Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:43:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp  (Đọc 62728 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #80 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:11:06 am »

3. Khi tiêu diệt binh đoàn Lepage, viên phó tư lệnh của Lepage bị quân đội Việt Nam bắn chết. Vì vậy sau khi bị bắt làm tù bình Lepage đã đề xuất phản đối phía Việt Nam, nói quân đội Việt Nam bắn chết tù binh là hành vi của người dã man. Ông ta tự xưng là dân tộc thượng đẳng, nói người Việt Nam không văn minh, không khai hoá, ông ta đòi bồi thường thiệt hại, yêu cầu an ủi đòi trừng phạt “hung thủ giết người”, Lepage rất điên cuồng ngạo mạn, làm cho người Việt Nam không có biện pháp, không biết nên như thế nào cho phải. Vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Trần Canh và đồng chí Vi Quốc Thanh xử lý trường hợp này như thế nào. Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh nói con người đó bị giết như thế nào, phải làm rõ tình hình lúc đó là giết nhầm hay là cố ý giết, nếu là giết nhầm thì là việc thường có trên chiến trường, phản đối cái gì, nhảm nhí. Đồng chí Trần Canh nói, trước hết phải điều tra rõ tình hình rồi hãy nói Lepage điên cuồng như thế, có gì ghê gớm, một là tù binh mà dám coi thường các đồng chí như vậy, phải dẹp ngay cái uy của hắn, trước hết điều tra rõ tình hình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : đã điều tra tình hình Lepage và họ núp trong hang, chiến sĩ chúng ta gọi họ ra hàng, Phó tư lệnh ra trước, khom lưng, lúc đó chiến sĩ ta không biết ông ta làm gì cũng không rõ có phải ông ta ra đây hàng hay không nên đã bắn chết ông ta, còn thu một khẩu súng lục. Xem ra là giết nhầm, Trần Canh cười nói : “ Dễ thôi ! Đồng chí cử một người năng nổ đi gặp Lepage dạy cho ông ta một trận, nói các ông chỗ nào là dân tộc thượng đẳng, mà ngay đến đầu hàng cũng không biết. Muốn đầu hàng trước hết phải bỏ súng xuống hoặc vứt ra khỏi hang, kéo cờ trắng hoặc cầm khăn tay trắng, giơ tay lên. Ông cầm súng lục đi ra là đầu hàng hay là chống lại ? Ngay chút tri thức này cũng không biết còn gì là dân tộc thượng đẳng, còn gì là văn minh hay là tư lệnh nữa ! Bắn chết nó cũng đáng. Còn phải bảo cho ông ta biết, bảo ông ta viết thư về nước, bảo bộ đội của họ tăng cường học môn nộp súng đầu hàng như thế nào, không nên để mất mặt người Pháp trên chiến trường v.v...” Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe xong cười mãi không thôi. Đoàn trưởng Vi nói : “ Không nên khách khí đối với bọn đế quốc, không những phải bác lại kháng nghị của ông ta, còn phải chỉ trích ông ta, đánh tan hung hăng đế quốc của ông ta. Bọn chúng xâm lược lãnh thổ nước khác, cướp đoạt tài sản nước khác, nô dịch nhân dân nước khác, đốt, giết, hãm hiếp, cướp bóc không chừa thứ gì, là dã man nhất, dân tộc thượng đẳng cái gì ? Chúng ta tự vệ, chống lại xâm lược để giành lấy giải phóng là chính nghĩa, chúng ta chống lại và phản đối dã man, bọn chúng mới là bon đế quốc dã man nhất.

Tất nhiên cũng phải giáo dục bộ đội của mình phải tôn trọng kỷ luật chiến trường, không nên vi phạm chính sách tù binh. Nhưng vẫn phải có lòng tự tôn dân tộc, tiến hành giáo dục khí thánh dân tộc, không nên coi bọn đế quốc là dân tộc thượng đẳng gì cả, phải xem thường chúng, không nên coi thường mình, không nên hạ thấp mình, chúng ta không xâm lược giành lấy giải phóng là sự nghiệp chính nghĩa cao cả phải xé toang mặt nạ giả dối của cái gọi là dân tộc thượng đẳng, phải đề cao chí khí của mình, dẹp uy phong của địch ”. Hồ Chủ tịch nói : “ Các đồng chí nói rất hay, rất tốt ”. Về sau nghe nói Việt Nam cử người đi báo lại Lepage, làm cho ông ta không nói được lời nào, dẹp yên cơn sóng gió nhỏ đó 6.

4. Quân Pháp đều đồng loạt phá huỷ, biến thành bình địa những thành phố chúng rút bỏ. Cho nên ở vùng giải phóng Việt Nam, một số thành phố thị trấn có trên bản đồ, đến thực địa lại không thấy đâu cả vì đã bị phá huỷ không còn cái gì, nhiều lắm thấy được một số đống đổ nát. Quân Pháp bắn phá Lạng Sơn có tính huỷ diệt. Nhưng trung tâm thị xã Lạng Sơn có một khu tập trung dân cư Hoa kiều hình chữ nhật, tình hình kỳ lạ. Khi quân Pháp bắn phá Lạng Sơn, xung quanh đều phá nát, khu Hoa kiều lại bình yên vô sự, mà khu này chỉ cách một đường phố với xung quanh 7. Ở Cao Bằng cách Lạng Sơn không xa, tôi đã một lần bị máy bay địch ném bom. Khi chúng tôi ở Lạng Sơn, vì không thể đánh Hà Nội ngay một lúc, nên Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam và Đoàn cố vấn quyết định về chỗ cũ Quảng Uyên, sau đó dời đến gần Tả Trúc vùng tây bắc Thái Nguyên, cơ quan đầu não của đảng, chính phủ Việt Nam đóng phân tán ở vùng này. Lúc này phía Việt Nam quyết định tổ chức ở Cao Bằng buổi liên hoan lớn chào mừng thắng lợi chiến dịch biên giới, và mời Đoàn cố vấn tham gia. Đoàn cố vấn vẫn suy nghĩ mãi khuyên họ nên cẩn thận vì Cao Bằng chưa bị ném bom, cho nên địch không thể để yên. Vì sao ném bom Lạng Sơn mà không ném bom Cao Bằng, trong đó chắc có vấn đề. Cho nên phải cẩn thận còn kiến nghị phía Việt Nam phân tán tổ chức liên hoan nhỏ, tránh xảy ra đáng tiếc.

Một số người phía Việt Nam bị thắng lợi làm cho mê mẩn, không tiếp thu lời khuyên của Đoàn cố vấn, cho rằng họp buổi tối sẽ không có chuyện gì. Vì thế chọn một ngày cuối tháng 10, lúc 8g tối bắt đầu lễ chúc mứng, hẹn Đoàn cố vấn hôm đó đến Cao Bằng, ở trong một nhà thờ của Pháp đêm đó tham gia hội nghị hôm sau đi lên hướng Tả Trúc. Vì vậy tham mưu trưởng Mai bảo tôi không về Quảng Uyên mà lên thẳng Cao Bằng, sắp xếp chỗ ở cho Đoàn cố vấn, tìm hiểu tình hình tổ chức hội nghị, tôi đến Cao Bằng. Khi đến Cao Bằng còn hai hôm nữa mới họp, tôi đi xem địa hình và trình khu phố xung quanh Cao Bằng. Cao Bằng ở hai bên thung lũng sông khá rộng bốn bề là núi, núi phía tây tương đối thấp, khu phố ở dưới dốc núi, phía đông khu phố là một con sông không lớn, phía đông con sông là sân bay. Xóm làng nằm rải rác dưới chân núi xung quanh. Thấp thoáng có thể nhìn thấy lô cốt công sự của quân Pháp xây trên đỉnh núi.

Khu thành phố không lớn, chỉ có khoảng 20.000 dân, ở Trung Quốc chỉ là thị trấn nhỏ, nhưng ở Việt Nam lại là tỉnh lỵ, gọi là thành phố hạng vừa. Nó chỉ có một đường phố theo hướng nam bắc, cửa hiệu, phần nhiều cửa hàng chưa mở cửa, chỉ có mấy cửa hàng ăn nhỏ mở cửa kinh doanh, bán phở, gà xé phay, cũng có những quầy hoa quả chuôi tây, chuối tiêu, quít, phần đông là phụ nữ. Không có nhà cao cửa rộng, phía bắc khu phố có một quảng trường, có một gò đất đã dựng lều, đặt ghế đẩu giống như sân khấu chúng ta biểu diễn trong những năm chiến tranh, dán khá nhiều biểu ngữ. Quảng trường đó vốn có thể là thao trường của quân Pháp, xung quanh còn có dây thép gai, người trên phố không nhiều, binh lính thì không ít. Trong nhân dân phần đông là phụ nữ, đàn ông chỉ có cụ già và trẻ em. Phụ nữ Việt Nam có tập quán nhai trầu, người ta nói có thể bảo vệ răng lợi, nhai lâu, răng trở nên đen, họ cho đó là đẹp 8. Ở nông thôn phần nhiều là phụ nữ lớn tuổi ăn trầu, ở Cao Bằng nhìn thấy phụ nữ trẻ tuổi cũng ăn trầu. Khi nhai trầu cau nước dãi biến thành màu đỏ, nhỏ ra như máu. Họ vừa đi vừa nhai, vừa nhổ nước đôi. Nhà thờ chuẩn bị cho Đoàn cố vấn ở trên một dốc núi nhỏ tây nam thành phố.

Thị xã Cao Bằng, hai mặt nam tây đều có những cây đại thụ chọc trời, cách khu thị xã bốn, năm trăm mét. Nhà cửa hoàn chỉnh, nhưng đồ dùng trong nhà không có gì. Bên ngoài có không ít công sự của quân Pháp, lô cốt phần nhiều xây bằng đá và xi măng, các con hào đều giống như dã chiến, không đậy nắp, chai rượu, vỏ đồ hộp bừa bãi khắp nơi. Giống như Đông Khê xung quanh lô cốt cắm đầy mảnh chai. Chờ đến chiều hôm khai mạc hội nghị Đoàn cố vấn vẫn chưa đến. Vốn định 8g tối khai mạc, 7g30 bộ đội đã vào hội trường. Khi mặt trời lặn đã là 7h, vẫn không thấy Đoàn cố vấn đến. Tôi đoán họ không đến chúng tôi đi ăn cơm, chuẩn bị 8g đi xem tình hình khai mạc.

Vừa ăn cơm xong, hai người của Phòng giao tế đến nói, Đoàn cố vấn đã đến tây Việt Bắc, không dự họp được, bảo tôi đi nhanh về Đoàn cố vấn. Tôi thu dọn hành lý, chuẩn bị lướt qua hội trường xem sao rồi lên đường đuổi theo Đoàn cố vấn suốt đêm. Chính vào lúc này thỉnh thoảng vọng lại tiếng đì đoàng, đó là tiếng máy bay ném bom. Tuy biết quân Pháp nói chúng không ném bom nhà thờ, nhưng để đề phòng vạn nhất, chúng tôi vẫn phải chạy ra bên ngoài nhà thờ, chui vào những chiến hào mà quân Pháp bỏ lại. Tiếng ầm càng ngày càng lớn. Tuy màn đêm buông xuống, nhưng bầu trời trong xanh lồng lộng nhìn thấy máy bay rất rõ, trước 5 chiếc sau ba chiếc, lại 5 chiếc lại ba chiếc đằng sau vẫn 5 chiếc, ba chiếc, nối đuôi nhau mỗi tốp đều thành hình chữ “nhân” cũng không chúc xuống, cứ thế ném bom xuống phía nam Cao Bằng. Chúng tôi cảm giác bom đó sắp rơi trên đầu chúng tôi, nhưng không xảy ra. Không lâu sau, tiếng nổ trong thị xã vang lên, khối bốc lên nồng nặc tia lửa bay đầy trời. Có những người dân chạy đến gần nhà thờ, có hai phụ nữ trung niên chạy đên con hào chúng tôi. Họ quỳ trong hào, một người trước ngực đeo thánh giá; miệng niệm “a men”, “a men”, một người chấp hai tay, nhắm mắt, miệng nói “cám ơn thượng đế”, “cám ơn thượng đế”. Cảm ơn có thể là biến âm của hai chữ “cảm ân” của Trung Quốc, “thượng đế” phát âm gần giống Trung Quốc, nên nghe ra. Máy bay Pháp làm xong nhiệm vụ, lượn vòng qua trái trên bầu trời phía bắc Cao Bằng rồi bay về theo đội hình cũ, còn ở phía nam, máy bay 5 chiếc, 3 chiếc lần lượt đến ném bom, khoảng nửa giờ mới thôi.

Tôi vốn muốn đi xem tình hình ném bom, nhưng người của Phòng Giao tế kiên quyết không đồng ý, sợ máy bay đến ném bom lần nữa, nói họ không chịu trách nhiệm, đành phải nghe theo họ. Nhưng vì có hai quả bom rơi trên dốc núi phía đông chúng tôi, khiến ngựa của tôi sợ chạy mất. Trời tối rồi tìm ngựa rất lâu, sai khi tìm được vất hành lý lên, từ đường mòn xuống dốc núi theo hướng tây ra đường cái, lúc này sắp đến 9g. Đến chỗ ở của Đoàn cố vấn gần nửa đêm. Ngày hôm sau, tôi báo cáo tham mưu trưởng Mai tình hình chuyến đi này, hỏi các đồng chí vì sao không đi Cao Bằng, có phải được tin tình báo địch ném bom hay không. Đồng chí nói mấy ngày đó máy bay địch không hoạt động, tình hình khác thường, dự đoán địch được tin tình báo quân đội Việt Nam hoạt động ở Cao Bằng. Lần này quân Pháp chọn thời gian ném bom vào đúng thời gian quân đội Việt Nam tiến vào hội trường, cho thấy bảo mật của quân đội Việt Nam có vấn đề, nội bộ có gián điệp hay không cũng rất khả nghi, hoặc Cao Bằng có đặc vụ ngầm của địch. Đồng chí nói : “ Chiều hôm qua khi sắp đến vùng bắc Cao Bằng, cảm thấy tình hình không bình thường, quyết định không tham gia và kiến nghị Việt Nam chú ý, họ đồng ý lùi lại hội nghị lại nửa giờ, không biết lần này thiệt hại ra sao. Chúng tôi cử người đi gặp đồng chí gặp không ? ”. Tôi nói : “ Các đồng chí ấy vừa đến thì máy bay đến, vừa may chúng tôi chưa vào hội trường ”.

Sau đó nghe nói lúc đó bộ đội Việt Nam chưa vào hội trường, nhưng trong khu phố có nhiều quân nhân. Lần ném bom này, không tính người dân quân đội Việt Nam thương vong khoảng 200 người, hy sinh vô ích, thật là đáng tiếc. Sau đó, tôi từng đi qua Cao Bằng, cả thị xã bị tàn phá, đâu đâu cũng thấy tường nhà đổ nát, gạch ngói từng đống không còn một ngôi nhà nguyên vẹn. Đó là kiệt tác của bọn xâm lược tự xưng là “dân tộc thượng đẳng” “dân tộc văn minh”.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #81 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:13:07 am »

5. Hạ tuần tháng 6/1951, tôi từ Nam Ninh chữa bệnh trở về Ban chỉ huy Đoàn cố vấn nghe nói tháng 6 trong tác chiến vùng Ninh Bình, khi đại đoàn 308 đánh một cứ điểm, đã bắn chết trung úy Bernard con của Tướng De Lattre Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam vừa mới nhận chức chưa bao lâu. Khoảng một tháng sau, Tư lệnh không quân Pháp tại Việt Nam (không rõ tên) là một trung tướng không quân, anh hùng không quân của Pháp thời chiến tranh thế giới thứ hai, đáp chiếc máy bay ném bom hạng nhẹ vượt qua biên giới Việt Nam, bị súng máy cao xạ bắn trung vùng trời Trung Quốc (sau chiến dịch biên giới máy bay Pháp nhiều lần quấy rối vùng biên giới Trung Quốc từng ném bom, Đức Bảo, Tịnh Tây v.v... của Quảng Tây). Chiếc máy bay này hoảng hốt tháo chay, khi đến Cao Bằng không thể tiếp tục bay nữa, buộc hạ cánh xuống sân bay Cao Bằng, trên máy bay vốn còn một quả bom chưa ném, không biết là trước khi hạ cánh mới nghĩ ra phải ném đi hay là khi hạ cánh quả bom rơi xuống trước, kết quả máy bay vừa hạ cánh, bom cũng nổ luôn trên sân bay, đuôi máy bay bị bốc cháy, người trên máy bay trừ tổ lái ra, vị tư lệnh không quân đó, một thượng úy, một phụ nữ đều bị chết cháy. De Lattre de Tassigny và phía Việt Nam đàm phán muốn đổi tù chính trị phạm của phía Việt Nam giam tại Hà Nội lấy thi thể trên chiếc máy bay này. Phía Việt Nam nêu giá rất cao, đưa ra danh sách chính trị phạm có hàng trăm người, đòi De Lattre phóng thích, còn đòi rất nhiều tiền, không đi đến thoả thuận. Nhưng De Lattre đưa thi thể của trung uý Bernard con ông ta bị chết trận về nước, chôn bên cạnh mộ Napoléon ; làm cho người Pháp và quân đội Pháp bất mãn rất lớn, chỉ trích ông ta không đòi được thi thể của trung tướng không quân, lại chỉ lo đưa thi thể của con mình về nước, còn chôn cạnh Napoléon, làm cho De Lattre lâm vào tình thế bối rối trăm bề 9.

Đánh trận tại Việt Nam không được như ý, tình cảnh chiến tranh của ông ta ngày càng khó khăn, chiến dịch biên giới Hoà Bình lại làm ông ta sứt đầu mẻ trán, khiến ông ta hết sức lo âu, chẳng bao lâu đổ bệnh. Cuối năm 1951, trong chiến dịch biên giới ông ta từ biệt cõi đời cũng đi gặp Napoléon.




1 Sau những lời lẽ hoa mĩ, dạt dào tinh thần quốc tế chủ nghĩa, vẫn là cái nhìn đại Hán, coi việc Pháp xâm lược Việt Nam và việc kí kết Hiệp định Pháp-Thanh là Trung Quốc « mất » Việt Nam.

2 Đúng hơn là Nam Sa mạc Sahara, thuộc khu vực « Châu Phi Đen ».

3 Đúng là ở Việt Nam có những nơi thờ Mã Viện (xem bản tin BBC) nhưng phần lớn là những đền thờ của Hoa kiều, và có sự lẫn lộn (vô tình hay cố ý) giữa Mã Viện và Bạch Mã.

4 Tình hình là đồng chí này không biết gì về Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, về lịch sử Việt Nam nói chung, và từ đó cũng không chịu học thêm (không kể là nghe tới kịch Việt Nam lại tưởng là « Việt kịch » của trung Quốc). Lại phản ứng rất ư là đại hán, quên cả lời dặn của bác Mao là sang Việt Nam phải xin lỗi về tội ác của Mã Viện. Hay là đồng chí hiểu rõ bác Mao « nói dzậy mà không phải dzậy » ?

5 Đây có lẽ không phải là vụ án tham ô nổi tiếng mà thủ phạm số 1 là đại tá Trần Dụ Châu, phụ trách Nha quân nhu, vì Trần Dụ Châu đã bị tuyên án tử hình ngày 5.9.1950 tức là trước chiến dịch Biên Giới (xem loạt bài của Hồng Hà, báo Cứu Quốc, do Công an Nhân dân đăng lại ngày 24 và 25.8.2005. Vụ tham ô nói tới trong bài này có thể có thực, nhưng khó tin rằng chủ tịch Hồ Chí Minh có thể nói với Vi Quốc Thanh là cố vấn Trung Quốc « mỗi ngày mỗi người ăn một con bò và một con gà »

6 Câu chuyện này hơi lố bịch, đúng là đồng chí cố vấn coi Hồ Chí Minh bằng vung, và coi người đọc không ra gì.

7 Đây là một điển hình về « u mặc đen » của tác giả : như vậy năm 1950 Pháp rút khỏi Lạng Sơn, phá sạch thành phố, nhưng còn để lại khu Hoa Kiều. 29 năm sau, một đạo quân xâm lược, khi rút khỏi cũng thị xã Lạng Sơn thì toàn bộ thành phố đã trở thành bình địa (cuốn sách này xuất bản năm 2002, tức là 23 năm sau cuộc xâm lược của Quân giải phóng Trung Quốc).

8 Một thí dụ khác về hiểu biết hạn hẹp của tác giả về văn hoá Việt Nam. Cũng không nên trách vì nghe nói gần đây có một tác giả Việt Nam viết sách bằng tiếng Pháp giới thiệu văn hoá Việt Nam cũng đùa dai, nói các bà già ăn trầu nên răng đen.

9 Không đúng, lễ truy điệu trung uý Bernard de Lattre có tổ chức ở điện Invalides (nơi giữ hài cốt Napoléon), nhưng sau đó thi hài được chôn ở vùng Vendée miền tây nước Pháp.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #82 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 04:57:30 am »

ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ TRUNG QUỐC VÀ CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG PHÁP CỦA VIỆT NAM
Trương Quảng Hoa

Đầu năm 1950, theo yêu cầu của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc quyết định thi hành nghĩa vụ quốc tế, dốc mọi nỗ lực viện trợ cuộc đấu tranh chống pháp của nhân dân Việt Nam trong tình hình đất nước còn rất khó khăn, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tuân theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân uỷ Trung ương, từ tháng 3/1950 đến tháng 7/1954 đã cung cấp số lớn trang bị vũ khí và vật tư quân nhu hậu cần cho quân đội Việt Nam, giúp huấn luyện bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam. Đồng thời nhận lời cử Đoàn cố vấn quân sự, giúp đỡ toàn diện xây dựng quân đội Việt Nam, hỗ trợ tổ chức chỉ huy tác chiến, đã có đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam.

Stalin nói việc viện trợ Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định cử Đoàn cố vấn quân sự

 Tháng 9 năm 1949, vào lúc đấu tranh cách mạng Trung Quốc giành được thắng lợi cơ bản, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Lý Ban đã từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc, mang bức thư viết tay của Người đến Trung Quốc trực tiếp liên hệ với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu Trung Quốc viện trợ cuộc đấu tranh giải phóng của Việt Nam. Ngày 1/10/1949, sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, quan hệ hai đảng, hai nước Trung – Việt bước vào giai đoạn phát triển mới. Ngày 18/1/1950, hai nước Trung – Việt lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với sự giúp đỡ và liên hệ của Trung Quốc, Liên Xô và rất nhiều nước Đông Âu cũng kế tiếp nhau công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Ngày 30/1/1950, Hồ Chí Minh bí mật đến Bắc Kinh. Lúc đó, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở thăm Moskva, Lưu Thiếu Kỳ thay mặt Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biểu thị rõ, Trung Quốc sẵn sàng viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, dù việc đó làm cho Pháp bất mãn, đẩy lùi việc công nhận Trung Quốc cũng không tiếc, Lưu Thiếu Kỳ còn nhanh chóng thu xếp cho Hồ Chí Minh đi Moskva gặp Stalin, Mao Trạch Đông cùng bàn kế sách viện trợ Việt Nam chống Pháp. Ngày 6/2, Hồ Chí Minh đến Moskva. Mấy hôm sau Stalin tiếp Hồ Chí Minh có Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Vương Gia Tường tham gia. Sau khi Hồ Chí Minh tóm tắt tình hình đấu tranh chống Pháp của Việt Nam và nêu ra yêu cầu Liên Xô viện trợ, Stalin nói, Việt Nam và Trung Quốc vị trí địa lý kề nhau, tình hình hai nước có rất nhiều chỗ tương đồng, công việc viện trợ chủ yếu do Trung Quốc phụ trách. Sau đó Hồ Chí Minh lại yêu cầu hai nước Việt Nam, Liên Xô cũng ký một hiệp ước hợp tác hữu nghị, Stalin từ chối khéo.

Ngày 17/2, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh cùng lên tàu về Trung Quốc. Trên tàu lửa, Hồ Chí Minh một lần nữa nêu ra với Mao Trạch Đông yêu cầu Trung Quốc viện trợ vật tư quân sự và cố vấn quân sự cho Việt Nam. Mao Trạch Đông biểu thị rõ, viện trợ về vật tư quân sự thì cố hết sức tương trợ. Đây là trách nhiệm quốc tế của một nước cách mạng thắng lợi như chúng tôi phải làm, còn cán bộ quân sự Trung Quốc phần nhiều trưởng thành từ quê mùa, nếu các đồng chí thật sự cần thì cũng là “ cố vấn vườn ” thôi ! Hồ Chí Minh nói “ cố vấn vườn ” chúng tôi cũng cần, chúng tôi tin các đồng chí đó có thể giúp chúng tôi đánh bại người Pháp, các đồng chí chẳng phải đã tiêu diệt quân đội Quốc dân đảng được Mỹ hết sức viện trợ đó sao ? Mao Trạch Đông nói việc này sau khi về Bắc Kinh, Trung ương chúng tôi sẽ nhanh chóng nghiên cứu đưa ra quyết định.

Ngày 4/3 sau khi về đến Bắc Kinh chẳng bao lâu, Mao Trạch Đông cùng các đồng chí lãnh đạo Trung ương, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức v.v.. nghiêm chỉnh nghiên cứu vấn đề Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, chúng ta có trách nhiệm, chi viện và giúp đỡ, đó cũng là điều cần thiết để củng cố thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, phá vỡ bao vây của đế quốc đối với Trung Quốc mới. Sau khi đến Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nói với Hoàng Văn Hoan đang ở Bắc Kinh, các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đồng ý giúp chúng ta tiến hành chiến tranh chống Pháp, trong lúc vừa mới thắng lợi, mọi mặt rất khó khăn, các đồng chí ấy vui vẻ đồng ý đem hết sức chi viện không hoàn lại cho Việt Nam, thật là điều đáng quý, hiếm có ! Trọng điểm công tác ở nước ngoài của chúng ta từ nay về sau nên chuyển từ Thái Lan sang Trung Quốc, đồng chí sẽ là đại diện của đảng và nhà nước ta cử sang Trung Quốc. Sau đó, Hồ Chí Minh nhanh chóng trở về Việt Nam.

Trước khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cử La Quý Ba làm đại diện liên lạc Trung ương sang Việt Nam. Sau khi được biết Hồ Chí Minh đã đến bắc Kinh, La Quý Ba sau khi vòng vèo một thời gian, mãi đến tháng 3 mới đến Việt Nam, sau khi cùng với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, La Quý Ba điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nói để cho vật tư viện trợ Việt Nam chống Pháp, đưa vào Việt Nam thuận lợi cần phải đánh trước một trận ở biên giới Trung – Việt, nhằm khai thông con đường quan trọng, đồng thời trong điện cũng báo cáo ý kiến của phía Việt Nam yêu cầu nhanh chóng cử Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Quân uỷ Trung ương Trung Quốc lập tức nghiên cứu quyết định, tổ chức một Đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh nguyên Chính uỷ binh đoàn 10 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, văn võ song toàn, làm Trưởng đoàn đi Việt Nam.

Đầu tháng 4, Vi Quốc Thanh đã ở Bắc Kinh theo chỉ thị của Lưu Thiếu Kỳ, xin ý kiến mấy vị lãnh đạo Dã chiến quân Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu đang họp ở Bắc Kinh về lựa chọn điều động cán bộ cần thiết để tổ chức Đoàn cố vấn, lãnh đạo các Dã chiến quân đều biểu thị ủng hộ tích cực. Đặng Tiểu Bình nêu ra, các cố vấn có thể do các Dã chiến quân lựa chọn điều động, còn để công tác tiện lợi, cán bộ Ban chỉ huy có thể do Dã chiến quân số 3 lựa chọn điều động. Trung tuần tháng 4, Quân uỷ Trung ương truyền đạt mệnh lệnh cho Dã chiến quân số 2, số 3, số 4 về việc lựa chọn điều động nhân viên cố vấn và nhân viên công tác các cấp. Đảng uỷ và thủ trưởng các dã chiến quân rất coi trọng công tác này, rất nhanh lựa chọn điều động 59 cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần từ tiểu đoàn trở lên có kinh nghiệm chiến đấu thực tế và trình độ chính trị nhất định, trong đó có 33 cán bộ cấp tiểu đoàn, 17 cán bộ cấp trung đoàn, 6 cán bộ cấp đại đoàn, 2 cán bộ cấp quân đoàn, 1 cán bộ cấp binh đoàn, cùng với nhân viên công tác khác, tất cả có 281 người tổ chức thành Đoàn cố vấn quân sự.

Tiếp theo đó, Quân uỷ Trung ương căn cứ ý kiến của Nhiếp Vinh Trăn ngày 20/5 và chỉ thị của Lưu Thiếu Kỳ cùng ngày, điện cho cán bộ trung đoàn trở lên sang Việt Nam làm cố vấn về Bắc Kinh lên nhận chỉ thị trực tiếp. Ngoài Vi Quốc Thanh đã có mặt tại Bắc Kinh, do thời gian báo điều động cán bộ không thống nhất và nguyên nhân khác, đến trung tuần tháng 6, chỉ có Phó đoàn trưởng Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm v.v... hơn 20 người đến Bắc Kinh, chờ tiếp kiến. Ngày 27/6, đúng hai ngày sau nổ ra chiến tranh Triều Tiên, ngày Tổng thống Mỹ Truman tuyên bố vũ trang can thiệp nội bộ Triều Tiên và đưa hạm đội 7 xâm chiếm Đài Loan Trung Quốc, các vị lãnh đạo chủ chốt của đảng và nhà nước Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức trong vô vùng bận rộn đã gặp gỡ các cố vấn đến Bắc Kinh tại Di Niên đường Trung Nam Hải, những người đến dự được cổ vũ sâu sắc. Hôm đó Chu Ân Lai có việc khẩn cấp, không thể tham gia buổi tiếp.

Hai hôm sau, mời Hồng Thuỷ (tức Nguyễn Sơn), nguyên Tư lệnh Liên khu 4 Việt Nam, giới thiệu với các cố vấn về phong thổ, địa lý, khí hậu Việt Nam, tình hình địch ta và tình hình quân đội Việt Nam. Hồng Thuỷ gốc người Hà Nội, năm 1925 vào học trường quân sự Hoàng Phố, tham gia khởi nghĩa Quảng Châu và trường chinh, năm 1945 sang Việt Nam tham gia chiến tranh chống Pháp, giữ chức Tư lệnh kiêm chính uỷ Liên khu 4, năm 1950 trở lại Trung Quốc nên đồng chí khá am hiểu tình hình Việt Nam. Hạ tuần tháng 7, ngoài các cố vấn đến từ Dã chiến quân 2 đi theo Trần Canh sang Việt Nam, những người còn lại đều tập kết đúng ngày tại Nam Ninh, chính thức thành lập Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Để giữ bí mật, Đoàn cố vấn mang biệt hiệu “ Đoàn công tác Hoa Nam ” để liên hệ với bên ngoài. Trong thời gian tập kết ở Nam Ninh, Vi Quốc Thanh truyền đạt cho các cố vấn tinh thần chỉ thị của các đồng chí lãnh đạo Trung ương, tổ chức học tập, thảo luận để nâng cao nhận thức, uốn nắn thái độ, xây dựng “ quy tắc công tác của Đoàn cố vấn quân sự ”, yêu cầu mọi người nghiêm chỉnh triệt để chấp hành. Đồng thời thành lập Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự được Trung ương phê chuẩn, 6 người là Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, Mã Tây Phu, Lý Văn Nhất, Đặng Thanh Hà làm uỷ viên ; Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó bí thư.

Trong thời gian này, Hoàng Văn Hoan đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ Bắc Kinh xuống Nam Ninh để giới thiệu cho Đoàn cố vấn quân sự tình hình Việt Nam và quân đội nhân dân Việt Nam và đưa Đoàn cố vấn vào Việt Nam. Những đồng chí phụ trách quân khu Quảng Tây, Trương Vân Dật, Lý Thiên Hựu, Mặc Văn Hoa rất quan tâm và ủng hộ công việc chuẩn bị trước khi Đoàn cố vấn ra nước ngoài, và bố trí chu đáo công tác bảo vệ an ninh trên đường đi. Ngày 9/8/1950, Đoàn cố vấn quân sự lên đường từ Nam Ninh, qua Điền Đông, Bách Sắc, Tịnh Tây, rạng sáng ngày 12/8 đến Bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch biên giới quân đội nhân dân ở Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng. Việt Nam.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #83 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 04:58:09 am »

Tại cuộc nói chuyện ở Di Niên đường, Lãnh đạo Trung ương giao cho Đoàn cố vấn hai nhiệm vụ

Cử Đoàn cố vấn quân sự sang đảng anh em và nước láng giềng hữu nghị, đây là lần đầu tiên trong lịch sử đảng cộng sản Trung Quốc, và trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế cũng không có kinh nghiệm thành công. Trong đấu tranh cách mạng lâu dài, tuy đảng cộng sản Trung Quốc đã tích luỹ kinh nghiệm đấu tranh quân sự phong phú, nhưng muốn vận dụng những kinh nghiệm đó vào một nước và quân đội khác, tất nhiên là một việc hết sức gian khổ và phức tạp. Và việc Đoàn cố vấn quân sự có thể thực hiện đúng đắn nghĩa vụ quốc tế, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lớn lao mà mình gánh vác hay không, sẽ là vấn đề trọng đại ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam và quan hệ hai đảng, hai nước Trung – Việt. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hết sức coi trọng vấn đề này. Vì vậy, khi Đoàn cố vấn quân sự quân sự thành lập sơ bộ, trong buổi tiếp ngày 27/6, các vị lãnh đạo Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức đã chỉ thị rõ ràng, sâu sắc và cặn kẽ tỉ mỉ về ý nghĩa, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo cũng như phương pháp làm việc, tác phong v.v.. của Đoàn cố vấn quân sự sang công tác tại Việt Nam.

Căn cứ vào yêu cầu của phía Việt Nam và tình hình đấu tranh giải phóng của Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giao cho Đoàn cố vấn quân sự hai nhiệm vụ : một là giúp Việt Nam đánh thắng trận, tống cổ bọn xâm lược Pháp ; hai là giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy. Mao Trạch Đông nói : “ Các đồng chí đến Việt Nam, trước hết phải giúp đánh thắng trận. Mở ra một địa phương để tập trung quân đội, sau đó sẽ càng đánh càng lớn ”. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Sau khi các đồng chí đi, phải giúp Việt Nam xây dựng một quân đội chính quy, từng bước có thể tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận. Đánh trận sẽ có nhiều thương vong, phải đào tạo hàng loạt cán bộ huấn luyện ”. Chu Đức nói, nhất định phải giúp Việt Nam xây dựng tốt quân đội, phải đánh thắng trận. Đồng chí còn nói, nguyên tắc của chúng ta là có con người như thế nào thì đánh trận như thế ấy. Đánh lúc nào ? Phải tìm cơ hội thích đáng, không thể làm theo cách làm của chúng ta trước đây, cần phải biết đánh trận dũng cảm và khôn khéo, quan trọng nhất là khôn khéo, bởi vì trang bị vũ khí của địch mạnh hơn Việt Nam. Còn phải giúp họ làm tốt công tác đối với quân địch, ưu đãi tù binh, đó là kinh nghiệm quý báu chiến thắng kẻ thù.

Phát biểu trong cuộc gặp lần này, các đồng chí lãnh đạo Trung ương còn nhấn mạnh chỉ rõ tư tưởng chỉ đạo công tác của Đoàn cố vấn quân sự, nêu ra yêu cầu nghiêm khắc đối với thái độ công tác, phương pháp công tác, tác phong tư tưởng, đặc biệt là đoàn kết tốt với phía Việt Nam. Một là, phải phát huy tinh thần quốc tế chủ nghĩa. Mao Trạch Đông nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí đi Việt Nam, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tôi. Ai bảo cách mạng chúng ta thắng lợi trước ! Thế thì phải giúp đỡ người ta, đó gọi là chủ nghĩa quốc tế ”. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Trung ương ra quyết định này là có lý do to lớn, Việt Nam là nơi khiến người ta để mắt tới nhiều nhất trên thế giới hiện nay, nhiệm vụ của các đồng chí chấp hành lần này có ý nghĩa thế giới. Đây là công việc cần phải làm, nếu chúng ta không đi giúp Việt Nam, để cho bọn địch nằm lì ở đó, khó khăn của chúng ta cũng sẽ lớn hơn, rắc rối cũng sẽ lớn hơn ”. Chu Đức nói : “ Chúng ta là người theo chủ nghĩa quốc tế, cần phải coi việc giúp Việt Nam là nhiệm vụ quốc tế lớn lao, phải không tiếc mọi thứ giúp họ đến thắng lợi ”. Mao Trạch Đông còn đặc biệt nhấn mạnh, toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn phải coi sự nghiệp của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp của mình để hành động.

Hai là, phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam. Mao Trạch Đông nói : “ Việc đầu tiên sau khi các đồng chí đi là phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam nhất là phải đoàn kết tốt với lãnh đạo Việt Nam. Phải chú ý đoàn kết không tốt thì thà không làm còn hơn ”. Chủ tịch còn nói : “ Việt Nam là một dân tộc tốt, tình hình cách mạng mấy năm gần đây phát triển nhanh, thành tích rất tốt, không nên coi thường người ta. Đứng trước quần chúng Việt Nam không được biểu hiện tư tưởng kiêu căng chúng ta là người chiến thắng. Thắng lợi của chúng ta, mọi người đều biết, không cần chúng ta bày tỏ ”. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Mọi người phải chú ý thận trọng, không nên có bất cứ biểu hiện nào coi thường người ta, không nên tỏ vẻ nước lớn. Sau khi các đồng chí đi ngoài giúp Việt Nam xây dựng quân đội, đánh giặc ra, nên ít phát biểu ý kiến bởi vì nói nhiều dễ gây hiểu nhầm. Tất nhiên phải tích cực nêu ý kiến về mặt quân sự, nhưng phải chú ý ít phê bình làm nhiều thao tác làm mẫu. Có thể nêu nhiều biện pháp để cho người ta lựa chọn quyết định, người ta cũng có thể không nghe ý kiến của đồng chí. Nhưng nếu quan hệ tốt thì ý kiến của đồng chí sẽ được áp dụng ”.

Ba là, phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, Mao Trạch Đông nêu rõ : “ Muốn giúp người ta cho tốt, chỉ dựa vào ý muốn chủ quan thì không ổn, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế giúp đỡ cho xác đáng. Phải bàn bạc kỹ lưỡng với người ta, có thể nói cho người ta biết, chúng ta cũng có thất bại, giới thiệu nhiều bài học cho họ, ít nói : 'Qua năm ải chém sáu tướng' ”. Người còn căn dặn, trong quá trình giúp người ta, phải thường xuyên kiểm tra lời nói và việc làm của mình, mỗi ngày một lần, ba ngày một lần, ít nhất phải mỗi tuần một lần. Phải kiểm điểm cái nào chúng ta làm đúng cái nào chúng ta làm sai. Chu Đức cũng chỉ rõ : “ Về hành động quân sự, nhất thiết phải xuất phát từ thực tế, thực sự cầu thị không được nóng vội, phải nói cho họ biết kinh nghiệm thất bại của chúng ta, để họ được gợi ý giáo dục từ trong đó ”.

Bốn là, phải giúp Việt Nam đi trên con đường tự lực cánh sinh. Trong phát biểu, Chu Đức lấy kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Trung Quốc để nói lên ý nghĩa cực kỳ quan trọng của việc giúp Việt Nam đi con đường tự lực cánh sinh. Đồng chí nói : “ Sự giúp đỡ của chúng ta không phải là biện pháp duy nhất, phải nói cho họ biết đi con đường tự lực cánh sinh. Kinh nghiệm của chiến tranh cách mạng Trung Quốc là chủ yếu dựa vào lấy vũ khí địch đánh địch, đồng thời cũng dựa vào mình sản xuất vũ khí. Tự lực cánh sinh là cái gốc thắng lợi của cách mạng chúng ta, chúng ta có lựu đạn, có tinh thần dũng cảm, nhào nặn nó lại, nò còn có ích, còn tốt hơn máy bay đại bác. Chiến tranh của chúng ta trước tiên dựa vào thuốc nổ đánh giặc, về sau mới lấy được đại bác của địch ”. Chu Đức còn nhấn mạnh nói, dù thế nào chăng nữa cũng phải giúp Việt Nam xây dựng căn cứ địa vững chắc kiên trì nguyên tắc và tinh thần tự lực cánh sinh.

Năm là, phải phát huy tinh thần phấn đấu gian khổ. Mao Trạch Đông nói : “ Tôi biết, cử các đồng chí đến một nơi rất khổ, đứng trước nhiệm vụ rất nặng nề, nếu mắc bệnh sốt rét còn có nguy hiểm hy sinh. Cho nên nhất định phải chuẩn bị tư tưởng khắc phục khó khăn không nên tính toán nhiều đến thuận lợi ”. Chủ tịch còn nói, bao giờ các đồng chí có thể trở về ? Không nên vội, các đồng chí đi Việt Nam không chỉ phải chuẩn bị khắc phục khó khăn còn phải chuẩn bị thời gian cũng không thể quá ngắn như vậy sẽ làm người ta thất vọng. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Thời gian thắng lợi của cách mạng Việt Nam sẽ không quá nhanh, bởi vì kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, tôi thấy cần chuẩn bị ba năm ”. Chu Đức cũng nói : “ Các đồng chí sang Việt Nam công tác là rất gian khổ, phải tính đến phấn đấu gian khổ lâu dài ”.

Những chỉ thị quan trọng này của các đồng chí lãnh đạo Trung ương là kim chỉ nam hành động của Đoàn cố vấn quân sự, tiến hành viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp. Những chỉ thị đó đã đóng vai trò chỉ đạo to lớn đối với Đoàn cố vấn quân sự thi hành đúng đắn nghĩa vụ quốc tế, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lớn lao mà mình gánh vác.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #84 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 04:58:41 am »

Bàn bạc quyết định đánh Đông Khê trước, chiến dịch biên giới giành được thắng lợi hoàn toàn

Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc vừa tiến vào lãnh thổ Việt Nam là lập tức lao vào chiến dịch biên giới nhằm khai thông tuyến giao thông vận tải giữa hai nước, mở ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp. Để bắt đầu tổ chức chiến dịch biên giới trong kế hoạch được tích cực tính toán trước khi Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến Việt Nam, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc định Phó tổng tư lệnh quân khu Tây Nam kiêm Tư lệnh quân khu Côn Minh Trần Canh ở gần đi trước sang Việt Nam, với cương vị đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 7/7, Trần Canh rời Côn Minh, ngày 28 gặp Hồ Chí Minh, ngày 14/8 đến Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ở Quảng Uyên và gặp Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc do Vi Quốc Thanh dẫn đầu đã đến đây trước hai ngày, nhanh chóng nắm bắt kế hoạch cụ thể chiến dịch biên giới và công việc chuẩn bị trước cuộc chiến.

Trần Canh, Vi Quốc Thanh v.v... nghe thêm Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và cơ quan tác chiến tình báo v.v.. giới thiệu tình hình liên quan hai bên địch ta, nhất là tình hình cụ thể chiến trường Đông Bắc, toàn cảnh khu vực chiến đấu Việt Nam hiện ra trong đầu óc họ. Tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương có khoảng 230.000 người, trong đó bộ đội gốc Pháp hơn 40.000 người, còn lại là lính đánh thuê Âu – Phi và nguỵ quân Việt Nam. Binh lực ở Bắc bộ Việt Nam là 70.000 người, hơn 100 máy bay (máy bay chiến đấu và máy bay vận tải, mỗi thứ một nửa). Trong thế công mùa xuân năm 1950, quân Pháp đã đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên, Hà Nam và Ninh Bình, cơ bản khống chế vựa lúa đồng bằng sông Hồng. Ở biên giới Trung – Việt tiếp giáp với Quảng Tây, binh lực quân Pháp có 11.000 người, đại thể ở vào thế thủ bố phòng trọng điểm dọc quốc lộ 4. Tháng 5/1950, quân đội Việt Nam mở công kích vào Đông Khê, cứ điểm nhỏ nằm giữa Cao Bằng, Thất Khê, nhưng không hiệu quả. Sau đó, quân Pháp tăng cường lực lượng phòng thủ các cứ điểm Cao Bằng, Thất Khê và Đông Khê v.v...

Tổng binh lực của quân đội Việt Nam khoảng 160.000 người, trong đó chủ lực là bộ đội của năm trung đoàn thuộc đại đoàn 308 v.v... vừa trải qua hơn ba tháng huấn luyện ở Vân Nam, Quảng Tây, Trung Quốc và thay toàn bộ trang bị, tất cả có hơn 20.000 người, do Bộ tổng tư lệnh trực tiếp nắm giữ, toàn bộ hiện tập trung ở gần Cao Bằng. Quân Pháp ở Cao Bằng có khoảng 2000 người, quân đội Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối về số người hơn nữa sĩ khí quân đội Việt Nam đang lên cao. Từ trên xuống dưới quân đội Việt Nam khi bắt đầu đều chủ trương chiến dịch Biên Giới sẽ tấn công Cao Bằng trước và đã chuẩn bị dư luận và động viên rất nhiều để làm việc này. Khi nghiên cứu trận đầu của chiến dịch, ra tay từ đâu, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và các đồng chí cố vấn quân sự nhất trí cho rằng, trận đầu nên tấn công Đông Khê, đánh lấy Đông Khê, quyền chủ động toàn bộ chiến dịch nắm chắc trong tay quân đội Việt Nam. Không ít cán bộ trung đoàn trở lên của quân đội Việt Nam chủ trương đánh Cao Bằng trước, nói nếu đánh Đông Khê trước, địch tăng cường phòng ngự Cao Bằng thì càng khó đánh Cao Bằng. Để thuyết phục cán bộ quân đội Việt Nam, tại hội nghị cán bộ ngày 23, 24 tháng 8, tập đoàn cứ điểm và Vi Quốc Thanh đã trình bày lý lẽ có lợi vì sao đánh Đông Khê trước, cuối cùng thống nhất tư tưởng vào kế hoạch đánh Đông Khê trước.

Trung tuần tháng 9, được sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc, công việc chuẩn bị cho chiến dịch Biên Giới cơ bản hoàn thành, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp từ Quảng Uyên chuyển ra vùng Bản Viên phía đông Đông Khê, để chỉ huy gần cuộc chiến tấn công Đông Khê. Ngày 16/9, cuộc chiến đấu tấn công Đông Khê nổ súng. Khi bắt đầu tương đối thuận lợi, rất nhanh áp sát công sự trọng điểm của địch, nhưng chiến đấu đến sáng ngày 17, bọn địch phản kích dưới sự yểm trợ của lính nhảy dù, bộ đội tấn công tiền duyên của ta rút khỏi trận địa. Vào giờ phút then chốt này, sau khi đến Bộ chỉ huy tiền phương tìm hiểu cụ thể tình hình, Trần Canh nêu ra với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, cần phải ra lệnh cho bộ đội, không tiếc bất cứ giá nào, tiếp tục kiên trì, đồng thời kiến nghị điều chỉnh lại bố trí, công kích từ bốn phía, trọng điểm là phía nam, bắc. Sau khi bộ đội mở lại cuộc công kích, rất nhanh phát triển vào trung tâm, chiến đấu đến 18g, cuối cùng tiêu diệt hơn 270 tên địch đóng giữ Đông Khê thu nhiều vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác. Đây là lần đầu tiên trong lịch sư quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt cứ điểm có hai đại đội địch đóng giữ. Nhưng đang lúc này Vi Quốc Thanh ngã bệnh sốt cao, không thể không về Long Châu chữa bệnh. Trọng trách giúp chỉ huy chiến dịch biên giới đành phải giao hoàn toàn cho Trần Canh và các cố vấn Trung Quốc khác gánh vác.

Sau khi kết thúc trận đánh Đông Khê Hồ Chí Minh thăm dò ý kiến của Trần Canh về trận đánh này, Trần Canh trả lời rằng : “ Trận Đông Khê đã thắng, ý nghĩa rất lớn, nhưng phải nói rằng đây không phải là cuộc chiến đấu thành công, quân đội nhân dân thương vong hơn 500, tiêu diệt địch lại không đến 300, trả giá quá lớn ”. Khi nói đến vấn đề của quân đội nhân dân bộc lộ ra trong chiến đấu, Trần Canh nói : “ Chiến sĩ dũng cảm then chốt là không ít cán bộ thiếu kinh nghiệm tác chiến kém năng lực chỉ huy, ở quá xa trận địa, từ nay về sau nên lựa chọn đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ cũ và cốt cán chiến đấu có kinh nghiệm thực tiễn ”. Hồ Chí Minh nghe chốc chốc lại gật đầu.

Kế hoạch cũ là đánh Thất Khê sau khi lấy Đông Khê, lúc này ở Thất Khê địch tăng quân lên đến 4 tiểu đoàn, xét tình hình tấn công Đông Khê, quân đội Việt Nam với lực lượng hiện có tấn công Thất Khê rõ ràng là khó khăn. Vì vậy sau khi Trần Canh và Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu bỏ kế hoạch cũ tấn công Thất Khê, chuyển sang mai phục ở nam Đông Khê, để chờ tiêu diệt địch từ Thất Khê tiến lên phía bắc. Lúc này quân Pháp ở Thất Khê án binh bất động, lại tập kết 5 tiểu đoàn binh lực tấn công Thái Nguyên trực tiếp đe doạ an ninh của cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ Việt Nam. Một số cán bộ quân đội Việt Nam chủ trương bỏ mai phục kéo quân về Thái Nguyên. Trần Canh quả đoán biểu thị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, tấn công Thái Nguyên là quỷ kế của địch, mục đích là dụ quân ta rút về để bảo đảm an toàn cho địch ở Cao Bằng rút về phía nam, nhất thiết không được mắc lừa, và kiến nghị cho một trung đoàn làm động tác giả vờ rút lui. Quả nhiên không ngoài dự đoán của Trần Canh, ngày 30/9, bọn địch ở Thất Khê bắt đầu tiến lên phía bắc, ngày 3/10 bọn địch ở Cao Bằng cũng bỏ thành kéo xuống phía nam. Hai cánh quân Pháp do Lepage và Charton chỉ huy này mưu toan sau khi hội quân ở Đông Khê chạy về Thất Khê, Lạng Sơn để tránh số phận bị tiêu diệt.

Binh đoàn Lepage tiến lên phía bắc bị quân đội Việt Nam kiên quyết chặn đánh ngày 4/10 chuyển lên vùng núi Cốc Xá, tây nam Đông Khê. Trong cuộc tấn công ngày 5/10, quân đội Việt Nam thương vong tương đối nhiều, đại đoàn 308 liên tục tác chiến 4 ngày liền đứng trước một vấn đề tạm ngừng tấn công hay là kiên quyết đánh tiếp. Vào giờ phút then chốt này, Trần Canh nói với Võ Nguyên Giáp trong điện thoại : “ Trận này không đánh thì không có trận nào có thể đánh được ”, “ nếu bộ chỉ huy dao động thì sẽ chôn vui thắng lợi của chiến dịch ”. Sau khi ngắt điện thoại, đồng chí lại lập tức báo cáo Hồ Chí Minh, mong Hồ Chí Minh lập tức cổ vũ cán bộ chiến sĩ tiền phương hạ quyết tâm, kiên trì đến cùng, tập trung lực lượng tiêu diệt binh đoàn Lepage trước, sau đó tiêu diệt nốt binh đoàn Charton, giành toàn thắng của chiến dịch. Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý ý kiến của Trần Canh, nhanh chóng ra lời kêu gọi yêu cầu bộ đội “ phải kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch, giành toàn thắng ”.

Trước đòn tấn công kiên quyết của quân đội Việt Nam, tình hình chiến trường chuyển biến nhanh chóng. Đến ngày 7/10, hai cánh quân địch lần lượt bị quân đội nhân dân tiêu diệt hoàn toàn, Lepage, Charton cùng các tham mưu của họ và tỉnh trưởng nguỵ quyền Cao Bằng đều bị bắt sống. chiến dịch biên giới tiêu diệt 8 tiểu đoàn hơn 800 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn biên giới Trung – Việt khai thông tuyến giao thông với Trung Quốc phá vỡ bao vây của quân Pháp đối với căn cứ địa Việt Bắc, quân đội nhân dân có khoảng đất trống vu hồi rộng lớn. Đến ngày 23/10 quân Pháp đóng giữ trên biên giới dài hơn trăm cây số lần lũ lượt rút lui, từ Đồng Đăng, Na Sầm, Lạng Sơn, Đình Lập, Yên Châu v.v... rút về gần Tiên Yên ven biển. Tình hình chiến trường Việt Nam từ đó có bước ngoặt quân đội nhân dân từ bị động phòng ngự chuyển sang chủ động tấn công, từ đánh du kích chuyển sang giai đoạn mới đánh vận động công kiên kết hợp với đánh du kích, bắt đầu nắm vững quyền chủ động hành động chiến lược.

Hồ Chí Minh hết sức vui mừng, nói tại hội nghị tổng kết chiến dịch : chúng ta đã đánh hai trận thắng, một là chúng ta đã tiêu diệt địch, giải phóng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê v.v.. hai là chúng ta đã thấy được ưu điểm và khuyết điểm của mình. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh chỉ rõ : thắng lợi của chiến dịch biên giới là một thắng lợi lớn nhất từ khi Việt Nam kháng chiến đến nay, là thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Thắng lợi trận đầu sau khi Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến Việt Nam đã giành được sự tin cậy của quân đội nhân dân Việt Nam đối với cố vấn Trung Quốc, mở ra cục diện cho Đoàn cố vấn quân sự triển khai công tác. Ngày 1/11, Trần Canh đã hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Việt Nam về nước.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #85 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 04:59:19 am »

Sau bốn lần tác chiến ở đồng bằng, chuyển hướng chiến lược lên vùng Tây Bắc.

Quân đội Việt Nam, giành được thắng lợi to lớn trong chiến dịch biên giới, nhưng nhìn chung cả nước Việt Nam, quân Pháp vẫn chiếm nhiều ưu thế, đang khống chế Nam Bộ và vùng rộng lớn Trung Bộ, ở Bắc Bộ cũng vẫn khống chế vựa lúa đồng bằng đông dân cư và vùng núi Tây Bắc có giá trị chiến lược quan trọng. Bọn xâm lược Pháp mưu toan chiếm lại vùng biên giới Đông Bắc, và tiếp tục duy trì chiến tranh xâm lược, nhưng lực bất tòng tâm, không thể không ngày càng phải dựa vào viện trợ của Mỹ. Ngày 23/12/1950, Mỹ, Pháp và chính quyền bù nhìn Bảo Đại đã ký hiệp định chính thức về viện trợ quân sự, sau đó Mỹ cung cấp số lớn viện trợ. Ngày 6/12/1950, Pháp cử nguyên Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu Jean de Lattre de Tassigny giữ chức Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp. Sau khi lên nhậm chức, Tassigny lập tức đưa ra “kế hoạch bốn điểm”, nội dung trung tâm là tập trung bộ đội tinh nhuệ gốc Âu – Phi, thành lập bộ đội cơ động lớn mạnh, ở đồng bằng Bắc Bộ và vùng trung du xây dựng công sự phòng ngự chùm lô cốt ngầm kiên cố, để đề phòng quân đội Việt Nam tấn công và ráo riết càn quét vùng chiếm đóng và vùng du kích, thực hiện cái gọi là “chiến tranh tổng lực”.

Căn cứ vào tình hình này lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự và lãnh đạo quân đội nhân dân cùng nhau nghiên cứu xác định chọn bộ phận mỏng yếu của địch ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ để thực thi tấn công tác chiến. Kế hoạch này báo cáo Quân uỷ Trung ương Trung Quốc và được đồng ý. Đồng thời được Tổng quân uỷ quân đội nhân dân thảo luận và được Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn. Chiến dịch đầu tiên của vùng đồng bằng là chiến dịch Trung Du sông Hồng (Việt Nam gọi là chiến dịch Trần Hưng Đạo). Bắt đầu từ ngày 25/12/1950, trước tiên tấn công phòng tuyến cụm lô cốt ngầm ở vùng giáp ranh hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bắc Ninh cách Hà Nội 30 km về phía bắc áp dụng chiến thuật bôn tập, bất ngờ, tốc chiến tốc quyết, một mạch tấn công liền 5 cứ điểm cụm lô cốt ngầm tiền tuyến Kim Anh, Đa Phúc, Yên Phong, sau đó tập trung 5 trung đoàn tấn công vào vùng bắc Vĩnh Yên, đến ngày 17/1/1951 thì kết thúc. Chiến dịch này là chiến dịch Đông Bắc (Việt Nam gọi là chiến dịch Hoàng Hoa Thám). Từ ngày 20/3 đến 7/4, tiến hành ở vùng gần Uông Bí trên quốc lộ 18 cách Hải Phòng 30 km về phía bắc, bắt đầu đánh chiếm một số cứ điểm của quân Pháp, do không đủ sức, bảo đảm hậu cần, không thể đánh tiếp. Chiến dịch này bắn chết bắt sống 1175 tên địch, quân đội nhân dân thương vong hơn 1700 người.

Thứ ba là chiến dịch Ninh Bình (Việt Nam gọi là chiến dịch Quang Trung) tiến hành từ ngày 28/5 đến 20/6 ở vùng Hà Nam, Nam Ninh, Ninh Bình thuộc liên khu 3. Đợt 1, đánh chiếm Ninh Bình và hơn 10 cứ điểm phía nam Ninh Bình, đợt 2 tấn công cứ điểm đều không thành công và thương vong tương đối lớn. Tác chiến lần này tiêu diệt tất cả hơn 3100 tên địch, đánh chiếm 22 cứ điểm. Ba lần tác chiến trung du, đông bắc, Ninh Bình là hành động đầu tiên của quân đội nhân dân tấn công vào nơi phòng thủ kiên cố của địch ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, tiêu diệt tổng cộng hơn 6000 tên địch quân đội nhân dân tiêu hao không ít lực lượng. Do quân Pháp có phòng tuyến và cụ cứ điểm kiên cố, trang bị kỹ thuật và điều kiện giao thông hơn hẳn, phát huy đầy đủ ưu thế pháo binh, không quân và binh lực cơ động nhanh chóng, có thể tập trung kịp thời tiến hành phản kích, quân đội nhân dân hoặc vì thông tin liên lạc không thông, nắm tình hình không kịp thời để mất thời cơ chiến đấu, hoặc vì lực lượng tiếp ứng phía sau không liên tục, so sánh binh lực có thay đổi mà không thể hoàn thành kế hoạch dự kiến, thành quả chiến đấu tất nhiên rất không lý tưởng.

Ba chiến dịch này đều là lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm v.v... và lãnh đạo quân đội nhân dân Võ Nguyên Giáp v.v... cùng tổ chức chỉ huy. Khi tiến hành tổng kết ba chiến dịch, Đoàn cố vấn quân sự và Bộ Tổng Tham mưu quân đội nhân dân cùng phân tích nghiên cứu, trong khi khẳng định thành quả đạt được và kinh nghiệm thành công, nhấn mạnh rút bài học bổ ích trong một số vấp váp nào đó. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với Đoàn cố vấn quân sự nhận thức và nắm vững quy luật khách quan của chiến trường Việt Nam, hiểu rõ hơn quân đội nhân dân tiến hành tác chiến quy mô tương đối lớn ở vùng đồng bằng có trọng binh địch phòng thủ, thời cơ chưa chín muồi, cần phải giúp phía Việt Nam đưa ra chỉ đạo chiến lược sát thực tế hơn, để mong giành được thắng lợi lớn hơn.

Sau ba lần tác chiến ở đồng bằng, đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam huấn luyện quân sự và mở rộng biên chế quân đội, Đoàn cố vấn quân sự kiến nghị phía Việt Nam đưa một bộ phận bộ đội chủ lực vào vùng đồng bằng sau lưng địch, đánh địch, phục hồi căn cứ địa du kích sau lưng địch, ra sức đẩy mạnh đánh du kích sau lưng địch. Phía Việt Nam tiếp thu kiến nghị này, chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng sau lưng địch phát triển rất mạnh.

Tháng 1/1952, Pháp cử Salan thay De Lattre, giữ chức Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương. Hạ tuần tháng 12/1951 đến hạ tuần tháng 2/1952, Bộ Tổng quân đội nhân dân tổ chức chiến dịch Hoà Bình, mục đích là khôi phục và phát triển căn cứ địa du kích sau lưng địch, tiêu diệt một phần sinh lực quân Pháp, đập tan âm mưu của quân Pháp mưu toan cắt đứt tuyến giao thông Nam bắc Việt Nam. Chiến dịch giành được thắng lợi tương đối lớn. Lúc này Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh đều chữa bệnh trong nước, cán bộ đoàn cố vấn đang tập huấn, tổng kết hơn một năm công tác, cho nên không ra tiền phương giúp chỉ huy, nhưng đoàn cố vấn vẫn giữ liên hệ với Bộ Tổng quân đội nhân dân, tìm hiểu tình hình chiến dịch và đề xuất kiến nghị cần thiết.

Cuối năm 1951 đến đầu năm 1952, Đoàn cố vấn căn cứ tinh thần chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân uỷ Trung ương, kết hợp tình hình bốn lần tác chiến ở vùng đồng bằng, đi sâu nghiên cứu sự phát triển thay đổi của tình hình chiến trường Việt Nam, đề xuất kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng quân uỷ về chuyển hướng chiến lược lên vùng Tây Bắc, đồng thời nêu lên ý kiến chuyên đề “về vấn đề nghiên cứu tình hình địch ta ở Bắc bộ và nhiệm vụ phương châm từ nay về sau” và “nhiệm vụ và phương châm năm 1952”. Vùng Tây Bắc Việt Nam là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số, núi cao rừng rậm, đất rộng người thưa, nằm ở vùng tam giác biên giới ba nước Việt Nam, Lào, Trung Quốc vị thế chiến lược quan trọng. Đoàn cố vấn quân sự cho rằng, giải phóng Tây Bắc có thể giải toả mối đe doạ sau lưng của căn cứ địa Việt Bắc, giành được hậu phương chiến lược và khu vực vu hồi rộng lớn hơn, việc bảo đảm hậu cần, bộ đội hành động tác chiến ở vùng Tây Bắc có khó khăn nhất định, nhưng chỉ cần làm tốt động viên giáo dục bộ đội và công tác chuẩn bị chu đáo thì những vấn đề đó có thể giải quyết được.

Quân Pháp lâu nay luôn coi Tây Bắc là “vùng an toàn” binh lực canh giữ có 8 tiểu đoàn 41 đại đội, đóng chốt trong 141 cứ điểm, mỗi cứ điểm nhiều nhất có 1 đến 2 đại đội, ít nhất 1 đến 2 trung đội, phần đông là quân nguỵ, sức chiến đấu kém. Sau khi Đoàn cố vấn quân sự đưa ra kiến nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đến dự hội nghị, kiên nhẫn làm công tác thuyết phục đối với những băn khoăn lo lắng, cuối cùng làm cho trên dưới đi đến đồng thuận.

Tháng 4/1952, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết về chuyển hướng chiến lược bộ đội lên vùng Tây Bắc, tổ chức chiến dịch Tây Bắc. Hồ Chí Minh yêu cầu các đồng chí cố vấn Trung Quốc nhanh chóng giúp vạch kế hoạch tác chiến và làm tốt các công việc chuẩn bị, hoàn thành nhiệm vụ tác chiến Tây Bắc. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điện trả lời bày tỏ tán thành và nêu ra rõ ràng : “ Chiến dịch Tây Bắc phải áp dụng phương châm “đánh chắc tiến chắc, không đánh thì thôi, đã đánh phải thắng” ”. Sau khi hỗ trợ Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam vạch ra kế hoạch tác chiến đánh lấy Nghĩa Lộ, Sơn La trước, sau đó giải phóng Lai Châu, Đoàn cố vấn quân sự lại giúp quân đội Việt Nam làm tốt công việc chuẩn bị trước chiến dịch, động viên giáo dục, huấn luyện công kiên và bảo đảm hậu cần v.v..

Ngày 10/10, tám trung đoàn bộ đội chủ lực đại đoàn 308, 312 quân đội Việt Nam từ căn cứ địa Việt Bắc tiến lên Tây Bắc. Lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự và cố vấn các đại đoàn, trung đoàn cùng đi với quân đội Việt Nam và dân công, kín đáo đến nơi tập kết. Ngày 14, bắt đầu tấn công vào cứ điểm ở Nghĩa Lộ, Bố Trương v.v... tác chiến đợt một đến ngày 23, đánh chiếm tất cả 35 cứ điểm, bắn chết bị thương bắt sống hơn 1700 tên địch, quân đội nhân dân thương vong 947 người. Để loại trừ đe doạ sau lưng Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình, mở đường tiến vào Thượng Lào triển khai chiến tranh du kích, củng cố vùng bắc sông Đà, ngày 15/11, quân đội nhân dân bắt đầu tác chiến đợt hai chiến dịch Tây Bắc sáu trung đoàn chủ lực vượt sông Đà, trải qua 6 ngày đêm chiến đấu đã giải phóng các thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v... tiêu diệt số lớn quân địch.

Ngày 22/11, quân Pháp bỏ Sơn La, 8 tiểu đoàn địch tháo chạy về vùng Nà Sản cách Sơn La 20 km về phía nam, gấp rút xây dựng 21 cụm cứ điểm. Sau đó, quân Pháp lại cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản, quân đóng giữ ở đây lên đến hơn 7000 tên, âm mưu lấy cứ điểm này để tiêu hao sinh lực của quân đội nhân dân. Vi Quốc Thanh cho rằng đánh tiếp không lợi, qua thỉnh thi quân uỷ Trung ương và cùng với phía Việt Nam nghiên cứu đã dừng cuộc tiến công Nà Sản. Ngày 10/12 chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi. Trong chiến dịch Tây Bắc, quân đội nhân dân đã tiêu diệt 13.800 tên địch, giải phóng khoảng 28.500 km2 đất đai và 250.000 dân. Toàn bộ vùng Tây Bắc trừ Nà Sản của tỉnh Sơn La và nửa phía bắc của tỉnh Lai Châu, đều do quân đội nhân dân kiểm soát toàn bộ. Điều đó đã tạo điều kiện rất có lợi cho chiến dịch Thượng Lào và thắng lợi quyết chiến Điện Biên Phủ.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #86 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 04:59:52 am »

Thắng lợi quyết chiến Điện Biên Phủ, quân Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương.

Ngày 13/3/1953, Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh dẫn đầu một bộ phận cố vấn theo bộ chỉ huy tiền phương quân đội nhân dân lên Thượng Lào giúp tổ chức và chỉ huy chiến dịch Thượng Lào. Vùng Thượng Lào tức là vùng phía bắc nước Lào. Bộ đội các đại đoàn 304, 308, 312, 316, quân đội nhân dân vừa vào vùng Thượng Lào, thì quân Pháp bắt đầu rút lui lớn, quân Pháp chạy khỏi Sầm Nứa bị quân đội Việt Nam tiến lên miền tây chặn đường rút lui, bị bao vây tiêu diệt hơn 1000 tên, bọn địch ở cứ điểm quan trọng Mường Khay, Xiêng Khoảng v.v.. cũng nghe tin tháo chạy hoảng loạn, chạy về Cánh đồng chum. Ở hướng Phong Xalì và Mường Xây, quân đội nhân dân cũng đánh chiếm 4 cứ điểm, quân Pháp tháo chạy về Luông Prabang. Chiến dịch Thượng Lào bắt đầu từ trung tuần tháng 4 đến 3/5 kết thúc, tổng cộng tiêu diệt 3 tiểu đoàn và 11 đại đội, giải phóng toàn bộ Sầm Nứa và một phần tỉnh Xiêng Khoảng tỉnh Phong Xalì, mở rộng căn cứ địa kháng chiến của Lào, làm cho nó nối liền một dải với Tây Bắc, căn cứ địa Việt Bắc của Việt Nam, hình thành hậu phương lớn của chiến tranh Đông Dương chống Pháp.

Sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại ở vùng Thượng Lào, Chính phủ Pháp thay Salan, cử Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Navarre vừa nhận chức đã đưa ra phương châm quân sự “nam trước bắc sau” và kế hoạch “tập trung tổ chức tập đoàn chủ lực, chấp hành tác chiến cơ động”, hòng chiếm đóng toàn bộ Nam Bộ, Trung Bộ trước mùa xuân năm 1954, sau đó tập trung binh lực quyết chiến với quân đội nhân dân Việt Nam ở Bắc Bộ, giành thắng lợi quyết chiến. Vì vậy, đã có điều động 12 tiểu đoàn từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên tăng viện cho quân viễn chinh xâm lược Việt Nam ; đồng thời chính quyền bù nhìn Bảo Đại cũng bổ sung 95.000 quân nguỵ. Trung tuần tháng 8 năm 1953, quân Pháp rút khỏi Nà Sản, kế hoạch tác chiến của quân đội nhân dân định lấy Nà Sản làm mục tiêu chính phải thay đổi. Ngày 13/8, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam điện đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc “giúp đề xuất ý kiến” “đối với vấn đề nhận thức tình hình và phương hướng chiến lược từ nay về sau”. Đồng thời, Bộ tổng quân đội nhân dân đặt lại kế hoạch tác chiến mùa đông, đặt phương hướng tác chiến vào đồng bằng Bắc bộ, bổ kế hoạch trước đây đánh lấy Lai Châu, rút bộ đội bao vây Nà Sản về Thanh Hoá.

Ngày 27, 29 tháng 8, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần điện cho Đoàn cố vấn quân sự và Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phân tích tình hình từ sau khi Navarre lên nhậm chức, trong điện ngày 29 nêu ra rõ ràng : “ Trước tiên tiêu diệt địch ở vùng Lai Châu, giải phóng miền Bắc và miền Trung nước Lào, sau đó từng bước đẩy lùi chiến trường xuống Nam Lào, Cao Miên, uy hiếp Sài Gòn. Làm như vậy thì có thể thu hẹp nguồn lính nguỵ, nguồn tài chính, phân tán binh lực quân Pháp, làm cho nó rơi vào bị động ”. “ Đó là điều kiện tiên quyết để đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam ”. “ Thực hiện kế hoạch chiến lược này đủ để đánh bại ách cai trị thực dân của đế quốc Pháp ở Việt Nam, Lào, Cao Miên, nhưng cần phải khắc phục mọi khó khăn cần phải tính toán lâu dài ”. Thực hiện kế hoạch chiến lược này sẽ làm cho kế hoạch và ý đồ của Navarre hoàn toàn thất bại.

Tháng 9/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp thảo luận phương án tác chiến mùa đông của quân đội nhân dân, Hồ Chí Minh rút ra kết luận : “ Hướng chiến lược không thay đổi ”. Hội nghị khẳng định phương án đặt hướng tấn công chính vào Tây Bắc và Thượng Lào do Đoàn cố vấn quân sự kiến nghị. Ngày 25/10/1953 sau khi từ Bắc Kinh trở lại Việt Nam, Vi Quốc Thanh gặp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp truyền đạt thêm ý kiến cụ thể của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài về kế hoạch chiến lược đánh lấy Tây Bắc và Thượng Lào trước, tiến tới đẩy xuống phía nam và chuyển văn bản kế hoạch Navarre mà Trung ương Đảng Cộng sản có được, Hồ Chí Minh rất tán thành và phấn khởi. Vì thế Võ Nguyên Giáp cũng tích cực quán triệt kế hoạch tác chiến ở Tây Bắc và Thượng Lào. Ngày 20/11, trong khi quân đội nhân dân đang chuẩn bị mở chiến dịch Tây Bắc lần thứ hai tiến quân lên Lai Châu, thì Navarre cho 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ vùng xung yếu chiến lược ở Tây Bắc sát biên giới Lào và tiếp tục tăng cường binh lực, mở sân bay, xây công sự, tích trữ vật tư, xây dựng tập đoàn cứ điểm kiên có, đồng thời tăng quân cho Thượng Lào, xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu, liên kết Thượng Lào với Điện Biên Phủ, hòng ngăn chặn quân đội nhân dân giải phóng hoàn toàn Tây Bắc và tiến quân sang Thượng Lào.

Căn cứ tình hình địch có thay đổi, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự lập tức cùng Tổng Quân uỷ quân đội nhân dân nghiên cứu, quyết định điều chỉnh kế hoạch tác chiến, đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau, và sắp xếp điều thêm bộ đội bộ binh, cao xạ, pháo binh, công binh v.v... tập trung vật tư tác chiến, chuẩn bị cho tấn công Điện Biên Phủ. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp thảo luận quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại đoàn 316 trên đường tiến quân lên Tây Bắc được biết ngày 7/12 bọn địch ở Lai Châu rút về Điện Biên Phủ lập tức theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy tiền phương quân đội nhân dân, truy kích địch, tiêu diệt phần lớn, bọn địch còn sống sót tháo chạy về Điện Biên Phủ, toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng. Sau đó, các đại đoàn 316, 308 hình thành bao vây Điện Biên Phủ từ hai hướng nam, bắc, bộ đội tham chiến khác cũng theo thời gian dự định tiến vào vị trí xung quanh Điện Biên Phủ.

Lúc đó, quân Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ chỉ có 6 tiểu đoàn, công sự cũng không kiên cố lắm, để không bỏ lỡ thời cơ, đã từng có ý tưởng mở công kích bất ngờ một đấm tiêu diệt ngay quân địch. Nhưng do núi cao rừng rậm, hoả pháo của quân đội nhân dân không thể tiến vào vị trí chỉ định đúng hẹn, còn binh lực quân Pháp đã rất nhanh tăng lên đến 16 tiểu đoàn, và chia làm ba phân khu nam, bắc và trung tâm, xây dựng 8 cụm cứ điểm gồm 49 cứ điểm lớn nhỏ và 2 sân bay dã chiến. Bộ trưởng Quốc phòng và tướng lĩnh cao cấp Pháp sau khi thị sát về khoác lác nói Điện Biên Phủ là “thành trì không thể công phá” là “Verdun” của Đông Nam Á. Tất nhiên trong tình hình đó, khó thực hiện “đánh nhanh thắng nhanh”. Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh và lãnh đạo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp sau khi nghiên cứu, nhất trí cho rằng, quyết tâm giải phóng Điện Biên Phủ không được dao động, và xác định thay “đánh nhanh thắng nhanh” thành “đánh chắc thắng chắc”, áp dụng phương pháp tác chiến bao vậy chặt, chia cắt đánh chiếm từng cứ điểm một, siết chặt từng bước, bóc vỏ từng lớp, kiểu sóng xô, cuối cùng mở tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ 1.

Để phá ưu thế trên không của quân Pháp, đoàn cố vấn kiến nghị quân đội Việt Nam dùng pháo kìm hãm, máy bay Pháp cất cánh và hạ cánh, phá hỏng sân bay, đánh và hạn chế hoạt động trên không của máy bay Pháp. Đồng thời kiến nghị 4 tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly quân đội Việt Nam đang trang bị, luyện tập ở Trung Quốc trở về Việt Nam trước thời hạn để tham gia chiến đấu. Sau khi quân đội Việt Nam tiếp nhận kiến nghị này đã lần lượt bắn rơi, bắn bị thương hơn 50 máy bay Pháp, chi viện trên không của quân Pháp ngày càng khó khăn, tinh thần binh lính cũng ngày càng sa sút.

Dưới sự lãnh đạo của Đoàn cố vấn quân sự, quân đội Việt Nam học tập quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc trên chiến trường Triều Tiên, triển khai hoạt động bắn tỉa, pháo tỉa, buộc quân Pháp không dám ra ngoài công sự hoạt động, luôn luôn ở trong trạng thái nơm nớp lo sợ suốt ngày. Đồng thời cố vấn công binh và hơn 10 nhân viên công trình công binh điều từ chiến trường Triều Tiên, đi sâu vào trận địa tiền tuyến, chỉ đạo cụ thể quân đội Việt Nam xây công sự và đào hào đến phía trước trận địa quân Pháp tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu diệt từng cứ điểm. Sau khi hoàn thành các công việc chuẩn bị ngày 13 và 30 tháng 3 năm 1954, quân đội Việt Nam lần lượt mở cuộc tác chiến đợt 1, đợt 2, liên tiếp đánh chiếm cụm cứ điểm của phân khu bắc và tất cả các điểm cao ở phía đông và một loạt cứ điểm ở hai sườn tây, bắc của khu trung tâm Mường Thanh và chiếm sân bay Mường Thanh, cắt đứt liên hệ giữa khu trung tâm và khu nam. Đến đây, khu trung tâm của quân Pháp cô lập đã nằm trong vòng khống chế hoả lực của quân đội Việt Nam.

Vào giờ phút then chốt này, Mỹ đưa hai tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ, tiến hành diễn tập quân sự qui mô lớn, chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ Arthur W. Radford ngang nhiên tuyên bố, sẵn sàng dùng máy bay chiến lược B29 ném bom quy mô lớn xuống quân đội nhân dân bao vây Điện Biên Phủ và ngỏ ý sẽ xem xét “sử dụng bom nguyên tử” ở Việt Nam. Vi Quốc Thanh nói với lãnh đạo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam, mục đích doạ dẫm chiến tranh của Mỹ là ép quân đội Việt Nam rút khỏi Điện Biên Phủ, giải vây cho quân Pháp đang rơi vào tuyệt vọng, quân đội Việt Nam đã có đủ điều kiện mở tổng công kích tiêu diệt quân địch, quyết không thể là công dã trang, để mất thời cơ tốt đẹp. Quân đội Việt Nam qua nhiều lần suy nghĩ, quyết định mở tổng công kích trước khi nước sông tràn bờ.

Đồng thời vật tư đạn dược v.v... cho tổng công kích đã từ Trung Quốc chuyển đến, một tiểu đoàn pháo DKZ-75 và một tiểu đoàn hoả tiễn trang bị huấn luyện ở Trung Quốc cũng kế tiếp nhau đến. Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Đoàn cố vấn : “ Để tiêu diệt toàn bộ quân địch, giành toàn thắng chiến dịch, phải tổ chức thật tốt phát huy hoả lực pháo, không nên tiếc tiêu hao đạn pháo. Chúng tôi sẽ cung cấp, vận chuyển đạn pháo đầy đủ ”. Đêm 1/5, tổng công kích chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Dưới sự yểm trợ của hoả lực pháo lớn mạnh, quân đội Việt Nam mở tấn công mãnh liệt vào Điện Biên Phủ. Chiều tối ngày 6, quân đội Việt Nam pháo kích dữ dội vào cứ điểm trung tâm quân Pháp, 12 khẩu hoả tiễn 6 nòng vừa vào trận địa đã phát huy uy lực, phá huỷ hết cứ điểm này đến cứ điểm khác của quân Pháp. 17g30’ ngày 7, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ, chuẩn tướng De Castries và sĩ quan Ban tham mưu của y lần lượt đi ra khỏi hầm ngầm sở chỉ huy, cầm cờ trắng đầu hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ cả thế giới theo dõi đã kết thúc thắng lợi, tiêu diệt toàn bộ 16.000 lính Pháp và lính nguỵ và thu được rất nhiều vật tư quân dụng.

Thắng lợi quyết chiến Điện Biên Phủ, rất nhanh dẫn đến ký kết Hiệp định đình chiến Đông Dương ở hội nghị Genève, quân Pháp rút khỏi ba nước Việt Nam, Lào, Cao Miên. Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng. Thắng lợi của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam đã đặt nền móng vững chắc cho độc lập hoàn toàn của dân tộc và giải phóng triệt để của nhân dân Việt Nam
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #87 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 05:00:26 am »

Giúp xây dựng quân đội Việt Nam, tố chất và sức chiến đấu của bộ đội không ngừng được nâng cao.

Đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến, Đoàn cố vấn quân sự còn từ nhiều mặt giúp quân đội Việt Nam tiến hành xây dựng, không ngừng nâng cao tố chất và sức chiến đấu của quân đội. Chiến dịch biên giới vừa kết thúc, Đoàn cố vấn quân sự theo chỉ thị của quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kết hợp với tình hình thực tế của quân đội nhân dân Việt Nam, đưa ra kiến nghị phát triển bộ đội chủ lực nhiều hơn. Sau khi cùng với Bộ tổng quân đội nhân dân nghiên cứu đầu năm 1951 giúp quân đội Việt Nam khởi thảo “phương án xây dựng bộ độ chủ lực” và kế hoạch biên chế trang bị. Sau khi được Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn trên cơ sở sư 308, 312 và sư 304 đã được thành lập, thành lập hai đại đoàn bộ binh 320, 316 và một đại đoàn công pháo gồm 3 trung đoàn pháo binh và 1 trung đoàn công binh do Trung Quốc trang bị. Vào cuối năm này, quân đội nhân dân thành lập thêm đại đoàn bộ binh 325 tại chiến trường Trung bộ. Đến đây, trong hơn một năm, quân đội nhân dân đã từng bước phát triển lực lượng vũ trang chính quy có 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo. Theo yêu cầu của phía Việt Nam, Đoàn cố vấn cử nhóm cố vấn xuống các sư, cấp đại đoàn, trung đoàn đều có cố vấn Trung Quốc.

Ban đầu cấp tiểu đoàn cũng đều có cố vấn, sau chiến dịch biên giới đều rút về hết. Do bộ đội mở rộng, thống nhất biên chế, cải thiện trang bị, tăng cường huấn luyện, nên sức chiến đấu của bộ đội được nâng cao rõ rệt, điều đó đã đặt cơ sở cho sự chuyển biến đầu tiên về tư tưởng chỉ đạo quân sự, tức chuyển biến từ đánh du kích lên đánh vận động, đánh công kiên. Sau chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào năm 1953, bắt đầu chuyển biến tư tưởng chỉ đạo quân sự lần thứ hai, tức chuyển biến từ đánh công kiên qui mô nhỏ lên đánh công kiên qui mô lớn. Để thích ứng với nhu cầu chuyển biến đó, Trung Quốc viện trợ xây dựng thêm bộ đội trọng pháo, cao xạ pháo. Đoàn cố vấn quân sự còn giúp biên soạn tài liệu tấn công tập đoàn cứ điểm, thống nhất tư tưởng tác chiến, tăng cường huấn luyện kỹ thuật chiến thuật công kiên, nâng cao rất nhiều năng lực tác chiến công kiên của bộ đội.

Sau khi ký Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam thực hiện đình chiến từ môi trường chiến tranh chuyển sang môi trường hoà bình tứng bước thực hiện xây dựng quân đội theo hướng phát triển chính quy hoá, hiện đại hoá, lại một lần nữa chuyển biến tư tưởng chỉ đạo của quân đội Việt Nam. Dưới sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn quân sự, quân đội nhân dân thống nhất hơn nữa biên chế toàn quân, cải thiện trang bị, thành lập mới và thành lập thêm bộ đội binh chủng đặc biệt, giúp nghiên cứu và bố trí vấn đề tác chiến tương lai của quân đội, tiến hành huấn luyện chính quy có hệ thống đối với bộ đội, làm cho bộ mặt bộ đội đổi mới, nâng cao thêm một bước sức chiến đấu. Đi đôi với tăng cường xây dựng quân sự cho bộ đội, việc xây dựng chính trị trong quân đội cũng được tăng cường rất nhiều. Trước, sau chiến dịch biên giới để bảo đảm chiến dịch thắng lợi Đoàn cố vấn quân sự đã bắt tay vào việc bồi dưỡng cán bộ, ra sức tăng cường xây dựng chính trị quân đội Việt Nam, tăng cường lãnh đạo tư tưởng đối với bộ đội, tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến. Trong thời gian mấy năm, đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam có kế hoạch, có bước đi ra sức triển khai nhiều đợt giáo dục tư tưởng chính trị lớn về tình hình thế giới, chỉnh huấn chính trị, chỉnh quân chính trị v.v.. đã nâng cao rất nhiều giác ngộ chính trị của chỉ huy bộ đội, làm trong sạch tổ chức, kích thích nhiệt tình kháng chiến lớn lao và tinh thần chiến đấu quên mình của cán bộ chiến sĩ.

Đồng thời với những việc đó còn ra sức giúp quân đội Việt Nam xây dựng đảng. Sau khi công khai tổ chức đảng trong quân đội giúp xây dựng và kiện toàn chế độ đảng uỷ xây dựng điều lệ công tác của đảng uỷ và chi bộ. Cơ quan chính trị các cấp và ban ngành nghiệp vụ cũng từng bước được kiện toàn, xác định rõ ràng chức trách công tác, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ và xây dựng nghiệp vụ của các ban ngành cũng được tăng cường. Đoàn cố vấn quân sự đã làm rất nhiều việc về giúp quân đội Việt Nam đào tạo cán bộ, thành tích nổi bật. Cố vấn chính trị giúp Tổng cục Chính trị quân đội Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện luân phiên trọng điểm là đào tạo cán bộ trung cao cấp, lần lượt mở được 8 đợt, đào tạo hàng loạt cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần. Dưới sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn, các đại đoàn và các liên khu cũng mở nhiều lớp huấn luyện luân phiên cho cán bộ cơ sở. Trường sĩ quan lục quân Việt Nam do Trung Quốc giúp mở ở Vân Nam (về sau dời sang Quảng Tây, sau đình chiến dời về Sơn Tây) cũng có cố vấn Trung Quốc giúp công tác toàn diện trong mấy năm đã đào tạo trên một vạn cán bộ, đóng vai trò quan trọng đối với tăng cường đội ngũ cán bộ quân đội nhân dân.

Còn giúp giải quyết một vấn đề quan trọng trong công tác cán bộ là từ trong thực tiễn chiến tranh điều chỉnh đường lối, phương châm và chính sách công tác cán bộ. Thực hành phương châm lấy công nông làm nòng cốt, đồng thời cũng coi trọng việc đào tạo và sử dụng cán bộ xuất thân không phải công nông, làm cho số lớn cán bộ công nông ưu tú trong bộ đội trưởng thành nhanh chóng, đề bạt vào cương vị lãnh đạo quan trọng cán bộ xuất thân không phải công nông cũng nâng cao giác ngộ tư tưởng, kiên định lập trường chính trị. Về xây dựng hậu cần quân đội nhân dân, chủ yếu giúp xây dựng tư tưởng chỉ đạo xây dựng hậu cần đúng đắn, coi phục vụ tiền tuyến, phục vụ bộ đội, bảo đảm tác chiến thắng lợi là nhiệm vụ trung tâm của công tác hậu cần; giúp xây dựng, kiện toàn và điều chỉnh tổ chức hậu cần các cấp, tăng cường công tác chính trị của hệ thống hậu cần, bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ và tác phong cần kiệm chất phác của cán bộ hậu cần ; giúp xây dựng và hoàn thiện các nội quy điều lệ chế độ, chỉnh đốn công tác tài chính kinh tế tăng cường quản lý tài chính kinh tế, làm cho các các công tác hậu cần từng bước đi vào quỹ đạo, không ngừng nâng cao năng lực bảo đảm.

Về mặt giúp xây dựng hậu phương, cũng làm rất nhiều việc. Khôi phục và xây dựng các đường lớn đi vào căn cứ địa, hậu phương của quân đội nhân dân. Việc xây dựng tuyến giao thông vận tải thuỷ bộ thông ra tiền tuyến và cả việc xây dựng binh trạm và hệ thống cứu hộ bệnh viện v.v... đều tiến hành dưới sự viện trợ của Trung Quốc và giúp đỡ của đoàn cố vấn. Trong các chiến dịch, từ chuẩn bị hậu cần trước chiến dịch đến việc thực hiện bảo đảm hậu cần trong quá trình chiến dịch, đều do Đoàn cố vấn quân sự giúp đỡ cụ thể Tổng cục hậu cần quân đội nhân dân tiến hành. Nhờ công tác bảo đảm hậu cần cho chiến dịch ngày càng tốt đã phát huy vai trò phục vụ giành thắng lợi của các chiến dịch. Quân đội xây dựng và phát triển lớn mạnh tất nhiên gắn liền với trang bị vũ khí được cải thiện và bổ sung đầy đủ. Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, Trung Quốc là nước duy nhất cung cấp rất nhiều viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam, từ súng đạn đến ca tráng men, khăn mặt cần gì có nấy. Theo thống kê chưa đầy dủ trong chiến tranh chống Pháp Trung Quốc viện trợ cho quân đội nhân dân Việt Nam 155.000 khẩu súng, 57.850.000 viên đạn, 3.692 khẩu pháo, 1.085.000 viên đạn pháo, 840.000 quả lựu đạn, 1231 ôtô, hơn 1.400.000 bộ quân phục, 15.000 tấn lương thực và thực phẩm phụ, 26.000 tấn xăng dầu và rất nhiều thuốc men và vật tư quan trọng khác. Các cố vấn liên quan trong Đoàn cố vấn quân sự và văn phòng của Ban hậu cần quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đặt tại Nam Ninh đã làm rất nhiều công việc về mặt này.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #88 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 05:01:17 am »

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đúng đắn, bảo đảm cho Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử.

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương rất coi trọng công tác của Đoàn cố vấn quân sự. Trước khi ra nước ngoài, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức v.v.. đích thân gặp gỡ đoàn viên đoàn cố vấn, ra chỉ thị rõ ràng, nêu yêu cầu nghiêm khắc, trong quá trình công tác ở Việt Nam, lãnh đạo Trung ương cũng rất quan tâm, nhiều lần cho chỉ thị quan trọng. Các kiến nghị quan trọng liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội của đoàn cố vấn nêu ra với phía Việt Nam đều được Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài v.v.. đích thân phê duyệt. Rất nhiều bức điện của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương gửi cho Đoàn cố vấn quân sự đều do Mao Trạch Đông đích thân nêu ra. Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương đều có chỉ thị cụ thể đối với mỗi chiến dịch quan trọng và mỗi một công tác quan trọng. Khi Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và La Quý Ba về nước, các đồng chí lãnh đạo Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, La Vinh Hằng, Vương Gia Tường v.v... nhiều lần gặp mặt, thăm hỏi tình hình và cho chỉ thị. Sự lãnh đạo đúng đắn và quan tâm thắm thiết của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương là một bảo đảm căn bản cho Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp.

Ngày 29/9/1952, Trung ương Đảng gửi điện hỏi thăm động viên toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn, nêu rõ công tác của đoàn cố vấn có thành tích, “ điều đó có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc, và cũng có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh của phe dân chủ thế giới ”. Đồng thời nêu lên “ các đồng chí nhất thiết không được vì thế mà kiêu căng tự mãn ”, “ các đồng chí còn có khuyết điểm ở mức độ khác nhau ”, “ mong các đồng chí nhanh chóng sửa chữa, để nâng cao công tác lên một bước, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang mà Trung ương giao cho các đồng chí ”. Toàn thể đoàn viên Đoàn cố vấn được cổ vũ và giáo dục rất lớn từ những chỉ thị đó. Ngày 23/9/1953, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra chỉ thị về công tác của đoàn cố vấn, nhấn mạnh làm cố vấn ở nước anh em thì dù là đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc hay là đối với đảng anh em đều là trách nhiệm chính trị vô cùng trọng đại, phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ, cố hết sức tránh không làm vướng chân người ta. Trung ương đặc biệt chỉ rõ : quan hệ giữa cố vấn và Đảng Cộng sản Việt Nam là quan hệ giữa các đồng chí đảng anh em. Cố vấn không thể tự ra tay, cũng không thể là Thủ trưởng phụ trách chỉ có thể đề xuất kiến nghị cần thiết, và chỉ giới hạn trong những vấn đề tương đối lớn. Không được cưỡng ép đối phương chấp nhận, không nên can thiệp vào nhân sự của đối phương, không nên ra sân khấu biểu diễn, càng không nên ra sân khấu đóng vai chính, phải kiên quyết đề phòng và sửa chữa cách làm sai lầm bao biện làm thay, khách lấn chủ.

Tháng 8/1954, sau khi ký kết hiệp định đình chiến Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định chính thức thành lập Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam. Ngày 1/9 Đại sứ đầu tiên La Quý Ba trình quốc thư lên Hồ Chí Minh, Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam chính thức ra mắt. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước rút hai Đoàn cố vấn quân sự và chính trị Trung Quốc sau khi thảo luận Trung ương Đảng Việt Nam đồng ý rút bộ máy tổ chức và tên gọi của đoàn cố vấn tán thành từ nay về sau công khai mời cố vấn. Cố vấn hệ thống quân sự vẫn phải giúp công tác với phương thức thích đáng. Tháng 10/1954, Hà Nội giải phóng. Hạ tuần tháng 10, theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đoàn cố vấn quân sự theo Bộ Tổng quân đội nhân dân Việt Nam về Hà Nội. Lúc này, đoàn cố vấn phần đông là đoàn viên điều động thay thế từ sau năm 1953, trong đó nhân viên điện đài, cung cấp, y tế v.v... chiếm tỉ lệ khá lớn. Phó tổng cố vấn tức phó đoàn trưởng Đoàn cố vấn quân sự Mai Gia Sinh và một số cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn đang nghỉ ở trong nước, theo chỉ thị của Trung ương không trở lại công tác ở Việt Nam nữa.

Ngày 18/7/1955, trong thời gian Vi Quốc Thanh về nghỉ ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình có chỉ thị tỉ mỉ về vấn đề rút Đoàn cố vấn quân sự. Các đồng chí nhấn mạnh chỉ ra, căn cứ vào tình thế mới, Đoàn cố vấn quân sự phải chia từng bước rút về, Đoàn cố vấn quân sự đã giúp đỡ Việt Nam, tổ chức xây dựng bộ đội, huấn luyện bộ đội, tổ chức tác chiến v.v.. đều đạt rất nhiều thành tích, cũng có thành tích giúp tiếp quản thành phố. Trước khi rút về, phải giáo dục toàn thể đoàn viên không được có bất cứ lơ là nào, phải làm tốt công tác từ đầu đến cuối. Hạ tuần tháng 8, Vi Quốc Thanh trở lại Hà Nội, truyền đạt chỉ thị của Trung ương Đảng và lãnh đạo Trung ương cho Đoàn cố vấn quân sự. Lúc này, Đoàn cố vấn quân sự còn có nhóm cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần, pháo binh, công binh, hàng không dân dụng v.v... có mấy chục cố vấn và nhân viên kỹ thuật và hơn 40 nhân viên cơ quan Ban chỉ huy đoàn cố vấn. Ngày 2/9, Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự đưa ra kế hoạch cụ thể để quán triệt chấp hành chỉ thị của Trung ương, xác định trong tháng 9, tháng 10 và cuối năm hoặc mùa xuân sang năm chia làm ba đợt rút về nước, chuyên gia quân sự và nhân viên kỹ thuật đười mời giao cho Phòng Tuỳ viên quân sự Đại sứ quán lãnh đạo, và đề ra yêu cầu cụ thể đối với bảo đảm làm tốt các công tác và làm tốt đoàn kết trong ngoài v.v... trước khi rút.

Ngày 24/12/1955, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra thông báo chung “quyết định về việc rút Đoàn cố vấn quân sự nước ta tại quân đội Việt Nam và cử chuyên gia quân sự ”, đồng thời chỉ định Vương Nghiên Tuyền làm Tổ trưởng tổ chuyên gia, Quốc Lâm Chi làm bí thư đảng uỷ Tổ chuyên gia. Quyết định này của Chính phủ Trung Quốc được đưa ra trong tình hình phía Việt Nam nhiều lần yêu cầu Trung Quốc tiếp tục cử cố vấn quân sự. Cùng ngày, Bành Đức Hoài viết thư cho Võ Nguyên Giáp. Cuối tháng, Vi Quốc Thanh mang thư trở lại Hà Nội, sau một thời gian giúp Bộ Tổng quân đội Việt Nam, năm 1956, Vi Quốc Thanh trở về Bắc Kinh. Công tác của Đoàn cố vấn quân sự đến đây kết thúc hoàn toàn.

Ở đây còn phải nhấn mạnh nói rõ, trong thời gian Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc công tác tại Việt Nam, được sự quan tâm nhiệt tình, tín nhiệm và ủng hộ rất lớn của lãnh tụ nhân dân Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản, Tổng Quân uỷ Việt Nam. Hồ Chí Minh nhiều lần đã nói : “ Tôi tín nhiệm tuyệt đối ” đối với cố vấn Trung Quốc. Những kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự đối với quyết sách lớn liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội v.v... của Việt Nam đều được Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Trung ương Đảng thảo luận quyết định, sau đó giao cho Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ tổng Việt Nam tổ chức thực hiện. Tổng quân uỷ và Bộ tổng Việt Nam cũng rất quan tâm, tôn trọng và ủng hộ đoàn cố vấn, và cùng với sự phát triển của thực tiễn, họ “ càng tin vào tính đúng đắn của tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ”. Những điều đó chính là điều kiện quan trọng để Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc hoàn thành thuận lợi nhiệm vụ giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp.

Trương Quảng Hoa

(đăng trong Làn sóng trăm năm số 4-5 năm 2000,
khi đăng vào sách này, tác giả có sửa đổi một ít câu chữ)




1 Sự thực, Mai Gia Sinh chủ trương « đánh nhanh, thắng nhanh », dùng « biển người » để ồ ạt tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, và tiền trạm của Bộ tham mưu chiến dịch đã nghe theo ý kiến này. Khi tướng Giáp từ Việt Bắc tới vùng lòng chảo thì các khẩu pháo đã được « kéo vào » và toàn quẫn đã chuẩn bị thi hành kế hoạch tác chiến ấy. Thay đổi cách đánh là quyết định cá nhân của đại tướng Võ Nguyên Giáp (Bộ chính trị ĐCS, nhiều ngày sau mới nhận được báo cáo). Ông đã tranh thủ được sự ủng hộ của Vi Quốc Thanh. Họ Vi thỉnh thị ý kiến của Bắc Kinh. Điện chuẩn y của Bắc Kinh tới ngày 27.1.1954, tức là hai ngày sau khi tướng Giáp quyết định và kế hoạch mới bắt đầu được thi hành. Xem chú thích ở các phần (3) và (6).
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #89 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2009, 05:02:57 am »

NHÌN LẠI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Như Phụng Nhất

Sau khi ký kết hiệp định đàm phán đình chiến Triều Tiên ngày 27/7/1953 tình hình chiến trường Đông Dương trở thành vấn đề được mọi người rất quan tâm. Trận Điện Biên Phủ đã thực tế trở thành tiêu điểm giải quyết vấn đề này. Nhân dân cách mạng toàn thế giới đều khao khát cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi. Nhìn lại tác chiến Điện Biên Phủ, quả thực có rất nhiều cảm xúc. Lúc đó, dưới sự lãnh đạo của Chánh phó Tổng cố vấn Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cử sang Việt Nam người viết bài này đã tham gia cả quá trình thai nghén, chuẩn bị, tổ chức và thực thi tác chiến đông xuân 1953/1954 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bây giờ vẫn còn đọng trong trí nhớ, nhìn lại mấy vấn đề dưới đây.

I.

Chiến dịch đông xuân 1953/1954 của Quân đội nhân dân Việt Nam rốt cuộc nên chọn hướng nào, vùng nào để tiến hành, tiếp tục lên vùng Tây Bắc, vùng Thượng, Trung Lào nơi phạm vi hoạt động rộng lớn, sự thống trị của địch bạc nhược, binh lực phân tán, bố phòng không kiên cố để tìm cơ hội tác chiến, hay là về đồng bằng sông Hồng nơi trọng binh địch tập kết, bố phòng kiên cố, phạm vi hoạt động chật hẹp để tìm cơ hội tác chiến, đây là chỗ bất đồng quan trọng về lựa chọn hướng tác chiến tồn tại trong thời gian khá dài giữa đồng chí lãnh đạo đoàn cố vấn và cán bộ lãnh đạo của Quân đội nhân dân lúc bấy giờ. Rất rõ ràng, cái trước là tìm điểm yếu đánh, cái sau xông vào chỗ cứng. Theo tình hình chiến trường Đông Dương và thực lực, trình độ chiến thuật, kỹ thuật, tố chất tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ thì không nên tiến hành tác chiến công kiên ở đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Để giải quyết vấn đề này, hạ tuần tháng 5 năm 1953, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự cùng với nhà cầm quyền tối cao Quân đội nhân dân lúc bấy giờ bàn bạc quyết định, tập trung một bộ phận cán bộ cao cấp hiệp đồng với bộ phận cố vấn thành lập ban biên tập và thẩm định, thông qua nghiên cứu đặc điểm bố phòng của địch, biên soạn tài liệu quân sự, tập huấn cán bộ, để thống nhất tư tưởng tác chiến. Nhiệm vụ này trải qua thời gian hơn 5 tháng đến hội nghị tác chiến Quân đội nhân dân tháng 11/1953, mới hoàn thành, đã hình thành phương án ý tưởng chủ lực tiến quân lên Tây Bắc, đánh lấy Lai Châu tác chiến ở hướng Thượng, Trung Lào. Phát biểu của đồng chí Vi Quốc Thanh, Tổng cố vấn quân sự tại hội nghị tác chiến quân đội nhân dân ngày 24/11/1953 đã có tác dụng hết sức quan trọng đối với việc hình thành từng bước phương án tác chiến này. Lúc đó, đồng chí lấy những sự thật sinh động của Trung ương Đảng ta kiên trì biến khu Thiểm, Cam, Ninh 13 năm và cuối cùng giành được thắng lợi toàn quốc, trình bày sâu sắc ý nghĩa chiến lược sâu xa của chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên Tây Bắc và Thượng, Trung Lào tác chiến, đã thuyết phục mạnh mẽ cán bộ cao cấp trong Quân đội nhân dân có ý kiến bất đồng đối với tác chiến ở vùng Tây Bắc không ít cán bộ Quân đội nhân dân nói phát biểu của đồng chí cố vấn rất có sức thuyết phục, thực sự đã giải quyết về mặt tư tưởng vấn đề tiếp tục lên Tây Bắc tác chiến.

Kế đến là quyết sách tiến quân lên Trung Lào tác chiến đã có tác dụng thúc đẩy đối với sự hình thành phương án tác chiến nói trên. Lúc đó quân Pháp đang tập trung một bộ phận binh lực cơ động tiến hành “càn quét” ở Nam Bộ. Để phối hợp tác chiến ở miền nam, đồng chí La Quý Ba lãnh đạo đoàn cố vấn từng kiến nghị với phía Việt Nam tại ngã ba quốc lộ 8, quốc lộ 12, chạy dọc theo dãy núi Trường Sơn xuyên qua quốc lộ 9 làm một con đường chạy thẳng tới Nam Bộ (tức sau này người ta gọi là đường mòn Hồ Chí Minh), khai thông liên hệ giữa Nam Bộ và Bắc Bộ. Trong khi cùng với Cục Tác chiến Việt Nam trao đổi vấn đề này và nghiên cứu tình hình địch, phát hiện binh lực địch phân bố trên quốc lộ 8, 12 rất mỏng yếu. Hai tiểu đoàn địch bố trí trong 38 cứ điểm, mỗi cứ điểm lớn là một đại đội, nhỏ là một tiểu đội, đông tây kéo dài 150 km, nam bắc cách nhau hơn 100 km. Quân đội nhân dân Việt Nam đồng ý kiến nghị của đoàn cố vấn, quyết định tháng 12/1953 tiến quân lên Trung Lào quét sạch cứ điểm của địch phân tán trên quốc lộ 8, 12. Hai trung đoàn của đại đoàn 304 chấp hành nhiệm vụ này rất thuận lợi, trong thời gian rất ngắn đã tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch trên hai quốc lộ này, trực tiếp áp sát Thakhẹt, Savanakhet. Lúc này địch điều động tám, chín tiểu đoàn cơ động nhảy dù xuống Trung Lào. Hành động này một lần nữa phân tán binh lực cơ động của địch. Mặc dù bộ đội tiến đến Trung Lào tiến triển không lớn sau khi địch tăng viện, nhưng quần nhau với địch trong thời gian dài ở Thakhẹt, Savanakhẹt và đường 9, đã kiềm chế binh lực cơ động của địch, làm cho chúng không thể điều đi nơi khác, chi viện mạnh mẽ cho tác chiến ở chiến trường Tây Bắc. Thắng lợi của tiến quân lên Trung Lào cũng có lợi cho khai thông tư tưởng của cán bộ quân đội nhân dân lên vùng tây bắc và vùng binh lực địch mỏng yếu tác chiến.

Mục tiêu tiến quân lên Tây Bắc dự tính đấy lấy Nà Sản. Do địch ở Nà Sản tháng 8 bỏ chạy, sau chuyển sang công kích Lai Châu. Khi chủ lực quân đội Việt Nam đang chuẩn bị tiến quân lên Tây Bắc, thì bọn địch ở Lai Châu có triệu chứng rút lui, nhưng đồng thời địch cho 4 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và không ngừng tăng thêm. Sau khi chủ lực quân đội Việt Nam tiêu diệt một bộ phận địch trong vận động lên Thượng Lào và vùng Lai Châu quay về bao vây Điện Biên Phủ. Đây chính là nguyên nhân của sự tác chiến Điện Biên Phủ.


II

Đi đôi với giải quyết vấn đề chọn hướng, vùng tác chiển trong cán bộ lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam, còn phải giải quyết vấn đề “ đánh trận gì, đánh như thế nào ” trong bộ đội.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, đến năm 1953 ở Bắc Bộ có 5 đại đoàn bộ đội chính quy. Ngoài một đại đoàn (đại đoàn 320) thường xuyên phân tán ở vùng tả, hữu ngạn đồng bằng sông Hồng để kiên trì chiến tranh du kích đồng bằng ra, có thể tập trung bốn đại đoàn chính quy tác chiến cơ động. Những bộ đội này từ đánh du kích phân tán, từng bước phát triển lên có thể đánh vận động quy mô như chiến dịch biên giới, cũng có thể đánh công kiên quy mô một lần tiêu diệt hai ba tiểu đoàn như chiến dịch Biên Giới, Tây Bắc, Thượng Lào. Nhưng đánh công kiên, quy mô lớn hơn, thời gian kéo dài hơn thì chưa trải qua. Khi nghiên cứu đánh cứ điểm Nà Sản, một cán bộ phụ trách quân đội nhân dân thổ lộ với tác giả : “ Nếu binh lực bố phòng của địch trong vòng 6 tiểu đoàn thì chắc chắn tiêu diệt; nếu địch bố phòng 8 tiểu đoàn, có thể miễn cưỡng đánh được, nhưng không chắc lắm ”.

Cùng với sự phát triển của tình hình đấu tranh bố phòng cụm cứ điểm có tính tập đoàn của địch xuất hiện, làm cho phương thức đánh công kiên mang tính tập kích trước đây đã không thể thích ứng với nhu cầu của tác chiến, hơn nữa, bộ đội đã bắt đầu trang bị lựu pháo 105 và vũ khí cao xạ phòng không. Như vậy một loạt vấn đề mở thông đường, xây trận địa, sửa đường, tập kết lương thực súng đạn v.v... đều là những vấn đề thực hiện mới đối với đông đảo cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân. Để giải quyết mâu thuẫn trên đây, khi xác định nhiệm vụ thành lập Ban biên tập thẩm định, đồng chí Vi Quốc Thanh Tổng cố vấn Đoàn cố vấn quân sự nhấn mạnh phải làm tốt cơ sở bảo đảm chiến thuật cho chiến dịch Đông xuân. Đồng chí nêu lên cụ thể : phía ta xây dựng đề cương giao cho cán bộ phía ban tổ chức nghiên cứu chiến thuật, thông qua nghiên cứu chú trọng tìm hiểu tình hình, biên soạn tài liệu quân sự, chủ yếu là chiến đấu công kiên, viết từ động tác của người lính, viết đến chiến thuật công kiên hợp thành của tiểu đội, trung đội, đại đội tiểu đoàn cho đến trung đoàn, lấy cứ điểm Nà Sản vùng Tây Bắc lúc bấy giờ làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu, khảo sát và chọn tốt bài diễn tập, tổ chức diễn tập, huấn luyện một tốp giáo viên, chuẩn bị tốt cho huấn luyện quân sự bộ đội trước chiến dịch, nghiêm túc làm tốt bảo đảm chiến thuật cho chiến dịch Đông xuân.

Ngày 29/5/1953, khi triệu tập một số đồng chí cố vấn bàn về giáo dục chiến thuật công kiên cho bộ đội phía bạn, đồng chí Vi Quốc Thanh nhấn mạnh : “ Phải xoay chuyển tư tưởng của bộ đội không muốn làm công sự, phải học biết xây công sự, thao tác cuối cùng, xây dựng trận địa tấn công ; học biết đào hào, tích trữ lương thực, đạn dược, sử dụng hoả pháo, phải học biết khống chế sân bay địch, nghiên cứu đặc điểm của địch có thể tốn ít thời gian hơn, biên soạn tài liệu và huấn luyện bộ đội công kiên cần phải tốn nhiều thời gian, biên soạn tài liệu không những giải quyết vấn đề tác chiến hiện thực mà còn phải đặt cơ sở mạnh mẽ cho tác chiến công kiên sau này. Điều đó vừa phải có nội dung tương đối toàn diện, lại cần phải làm nổi bật trọng điểm. Phải coi đó là một chuyển biến về tư tưởng chiến thuật của quân đội Việt Nam ”. Đồng chí còn nhấn mạnh nói, tác chiến Đông Xuân có ý nghĩa quan trọng đối với sự chuyển biến tình hình Việt Nam từ nay về sau, vì vậy cần phải coi công tác hiện nay là nhiệm vụ tác chiến để hoàn thành. Thực tiễn chứng minh, những ý kiến này hoàn toàn phù hợp tình hình chiến trường Đông Dương lúc bấy giờ và thực tế của bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.

Ngày 30/5/1953, sau khi nghe Ban biên tập thẩm định báo cáo vấn đề biên soạn tài liệu giảng dạy Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ngoài việc nói thêm tầm quan trọng của biên soạn tài liệu giảng dạy còn nhấn manh : phải lấy học tập kinh nghiệm của Trung Quốc làm chính, phải giáo dục Quân đội nhân dân cần phải học thật tốt kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Ban biên tập và thẩm định gồm số ít cố vấn, đồng chí phụ trách ban ngành liên quan của Bộ Tổng Quân đội nhân dân và một số đồng chí phụ trách của các đại đoàn tổ thành, bắt đầu từ tháng 6 năm 1953 bắt tay nghiên cứu tình hình hai bên địch ta, áp dụng phương pháp vừa nghiên cứu, vừa biên soạn vừa thẩm tra, vừa sửa chữa bản thảo, tiến hành công việc biên soạn giáo trình. Quá trình này trên thực tế cũng là quá trình khai thông tư tưởng tác chiến của cán bộ biên soạn. Kết hợp với tiến hành công tác biên soạn, chúng ta không ngừng giới thiệu kinh nghiệm liên quan. Tháng 7 công việc biên soạn giáo trình cơ bản hoàn thành, tháng 8 bắt đầu khảo sát, lực chọn địa điểm diễn tập và chuẩn bị phương án diễn tập, tháng 9 bắt đầu tập huấn và diễn tập làm mẫu cho cán bộ trung đoàn trở lên. Những hoạt động này đã làm tương đối tốt công việc chuẩn bị huấn luyện, quân sự của Quân đội nhân dân.

Sau khi xem giáo trình biên soạn, Võ Nguyên Giáp biểu thị tán thành, đồng thời nêu ra : có thể bổ sung cụ thể một số đặc điểm tác chiến ban đêm và nội dung mấy cách đánh trong tình hình khác nhau được không, đồng thời nêu lên trong giáo trình nội dung hợp đồng giữa bộ binh, pháo binh yêu cầu đối với cán bộ của họ có cao hơn được không : đối với những vấn đề này, nhóm biên soạn đều có bổ sung và sửa đổi, điều chỉnh cần thiết trong thẩm định lại. Đoàn cố vấn quân sự và Bộ Tổng quân đội Việt Nam sau khi trao đổi cho rằng, trong tháng 9 nhất định phải hoàn thành nhiệm vụ tập huấn cán bộ, đợt đầu huấn luyện cấp phó, đợt hai huấn luyện cấp trưởng. Với sự hiệp đồng giữa cố vấn Trung Quốc và Ban biên tập thẩm định đã thực hiện thuận lợi nhiệm vụ huấn luyện cán bộ theo thời gian đã định. Để thực hiện nhiệm vụ huấn luyện cán bộ nói trên, các đồng chí lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự đã nhiều lần dặn dò các đồng chí cố vấn liên quan cần phải kiên trì nguyên tắc công tác và phương pháp công tác đúng đắn. Yêu cầu các đồng chí cố vấn coi trọng cao độ về tư tưởng nghiêm túc, thành khẩn, khiêm tốn, kiên nhẫn và tỉ mỉ về thái độ, nhấn mạnh chỉ được làm tốt, không được làm xấu. Đồng thời nhiều lần vạch rõ : ở trong nước, công tác làm sai dễ sửa chữa, làm cố vấn, công tác làm sai thì không dễ sửa chữa cho nên phải làm việc hết sức tỉ mỉ thận trọng. Lãnh đạo đoàn cố vấn còn đặc biệt nhấn mạnh ; không nên lấy trình độ quân đội Trung Quốc để đánh giá trình độ của quân đội bạn, không nên chỉ thấy khuyết điểm của bộ đội bạn, mà phải thấy nhiều ưu điểm của họ, những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến phương châm chính sách càng phải thận trọng xem xét, nhiều thỉnh thị báo cáo, không nên bày tỏ thái độ một cách tuỳ tiện hời hợt. Các cố vấn đã nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành những yêu cầu và nguyên tắc đó trong thực tiễn công tác.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM