân ngoài thành thì đào hố chôn giấu của cải và sắp sẵn lương khô để phòng khi có biến. Giá thử như “giặc” mà kéo đến thì sợ về nỗi lòng dân không bền”11. Tháng 9 năm Định Tị (1737), Trịnh Giang sai quan giữ chức Đốc Đồng Sơn Nam là Nguyễn Bá Lân, cùng vội một số tướng lĩnh khác như Nguyễn Lịch, Nguyễn Trọng Côn, đem đại quân đi đàn áp rất khốc liệt mới tạm dẹp yên được lực lượng của Nguyễn Dương Hưng12.

* Cuộc khởi binh ở Ngân Già: Ngân Già là tên làng. Xưa, làng này thuộc huyện Nam Chân, sau, thuộc huyện Nam Trực (Nam Định). Năm Canh Thân (1740), dân Ngân Già dưới sự chỉ huy của Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn và Tú Cao, đã nổi dậy đánh phá quyết liệt khắp cả một vùng rộng lớn ở khắp miền đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ. Nghĩa quân đã giết được một số tướng lĩnh của chúa Trịnh như Đốc Lãnh Hoàng Kim Trảo cùng hai viên tướng dưới quyền của Hoàng Kim Trảo là Nguyễn Thế Siêu và Trần Danh Quán13. Hoảng sợ trước sự phát triển nhanh chóng của lực lượng Vũ Đình Dung, dẫu vừa mới được lên ngôi chúa, Trịnh Doanh cũng lập tức vạch kế hoạch và tự mình cầm quân đi đàn áp. Tháng 12 năm 1740, với quân số áp đảo, Trịnh Doanh đè bẹp được cuộc khởi nghĩa này. Vũ Đình Dung cùng nhiều tướng lĩnh và đông đảo nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh. Làng Ngân Già từ đó bị Trịnh Doanh đổi gọi là làng Lai Cách.

* Cuộc phản kháng quyết liệt mới của đồng bào các dân tộc ít người: Vào những năm bốn mươi của thế kỷ thứ XVIII, đồng bào các dân tộc ít người đã nhất loạt nổi dậy. Mở đầu rầm rộ nhất là cuộc nổi dậy của nhân dân Lạng Sơn dưới sự chỉ huy của tù trưởng Toản Cơ từ năm 1740 đến năm 1742. Chúa Trịnh là Trịnh Doanh phải điều viên tướng khét tiếng tàn bạo là Nguyễn Đăng Hiển đến đàn áp mới tạm yên được14.

Gần như đồng thời với Toản Cơ, đầu năm 1740, hai vị tù trưởng ở sách Đông Quang là Thoan và Thiều cũng tập hợp nhân dân chống lại triều đình. Sách Đông Quang khi ấy thuộc huyện Trấn An, trấn Hưng Hóa. Nay, đất này thuộc về huyện Trấn An, tỉnh Yên Bái. Các nghĩa sĩ dưới quyền chỉ huy của tù trưởng Thoan và tù trưởng Thiều chẳng những hoạt động ở sách Đông Quang mà còn tiến sang đánh phá cả địa phận trấn Tuyên Quang. Tháng 7 năm 1741, bởi cuộc tấn công quyết liệt của Lưu Thủ Văn Đình Dận, nghĩa quân do hai vị tù trưởng Thoan và Thiều mới bị tiêu diệt15.

Đầu năm 1744, tại vùng Vĩnh Đồng, huyện Mỹ Lương (nay thuộc vùng Mỹ Đức của Hà Tây và vùng Lương Sơn của Hòa Bình), nhân dân địa phương đã tập hợp dưới ngọn cờ của thủ lĩnh Tương. Tuy chiến đấu ở khu vực cách kinh thành Thăng Long không xa, nhưng nghĩa quân của thủ lĩnh Tương cũng đã anh dũng cầm cự được tám năm trời (1744-1752)16.

Chẳng bao lâu sau thất bại của thủ lĩnh Tương, chính quyền Trịnh Doanh lại phải một phen lao đao bởi một cuộc khởi nghĩa khác ở vùng Sơn Tây và Hưng Hóa do thủ lĩnh Thai cầm đầu. Trịnh Doanh phải huy động một lực lượng quân sĩ rất đông đến mới đàn áp được. Thủ lĩnh Thai bị bắt và bị giết hại cùng với hơn một trăm nghĩa sĩ trung thành khác vào năm 176417.
___________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 34, tờ 25).
2. Tuyên-Hưng là tên gọi tắt của Tuyên Quang và Hưng Hóa.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chánh biên, quyển 34, tờ 29).
4. Ngô Sách Tuân người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Tiến Sĩ năm 1673.
5, 6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên. quyển 34, tờ 33).
7. Chu Hy: Tư trị thông giám cương mục (Quyển thủ, mục Phàm lệ).
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 85, tờ 15).
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 86, tờ 3).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 29 và 30).
11, 12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 6).)
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 25).
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 26).
15. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 13).
16. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 16).
17. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 21).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 09:52:35 pm »


II. LƯỢC TRUYỆN NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN


“Thiên thu trường kiếm dữ nhật quang”
(Ngàn năm, thanh kiếm dài sáng mãi với mặt trời)1

01. NGUYỄN TUYỂN VÀ NGUYỄN CỪ

Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ là hai anh em ruột.
Hai ông người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách
(nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương).



Cầm gươm rửa thẹn

Từ thế kỷ thứ XVIII trở đi, chính sự Đàng Ngoài ngày một rối ren và đen tối đến độ thảm hại. Bấy giờ, nếu chúa Trịnh Cương (1709-1729) chỉ tiếp tục đẩy mạnh xu hướng chung của Nhà chúa là ra sức lấn át quyền hành Nhà vua, khiến cho vua Lê Dụ Tông (1705-1709) chỉ còn là một hư vị tội nghiệp, thì đời chúa kế tiếp là Trịnh Giang (1729-1740) còn bạo ngược khủng khiếp hơn nhiều. Chính Trịnh Giang đã vu cho vua Lê Đế Duy Phường (1729-1732) tội gian dâm với vợ của Trịnh Cương rồi phế Lê Đế Duy Phường làm Hôn Đức Công và sau đó đã giết Nhà vua vào tháng 9 năm Nhâm Tí (1732)2. Sau khi phế Lê Đế Duy Phường, Trịnh Giang đã làm một việc trước đó chưa từng có, đó là:

“Lúc ấy, (Trịnh) Giang bắt dẫn mười hai người con của vua Lê Dụ Tông vào phủ đường của mình để xem mặt. Lê Duy Đường là con trưởng, thấy đáng được làm vua, (Trịnh) Giang liền sai quan hộ vệ Lê Duy Đường đến ở riêng tại cung Thọ Phúc”3.

Trước đó, Lê Duy Đường từng bị mất ngôi Thái Tử, đến đây, cha là vua Lê Dụ Tông mới mất, em là vua Lê Đế Duy Phường bị phế để rồi bị giết, Lê Duy Đường mới được đưa lên ngôi, đó là vua Lê Thuần Tông (1732-1735). Nhưng, vua Lê Thuần Tông cũng chỉ ở ngôi được ba năm thì mất. Em ông là Lê Duy Thận được đưa lên thay, đó là vua Lê Ý Tông (1735-1740). Cả Lê Thuần Tông và Lê Ý Tông đều rất giống nhau ở chỗ ở ngôi rất ngắn và hoàn toàn không có một tí thực quyền nào.

Sau khi đã hoàn toàn vô hiệu hóa những ảnh hưởng của Nhà vua đối với guồng máy chính trị đương thời, Trịnh Giang đã không ngừng tìm cách củng cố thêm ngôi vị của mình. Tháng 10 năm Giáp Dần (1734), Trịnh Giang tự phong cho mình là Đại Nguyên Soái, Tổng Quốc Chính, Thượng Sư Thái Phụ, Thông Đức Anh Nghị Thánh Công Uy Vương. Tháng 9 năm Kỷ Mùi (1739), Trịnh Giang lại giả thác có chiếu thư của Thiên Tử nhà Thanh phong cho mình làm An Nam Thượng Vương. Sự kiện hài hước này đã được chính sử xưa ghi chép như sau:

“(Trịnh) Giang vượt phận, tiếm quyền, không còn biết kiêng sợ là gì nữa. Hắn tự xưng là Bác Đạt Mậu Hòa, Tuy Du Dụ Nghĩa Trịnh Vương.

Lúc ấy, (Trịnh) Giang đang chơi ở làng Quế Trạo, trấn Kinh Bắc, là quê hương của viên hoạn quan Hoàng Công Phụ. (Trịnh) Giang cho xây dựng phủ đệ tại đó để ở. Hắn mật sai tay chân thân tín là bọn Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hoán, từ kinh sư chạy ngựa trạm lên, phụng trình sắc văn tấn phong và ấn tỉ, giả thác nói rằng đó là do sứ giả nhà Thanh sang nước ta phong cho (Trịnh) Giang làm An Nam Thượng Vương”4.

Chép xong đoạn trên, các sử gia nhà Nguyễn đã hạ bút viết ngay lời phê rằng: “Không cướp ngôi vua thì thôi, muốn thì gì mà chẳng được, cần gì phải giả dối. Thật là điên cuồng và đáng chê cười”.5

Điều đáng tiếc là cả hai nhân vật cùng tham gia vào vở hài kịch nói trên - Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hoán, đều đỗ đạt đại khoa, cũng là người có chút văn tài và nắm trong tay những chức vị rất quan trọng của phủ Chúa6. Ngoài Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hoán, Trịnh Giang còn có một tay sai rất đắc lực đó là hoạn quan Hoàng Công Phụ7. Tháng 5 năm Bính Thìn (1736), chính viên hoạn quan hiểm độc này đã xúi giục Trịnh Giang giết hại Trấn Thủ Nghệ An là Trương Nhưng, mặc dù Trương Nhưng vốn nổi tiếng là người ôn hòa, lại là em ruột của Trương Thái Phi8.

Để phế truất và sau đó là giết hại Lê Đế Duy Phường, Trịnh Giang đã vu cho Lê Đế Duy Phường tội gian dâm với vợ của Trịnh Cương, nhưng người làm việc tồi bại này lại chính là Trịnh Giang, cho dẫu vợ của Trịnh Cương cũng chính là mẹ kế của hắn. Điều này đã được dã sử xưa ghi chép khá tỉ mỉ, xin lược thuật như sau: Trịnh Giang là kẻ dâm loạn, từng tư thông với bà Kỳ Viên Phi Đặng Thị (người xã Trà Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), vốn là vợ lẽ của chúa Trịnh Cương (cha Trịnh Giang). Việc này bị bà Vũ Thái Phi (mẹ đẻ của Trịnh Giang) phát giác. Bà ép Kỳ Viên Phi Đặng Thị phải tự tử. Một hôm, chẳng hiểu vì sao Trịnh Giang bị sét đánh gần chết, nhân đó mà mắc bệnh kinh quý, hễ nghe có sấm sét là kinh hồn bạt vía. Bọn hoạn quan liền nói với Trịnh Giang rằng, duyên do chẳng qua vì dâm dục quá nên bị ác báo, muốn chữa, chỉ có cách đào hầm làm nhà ở dưới đất. Trịnh Giang bèn dựng cung Thường Trì để ở, không dám đi ra ngoài như trước nữa9.

Chính sử cũng chép tương tự như vậy, nhưng đoạn cuối có phần chi tiết hơn. Xin được trích lục một đoạn cụ thể như sau:

“Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua (chỉ việc Trịnh Giang truất phế rồi giết chết vua Lê Đế Duy Phường - NKT), Trịnh Giang càng ngày càng tiếm quyền, ăn chơi dâm loạn không còn chừng mực gì nữa, cho nên về sau mới mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sét lắm. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa, đào đất làm cung Thưởng Trì cho (Trịnh) Giang ở. Từ đấy, (Trịnh) Giang không còn dám bước chân ra ngoài. (Hoàng) Công Phụ cùng đồ đảng liền nhân đó mà lộng quyền, các đại thần nối nhau bị hại, kẻ thì bị giết, kẻ thì bị phạt, ai ai cũng lo sợ không giữ nổi tấm thân của mình, chính sự trái ngược mà thuế khóa thì nặng nề, dân chỉ còn mong sao cho chóng có loạn lạc”10.

Và một trong những người sớm hiểu được lòng dân chính là Nguyễn Tuyển. Tài liệu dân gian cũng như sử cũ11 đều nói rằng, Nguyễn Tuyển vốn là gia nhân của Hoàng Công Phụ. Đó chính là điều kiện để ông hiểu rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn, bản chất xấu xa của Hoàng Công Phụ nói riêng và của tập đoàn thống trị Đàng Ngoài nói chung. Càng hiểu rõ, ông càng chán chường và phẫn uất, do đó, ông đã từ bỏ Hoàng Công Phụ, cùng với em là Nguyễn Cừ và cháu là Nguyễn Diên, phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa ngay trên quê hương Ninh Xá của mình. Các sử gia thời Lê trung hưng gọi nghĩa quân của Nguyễn Tuyển là “giặc Ninh Xá”, nhưng, các sử gia thời Nguyễn lại thẳng thắn bác bỏ và phê phán cách viết này:

“Cuối thời Lê, Trịnh Giang làm việc bạo nghịch giết vua, cho nên, Nguyễn Tuyển và (Vũ) Trác Oánh (tên lãnh tụ một cuộc khởi nghĩa nhỏ khác ở vùng Mộ Trạch, nay cũng thuộc tỉnh Hải Dương - NKT) mới nhân lòng oán giận của dân, mượn danh nghĩa (trừ bạo) rồi lợi dụng cơ hội mà nổi lên, tuy việc làm không tránh khỏi hành vi của giặc, nhưng cốt là để đối địch với Trịnh Giang, thế mà người viết phần Tục biên của sử thời Lê lại gọi là “giặc”. Họ chẳng biết rằng tai họa loạn lạc do (Trịnh) Giang gây ra. (Trịnh) Giang chính là giặc của nhà Lê, thế thì người đối địch với (Trịnh) Giang có lẽ nào lại gọi là “giặc” được?”12.

Khi dựng cờ xướng nghĩa, Nguyễn Tuyển gặp được khá nhiều thuận lợi. Bấy giờ, ở vùng Mộ Trạch, có khởi nghĩa của Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có khởi nghĩa của Hoàng Công Chất..., chúa Trịnh bối rối vì phải phân tán lực lượng để đối phó với nhiều cuộc tấn công khác nhau. Trước khi xuất quân, Nguyễn Tuyển xưng là Minh Chủ, Vũ Trác Oánh xưng là Minh Công. Lúc đầu tuy Nguyễn Tuyển và Vũ Trác Oánh là hai lãnh tụ của hai lực lượng riêng, nhưng, không bao lâu sau khi khởi nghĩa, hai ông đã gặp nhau ở Ninh Xá, cùng liên kết với nhau và cùng nhau giương cao khẩu hiệu “phù Lê”. Sử cũ chép rằng:

“Dân khắp vùng phía Đông và phía Nam (kinh thành) cùng nhất tề hưởng ứng. Kẻ vác cày, người cầm gậy để đi theo, nơi nhiều có đến hàng vạn, nơi ít cũng có đến hàng ngàn hoặc hàng trăm, họ quấy rối cướp bóc (các nhà giàu) ở các làng, vây đánh khắp mọi ấp, mọi thành, triều đình không sao ngăn cản được”13.

Với Nguyễn Tuyển, đây vừa là cuộc vùng dậy để góp phần cứu nguy cho trăm họ lầm than, vừa là một phen “cầm gươm rửa thẹn” cho non sông, bởi theo ông, thời ông đang sống là thời trớ trêu, thời quyền lực nằm trong tay những kẻ nhân cách tầm thường nhất.
___________________________________
1. Thủ bút Vịnh sử của tác giả.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 26).
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 25.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 13).
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 14).
6. Nguyễn Trác Luân (1700- ?) người làng Bình Lao, huyện Cẩm Giàng (nay thuộc thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1721, làm quan trải phong dần đến chức Phó Đô Ngự Sử.
    Trần Văn Hoán (1690-?) người làng Từ Ô, huyện Thanh Miện (nay thuộc thôn Từ Ô, xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1724, làm quan trải phong dần tới chức Thừa Chỉ.

7. Thảng hoặc cũng có người nhầm Hoàng Công Phụ là hoạn quan với Hoàng Công Phụ là Tiến Sĩ. Hoàng Công Phụ là Tiến Sĩ sinh năm 1567, mất năm 1640, người làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng (nay là thôn Yên Ninh, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Lí lịch khác hẳn.
8. Trương Thái Phi là vợ của Trịnh Bính, mẹ của Trịnh Cương và là bà nội của Trịnh Giang. Như vậy, Trương Nhưng là vai ông cậu của Trịnh Giang.
9. Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút.
10, 13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38. tờ 15).
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 17).
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 15 và 16)

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 10:06:01 pm »


Trong chỗ không ngờ, đối thủ tạo cơ may cho Nguyễn Tuyển

Từ Ninh Xá, ngọn lửa quật khởi đã cháy bùng lên rất dữ dội, nhưng, các phe đảng trong phủ chúa Trịnh vẫn không ngừng xâu xé lẫn nhau. Bấy giờ, hai phe mạnh nhất là:

- Phe Trịnh Giang với đám tay chân thân tín do Hoàng Công Phụ cầm đầu.

- Phe Trịnh Doanh (em ruột của Trịnh Giang) với một loạt văn thần và võ tướng, do Nguyễn Quý Cảnh và Nguyễn Công Thái1, cầm đầu. Sát cánh với những nhân vật này là bà Thái Phi Vũ Thị2 và nhiều người khác, như Trương Khuông3, Giáp Nguyễn Khoa4... v.v.

Hoàng Công Phụ cho rằng, muốn lấn lướt được phe cánh của Nguyễn Quý Cảnh và Nguyễn Công Thái, trước hết, mình phải lập được công to, sau đó, cậy công mà ăn nói. Biết rõ Nguyễn Tuyển vốn dĩ là gia nhân cũ của mình, cho nên, hắn tin chắc là có thể tự mình cầm quân đi đánh dẹp một cách dễ dàng. Nguyễn Quý Cảnh là kẻ nham hiểm, vì thế, đã khôn khéo tìm cách khích lệ để cho Hoàng Công Phụ đem quân ra khỏi kinh thành Thăng Long. Hoàng Công Phụ vừa dại dột cất quân thì lập tức, Nguyễn Quý Cảnh cùng với phe đảng đem hết lực lượng ra, thực hiện một cuộc truất phế rất ngoạn mục. Trịnh Giang được nhẹ nhàng bố trí làm lễ nhường ngôi chúa cho em là Trịnh Doanh để lên làm Thái Thượng Vương. Thái Thượng Vương vẫn ở trong cung Thưởng Trì nhưng tất cả bọn hầu cận tin cậy do Hoàng Công Phụ đưa đến đều bị giết. Nói khác hơn, Trịnh Giang thực sự bị giam lỏng, bị cô lập hoàn toàn.

Lúc sự biến xảy ra thì Hoàng Công Phụ đang đóng quân tại Văn Giang5, phải mất mấy ngày sau hắn mới hay tin dữ này. Sử cũ cho biết:

“Hoàng Công Phụ đóng quân tại Văn Giang, biết được tin này thì lập tức đem theo khoảng hơn một chục thủ hạ chạy trốn”6.

Về sau, việc sống chết của Hoàng Công Phụ thế nào, sử cũ không chép rõ. Tuy nhiên, điều đáng nói là bởi có cuộc tranh giành quyền lực này, nghĩa quân của Nguyễn Tuyển đã tránh được một đợt tấn công không nhỏ. Đó là cơ hội thuận tiện xuất hiện trong chỗ không ngờ. Cùng với em và cháu, Nguyễn Tuyển đã nhanh chóng bổ sung lực lượng, chuẩn bị chu đáo cho cuộc đối đầu lâu dài với tập đoàn thống trị Đàng Ngoài.


Trận Bình Ngô: quân của chúa Trịnh đại bại. Các tướng Nguyễn Hữu Nhuận, Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá hoảng hốt chạy dài, Thống Lĩnh Nguyễn Trọng Uông bị giết.

Khi Hoàng Công Phụ bỏ trốn, đạo quân của chúa Trịnh ở vùng Văn Giang kể như tan rã, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ quyết định nhân cơ hội đó, cho nghĩa binh tràn sang khu vực Hưng Yên ngày nay để rồi từ đấy, chia quân làm hai cánh, tấn công và uy hiếp kinh thành từ mặt Đông và Đông Bắc. Ở mặt Đông Bắc, nghĩa quân Nguyễn Tuyển đã từ đất Văn Giang tiến đến Bắc Ninh. Tình hình Thăng Long trở nên rất nguy cấp. Trịnh Doanh sai Nguyễn Trọng Uông làm Thống Lĩnh, trực tiếp chỉ huy các tướng như Nguyễn Hữu Nhuận, Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá, cầm quân đi đàn áp. Nguyễn Trọng Uông và các tướng hăm hở lên đường. Tháng 2 năm Canh Thân (1740), một cuộc đụng độ lớn giữa lực lượng do Nguyễn Trọng Uông cầm đầu với nghĩa quân của Nguyễn Tuyển đã diễn ra tại khu vực Bình Ngô7. Chính sử xưa đã ghi chép về trận này như sau:

“Nguyễn Trọng Uông là người khỏe mạnh, quả cảm và giỏi chiến trận, thường một mình một ngựa, xông pha trong chốn tên đạn (mà không chút nao núng). Đến đây gặp Nguyễn Tuyển, (Nguyễn) Trọng Uông đã đem hết sức bình sinh mà đánh. Thế trận rất gay go. (Đúng lúc đó), thuộc tướng của Nguyễn Trọng Uông là Nguyễn Hữu Nhuận bỏ chạy, khiến cho quân sĩ phải hoảng sợ mà tan tác. Quân của Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá đi sau, vừa chợt thấy thế cũng lập tức bỏ chạy theo. Giặc (đây chỉ nghĩa quân của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ - NKT) liền dốc hết lực lượng ra bao vây. Bị thân cô thế cô, Nguyễn Trọng Uông kiệt sức nên bị giết. Trịnh Doanh thương xót, truy tặng (Nguyễn Trọng Uông) hàm Thái Bảo, tước Quận Công”8.

Ngoài việc truy tặng rất trọng hậu cho Nguyễn Trọng Uông, Trịnh Doanh còn bổ dụng con của Nguyễn Trọng Uông là Nguyễn Đức Thân, giao cho Nguyễn Đức Thân chức Thống Lĩnh mà trước đó Nguyễn Trọng Uông đã giữ. Trịnh Doanh cũng hạ lệnh đem Nguyễn Hữu Nhuận ra chém đầu. Các tướng Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá thì bị lột hết chức tước và bị đem đi đày viễn xứ.

Bình Ngô là trận thắng có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ quá trình phát triển sau đó của lực lượng Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Từ trận đánh đặc biệt quan trọng này, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã tự tỏ rõ khả năng tổ chức những đợt tấn công có quy mô lớn. Cũng từ trận Bình Ngô, tinh thần chiến đấu và lí tưởng chiến đấu của các nghĩa sĩ Ninh Xá mỗi ngày một lên cao, nhân dân các địa phương rộng lớn ở chung quanh Thăng Long cũng rất nô nức. Họ sẵn sàng đóng góp sức người, sức của cho Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ.
___________________________________
1. Nguyễn Quý Cảnh người làng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, là con của Tiến Sĩ Nguyễn Quý Ân (1673-1722) và là cháu của Thám Hoa Nguyễn Quý Đức (1648-1720). Lúc bấy giờ, Nguyễn Quý Cảnh đang giữ chức Bồi Tụng.
    Nguyễn Công Thái (1684-1758) người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay thuộc Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1715. Bấy giờ ông cũng đang giữ chức Bồi Tụng.

2. Mẹ của Trịnh Giang và Trịnh Doanh.
3. Trương Khuông người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội) là ngoại thích (họ hàng bên ngoại) của chúa Trịnh.
4. Giáp Nguyễn Khoa người làng Thiết Thượng, huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Ông là hoạn quan và là người hầu cận thân tín của Trịnh Doanh.
5. Khu vực đóng quân của Hoàng Công Phụ xưa ở huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên. quyển 38, tờ 19).
7. Bình Ngô nay thuộc huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 26 và 27.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 10:15:10 pm »


Trận Phú Xuyên: tháng 5 năm Canh Thân (1740)

Sau trận Bình Ngô, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ bí mật lui quân về phía Nam kinh thành Thăng Long và chuẩn bị một trận tấn công bất ngờ vào khu vực này. Nhưng, kế hoạch này bị bại lộ. Không còn cách nào khác hơn được nữa, nghĩa quân liền chủ động đánh chiếm một số địa phương ở phía nam Thăng Long. Cuối mùa xuân năm Canh Thân (1740), Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã hoàn toàn làm chủ đất hai huyện Phú Xuyên và Thượng Phúc. Đất Phú Xuyên thời Lê Thánh Tông (1460-1497) gọi là Phù Vân, thời Lê Chiêu Tông (1516-1522) gọi là Phú Nguyên và từ thời Mạc trở đi thì gọi là Phú Xuyên. Huyện Phú Xuyên xưa thuộc phủ Thường Tín, nay tương ứng với các huyện Phú Xuyên và Thường Tín của tỉnh Hà Tây. Thượng Phúc xưa cũng là một huyện của phủ Thường Tín, nay cũng thuộc tỉnh Hà Tây.

Bấy giờ, nhân thấy quân của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ phải phân tán trên một dải đất quá rộng, tướng của chúa Trịnh là Nguyễn Đăng Hiển cho rằng cơ hội tấn công tiêu diệt đã đến. Nguyễn Đăng Hiển vội vàng dốc hết binh sĩ dưới quyền, đánh quyết liệt vào Phú Xuyên. Trước cuộc đàn áp bất ngờ và khốc liệt này, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ có phần lúng túng. Hai ông quyết định rút lui khỏi Phú Xuyên và Thượng Phúc. Nguyễn Đăng Hiển tuy nhanh chóng giành được ưu thế, nhưng, vẫn không dám truy đuổi. Hai tướng khác của chúa Trịnh là Đốc Lãnh Trương Khuông và Đốc Lãnh Lê Công Chiêm lập tức đem quân đi yểm trợ nhưng không kịp vì Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã rút lui về Hải Dương một cách an toàn.

Cuộc tập kích bất ngờ vào phía nam kinh thành Thăng Long tuy không thành, nhưng, lực lượng của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ nhìn chung vẫn được giữ vững, vùng chiếm đóng của nghĩa quân vẫn được tiếp tục mở rộng. Sử cũ cho biết:

“Bấy giờ, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Nguyễn Diên dấy quân đã lâu ngày, thanh thế rất lừng lẫy. Họ đã tập hợp dân chúng, quạt mạnh cho ngọn lửa chiến tranh bùng lên dữ dội ở khắp các phủ Từ (tức Từ Sơn, nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh - NKT), Thuận (tức Thuận An, nay thuộc Thuận Thành và Gia Lương, Bắc Ninh - NKT), Hồng và Sách (tức Hồng Châu và Nam Sách, nay tương ứng với phần lớn đất đai của hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên - NKT). Họ đi đến đâu là dân ở đó nô nức hưởng ứng theo. (Nguyễn) Cừ chiếm đất Đỗ Lâm huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương - NKT) còn (Nguyễn) Tuyển chiếm đất Phao Sơn thuỷ huyện Chí Linh (nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương - NKT). Đồn lũy của họ san sát nhau, mỗi người đều có tới vài vạn quân. Các tướng (của triều đình) nhiều phen đem quân đi đánh dẹp mà không sao thắng được”1.


Đánh gục cuộc tấn công do hai viên đại tướng của chúa Trịnh là Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ chỉ huy (6-1740)

Sau trận Phú Xuyên, Trịnh Doanh rất tức tối. Hắn quyết tâm phải đàn áp cho bằng được nghĩa quân Ninh Xá. Để thực hiện quyết tâm này, Trịnh Doanh đã tiến hành hai kế hoạch chuẩn bị cụ thể như sau:

- Xuống lời hiểu dụ, hòng chia rẽ hàng ngũ của nghĩa quân. Lời hiểu dụ này có đoạn: “Nhà nước dùng lễ để đối đãi với sĩ phu, dùng nhân nghĩa để nuôi dưỡng trăm họ. Lo rộng mở điều vui giáo hóa thì nào có khác gì lời Thanh nga (tên một bài trong thiên Tiểu nhã của Kinh Thi - NKT). Xoa dịu sự đau thương thì ân cần thổ lộ có khác gì lời Hồng nhạn (tên một bài trong thiên Tiểu nhã của Kinh Thi - NKT). Thế mà trước đây bọn giặc ở Chí Linh (chỉ nghĩa sĩ của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ - NKT) dám trái danh phận, khiến cho dân một cõi Đông Bắc bị chúng ức hiếp, dỗ dành. Có kẻ thân tuy là học trò, được triều đình giáo hóa thành tài, vậy mà cũng nỡ vì chúng phơi gan dâng sức. Có kẻ là thường dân, được triều đình cho sống yên vui vườn ruộng, vậy mà cũng đành xông vào giáo mác nước sôi. Trong số ấy, thế nào chẳng có người mong không làm liên lụy đến gia đình, thế nào chẳng có kẻ chỉ vì nông nổi mà theo vội? (Những người đó) tuy là cúi đầu theo gượng, nhưng, lòng dạ đâu đã đến nỗi mê muội mà quên cả đường quay lại đâu. Vậy, nếu ai biết bỏ nghịch theo thuận, vứt bỏ binh khí về đầu hàng, thì nhất nhất đều được cho cải hóa, ai lập được công thì chẳng những được tha tội mà còn được thưởng. Nay, hiểu dụ để mọi người cân nhắc, nhận rõ chỗ sáng mà bỏ chỗ tối”2.

- Ra lệnh tịch thu hết chuông, khánh bằng đồng trong chùa chiền, đền miếu để có thêm kim loại đúc vũ khí trang bị cho quân sĩ3. Việc này được Trịnh Doanh ban hành quy chế thực hiện rất rõ ràng. Ngoài việc tịch thu chuông khánh ở khắp các chùa chiền và đền miếu, Trịnh Doanh còn hạ lệnh cho các địa phương rằng: “Ai nộp đồng hoặc chì thì sẽ tùy theo số lượng nhiều ít mà xét cất nhắc để ban cho quan chức”4.

Với hai kế hoạch chuẩn bị nói trên, Trịnh Doanh tin chắc là Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ sẽ khó lòng chống đỡ nổi. Tháng 6 năm 1740, hai viên đại tướng của Trịnh Doanh là Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ được lệnh cầm quân tiến thẳng đến Đường An5.

Vũ Tất Thận tức Bính Quận Công, vốn là một trong những người có công tôn Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Để trả ơn, tháng 1 năm 1740 (tức là ngay sau khi được lên ngôi chúa), Trịnh Doanh đã xếp Vũ Tất Thận vào hàng công thần, mũ và đai của Vũ Tất Thận được trang sức bằng vàng, tương tự như mũ và đai của các bậc thân vương.

Hoàng Công Kỳ tức Trình Quận Công, cũng là một trong những võ quan cao cấp của Trịnh Doanh. Cùng với Vũ Tất Thận, Hoàng Công Kỳ đem quân đến làng An Nhân. Làng này tục danh là làng Bần, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Tới nơi, vì thấy lực lượng của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ quá mạnh, Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ chần chừ không dám đánh. Đúng lúc đó thì Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cho quân ồ ạt tấn công. Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ chống đỡ không nổi, đành phải tháo chạy tán loạn. Nhân đó, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cho quân đốt trụi phủ đệ và từ đường Mi Thữ6.
_________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 32).
2, 3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 31 và tờ 34).
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 34 và 35).
5. Huyện Đường An thời Lê thuộc phủ Thượng Hồng, thời Nguyễn thuộc phủ Bình Giang. Nay, đất huyện này thuộc tỉnh Hải Dương.
6. Mi Thữ là tên làng, quê hương của bà Thái Phi Vũ Thị (mẹ của Trịnh Giang và Trịnh Doanh). Tại đây Trịnh Giang đã cho xây phủ đệ và nhà từ đường rất nguy nga. Việc xây cất này mới hoàn tất vào tháng 5 năm 1736. Làng Mi Thữ xưa thuộc huyện Đường Hào, nay thuộc đất huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 11:38:06 pm »


Một trận nghi binh nhỏ khiến kế lớn của Trịnh Doanh bất thành

Tháng 10 năm 1740, Trịnh Doanh thấy đã đến lúc phải tự mình cầm đại quân đi đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó quả là một quyết tâm rất lớn. Biết không thể đồng thời trấn áp tất cả các cuộc khởi nghĩa, vì thế, Trịnh Doanh bèn áp dụng kế sách dùng sức mạnh đại binh, lần lượt đè bẹp từng cuộc khởi nghĩa một, để rồi cuối cùng là đè bẹp tất cả.

Tháng 11 năm 1740, đại binh của Trịnh Doanh đóng tại khu vực Vũ Điện1, sau đó, chuyển sang đóng tại Hiến Doanh2. Mục tiêu đầu tiên của Trịnh Doanh là khép kín vòng vây, tiêu diệt cho bằng được lực lượng của Vũ Đình Dung ở Ngân Già3, lấy chiến thắng Ngân Già cổ vũ quân sĩ xông lên đánh thắng lực lượng Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ.
 
Đại quân của Trịnh Doanh do các tướng Đinh Văn Giai, Nguyễn Đình Hoàn, Vũ Tất Thận và Trương Khuông làm tiên phong đã tấn công rất quyết liệt vào Ngân Già. Nghĩa quân Vũ Đình Dung tuy chiến đấu rất ngoan cường, nhưng không sao chống đỡ nổi. Trịnh Doanh chiếm được Ngân Già, giết hại không biết bao nhiêu người ở đây, sau đó, sai đổi gọi Ngân Già là Lai Cách4.

Mất Ngân Già, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ mất hẳn một lực lượng liên minh, một chỗ dựa hết sức quan trọng. Trước tình thế đó, hai ông cho rằng, nếu đánh nhau với Trịnh Doanh khi Trịnh Doanh đang có đủ trong tay cả binh hùng lẫn tướng mạnh, thì thật khó mà giành được thắng lợi. Hai ông quyết định dùng kế nghi binh, buộc Trịnh Doanh phải lập tức quay về kinh thành Thăng Long như cũ. Nguyễn Cừ được lệnh cùng với tướng Trần Diệu, đem một cánh quân nhỏ tiến thẳng vào Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Cánh quân này vừa tiến vừa nói phao lên rằng sẽ đánh thẳng vào tận kinh thành Thăng Long. Lúc này, đại quân đã đi xa, Thăng Long đang trống rỗng, khả năng chống trả bị suy giảm rất nghiêm trọng. Mẹ của Trịnh Doanh (bà Thái Phi Vũ Thị) liền sai viên tì tướng là Trịnh Đạc phân chia lực lượng quân sĩ ít ỏi còn lại ở trong cung đi trấn giữ các cửa thành, đồng thời, sai các quan văn như Phạm Kinh Vĩ5, Nguyễn Bá Quýnh6… huy động dân ra phía ngoài thành, xếp thành đội ngũ chỉnh tề để nghi binh, xong thì cấp báo cho Trịnh Doanh.

“Lúc ấy, Trịnh Doanh vừa đánh dẹp được Ngân Già, chợt nghe tin cấp báo từ kinh thành Thăng Long chuyển đến, vội hạ lệnh cho các đạo quân phải về Thăng Long để cứu lấy đất căn bản. Nhưng, khi đại quân mới về đến xã Kim Lan thì giặc (chỉ quân của Nguyễn Cừ - NKT) đã rút lui rồi. Kinh sư nhờ đó vẫn được yên ổn”7.

Kế hoạch lớn của Trịnh Doanh đến đó kể như sụp đổ. Lực lượng của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cùng với vùng căn cứ rộng lớn vẫn được bảo toàn.

Sử cũ có nói đến trận thắng của quân Trịnh Doanh do tướng giữ chức Thống Lãnh là Hoàng Nghĩa Bá chỉ huy tại Phao Sơn8, nhưng đó chỉ là chiến thắng nhỏ, không có ý nghĩa làm thay đổi, dù chỉ là thay đổi một phần tương quan thế trận giữa đôi bên.


Trận Khoái Châu (12-1740): tướng của chúa Trịnh là Đốc Đồng Trần Viêm bị giết

Trịnh Doanh đem đại binh về Thăng Long rồi, vùng đất rộng lớn của đồng bằng châu thổ sông Hồng hầu như nằm hết dưới quyền kiểm soát của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Chính quyền địa phương ở vùng này bị bao vây, bị cô lập, và do đó, rất lo sợ. Để xoay chuyển tình thế, quan giữ chức Đốc Đồng là Trần Viêm9 đã tự mình làm tướng, liều lĩnh đem quân đánh nhau với Nguyễn Tuyển ở Khoái Châu. Cùng liều lĩnh với Trần Viêm trong trận này còn có Đoàn Kiêm Vinh. Nhưng, vừa xuất quân, cả Trần Viêm và Đoàn Kiêm Vinh đều bị đánh cho tả tơi, phải chạy thục mạng. Đến khu vực hai xã Đồng Lạc và Canh Hoạch, Trần Viêm và Đoàn Kiêm Vinh đều bị giết. Đạo quân do họ chỉ huy cũng hoàn toàn tan tác. Tin cấp báo truyền về Thăng Long, Trịnh Doanh lấy làm thương xót, truy tặng Trần Viêm hàm Đông Các Đại Học Sĩ, tước Hải Thọ Bá, cấp cho mười lăm mẫu đất làm tự điền10.


Trận Đông Triều (1-1741): ba viên tướng của chúa Trịnh bị bắt

Sau trận thắng lớn ở Khoái Châu, uy thế của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ ngày một lên cao. Trịnh Doanh rất căm tức nhưng cũng không dám mạo hiểm đem đại quân đi đàn áp như trước nữa. Tuy nhiên, để hạn chế bớt những ảnh hưởng ngày càng rộng lớn và mạnh mẽ của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, Trịnh Doanh liền sai đem quân ra án ngữ ở mạn Đông Triều. Tham gia bộ chỉ huy đạo quân khá lớn này gồm có:

- Võ quan cao cấp, Đốc Lãnh Thượng Đạo Hải Dương là Đặng Đình Luận11 làm tổng chỉ huy.

- Văn quan giữ chức Hiệp Đồng là Trần Trọng Liêu12 và Nhữ Trọng Thai13.

Có quân số khá đông, lại được trang bị đầy đủ, các tướng chỉ huy đạo quân này rất chủ quan. Bấy giờ, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ chỉ chủ trương đánh cầm chừng, để cho quân của chúa Trịnh có thể dễ dàng tiến ra Đông Triều như kế hoạch chúng đã dự kiến. Điều này khiến cho Đặng Đình Luận đã chủ quan lại càng thêm chủ quan. Sau vài ba trận giả thua, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ liền cho người tới giả vờ xin hàng. Đặng Đình Luận tưởng thật, cho nên, không hề phòng bị gì cả. Chẳng dè, nhân đêm tối, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ tung quân đánh gấp. Toàn bộ các tướng Đặng Đình Luận, Trần Trọng Liêu và Nhữ Trọng Thai đều bị bắt sống14.


Cuộc đụng độ lần thứ hai với Thống Lãnh Hoàng Nghĩa Bá ở Phao Sơn và Ninh Xá (2-1741): khúc tráng ca cuối cùng!

Trong tất cả các võ quan cao cấp của Trịnh Doanh từng cầm quân đi đàn áp Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ thì Hoàng Nghĩa Bá là người duy nhất có học vị Tạo Sĩ (Tiến Sĩ của võ ban). Tháng 7 năm 1740, chính Hoàng Nghĩa Bá đã đem quân đến đánh Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ ở Phao Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Đó là trận thắng đầu tiên của viên tướng này, nhưng là trận thắng nhỏ, vì thế, Hoàng Nghĩa Bá không được khen thưởng gì đáng kể. Đến đây, Hoàng Nghĩa Bá lấy chức quyền là Thống Lãnh, cầm quân đi đánh Phao Sơn lần thứ hai. Nghĩa quân của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, cùng với quân của Vũ Trác Oánh đánh trả rất quyết liệt, nhưng không sao cản nổi bước tiến của đạo quân hùng mạnh này. Phao Sơn thất thủ, Hoàng Nghĩa Bá cho quân nhân đà thắng lợi, đánh thẳng vào khu căn cứ Ninh Xá. Vì quá bất ngờ, đội ngũ của Nguyễn Tuyển ở đây chiến đấu rất khó khăn. Nguyễn Tuyển đành phải lui quân và chẳng may đã mất trên đường tháo lui. Cái chết đột ngột của Nguyễn Tuyển là một tổn thất rất lớn đối với nghĩa sĩ Ninh Xá.

Hoàng Nghĩa Bá lập tức cho quân đánh mạnh vào lực lượng của Vũ Trác Oánh và Nguyễn Cừ ở Gia Phúc. Một trận ác chiến đã diễn ra tại đây. Vũ Trác Oánh và Nguyễn Cừ liệu thế khó chống nổi, bèn quyết định rút lui. Sử không cho biết Vũ Trác Oánh sau đó ra sao, còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn15.


Những ngày cuối cùng của Nguyễn Cừ và Nguyễn Diên

Nguyễn Diên là cháu, gọi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ bằng chú ruột. Cùng với hai chú, Nguyễn Diên đã tham gia cuộc khởi nghĩa ở Ninh Xá ngay từ những ngày đầu tiên. Chính Nguyễn Diên là một trong những tướng chỉ huy giàu tài năng của bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Khi Phao Sơn và Ninh Xá lần lượt thất thủ, Nguyễn Diên lui về hoạt động ở vùng Hà Tây và Vĩnh Phú ngày nay. Trịnh Doanh liền hạ lệnh cho Lê Lệ16 và Nguyễn Quai17 đem quân đi đàn áp. Một trận đụng độ khá lớn đã diễn ra tại An Lạc. Nguyễn Diên vừa đánh, vừa bí mật cho binh thuyền xuôi xuống Bến Cốc18 và dự định sẽ bất ngờ từ Bến Cốc đánh ngược lên, dồn Lê Lệ và Nguyễn Quai vào thế khó bề chống đỡ. Nhưng, kế hoạch này chẳng may bị bại lộ, tương kế tựu kế, Nguyễn Quai đã cho quân mai phục, đánh tan tác lực lượng của Nguyễn Diên. Nguyễn Diên chạy vào Nghệ An và sau đó phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu, hoạt động thêm một thời gian khá dài nữa.

Nguyễn Cừ trong thời gian chạy lên Lạng Sơn, được thủ lĩnh Toàn Cơ19 giúp đỡ và tạo điều kiện để có thể trở về tiếp tục chiến đấu ở vùng đồng bằng quê hương. Tháng 7 năm 1741, Nguyễn Cừ về đến Ngọa Vân Sơn, và tại đây, ông bị tướng của chúa Trịnh là Phạm Đình Trọng bắt đem về Thăng Long xử tử.


*
*   *


Từ tháng 12 năm 1739 đến tháng 7 năm 1741, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã có công tập hợp và huy động sức mạnh của hàng vạn nông dân nghèo khổ, vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Từ quê hương Ninh Xá của mình, hai ông đã kiên trì nhen nhúm và thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh chống áp bức bóc lột khắp cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng rộng lớn. Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ thực sự xứng đáng là người đại diện xuất sắc của ý chí ngoan cường, bất khuất, xứng đáng được tôn vinh là những vị anh hùng nông dân của thế kỷ thứ XVIII.

Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, cùng với cháu là Nguyễn Diên, không chỉ là những điểm hội tụ của khí phách hiên ngang mà còn là hiện thân độc đáo của tài mưu lược. Chính Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, những người chưa từng học qua một trường đào tạo võ quan nào, đã khiến cho hàng loạt tướng lĩnh cao cấp, được đào tạo chính quy của họ Trịnh, kể cả chính chúa Trịnh Doanh, phải bao phen thất điên bát đảo. Thống Lĩnh Nguyễn Trọng Uông và Đốc Đồng Trần Viêm tử trận, Đốc Lãnh Đặng Đình Luận cùng với hai quan Hiệp Đồng là Tiến Sĩ Trần Trọng Liêu và Bảng Nhãn Nhữ Trọng Thai bị bắt, bản thân Trịnh Doanh cũng mắc mưu của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ mà buộc phải lui quân... đó là những sự kiện kết tinh tài năng quân sự của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, của những người kề vai sát cánh với hai ông như Nguyễn Diên, Trần Diệu, và của hàng vạn nghĩa sĩ đương thời.
_____________________________________
1. Vũ Điện là tên làng, xưa thuộc huyện Nam Xang, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
2. Hiến Doanh tức Phố Hiến, nay thuộc tỉnh Hưng Yên.
3, 19. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 3-Bốn phương rầm rộ khởi binh, thuộc phần I-Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVIII.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 38).
5. Phạm Kinh Vĩ tức Phạm Công Liêu, người làng Thổ Hào, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến Sĩ năm 1724.
6. Nguyễn Bá Quýnh, người làng Hoa Lâm, huyện Nam Đường, nay thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến Sĩ năm 1733.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 38). Xã Kim Lan nói đến ở đây về sau đổi gọi là Kim Quan, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
8. Phao Sơn là tên núi. Núi này nay thuộc địa phận huyện Chí Lính, tỉnh Hải Dương.

Hoàng Nghĩa Bá người làng Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, đỗ Tạo Sĩ (tức là Tiến Sĩ của võ ban).

9. Trần Viêm người làng Hải Thiên (tục danh là làng Hới) huyện Tiên Lữ, nay là xã Hải Triều, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên. Đoàn Kiêm Vinh là Giám Sinh, người đồng hương của Trần Viêm.
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 41).
11. Đặng Đình Luận người làng Lương Xá, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây), con trai của Gia Quận Công Đặng Đình Lân.
12. Trần Trọng Liêu người xã Văn Giáp, huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây), đỗ Tiến Sĩ năm 1733, làm quan tới chức Đông Các Đại Học Sĩ.
13. Nhữ Trọng Thai (tức Nhữ Trọng Đài), người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay thuộc huyện Cẩm Bình. tỉnh Hải Dương), đỗ Bảng Nhãn năm 1733, làm quan đến chức Hiến Sát Sứ.
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 5 và 6)
15. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 7).
16. Lê Lệ người làng Phú Hào, huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), lúc này Lê Lệ đang giữ chức Đốc Lãnh.
17. Nguyễn Quai tức Nguyễn Tông Quai (1693-1767) người làng Phúc Khê, huyện Ngự Thiên (nay là xã Hiệp Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1721.
18. Bến Cốc ở xã Vân Cốc, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 03:40:44 pm »


02. NGUYỄN HỮU CẦU (? - 1751)

“Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán
Phá vòng vây bạn với kim ô.
Giang sơn khách diệc tri hồ”
1.



Đôi lời về lai lịch

Nguyễn Hữu Cầu là con một gia đình nông dân nghèo, quê ở làng Lôi Dương, huyện Thanh Hà (nay thuộc Hải Dương). Ông sinh vào năm nào chưa rõ, tuy nhiên, thư tịch cùng truyền thuyết dân gian đều nói rằng ông là bạn học của Phạm Đình Trọng (1714-1754). Kết hợp với sự cân nhắc thêm vài chi tiết trong hành trạng cuộc đời của ông, chúng ta cũng có thể ước đoán rằng, Nguyễn Hữu Cầu sinh cùng hoặc muộn hơn Phạm Đình Trọng một chút.

Cuối năm 1739, khi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cùng với cháu là Nguyễn Diên dựng cờ khởi nghĩa ở Ninh Xá, Nguyễn Hữu Cầu là một trong những người hăng hái hưởng ứng đầu tiên. Ông là con rể của Nguyễn Cừ và cũng là một trong những bộ tướng tin cậy của Nguyễn Cừ. Nhờ những năm tháng anh dũng chiến đấu và lập được khá nhiều công lao, góp phần đáng kể vào những thắng lợi quan trọng của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, uy tín của Nguyễn Hữu Cầu đã được khẳng định.

Khi Nguyễn Tuyển qua đời còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn, Nguyễn Hữu Cầu vẫn kiên trì ở lại, cố gắng bảo toàn lực lượng còn lại để chờ thời. Hay tin này, từ đất Lạng Sơn, Nguyễn Cừ đã tìm đường trở về, dự tính sẽ cùng với con rể gây dựng lại phong trào.

Khi Nguyễn Cừ bị bắt ở Ngọa Vân Sơn để rồi sau đó không bao lâu thì bị xử tử, Nguyễn Hữu Cầu nghiễm nhiên trở thành lãnh tụ mới của nông dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Như vậy, về quan hệ họ hàng, Nguyễn Hữu Cầu là con rể của Nguyễn Cừ, còn về quan hệ sự nghiệp thì khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu chính là sự tiếp nối dưới một dạng thức đặc biệt của khởi nghĩa Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ.


Chiếm Đồ Sơn và đánh mạnh vào các vùng lân cận (1742)

Ngay sau khi Nguyễn Cừ bị bắt và bị giết hại, Nguyễn Hữu Cầu liền đem lực lượng của mình đánh thẳng xuống Đồ Sơn. Cuộc tấn công này tuy gặp không ít khó khăn, nhưng cuối cùng, Đồ Sơn cũng đã phải lọt vào tay nghĩa quân của ông. Từ đầu năm 1743, Đồ Sơn đã trở thành căn cứ vững chắc của Nguyễn Hữu Cầu. Bấy giờ, đồng thời với Nguyễn Hữu Cầu, ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng còn có khởi nghĩa do Hoàng Công Chất2 lãnh dạo. Tuy không hợp nhất, nhưng, Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất đã liên minh khá chặt chẽ với nhau. Điều này khiến cho Trịnh Doanh rất lo sợ:

“Vùng Đông Nam là nơi sản sinh ra của cải, là nguồn thu thuế lớn của quốc gia, vậy mà bị (Nguyễn) Hữu Cầu và (Hoàng) Công Chất liên kết với nhau, mặc sức ngày ngày đánh phá, cướp bóc. Vậy, trước hết phải làm sao để quét cho sạch vùng Đông Nam, gỡ mối lo nguy cấp”3.

Ngoài ra, với những hoạt động táo bạo và thông minh của mình, nghĩa quân của Nguyễn Danh Phương4 ở vùng Sơn Tây cũng đã khiến cho Trịnh Doanh không thể an tâm. Đấy là chưa kể đến cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Mật5 lãnh đạo, hoạt động rất mạnh mẽ ở vùng Thanh Hóa ngày nay. Tất cả những điều kiện thuận lợi này đã được Nguyễn Hữu Cầu triệt để tận dụng. Từ Đồ Sơn, những cuộc tấn công ra các vùng lân cận liên tiếp được tổ chức.

Tại Đồ Sơn, để có danh nghĩa tập hợp nhân dân, Nguyễn Hữu Cầu xưng là Đông Đạo Tổng Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân. Trận đánh có quy mô lớn đầu tiên do đích thân Đông Đạo Tổng Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân chỉ huy là trận đánh vào Lão Phong6. Tướng chỉ huy thủy quân của Trịnh Doanh ở vùng này là Trịnh Bảng vội đem chiến thuyền tới đàn áp. Nguyễn Hữu Cầu cho quân đem thuyền chiến loại nhỏ ra khiêu chiến rồi vờ thua và bỏ chạy. Trịnh Bảng hung hăng cho quân đuổi theo. Đuổi mãi đến Giai Môn7 thì gặp lúc thủy triều lên. Chiến thuyền của Trịnh Bảng to lớn cồng kềnh, ngược dòng thủy triều lên rất vất vả. Trước tình hình đó, Trịnh Bảng liền cho quân tạm nghỉ. Đúng lúc đó Nguyễn Hữu Cầu liền cho hơn một trăm chiến thuyền bất ngờ từ bến Cát Bạc8 đổ ra tấn công. Thủy quân Trịnh Bảng nhanh chóng tan vỡ, bị giết và bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Bản thân Trịnh Bảng cũng bị hơn mười vết thương, bị bắt và sau đó là bị giết.

Chiến thắng này đã khiến cho thanh thế của Nguyễn Hữu Cầu trở nên rất lừng lẫy. Ông mở rộng phạm vi tấn công và chẳng bao lâu sau đó thì chiếm được cả một vùng rộng lớn, tương ứng với Hải Phòng và phần lớn Quảng Ninh ngày nay.
_________________________________
1. Nguyễn Hữu Cầu: Chim trong lồng (thơ viết trong ngục trước ngày bị xử tử)
2. Xin tham khảo thêm mục 3-Hoàng Công Chất (? - 1769) ở sau.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 28).
4. Xin tham khảo thêm mục 4-Nguyễn Danh Phương (? - 1751) ở sau.
5. Xin tham khảo thêm mục 5-Lê Duy Mật (?-1770) ở sau.
6. Lão Phong là tên xã. Xã này xưa thuộc huyện Nghi Dương phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, nay thuộc địa phận Hải Phòng.
7. Tên cửa biển. Cửa biển này cũng thuộc huyện Nghi Dương (nay thuộc Hải Phòng).
8. Cát Bạc là tên bến, thuộc khu vực cửa Giai Môn đã nói ở trên.

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM