Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:52:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp  (Đọc 62723 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #70 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:05:26 am »

Quân nhu và lương thực của quân đội Việt Nam đều do dân công vận tải. Những dân công này hầu hết là nữ thanh niên dân tộc Nùng, không có nam giới. Bởi vì con trai có sức lao động khoẻ, phần lớn đều đi lính, mà lúc đó tỉ lệ con gái và con trai Việt Nam rất chênh lệch, người ta nói con trai ở Bắc Bộ Việt Nam có thể lấy hai, ba vợ. Vợ như người làm thuê, họ làm lụng ngoài đồng, chăm lo gia đình, chi viện tiền tuyến, tất cả đều do họ làm, cũng có rất nhiều chị em bốn mươi, năm mươi tuổi vẫn chưa lấy chồng. Chúng tôi thấy chi viện tiền tuyến đều là phụ nữ, họ chủ yếu vận tải lương thực của Trung Quốc viện trợ trên biên giới Việt – Trung ra tiền tuyến, đều chặt một cây tre tuỳ ý, chẻ làm đôi, làm chiếc đòn gánh đơn giản, có khi dùng cả sào tre đan sọt thô sơ treo ở hai đầu gánh lót lá chuối đổ lương thực và gánh ra tiền tuyến. Đội ngũ của họ lại còn chỉnh tề hơn quân đội, cứ từng hàng nối đuôi nhau, vừa đi vừa hát dân ca, khi ăn thì lấy nồi đồng mang theo, đặt bếp, đối lúa nấu cơm, không có rau, chỉ có ít muối, hái một ít ớt rừng để ăn. Bộ đội cũng không có rau gì, ăn ớt rừng. Các cố vấn chúng tôi cũng thường xuyên như thế. Ớt rừng đầy núi, bất cứ lúc nào ở đâu cũng hái được, lớn bé gần bằng hạt ngô hơi dài hơn chút ít, rất cay, hái về lấy viên đá rửa sạch đập nát, trộn với muối là ăn được. Tôi nhiều lần ăn thứ ớt này đến nỗi đau dạ dày, sau khi về nước nhiều năm mới khỏi.

Sau khi đội ngũ đến nơi tập kết, mệnh lệnh chiến đấu cũng đã truyền xuống. Tôi lập tức kiến nghị điều tiểu đoàn 3 phối hợp với trung đoàn 174 đánh Đông Khê, cho một đại đội tiến sát bắt gần, sau khi hoàn thành nhiệm vụ vẫn phối hợp hành động với trung đoàn 174. Hai đại đội khác của tiểu đoàn số 3 đánh chiếm trận địa ở đông Đông Khê, tham gia chuẩn bị hoả pháo, sau khi chuẩn bị xong hoả pháo phối hợp với trung đoàn 209 đánh địch có thể nhảy dù. Hai đại đội này do tiểu đoàn phó “Ước” phụ trách. Tôi cũng chuẩn bị đi xuống hai đại đội này. Hai tiểu đoàn khác do Chính uỷ dẫn đầu đi xuống đại đoàn 308, chuẩn bị đánh viện binh địch trên mặt đất. Đêm 15/9, trung đoàn 174 tập kích hai cứ điểm tiền tiêu nhỏ của địch ở Đông Khê, để quét sạch vòng ngoài, chuẩn bị tổng công kích. Đại đội pháo thực hiện kế hoạch tiến sát bắn gần, lợi dụng cơ hội địch chú ý tình hình cứ điểm tiền tiêu, lẳng lặng đi vào trận địa, lợi dụng cỏ dày ẩn nấp, lính tráng rút vào trong rừng chân núi gần đó, chuẩn bị chiều 16. Khi chuẩn bị xong hoả lực tiến vào trận địa, phá huỷ lô cốt ngầm tiền duyên của địch.

Chiều 16/9, trước khi tổng công kích bắt đầu tôi leo lên đỉnh núi của trận địa mà hai đại đội trinh sát của tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 cũng đặt ở một đầu của đỉnh núi này, cách trận địa pháo hơn 100 mét. Khi tôi lên, đại bộ phận hoả pháo đã vào trận địa, nhưng vẫn còn có hai khẩu pháo nằm trên dốc, rất khó khiêng lên núi. Tôi quen thuộc địa hình gần Đông Khê, nhớ lại đối chiếu với bản đồ. Khi quan sát trận địa pháo phát hiện một số đồ hộp cho thấy bọn địch từng đến đây. Sau khi tìm hiểu thêm, mới biết mấy tháng trước khi đánh Đông Khê, trận địa của đại đội pháo binh quân đội Việt Nam ở đây. Điều đó rất nguy hiểm, địch đã dò la nơi đây, một khi đánh trận thì nơi đây là đối tượng tấn công của hoả lực địch. Tôi nhắc “Ước”, nói rõ điều đó đi ngược tri thức cơ bản lựa chọn trận địa nhưng bây giờ không thể nào thay đổi, đành phải để họ gấp rút đào nhiều hầm cá nhân tránh đạn. Chúng tôi cũng đào hầm cá nhân ở nơi quan sát. Quả nhiên hoả lực chờ sẵn bắt đầu, đạn pháo của địch nổ tới tấp trên đỉnh núi này, trận địa chìm trong khói đạn rất nhiều đạn pháo rơi xung quanh chúng tôi. Nhưng phía ta vẫn ngoan cường, vẫn tiếp tục nã pháo điểm rơi của đạn pháo cũng khá chính xác, trừ một số ít ra ngoài còn đại đa số đạn pháo đều rơi vào trong cứ điểm Đông Khê. Chẳng mấy chốc, pháo binh tiến sát bắn gần nổ súng, đánh rất tốt, công sự phía đông cứ điểm chìm trong khói lửa dày đặc. Hoả lực của địch thưa dần. Trên trận địa có thương vong.

Sau khi kết thúc chuẩn bị hoả lực, tôi lập tức kiến nghị chuyển xuống dưới núi chờ lệnh và bắt liên lạc với trung đoàn 209. Lúc này pháo binh địch ở Đông Khê không nổ súng nữa, các tiếng súng khác cũng im ắng. Tôi xuống núi về Ban chỉ huy tiểu đoàn tạm thời của “Ước”, 14 người. Đêm hôm đó, tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ suốt đêm, trong lúc đó, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn gọi điện cho tôi, bảo tôi về gấp Ban chỉ huy. Sáng sớm ngày 17, tôi nêu những việc cần chú ý khi đánh nhảy dù với “Ước” và các cán bộ của đại đội pháo binh, chủ yếu là đề phòng hoả lực yểm hộ trên không của địch khi nhảy dù, trận địa pháo không nên chọn trên đồi núi mà nên chọn ven rừng cây hai bên đồi núi hoặc trong cỏ rậm, phân tán ra, đào hầm cá nhân v.v.. Họ đã liên hệ với trung đoàn 209, tôi để họ yêu cầu trung đoàn 209 yểm hộ họ trên mặt đất.

Sau khi ăn sáng, tôi và phiên dịch lập tức lên đường. Lúc này Đông Khê chỉ còn tiếng súng lẻ tẻ. Khi đi qua Đông Khê đến gần quốc lộ Thuỷ Khẩu, gặp một thương binh, cánh tay trái băng bó một miếng băng đỡ tay quàng lên cổ, tay trái chống cây gậy, lảo đảo lê bước, sắc mặt vàng nhợt. Tôi qua phiên dịch hỏi anh bị thương như thế nào. Anh nói khi anh phá lô cốt ngầm của địch, trên đường tiến lên bị lựu đạn địch làm bị thương cánh tay trái, anh còn một tay vẫn đưa thuốc nổ lên làm nổ tung lô cốt ngầm của địch, sau khi trở về mới phát hiện mình đứt khớp xương tay trái chỉ còn dính một miếng da chưa đứt. Anh bảo tiểu đội trưởng cắt miếng da đó đi, tiểu đội trưởng cắt cho anh và đưa anh về nơi băng bó, băng bó xong chờ cáng đưa về bệnh viện, vẫn chưa đến lượt anh, nói cáng chỉ khiêng những ai không đi được, vì anh có thể đi được, nên bảo anh đi theo cáng. Anh đi rất chậm, rời lại sau, anh nói tên anh, bây giờ tôi chỉ còn nhớ anh họ Trần. Tôi thấy công tác cứu hộ chiến trường có chuyện lạ nên hơi tức giận. Một chiến sĩ mất một cánh tay lại là nhân vật dạng anh hùng mà để anh tự đi tìm bệnh viện (bệnh viện ở trong biên giới Việt Nam đối diện Thuỷ Khẩu). Tôi vội bảo phiên dịch và bảo vệ của tôi tìm một chiếc cáng. Họ đi không xa thấy mấy chiếc cáng của những người ẩn nấp máy bay ở gần đó, họ xin một chiếc để khiêng anh đi.

Sau đó tôi tìm được Bộ chỉ huy tiền tuyến của Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam. Đoàn cố vấn ở trong khe núi gần đó. Ở đây rừng cây rậm rạp, có một hang đá to tự nhiên, mọi người làm việc ở cửa hang, đêm đến thì ở trong hang. Tôi gặp Mai tham mưu trưởng báo cáo tình hình với đồng chí. Đồng chí bảo tôi Đông Khê đã công phá nhưng không bắt được tù binh nào. Họ đang tra hỏi. Hiện tượng này không bình thường. Sau đó vất vả mới bắt liên lạc được điện thoại với trung đoàn 174, theo trung đoàn trưởng nói : “ Tù binh không có ”, “ Tiểu đoàn lộn xộn ” ở Việt Nam là câu chửi thề gần như chữ “khốn kiếp”. Đồng chí Trương Chí Thiện nói : “ Địch không thể chạy thoát, trước nói địch có bảy tám trăm tên, nhưng thi thể chỉ có hơn 100, còn lại đi đâu, ngay thương binh địch cũng không bắt được, rất khả nghi. Tôi cho rằng cuộc chiến đấu chưa kết thúc. Mai tham mưu trưởng bảo tôi giúp trung đoàn làm rõ tình hình, vẫn phải làm tốt việc chuẩn bị chiến đấu không được sơ xểnh, xem sau khi trời tối địch có ra phá vây không, phải theo dõi chặt chẽ ”.

Sau cơm trưa, số máy bay địch tăng thêm nhưng không nhảy dù, mặt đất cũng không có tin tăng viện. Chẳng bao lâu Bộ tổng báo cho biết bộ đội của trung đoàn 174 đánh chiếm Đông Khê bị địch phản kích, bọn địch nấp trong hầm ngầm. Đoàn cố vấn lập tức kiến nghị : bao vây chặt Đông Khê, đề phòng chúng phá vây. Sau trời tối mở lại cuộc công kích nếu địch còn nấp trong hầm ngầm thì phải tìm cửa hầm, đặt thuốc nổ, cho nổ từng đoạn một rất có hiệu quả. Rất nhanh bọn địch đầu hàng. Cuộc chiến đấu kết thúc trước trời hửng sáng. Hơn 200 tù binh địch (kể cả thương binh) qua thẩm vấn tù binh mới biết địch chỉ có ban chỉ huy một tiểu đoàn (một tiểu đoàn phó) hai đại đội bộ binh và hơn 10 khẩu pháo, tất cả hơn 380 người. Hoả lực có trọng pháo của Pháp, sơn pháo, pháo cối, chủng loại pháo hỗn tạp. Từ ngày 18, vẫn chờ đánh địch tăng viện, nhưng không có tăm hơi gì. Máy bay địch cũng không nhiều, xem ra chủ yếu là trinh sát thỉnh thoảng bắn vu vơ, cũng không giống như trinh sát hoả lực.

Tin từ hướng Thất Khê, Cao Bằng cũng đều nói không có động tĩnh gì. Qua hai ngày nữa, ngoài địch ở mấy cứ điểm nhỏ tương đối xa ngoại vi Cao Bằng rút về Cao Bằng ra, vẫn không có tình hình quan trọng khác. Lúc này xem xét lệnh cho đại đoàn 308 tiến quân lên Thất Khê, chuẩn bị đánh lấy lại cứ điểm Thất Khê. Trung đoàn 174, 209 đến nam Thất Khê để chuẩn bị đánh chi viện. Chúng tôi được biết ở chỗ đồng chí Trương Chí Thiện cố vấn trung đoàn 174 ; lần này trung đoàn 174 thương vong rất lớn, nhưng họ không biết con số thực tế, phía Việt Nam không nói thực, đồng chí dự tính số người thương vong có thể lớn gấp đôi số địch bị diệt, là cuộc chiến đấu lợi bất cập hại. Nguyên nhân là cán bộ chỉ huy đại đội trở lên của quân đội Việt Nam không dám áp sát mặt trận chỉ huy, sau khi đánh vào cứ điểm bộ đội tự tác chiến, rất hỗn loạn, cho nên thương vong nhiều không cần thiết.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #71 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:06:16 am »

Lúc rỗi việc, Mai tham mưu trưởng báo tôi đi gặp tù binh, ngầm ghi lại con số, xem có khớp với báo cáo hay không, nhưng không trực tiếp nói chuyện với tù binh. Tôi và phiên dịch đi. Cách Ban chỉ huy Đoàn cố vấn chừng năm cây số, trên dốc nhỏ có một dãy nhà tre lá, không có dân, nhìn thấy tù binh ngồi trước nhà, có mấy thương binh nhẹ cũng có vài người đứng tán chuyện. Trong nhà còn có mấy chục người nằm ngổn ngang, cũng có thương binh hoặc bệnh nhân. Tôi tính đại khái từng nhóm một, con số trên 200, đều là người da trắng, khớp với báo cáo. Khi tôi kiểm tra, các tù binh nhìn tôi có vẻ nghi ngờ, họ có thể thấy tôi không giống người Việt Nam, nhưng tôi không nói họ cũng khó đoán. Ở xung quanh tù binh chỉ có ba bốn lính cảnh vệ của quân đội Việt Nam. Tôi vô ý vứt trên đất mẩu thuốc lá hút xong bỗng một tù binh chạy đến nhặt lên hút, một người khác chạy lại giành lấy hút, lại có người chạy lại giật lấy, dập lửa bỏ vào miệng nhai. Tôi suýt buột cười, lấy hết số thuốc còn lại vứt cho họ, một trận nhốn nháo, náo động giành nhau thuốc nổi lên, khiến tôi được một trận cười no nê trước việc làm của các tù binh tự cho là dân tộc thượng đẳng. Thuốc lá đó là bao thuốc Pháp trung đoàn 95 tặng tôi, cũng không để lộ cương vị của tôi.

Lúc này hãy còn sớm, tôi và phiên dịch đi vòng qua Đông Khê, bởi vì tôi vẫn không tìm được Doãn Tuế, không hiểu được tình hình cặn kẽ của họ đánh trận cho nên muốn đi Đông Khê xem tình hình đánh trận thực tế. Xem Đông Khê một vòng thấy lô cốt ngầm phía đông bị đánh tan, trong đó còn có hoả pháo và các người, có pháo đã bị đánh hỏng, có cái còn tốt cũng chưa mang đi. Phía tây chỉ có một số lô cốt ngầm bị đánh sập, như nổ thuốc súng, còn có một số tương đối hoàn chỉnh. Thi thể nhìn thấy khắp nơi. Tôi cũng thấy vị trí của phía ta áp sát bắn gần cách lô cốt địch khoảng 500-600 mét, không có vết máu (sau này tìm hiểu không có thương vong), chỉ có những hòm đạn pháo vỡ, mấy vỏ đạn chưa mang đi. Xem ra họ đánh quả là rất tốt. Trở về Ban chỉ huy Đoàn cố vấn gần chập tối, sau khi báo cáo Mai tham mưu trưởng, đồng chí bảo tôi : Kế hoạch đánh Thất Khê tạm dừng. Vì có tình báo nói địch đang tấn công Thái Nguyên (hậu phương lớn của quân đội Việt Nam ở gần Thái Nguyên), Thất Khê cũng đã tăng quân địch có bốn đến năm tiểu đoàn, thậm chí nhiều hơn, có thể âm mưu chiếm lại Đông Khê. Đã ra lệnh cho Trung đoàn 209 giữ Đông Khê, đổi trung đoàn 174 làm đội dự bị, đại đoàn 304 chuẩn bị bao vây tiêu diệt trong khi vận động.

Nhưng qua mấy ngày địch vẫn chưa có động tĩnh, song theo báo cáo Thái Nguyên đã bị tấn công. Địch đã tập trung trọng binh ở Thất Khê, không thể không hành động, chỉ có kiên nhẫn chờ đợi. Đoàn cố vấn kiến nghị không nên mất tỉnh táo trước tin tức từ Thái Nguyên truyền về nên tập trung sức chú ý vào phía địch ở Thất Khê. Đến cuối tháng 9, vẫn chưa thấy địch hành động. Lúc này, quân đội Việt Nam thiếu lương thực, có đơn vị bộ đội tự đi đến gần Thuỷ Khẩu thồ lương thực, có đơn vị đến nhà dân kiếm ăn. Chuẩn bị chiến đấu có lơ là, song lúc đó chúng tôi chưa biết. Trời mưa dầm dề, chúng tôi có những người ra nước ngoài không mang chăn, ngay cả áo len cộc tay cũng không có, nhiệt độ xuống, nhất là về đêm tương đối lạnh đành phải kiếm ít rơm chui vào trong để nghỉ. Chiều 1/10, một tiểu đoàn địch bỗng xuất hiện ở nam Đông Khê thật là bất ngờ, không hay biết tí gì. Mai tham mưu trưởng lập tức dẫn tôi và đồng chí Nghê Hữu Thạch đến Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng quân đội Việt Nam, Võ Nguyên Giáp nói theo báo cáo của đại đoàn 308, họ đang tập trung bộ đội vận tải lương thực, chuẩn bị xuất kích, nhưng tập trung bộ đội có khó khăn, có những tiểu đoàn, đại đội không tìm thấy người lãnh đạo ; trung đoàn 209 báo cáo nói, sau khi địch gặp quân ta đánh chặn ở vùng nam Đông Khê đã rút lui (phía nam Đông Khê có một ngọn núi dốc đứng chơ vơ một mình trên đó, có công sự rất kiên cố, quân Pháp lợi dụng hang đá thiên nhiên xây nên) sau chiến đấu Đông Khê do một trung đội của trung đoàn 209 khống chế. Lúc này điện đài nhận được tin quân Pháp cầu viện nói ở Đông Khê bị quân đội Việt Nam chống cự kiên cường yêu cầu cho chi viện tấn công Đông Khê. Thì ra dã chiến quân Pháp không mang vũ khí nặng, nếu cần thì nhờ không quân ném bom. Đồng thời chúng cũng không mang theo lương thực, thức ăn đều là thực phẩm từ trên không xuống, một ngày hai lần, mỗi một dù mang một hòm giấy trong đó đựng thức ăn một bữa cho cả trung đội, trong đó có 50 gói bích quy, mỗi gói 20 miếng, trong đó có một gói muối, một viên thuốc để uống nước lã (khi uống bỏ vào trong nước lã có thể khử độc không đau bụng) còn có 2 tờ giấy một cái phong bì hai tờ giấy viết thư, gói của trung đội trưởng cũng vậy, chỉ khác là thay muối bằng đường. Thiếu tá trở lên, mỗi người một thùng giấy trong đó có rượu, lạp xường, thuốc lá, đồ hộp v.v... khỏi phải nói, một người chứ mười người cũng đủ ăn.

Lúc này Tham mưu trưởng Mai kiến nghị đưa một tiểu đoàn đến nơi cách nam Đông Khê hơn 10 km chiếm đóng một góc núi ở đó, cắt đứt đường rút lui của địch, hình thành thế bao vây. Thoáng một cái trời đã tối xẩm, theo tìm hiểu, bộ đội của chúng ta, ngoài khi bắt đầu đánh núi nam Đông Khê ra, chưa tiếp xúc với kẻ địch, tình hình vẫn chưa rõ ràng. Tham mưu trưởng Mai bảo tôi và đồng chí Nghê Hữu Thạch thay nhau trực ban ở Bộ chỉ huy tiền phương Bổ Tổng quân đội Việt Nam, có tình hình gì quan trọng lập tức báo cho đồng chí. Đêm đó không có việc gì lớn, nhưng theo tìm hiểu, con số địch phản công Đông Khê rất lớn, dứt khoát không chỉ một tiểu đoàn. Tảng sáng ngày hôm sau, điện đài nhận được địch gọi nhau, nói chúng đã bị bao vây, đường rút lui bị quân Việt Nam cắt đứt, yêu cầu quân Pháp ở nam Thất Khê tấn công eo núi cách nam Đông Khê hơn 10 km. Điều đó nói lên nơi đó đã bị quân đội Việt Nam chiếm lĩnh. Sau đó qua tìm hiểu biết là đại đội cảnh vệ của đại đoàn 308, bởi vì lúc đó vẫn chưa tập họp được bộ đội trung đoàn, số tập họp được đã ra tiền tuyến, một lúc không thể đưa bộ đội cắt đứt đường rút lui của địch, cho nên cử đại đội cảnh vệ của đại đoàn ra. Đêm đó tình hình rất hỗn loạn, song trước khi trời sáng đã có bộ đội áp sát địch, bắt đầu nghe tiếng súng giao tranh.

Ngày 2/10, không có đánh nhau gì lớn, đại đoàn 308 vẫn chưa mở công kích, sáng hôm đó, địch thả dù 4 khẩu sơn pháo 90 mm của Anh, trong đó có một khẩu rơi vào trận địa của quân đội Việt Nam. Nhưng địch tiến gần vùng núi tây nam Đông Khê, chiếm lĩnh mấy quả đồi cố thủ, cũng không dùng sơn pháo thả dù để tấn công Đông Khê, khoảng 10g, được máy bay chiến đấu yểm trợ, mười mấy chiếc máy bay vận tải thả dù lương thực xuống gần các đỉnh đồi quân Pháp chiếm đóng, có rất nhiều thực phẩm rơi trong trận địa quân đội Việt Nam, cũng có nhiều rơi giữa địch và ta, hai bên dùng súng trường bắn nhau để giành lấy thùng giấy đựng thực phẩm, khoảng 4 giờ chiều, lại xuất hiện tình trạng tương tự. Tuy trước sau không có chiến đấu lớn, nhưng dần dần điều tra rõ địch có 4 tiểu đoàn, biên chế thành một binh đoàn, chỉ huy là trung tá Lepage là anh hùng của nước Pháp lãnh đạo bộ đội người da đen chống Đức ở Bắc Phi thời chiến tranh thế giới thứ hai, chuyên thống lĩnh bộ đội người da đen. Binh đoàn Lepage này quản lý ba tiểu đoàn người da đen, binh lính đều là người Maroc và Algerie, Bắc Phi, còn có một tiểu đoàn lính dù người da trắng. Hôm đó chưa xảy ra đánh nhau lớn, xem ra có ba nguyên nhân : một là – quân đội Việt Nam chưa hoàn toàn tới tuyến một số đã tới vẫn chưa quen thuộc tình hình địa hình ở nơi đã đến lắm, không dám tiến công mạo hiểm, hai là – ban ngày quân đội Việt Nam sợ máy bay, cũng không muốn hành động; ba là – Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng quân đội Việt Nam thấy binh lực địch quá lớn, có chút do dự không nghiêm khắc yêu cầu cấp dưới tiến công. Lúc này chúng tôi kiến nghị với Hoàng Văn Thái đánh dã chiến là cơ hội tốt binh lực địch tuy nhiều, nhưng không tấn công Đông Khê mà lại kêu cứu chứng tỏ địch hoang mang, không nên bỏ lỡ thời cơ tốt. Hoàng Văn Thái tuy có nói với Võ Nguyên Giáp, thấy điệu bộ của Võ Nguyên Giáp nên chưa hạ quyết tâm đánh tiếp. Chúng tôi lập tức báo cáo với tham mưu trưởng Mai, Mai nói với Trần, Vi. Lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh cả ba người ở trong một bản gần đó. Trần, Vi nêu kiến nghị với Hồ. Thái độ Hồ kiên quyết lệnh cho Võ Nguyên Giáp nghiêm khắc yêu cầu bộ đội nhất định phải nắm lấy thời cơ tiêu diệt toán địch này. Tối hôm đó, bộ đội của đại đoàn 308, cơ bản đến đông đủ, việc bố trí mới gọi là hoàn tất. Tuy chưa đánh lớn, nhưng địch lại đi lên dựa vào hướng tây, quân đội Việt Nam lại tiến gần mấy cây số, xa lòng chảo Đông Khê, đi vào trong rừng, điều kiện phòng không tốt hơn nhiều. Nhưng chỉ bắn tỉa địch, không xung phong.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #72 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:06:53 am »

Sáng 3/10, có khoảng 1 tiểu đoàn địch ở Thất Khê ra chi viện. Bộ đội ta phụ trách cắt đứt đường rút lui của binh đoàn Lepage, đánh chặn viện, địch bắt đầu lùi về phía sau, ngừng tiến công, án binh bất động, ở thế giằng co với bộ đội phía ta. Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng quân đội Việt Nam truyền đạt chỉ thị kiên quyết tiêu diệt toán quân này. Đại đoàn 308, trung đoàn 209 mở cuộc tấn công địch tương đối lớn, nhưng thu hoạch không lớn. Chỉ khi nào máy bay địch đưa thực phẩm xuất hiện thì nổ súng nhiều, xem ra là để tranh thủ ném thực phẩm. Có thể vì rừng rậm, hiệu quả thả không tốt, nên máy bay địch thả dồn dập, hầu như cả ngày. Quân đội Việt Nam đưa cơm rất không kịp thời, khi đưa cơm lại thường tìm không thấy bộ đội, thực phẩm địch thả xuống giúp quân đội Việt Nam rất nhiều. Sau này cùng với việc quân địch dần dần giảm bớt, nơi chiếm đóng cũng không ngừng thu hẹp, quân đội Việt Nam thu được thực phẩm của địch ngày càng nhiều, dù mình không đưa cơm cũng không đói. Chiều hôm đó được biết địch ở Cao Bằng đã bỏ Cao Bằng, Trung tá Charton dẫn khoảng 3 tiểu đoàn chạy xuống phía nam đi theo quốc lộ 4. Lúc này đã rõ, nhiệm vụ của binh đoàn Lepage là hỗ trợ binh đoàn Charton rút khỏi Cao Bằng. Chúng tôi lập tức báo cáo tình hình với Tham mưu trưởng Mai.

Đồng chí chỉ thị cho chúng tôi: tình hình này rất có lợi. Bây giờ phải bám chặt binh đoàn Lepage, không được lơi lỏng, phải ráo riết đốc thúc bộ đội tấn công mạnh, tiêu diệt binh đoàn Lepage trước khi địch hội quân, nếu chúng hội quân thành công, sẽ gây thêm rất nhiều khó khăn cho chiến đấu. Phải điều động bộ đội đi ngăn chặn binh đoàn Charton, ngăn cản chúng tiến lên. Mai lại đến chỗ Hồ, Trần, Vi chúng tôi nói với Hoàng Văn Thái ý kiến của Mai. Hoàng nói cử bộ đội đi đánh chặn binh đoàn Charton có khó khăn, bây giờ không còn bộ đội nào có thể cử đi được nữa, đại đoàn 308, trung đoàn 209 còn 1 tiểu đoàn, đều đã dùng ở phía binh đoàn Lepage, chỉ có trung đoàn 174 là đội dự bị của Bộ Tổng, nếu đi thì chỉ có cho trung đoàn này đi; mà xét thấy binh đoàn Lepage vẫn chưa tổng thương nguyên khí nên không thể động đến. Đề nghị phía Việt Nam điều bộ đội địa phương giám thị Cao Bằng đi làm nhiệm vụ này, phía Việt Nam nói không liên hệ được, không biết bộ đội bây giờ ở đâu. Lúc này Võ Nguyên Giáp về thì ra đồng chí ấy cũng đến chỗ Hồ, Trần, Vi. Tình hình sau khi trở về đồng chí nói giống như chỉ thị của Tham mưu trưởng Mai cho chúng tôi. Khi bàn đến việc cử bộ đội đi đánh chặn viện binh đoàn Charton, Võ Nguyên Giáp đã cử người đi bắc Đông Khê, tìm bộ đội địa phương hoặc đội du kích ra đánh làm chậm bước tiến của chúng. Sự thực là sau khi địch rút khỏi Cao Bằng, bộ đội địa phương giám thị chúng ta phát hiện và đuổi theo bám sát chúng. Tối mồng 3 họ tấn công binh đoàn Charton, địch rất hoảng sợ, lập tức phóng lửa đốt cháy hơn 50 chiếc ôtô và hơn 10 khẩu pháo mang theo, bỏ quốc lộ 4, luồn rừng phía tây quốc lộ 4. Bộ đội địa phương quân đội Việt Nam không tìm được hướng đi của địch. Ôtô bị đốt có cái có thể sửa lại dùng được, và pháo bị đốt cũng không nghiêm trọng, sau khi sửa chữa phần lớn đều sử dụng được.

Tuy nhất thời không rõ hướng đi của binh đoàn Charton, nhưng quân đội Việt Nam thường xuyên có thể thu được liên hệ vô tuyến điện giữa Lepage và Charton. Lepage bảo Charton tiến nhanh về phía ông ta; còn Charton nói vì quân đội Việt Nam đánh chặn, núi cao rừng rậm, không có đường đi, hành động khó khăn, muốn binh đoàn Lepage đưa quân đến đón. Mấy lần nghe được nội dung đại thể như thế, qua đó có thể phán đoán khoảng cách và phương hướng của hai toán quân này ; cho thấy chúng rất hoảng sợ, cũng rất khó khăn. Bộ tổng chỉ huy quân đội Việt Nam từ đó cũng yên tâm hơn, vì thế chuyển tâm chỉ huy công kích vào binh đoàn Lepage. Thế nhưng, rạng sáng ngày 4, đại đoàn 308 báo cáo, bộ đội mất hút binh đoàn Lepage không biết địch chạy trốn lúc nào. Mọi người rất ngạc nhiên, e rằng địch đã chạy thoát. Nhưng qua bình tĩnh phân tích cho rằng địch không thể về Thất Khê vì binh đoàn Charton còn ở phía bắc, Lepage không thể bỏ mặc, nên kiến nghị phía Việt Nam cho đại đoàn 308 tìm kiếm dấu vết địch rút lui, đuổi theo địch bám chặt không rời. Ngày 4 không biết địch ở đâu, sáng ngày 5, đại đoàn 308 mới báo cáo đêm ngày 4 đã đuổi kịp địch, té ra địch đi bốn, năm km về hướng tây, chiếm một núi cao rất dốc, gọi là núi Cốc Xá, nơi này núi cao rừng rậm, dễ phòng thủ khó tấn công. Hoả pháo của Việt Nam tiến lên trong rừng rậm rất khó khăn, không có đường, sơn pháo cũng rất khó sử dụng, nhưng pháo cối thì có thể được. Bộ đội rất vất vả, thương vong cũng rất lớn, yêu cầu nghỉ chỉnh đốn. Ý của Võ Nguyên Giáp đã đánh 4 hôm bộ đội thật ra rất mệt, nên xem xét ý kiến của bộ đội. Chúng tôi kiến nghị Hoàng Văn Thái, trong giờ phút then chốt này không nên ngừng công kích, không thể để cho địch được dịp xả hơi. Lúc này Võ Nguyên Giáp bảo Hoàng Văn Thái bảo đại đoàn 308 chờ lệnh. Đồng chí lại đến chỗ Hồ, Trần, Vi, lúc này chúng tôi liên hệ được điện thoại với đồng chí cố vấn đại đoàn 308 Vương Nghiên Tuyền, đồng chí nói thương vong không lớn, lần thương vong lớn nhất là lúc bộ đội giành thực phẩm thả dù, thì ra địch cố ý ném một số thực phẩm xuống hậu phương trận địa của quân đội Việt Nam dụ rất nhiều chiến sĩ ta ra lấy, nhưng những lần thả tiếp theo không phải là thực phẩm mà là tạc đạn, cách mặt đất chừng 20 mét thị đạn nổ trên không, gây thương vong cho gần 1 đại đội của quân đội Việt Nam. Quân đội Việt Nam muốn ngừng công kích tiến hành chỉnh đốn chủ yếu là vì chiến đấu bốn ngày liên tục, khi truy kích binh đoàn Lepage, hành động trong rừng nguyên thuỷ rất khó khăn, bộ đội mệt mỏi, tác phong không nhanh nhẹ, sợ khổ, sợ hy sinh, vả lại chủ yếu là vấn đề cán bộ.

Sau khi chúng tôi báo cáo tình hình với tham mưu trưởng Mai, đồng chí nói : “Trần, Vi chủ yếu nói vấn đề tác phong chiến đấu với Hồ, thái độ của Hồ kiên quyết rõ ràng : Khi Võ Nguyên Giáp đến, Hồ đã chỉ thị cho Võ phải động viên bộ đội kiên quyết ngoan cường, phải có tinh thần không sợ khổ, không sợ chết, không sợ mệt, tác chiến liên tục, kiên quyết bám địch không rời, liên tục công kích, nhất định tiêu diệt được binh đoàn Lepage trước khi địch hội quân v.v.. Khi chúng tôi trở về Bộ chỉ huy tiền tuyền, Bộ Tổng thì Võ Nguyên Giáp đang gọi điện thoại cho đại đoàn 308. Thông qua Hoàng Văn Thái được biết Võ Nguyên Giáp truyền đạt chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đại đoàn 308. Trong lúc rỗi rãi trong chuyện trò với Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái chúng tôi nói rõ, quân ta mệt, quân địch cũng mệt, quân ta có thương vong, quân địch thương vong còn lớn hơn ta, bây giờ địch ở vị thế bị động bị đánh, sợ bị tiêu diệt, kinh hồn táng đởm, chúng ta đánh chúng không có lo ngại gì. So sánh thì phía ta có lợi, chỉ cần nói rõ những điều đó với cấp dưới, làm tốt công tác tư tưởng chính trị chiến trường, có lòng tin thì sẽ có quyết tâm, thì sẽ nâng cao dũng khí, nâng cao ý chí chiến đấu, có thể đánh thắng. Giữa chúng tôi với Võ, Hoàng nói chuyện không cần phiên dịch. Võ nói, những điều đó Hồ Chủ tịch cũng đã phân tích, lãnh đạo của đại đoàn 308 đã tiếp nhận ý kiến của Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng. Có điều ngày 5 này vẫn phẳng lặng, không có tin tức gì làm người ta vui mừng.

Đêm 5/10 cuộc chiến bỗng trở nên ác liệt. Từ sáng ngày 6, liên tiếp truyền đến tin tức chiếm được trận địa nào đó của địch, bắt một số tù binh địch. Ngày 6 xem ra chiến đấu rất tốt, dự đoán thời gian binh đoàn Lepage bị tiêu diệt sẽ không lâu. Nhưng đêm hôm đó, máy thu thanh của đồng chí Vi Quốc Thanh mang theo nhận được tin của AFP nói hai binh đoàn Lepage và Charton đã hội quân, sau khi hai binh đoàn này hội quân sẽ kết thành binh đoàn cực mạnh trên chiến trường Đông Dương, bất khả chiến thắng. Nhưng kết quả điều tra, không phát hiện binh đoàn Charton, quả núi bị binh đoàn Lepage chiếm giữ phần lớn bị ta tấn công, tàn quân địch chỉ cố giữ một chỗ rất nhỏ. Song dự đoán binh đoàn Charton cũng ở gần đó. Bộ chỉ huy tiền phương đốc thúc Đại đoàn 308 ráo riết tấn công, không để cho địch có cơ hội xả hơi.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #73 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:07:24 am »

Sáng 7/10 được báo cáo Lepage đã bị bắt, chỉ huy phó của y bị bắn chết, đồng thời phát hiện binh đoàn Charton ở gần đó, đã vòng qua núi Cốc Xá, nhưng hành động chậm chạp Đại đoàn 308 đã ra lệnh cho bộ đội thừa thắng truy kích. Lúc này Bộ chỉ huy tiền phương hết sức phấn khởi vui mừng. Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chỉ thị cho Võ Nguyên Giáp, nhân lúc sĩ khí dâng cao phát huy tinh thần liên tục tác chiến, bám chặt binh đoàn Charton tiêu diệt chúng, hiện giờ chúng đang trong cảnh khó khăn, quyết không để cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi. Võ Nguyên Giáp cũng rất phấn khởi nói với Hồ, Trần, Vi đại đoàn 308 đã ra lệnh cho bộ đội xuất phát ngày hôm đó liên tiếp truyền về báo cáo bắt được bao nhiêu tù binh. Về sau con số lên đến 10.000 người, rõ ràng là trong đó có báo cáo trùng lặp và báo cáo vống lên, nhưng cũng chứng tỏ thắng lợi là khẳng định. Chiều 7 truyền đến tin Charton bị bắt. Đến đây hai binh đoàn quân Pháp đều bị tiêu diệt, nhưng vẫn còn không ít binh lính chạy trốn vào rừng, một bộ phận quân đội Việt Nam tiếp tục lùng sục trong núi tìm bắt tàn quân. Lúc này một tiểu đoàn từ Thất Khê kéo ra chi viện cũng phải bỏ chạy về Thất Khê. Tiếp đó Hồ, Trần, Vi chỉ thị Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tập kết bộ đội, bổ sung đạn dược lương thực, chuẩn bị nhanh chóng đánh lấy Thất Khê. Dự kiến ngày 10/10 đánh Thất Khê, nhưng đến hôm đó công tác chuẩn bị chưa xong, dọn dẹp chiến trường tốn rất nhiều người, ngay một lúc điều về không kịp. Đêm hôm đó phát hiện địch bỏ trốn Thất Khê. Đến lúc này bộ đội đều cho rằng chiến dịch đã kết thúc, khắp nơi hớn hở vui mừng.

Khi chúng tôi chào từ biệt Bộ chỉ huy tiền phương trở về Đoàn cố vấn, Hoàng Văn Thái nói : “ Lần này Đoàn cố vấn giúp chúng tôi rất lớn, Việt Nam chúng tôi chưa thể đánh một trận lớn như thế này, tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông thật vĩ đại, dùng ở đâu thì thắng lợi ở đó, rất cảm ơn các đồng chí ”. Chúng tôi nói : “ Thắng lợi này là kết quả của lãnh đạo của Việt Nam và nỗ lực chung của chiến sĩ, Hồ Chủ tịch, Võ Tổng tư lệnh, còn có đồng chí, Chủ nhiệm Trần Đăng Ninh, chỉ huy có phương pháp, kiên quyết quả đoán, cộng với cán bộ chỉ huy và binh sĩ cấp dưới dũng cảm, ngoan cường. Không sợ khổ, không sợ chết. Còn có dân công chi viện tiền tuyến, cùng chung nỗ lực giành được thắng lợi. Thắng lợi lần này có rất nhiều kinh nghiệm, sau trận đánh cần tổng kết thật tốt, tất nhiên cũng có chỗ thất bại và sai sót cũng cần tổng kết, rút ra bài học, như vậy có thể nâng cao bộ đội lên một bước lớn. Đánh một trận, tiến một bước. Hy vọng trong tổng kết lại đạt được thành công ”.

Sau khi về làm báo cáo tóm tắt với tham mưu trưởng Mai, đồng chí bảo chúng tôi nghỉ ngơi. Thật vậy, mấy ngày đêm vất vả rất ít ngủ, chúng tôi đều chuẩn bị ngủ mấy ngày cho đã. Nhưng trưa hôm sau, tham mưu trưởng Mai lại giao nhiệm vụ cho tôi. Thì ra Võ Nguyên Giáp muốn đi thị sát hiện trường tác chiến, tham mưu trưởng Mai bảo tôi và trưởng phòng Vương Chấn Phu của đồng chí Trần Canh cùng đi, chủ yếu liên hệ với cố vấn, lựa chọn cán bộ chiến sĩ cấp dưới có biểu hiện tốt trong chiến đấu nói ngay tại hiện trường để Võ hiểu được bên dưới có nhân tài. Kinh nghiệm phong phú tác chiến dũng cảm, giỏi chỉ huy ; cần đề bạt thì đề bạt, chủ yếu là nhân tài dưới cấp đại đội, kể cả chiến sĩ. Bởi vì cán bộ của quân đội Việt Nam không phải đề bạt từ trong chiến sĩ, mà là học sinh được tuyển chọn đưa đi học tập huấn luyện quân sự ba tháng đến nửa năm, sau đó đưa xuống làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, cho nên khi đánh trận, những cán bộ này đều có biểu hiện tốt, nhưng có khá nhiều sợ chiến đấu, không biết đánh giặc, không biết chỉ huy. Chiến đấu giành được thắng lợi đều chỉ biểu dương chỉ huy, nhưng tác chiến thật sự là ở bên dưới. Ý kiến của tham mưu trưởng Mai là muốn đề Võ Nguyên Giáp thông qua khảo sát thực tế cơ sở cho việc thay đổi chế độ này của quân đội Việt Nam.

Chiều tối 12/10, tôi và Vương trưởng phòng, Hoàng Đôn phiên dịch của tôi, cùng với Võ Nguyên Giáp ngồi lên chiếc xe Jeep mui trần của Mỹ vừa mới lấy được. Võ Nguyên Giáp nói đi Thất Khê trước để tham gia đại hội mừng thắng lợi, sau đó đi xuống bộ đội chọn một số chỉ huy rồi đến chiến trường tiêu diệt Lepage, Charton, để nghe họ nói về cuộc chiến đấu đã qua. Chúng tôi kiến nghị với đồng chí, còn phải chọn trung đội trưởng, tiểu đội trưởng và chiến sĩ tác chiến tốt thì nói càng sinh động hơn, đồng chí đồng ý.

Chúng tôi lắc lư một hồi trên con đường làng chật hẹp, đi lên quốc lộ 4, chạy nhanh về Thất Khê. Trời tối dần, khi sắp đến Thất Khê, bên đường bên trái loé lên một bóng đen, Võ lập tức bảo dừng xe, rồi nhảy xuống xe nhanh như chớp chạy vội đến bóng đen đó, chúng tôi cũng vội vàng xuống xe đuổi theo. Thì ra bóng đen ấy lại là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đi chân đất, mặc quần áo thường dân, quần xắn lên đầu gối, đầu chít đầy vải băng, chỉ để hở hai mắt và mũi. Khi nói mới gỡ băng trên miệng, rất giống một thương binh. Chúng tôi biết Người không bị thương, đó chỉ là hoá trang, bởi vì khi đi ra ngoài Người đều phải hoá trang. Lúc này một chàng trai chạy đến, đồng chí ấy là lính bảo vệ của Hồ cũng hoá trang, trên lưng một khẩu tiểu liên, một mảnh vải quàng trên cổ, giống như chiếc áo choàng, che kín khẩu súng. Hồ chủ tịch cũng đến đại đoàn 308, Võ mời Người lên xe, Người kiên quyết không lên, chúng tôi lại mời Người lên xe, cũng vô ích, cuối cùng Người không lên xe, chúng tôi đành phải đi trước.

Đến Thất Khê trời tối đen như mực, không thấy rõ thứ gì, nhưng nhìn thấy nhiều quân nhân đi lại. Trên quảng trường rất lớn có thể là sân bay, bộ đội sắp hàng ngồi chung quanh. Dọc theo dãy ngồi của bộ đội, cứ cách mấy chục mét có một đống lửa trải, các chiến sĩ cất cao tiếng hát quốc ca Việt Nam. Không gặp người của Đại đoàn, mấy người phụ trách trung đoàn đón chúng tôi, đưa Võ Nguyên Giáp đi quanh một vòng, chúng tôi theo sau. Các chiến sĩ hô to khẩu hiệu : “ Hồ Chí Minh muôn năm ”, “ Mao Trạch Đông muôn năm ”. “ Muôn năm ” nghĩa là vạn tuế. Khi Võ Nguyên Giáp, đi một vòng chào các chiến sĩ, nói các đồng chí “ vất vả quá ” như đi duyệt binh. Lúc này, chúng tôi kiến nghị nhanh chóng kết thúc nghi lễ để đề phòng máy bay địch bắn phá, và khuyên Võ rời hiện trường thật nhanh. Võ đồng ý, sau khi chỉ thị cho mấy người phụ trách, chúng tôi đến đại đoàn bộ cách mấy cây số.

Ngày hôm sau được biết Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đến đại đoàn, nhưng sau khi trời sáng lại đi. Chúng tôi nghe đại đoàn báo cáo tình hình chiến đấu vừa qua với Võ Nguyên Giáp, là Tham mưu trưởng báo cáo, không nói khuyết điểm nhiều chỉ nói chỉ huy các cấp giỏi như thế nào, nội dung trống rỗng. Trình bày quá trình chiến đấu cũng rất sơ sài. Sau đó Vương trưởng phòng nói nhiệm vụ của chúng tôi đến đây với đồng chí Vương Nghiên Tuyền, cố vấn đại đoàn, yêu cầu đồng chí này thông qua cố vấn trung đoàn, tiểu đoàn lựa chọn một số nhân vật nổi bật trong chiến đấu bất kể cấp nào cũng được, nhưng chú trọng lựa chọn trong cơ sở. Thì ra, trước khi xuất phát, Võ Nguyên Giáp đã báo cho đại đoàn 308 muốn đi xem nơi nào. Cho nên đại đoàn 308 đã có sự sắp xếp, thi thể địch trên chiến trường cũng đã chôn cất qua loa. Chúng tôi mất hai ngày đi xem các nơi chiến đấu ngày mùng 2, 3 nơi một tiểu đoàn trưởng quân đội Việt Nam hy sinh và vùng núi Cốc Xá. Tiểu đoàn trưởng quân đội Việt Nam hy sinh vì quân Pháp ném bom napan, đốt cháy cả một cánh rừng, sở chỉ huy của tiểu đoàn trưởng ở trong rừng này, một số cán bộ chiến sĩ cũng bị chết cháy. Về sau còn tổ chức quốc tang đối với Tiểu đoàn trưởng này. Tại hai nơi khác đều do cán bộ của tiểu đoàn, đại đội kể lại quá trình chiến đấu, còn chiến sĩ cơ sở cần lựa chọn (đa số là tiểu đội trưởng) thì kể hành động cụ thể của họ trong tác chiến. Trong quá trình này, tôi phát hiện chức vụ cán bộ chỉ huy càng cao, càng không hiểu rõ tình hình chiến đấu cụ thể, họ có thể chỉ huy bộ đội khi tiếp cận địch, cũng có thể chỉ huy khi hai bên bắn nhau, một khi bắt đầu xung kích thì họ không hiểu tình hình. Ngược lại, cán bộ cơ sở đa số là tiểu đội trưởng, tiểu đội phó cũng có vài trung đội trưởng và chiến sĩ, khi kể về xung kích, vu hồi hoặc đột kích trận địa địch, đánh như thế nào, bắt địch như thế nào, kể rất cụ thể, và đều là hành động tự động, không có chỉ huy của cấp trên. Có một điều đội trưởng kể rất hình ảnh, họ công kích một quả núi, khi vận động lên trước, đi một lúc không thấy người chỉ huy đâu mấy tiểu đội trưởng bàn với nhau khi đánh thì ai thu hút hoả lực của địch, ai dẫn bao nhiêu người vu hồi, ai dẫn bao nhiêu người đột kích v.v.. phân công rõ ràng đâu vào đấy. Còn quân Pháp sợ nhất vu hồi và bao vây, một khi phát hiện bên sườn và sau lưng có quân đội Việt Nam thì khiếp đảm kinh hoàng, lúc này xung kích thì rất có lợi. Họ cũng nói đánh nhau ác liệt, nhưng khi nói đến xung kích thì xem ra không có gì ác liệt vì quân đội Việt Nam một khi xung kích thì địch bỏ chạy, chạy không thoát thì nộp súng. Quân Pháp đánh trận một là dựa vào hoả lực, hai là dựa vào công sự, công sự trong dã chiến sơ sài chủ yếu dựa vào hoả lực. Rất nhiều tiểu đội trưởng đều nói kinh nghiệm kiềm chế và thu hút hoả lực của địch. Trong chiến đấu, kiềm chế và thu hút hoả lực của địch trước, sau đó vu hồi qua bên sườn hoặc sau lưng địch, rồi bất ngờ xung kích, thương vong nhỏ, thu hoạch lớn. Một tiểu đội trưởng kể lại sự tích chiến đấu của đồng chí, đã chỉ huy quân số gần một đại đội tổ chức hoả lực như thế nào, vu hồi như thế nào, leo lên đỉnh núi dốc đứng như thế nào, xuất kỳ bất ý xông vào trên địa địch như thế nào để chiếm được mỏm núi, bắt 60, 70 tên địch làm tù binh. Còn có một trung đội trưởng thành tích chiếm đấu không kém người tiểu đội trưởng này. Núi Cốc Xá xung quanh đều là vách đứng, chỉ có phía tây nam có thể leo lên. Con đường này do một tiểu đội trưởng dẫn mấy chiến sĩ tìm được, ban đêm mò lên, nổ súng bất ngờ, địch hoảng loạn không biết quân đội Việt Nam lên bao nhiêu người, bỏ cửa rừng chạy trốn, bộ đội lớn Việt Nam mới từ đấy leo lên núi, sau đó lần từng cái hang bắt địch, chỉ cần ném mấy quả lựu đạn vào cửa hang, quét một tràng liên thanh, thì địch đầu hàng. Lepage bị bắt làm tù binh trong hang núi đó.

Nói tóm lại, Võ Nguyên Giáp đã thấy rõ, hễ khi xung phong hãm trận phần nhiều các tiểu đội trưởng chỉ huy đánh trận. Chỉ huy đại đội trở lên chỉ có thể bố trí trước khi xung phong không chỉ huy tại trận. Chỉ huy trung đội đích thân dẫn đội xung phong cũng không nhiều. Vì vậy Võ Nguyên Giáp tạm thời quyết định, xuống bộ đội mở ba buổi chiến sĩ toạ đàm, mỗi trung đoàn chọn khoảng 20 tiểu đội trưởng, chiến sĩ, họp nửa ngày, kể cả đi đường mất hơn hai ngày. Trong các buổi toạ đàm này đã kiểm chứng thêm những ấn tượng mà thị sát chiến trường đạt được. Sau đó Võ Nguyên Giáp nói với chúng tôi : “ Bộ đội cấp dưới có những nhân tài cầm quân đánh giặc, ý kiến của các đồng chí rất đúng, phải từ bên dưới tìm người có kinh nghiệm tác chiến đưa lên cương vị của bộ đội, đó là vấn đề quan trọng trong xây dựng quân đội ”.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #74 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:07:52 am »

Lẽ ra, ngày hôm sau (khoảng 20/10) phải về Bộ chỉ huy tiền tuyến, nhưng đêm đó nhận được điện của Bộ chỉ huy tiền tuyến ; Lạng Sơn đã giải phóng. Võ điện hỏi tình hình tỉ mỉ. Rạng sáng, điện của Bộ chỉ huy tiền phương nói : “ Địch ở Lạng Sơn đúng là đã tháo chạy, bọn địch ở Hà Nội hết sức hoảng sợ ”. Trần, Vi, Đặng kiến nghị cấp tốc lên Lạng Sơn và ra lệnh cho bộ đội tập kết ở gần Lạng Sơn, chuẩn bị tiến quân về Hà Nội. Võ Nguyên Giáp điện trả lời đồng ý, lập tức báo cho đại đoàn 308 tiến lên Lạng Sơn. Chúng tôi lập tức xuất phát lên chiếc xe Jeep của Võ. Đi được một đoạn, đến chỗ eo núi phát hiện cầu bị địch tháo chạy đánh sập, đành cho xe Jeep về Cao Bằng, chúng tôi đi bộ lên Lạng Sơn.

Trên đường, chúng tôi gặp một số chiến sĩ Việt Nam, hỏi thăm quá trình giải phóng Lạng Sơn mỗi người nói một khác, khó biết chính xác. Tình hình đại thể là : Việc binh đoàn Lepage, Charton bị tiêu diệt làm cho địch ở Thất Khê sợ vỡ mật, sĩ quan của phân khu và một tiểu đoàn lên máy bay chạy trốn. Số còn lại chạy trốn trên bộ như chim vỡ tổ, chạy đến cứ điểm sau là nói đại quân Việt Minh đã đến rồi, lính trong cứ điểm đó cũng chạy theo. Có người chạy thẳng về Hà Nội, có người theo quốc lộ 4 chạy về Lạng Sơn, Nà Sầm, Đồng Đăng cũng kinh hoàng. Trong tay Tư lệnh Lạng Sơn còn có một tiểu đoàn, đưa đến Đồng Đăng để đánh chặn quân đội Việt Nam ; tiểu đoàn này đến Đồng Đăng, bị ảnh hưởng của quân tháo chạy, vô cùng sợ hãi, cũng chạy trốn tứ tung. Người ta nói tiểu đoàn trưởng dẫn một số tàn quân ra đầu hàng bộ đội của ta ở Trấn Nam quan (thực ra chỉ là một đại đội phó dẫn mấy chục binh lính). Một trung đội Việt Nam truy kích tàn quân Pháp khi truy đến Lạng Sơn, viên Tư lệnh Bắc Bộ Việt Nam vứt tất cả quân nhu, lên máy bay chạy trốn. Trung đội này tiến vào Lạng Sơn, thì Lạng Sơn giải phóng. Hai ngày sau chúng tôi đến Lạng Sơn nhìn thấy khắp nơi bừa bãi. Hang động Lạng Sơn rất nhiều, đều là kho tàng của quân Pháp tàng trữ súng ống, khí tài, đạn dược lương thực. Lương thực đã bị cư dân lấy đi rất nhiều có cửa hàng chất đầy bột mì, dày đến 10 phân dẫm lên chắc nịch. Các kho đạn dược, súng ống, có quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong một doanh trại có mấy chục chiếc ôtô còn nguyên, nhưng phần lớn lốp xe bị cắt, người trong quân đội Việt Nam cắt đem làm dép cao su đơn giản (giống như dép lê). Chúng tôi gặp một trung đội trưởng quân đội Việt Nam đề nghị họ cử người đến trước cửa kho làm công tác trông coi. Ngày hôm sau, các đồng chí lãnh đạo Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Đặng Dật Phàm, Bộ chỉ huy tiền phương Việt Nam cũng đến trú ở ngoại ô (vì máy bay Pháp đã bắt đầu bắn phá Lạng Sơn). Lúc này có người lãnh đạo Việt Nam bàn tán rằng, nếu thừa thắng xốc tới đánh lấy Hà Nội thì tốt biết mấy ! Có người nói đánh Hà Nội cần phải đánh sân bay Gia Lâm trước, đồng thời cắt đứt con đường của địch từ Hà Nội thông ra các cảng ven biển như Hải Phòng v.v... đề phòng địch chạy thoát từ đường không, đường biển. Sau đó bao vây Hà Nội buộc địch tháo chạy về phía nam tiến bộ và tiêu diệt chúng trong vận động. Đồng chí Trần Canh trong lúc rỗi rãi cũng từng nói với Võ Nguyên Giáp : Nếu Trung Quốc cho tôi một quân đoàn, có thể đánh thẳng tới Hà Nội, nhanh chóng giải phóng Việt Nam. Song lúc bấy giờ tình hình Triểu Tiên căng thẳng, sau khi quân Mỹ đổ bộ lên Nhân Xuyên, tình hình chiến sự Triều Tiên xấu đi biên giới đông bắc của Trung Quốc bị đe doạ, để bảo vệ an ninh quốc gia Trung Quốc phải tính đến chống Mỹ viện Triều, không thể tác chiến cả hai phía, không đưa quân sang Việt Nam. Trên thực tế lúc bấy giờ điều kiện của Việt Nam đánh thành phố lớn cũng chưa chín muồi, nên chọn chiến trường khác, mở rộng chiến tranh du kích, phối hợp với vận động chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, không nên vội đánh thành phố lớn. Nôn nóng muốn thành công ngay ngược lại không có lợi. Do bộ đội chủ lực tập kết chưa xong, có những bộ đội lùng sục trong núi vẫn chưa về, bộ đội cần nghỉ ngơi chỉnh đốn, việc tấn công Hà Nội chỉ là chuyện bàn tán mà thôi.

Đến đây chiến dịch kết thúc thắng lợi với kết quả vượt xa mục đích dự kiến, giải phóng toàn bộ quốc lộ 4 phong toả đoạn Lạng Sơn đến Cao Bằng trên biên giới Trung – Việt, cũng xoá bỏ sự phong toả biên giới từ Lạng Sơn đến Lào Cai. Do đó mà chiến dịch này không gọi là chiến dịch Cao Bằng nữa mà đổi lại là chiến dịch biên giới. Toàn bộ chiến dịch đã làm chết, bị thương và bắt làm tù binh hơn 8.000 tên địch. Tổng binh lực của Pháp ở Bắc Bộ Việt Nam (không đến 15000 người) phần lớn bị tiêu diệt, thu phục rất nhiều thành phố thị trấn lớn nhỏ biên giới bao gồm tỉnh lỵ Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai v.v.. Sau chiến dịch, Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam (tướng ba sao), Tư lệnh Bắc Bộ Việt Nam (tướng hai sao) đều bị cách chức. Thượng tuần tháng 11, Đoàn cố vấn trở về Quảng Uyên chuẩn bị tham gia tổng kết, đồng chí Trần Canh cũng về nước vào lúc này.

Sau chiến dịch biên giới, quan hệ giữa cán bộ cố vấn Trung Quốc và cán bộ quân đội phía Việt Nam càng mật thiết hơn. Trước đây cán bộ quân đội Việt Nam ít nhiều giữ thái độ hoài nghi đối với chúng tôi, giới thiệu tình hình có nhiều bảo lưu, khuyết điểm nội bộ không muốn thổ lộ với chúng tôi, đối với kiến nghị của chúng tôi, bề ngoài tiếp thu, bên trong không thực thi tất cả. Bây giờ tình hình thay đổi rất nhiều, chiến sĩ gặp chúng tôi đều rất thân thiết, nhân dân thấy chúng tôi cũng dám lại gần, chĩa ngón cái với chúng tôi; cán bộ nêu ra nhiều vấn đề với chúng tôi hơn, dám nói ra những vấn đề họ còn vướng mắc, đề nghị chúng tôi nói cách giải quyết, kiến nghị của chúng tôi cũng dễ được chấp nhận. Ví như, một tiểu đội trưởng chỉ huy bảy, tám mươi người tác chiến được đề bạt ngay làm đại đội trưởng và hơn nữa còn đề bạt, không ít chiến sĩ làm cán bộ. Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn 95 Doãn Tuế được đề bạt làm Phó trung đoàn trưởng, thay thế vị trí của “Ước”, “Ước” được điều về Bộ Tổng tham mưu (năm 1958 khi tôi học tập ở Học viện pháo binh Tuyên Hoá, Doãn Tuế cũng đến học tập ở viện này, lúc đó đồng chí đã là Phó tham mưu trưởng pháo binh quân đội Việt Nam, năm 1972 khi Võ Nguyên Giáp đi thăm Tây An, đồng chí Tư lệnh quân khu Lan Châu Bì Định Quân dẫn tôi đi theo, Võ Nguyên Giáp cho tôi biết Doãn Tuế đã là Tư lệnh Pháo binh của quân đội Việt Nam). Họ nhiệt liệt ca ngợi Mao Chủ tịch thực sự vĩ đại, tư tưởng Mao Trạch Đông cũng thích hợp với Việt Nam, cán bộ chiến sĩ đều có cảm nhận điều đó.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #75 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:08:25 am »

3. Từ chiến dịch Trung Du đến chiến dịch Hoà Bình

 
Sau chiến dịch Biên Giới phần lớn vùng núi phía bắc Việt Nam đã được giải phóng, biên giới Trung – Việt từ Lạng Sơn đến Cao Bằng đã khai thông toàn bộ, vật tư của ta viện trợ cho Việt Nam có thể đi thông suốt, đó là điều kiện rất có lợi cho sự tăng cường đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, tinh thần ý chí của binh sĩ quân đội Việt Nam lên cao, lòng tin kháng chiến nâng lên rất nhiều. Bộ đội rèn luyện một trận đánh lớn bao gồm công kiên, vu hồi bao vây, đánh địch trong vận động hoặc vừa mới đóng quân. Vũ khi trang bị của bộ đội được cải thiện rất nhiều, đại đoàn 304, 312 cũng tổ chức xây dựng cải thiện trang bị xong xuôi, một bộ phận còn tham gia tác chiến, ngoài ra còn bắt đầu tổ chức xây dựng binh chủng kỹ thuật như thành lập đại đoàn công pháo 351 (gồm trung đoàn sơn pháo 95, trung đoàn trọng pháo 34 và một trung đoàn công binh), Nhưng đã nảy sinh một vấn đề làm người ta lo lắng. Phía Việt Nam có người lãnh đạo có tư tưởng kiêu căng mù quáng lại bộc lộ ra. Khẩu hiệu “tổng phản công” lại dâng cao, chủ yếu thể hiện trong việc lựa chọn hướng tác chiến tiếp theo.

Sau giải phóng Lạng Sơn, phía Việt Nam có tính đến nhanh chóng tập kết bộ đội, nhân lúc quân Pháp hỗn loạn, một đòn tấn công sân bay Gia Lâm, đe doạ Hà Nội và bao vây Hải Phòng, vít chặt tuyến đường quân Pháp tháo chạy trên không và trên biển buộc địch chạy trốn bằng đường bộ và tiêu diệt chúng trong vận động. Nhưng lúc đó xem ra, năng lực tổ chức chỉ huy của quân đội Việt Nam chưa ổn, bộ đội mỗi nơi làm theo ý của mình không thể tập kết được ngay, nếu có tập kết được cũng không biết mất bao nhiêu thời gian, ngày tháng kéo dài sẽ mất thời cơ ; đồng thời cũng tính tới việc có thể bị quân Pháp oanh tạc, phá huỷ Thủ đô. Tóm lại lực lượng của quân đội Việt Nam và công tác đảng lúc bấy giờ không thể nào đánh lấy Hà Nội, không đủ sức tiếp quản Hà Nội. Xét về mặt chiến lược vẫn là địch mạnh ta yếu thời cơ đánh thành thị lớn chưa chín muồi, vì thế Trung ương Đảng ta kiến nghị không đánh Hà Nội, vẫn lấy tiêu diệt sinh lực địch làm mục tiêu chính, đánh lấy thành thị là phụ, Hình như phía Việt Nam nhận thức chưa đầy đủ những vấn đề quan trọng đó.

Sau chiến dịch biên giới, cố vấn các cấp đều kiến nghị làm tốt việc tổng kết chiến đấu chiến dịch để đánh một trận, tiến thêm một bước, biểu dương tiên tiến, tìm ra bài học kinh nghiệm, khắc phục khuyết điểm sai lầm, nâng cao tố chất bộ đội hơn nữa. Lúc đó phía Việt Nam có người còn không biết và không quen, không thạo nghiêm chỉnh tổng kết xem xét tình huống thực tế và phân tích vấn đề của mình, say sưa trong thắng lợi, không thể nghiêm chỉnh phân tích nguyên nhân và điều kiện chủ quan, khách quan giành được thắng lợi, trái lại đánh giá quá cao lực lượng của mình.

Chiến dịch Biên Giới kết thúc, tức vào đầu tháng 11/1950, Đoàn cố vấn rút bỏ cố vấn cấp tiểu đoàn. Vì sao vậy ? Có thể lãnh đạo phía Việt Nam không nhận thức đầy đủ, không nghiên cứu nghiêm chỉnh đối với việc này. Đó là vì : Trong trác chiến, cán bộ chỉ huy cấp giữa và cấp dưới của phía Việt Nam, chủ yếu là hai cấp tiểu đoàn, đại đội không dám áp sát tuyến một để nắm bộ đội, chỉ huy cụ thể thực địa, một khi đánh trận, phân đội cơ sở làm theo ý của mình, không hình thành sức mạnh công kích mạnh mẽ. Còn cố vấn cấp tiểu đoàn của chúng ta cử xuống đều là các đồng chí chiến đấu dũng cảm được lựa chọn, là những chiến tướng từng lãnh đạo phân đội dưới tiểu đoàn xung phong hãm trận, và nhiều người đã lập chiến công. Một khi họ đến chiến trường, bao giờ cũng quen đến tuyến một, trực tiếp nắm và chỉ huy bộ đội tác chiến, dẫn đầu xung trận, anh dũng tiến lên bất chấp an nguy cá nhân, điều đó đa số chỉ huy cấp tiểu đoàn, đại đội phía Việt Nam không làm được.

Tất nhiên trong cán bộ tiểu đoàn, đại đội phía Việt Nam cũng có người có dũng khí nhưng họ thiếu kinh nghiệm thực tiễn nhất là thiếu kinh nghiệm tổ chức chỉ huy đánh trận lớn, đánh trận ác liệt. Điều đó đã hình thành một mâu thuẫn rõ rệt, xuất hiện sự không nhịp nhàng, không hài hoà giữa lãnh đạo tiểu đoàn phía Việt Nam với cố vấn cấp tiểu đoàn chúng ta lại thêm có phiên dịch cũng không muốn theo cố vấn tiểu đoàn mạo hiểm ra tuyến một, lợi dụng điều kiện thuận lợi phiên dịch của mình thêm mắm thêm dấm vào trong đó, làm nghiêm trọng thêm mâu thuẫn trên, do đó phía Việt Nam phản ánh khá nhiều, Đoàn cố vấn không thể không rút bỏ cố vấn cấp tiểu đoàn sau khi phía Việt Nam đồng ý. Vì chú ý toàn cục, vì tình hữu nghị và đoàn kết, tránh xảy ra vấn đề ảnh hưởng tới quan hệ Trung – Việt, Đoàn cố vấn làm như thế là đúng đắn. Còn phía Việt Nam không thấy làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao năng lực chỉ huy của tiểu đoàn, đại đội của họ. Họ không hiểu vai trò của cố vấn tiểu đoàn trong chiến dịch Biên Giới, trong các chiến dịch về sau, do không có cố vấn tiểu đoàn, bộ đội gặp cơ hội tiêu diệt địch có lúc cũng chỉ có thể trở thành trận đánh làm tan rã. Do một số người phía Việt Nam kiêu căng mù quáng, đánh giá quá cao lực lượng của mình, trên vấn đề chiến dịch tiếp theo tiến hành ở đâu, nhận thức giữa Đoàn cố vấn và lãnh đạo quân đội Việt Nam không hoàn toàn nhất trí.

Sau chiến dịch Biên Giới, Đoàn cố vấn từng đề nghị mở chiến trường ở vùng Tây Bắc, đánh mấy chiến dịch, giành lấy vùng núi Tây Bắc, mà có thể mở rộng và củng cố căn cứ địa quân đội Việt Nam chiếm giữ, lại có thể nhìn xuống đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tiến có thể công, thoái có thể thủ, nắm quyền chủ động chiến lược. hơn nữa xét thấy quân đội Việt Nam thiếu lực lượng phòng không, chống tăng, ở vùng núi Tây Bắc, núi cao rừng rậm, địa hình phức tạp, tiện lợi cho trang bị yếu kém đánh thắng địch có trang bị ưu thế. Đồng thời cử một bộ phận bộ đội đánh bật cứ điểm quân địch chưa rút ở vùng đông bắc Hà Nội, củng cố vùng giải phóng đã mở rộng. Kiến nghị này, họ chưa đồng ý, kiên trì muốn đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ, uy hiếp Hà Nội.

Trung tuần tháng 11/1950 ở gần Tả Trúc, tây bắc Thái Nguyên, triệu tập hội nghị tổng kết cán bộ cơ quan và cấp trung đoàn trở lên tham gia. Tại hội nghị này, ngoài việc tổng kết bài học kinh nghiệm, còn bố trí kế hoạch chiến dịch tiếp theo ra, còn dự định chỉ tên phê bình mấy cán bộ trung đoàn trở lên chấp hành lệnh không tốt, chỉ huy sai sót, trong đó có một cán bộ đại đoàn. Do nguyên nhân nào đó, Võ Nguyên Giáp không chỉ tên phê bình mấy cán bộ này mời riêng nhưng cũng khá nhẹ nhàng, không đủ mức nghiêm nhất. Trường Chinh và Phạm Văn Đồng tham gia hội nghị. Tại hội nghị, tuy Trường Chinh phê bình mấy cán bộ này. Võ Nguyên Giáp chỉ phát biểu tổng kết và chỉ phê bình qua loa không nêu tên đối với khuyết điểm sai lầm. Phạm Văn Đồng phát biểu càng ôn hoà. Khi toạ đàm, trong quá trình mọi người phát biểu ý kiến, Phạm Văn Đồng còn nêu ra vấn đề : “ Vì sao có cố vấn, thương vong của chúng ta vẫn lớn như thế ? ” chứng tỏ ông không hiểu đánh trận. Trong chiến dịch Biên Giới, quân đội Việt Nam thương vong ngàn người, còn diệt địch là 8000 người, so sánh địch ta là chiến dịch xuất sắc trong lịch sử chiến tranh. Điều này cũng chứng tỏ là một cán bộ lãnh đạo, không có nhận thức đối với tính lâu dài, tính tàn khốc của chiến tranh, thiếu nghiên cứu tối thiểu với hiện thực địch mạnh ta yếu, tưởng rằng giành được thắng lợi là dễ như trở bàn tay, không cần trả giá. Tư tưởng “thắng mạnh” đó của họ cũng tìm được cội nguồn rồi. Cho nên tại hội nghị tổng kết lần này, tiếng nói “tổng phản công”, “giành lấy đồng bằng Bắc Bộ” “cô lập Hà Nội, lấy lại Hà Nội” tương đối nhiều, đối với việc tổng kết bài học kinh nghiệm, tìm ra vấn đề giải quyết vấn đề, hội nghị thảo luận không nghiêm chỉnh lắm, thiếu sâu sắc, qua loa xong chuyện, nhưng lại rất sôi nổi trong việc biểu dương sự tích tiên tiến của cán bộ. Cái cần biểu dương tất nhiên phải biểu dương, nhưng có những sự tích rất bình thường. Ví như trung đoàn khi công kích lô cốt ngầm ở Đông Khê, mấy lần đặt thuốc nổ đều không thành công. Hoả lực địch rất điên cuồng, một tiểu đội trưởng ra lệnh cho một chiến sĩ dùng lựu đạn phá lỗ châu mai, chiến sĩ này trong khi tiến lên bị thương, nhưng kiên trì mò đến lỗ châu mai, tự hy sinh oanh liệt, để bảo đảm cho bộ đội đánh tan lô cốt ngầm này. Một chiến sĩ vĩ đại như thế không biểu dương, nhưng cán bộ có liên quan cấp đại đội trở lên lại được biểu dương vì sự tích đó. Chiến dịch Biên Giới thắng lợi to lớn như vậy, quân đội Việt Nam lại lần đầu tiên tác chiến với quy mô lớn như vậy mà không được tổng kết nghiêm túc, đối với xây dựng quân đội Việt Nam mà nói là điều hết sức đáng tiếc.

Hạ tuần tháng 11/1950, tức sau hội nghị tổng kết, phía Việt Nam nêu ra tổ chức một chiến dịch ở vùng trung du sông Hồng tây bắc Hà Nội, đó tức là chiến dịch trung du. Đoàn cố vấn tuy vẫn cho rằng nên tìm thời cơ chiến đấu ở vùng núi Tây Bắc, nhưng chưa được phía Việt Nam chấp nhận. Tính đến toàn cục, tính đến đoàn kết, không thể tiếp tục tranh luận, Đoàn cố vấn đã đồng ý với ý kiến của họ, nhưng căn cứ vào nhược điểm của quân đội Việt Nam bộc lộ ra trong chiến dịch biên giới, đã đề xuất một số vấn đề cần giải quyết và chú ý trong chiến dịch như vấn đề cán bộ chỉ huy đại đội lên nắm bộ đội áp sát tuyến một chỉ huy trong tác chiến như thế nào, vấn đề phòng không máy bay buộc máy bay địch không dám bay thấp ; và giới thiệu cách làm trong chiến tranh giải phóng Trung Quốc, vấn đề đánh xe tăng (xe tăng quân Pháp đều là xe tăng bọc thép lội nước cỡ siêu nhỏ, vả lại số lượng rất ít) và cả khuyết điểm bộc lộ ra trong chiến dịch biên giới cần khắc phục trong công kiên, dã chiến v.v...

Chiến dịch sắp xếp bắt đầu từ hạ tuần tháng 12/1950. Kế hoạch chiến dịch là : đại đoàn 308 cùng với trung đoàn 209, trung đoàn 141, hai tiểu đoàn của trung đoàn sơn pháo 95 chọn mấy cứ điểm trong vùng có lợi, chủ yếu dọc phía bắc đồng bằng Bắc Bộ đến bờ bắc sông Hồng từ bắc Hà Nội đến vùng Vĩnh Yên, Phú Thọ, tây bắc Hà Nội, để tấn công tạo thời cơ đánh địch tăng viện. Ngoài ra lệnh cho trung đoàn 174, trung đoàn 98, 1 tiểu đoàn sơn pháo ở tuyến từ Tiên Yên đến Hải Ninh, đông bắc Hà Nội cũng chọn mấy cứ điểm tấn công, sau đó đánh chặn viện, ngăn chặn địch mở rộng ra đông bắc (lúc này quân Pháp đã khôi phục một số cứ điểm đã bỏ ở Đông bắc).
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #76 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:08:57 am »

Ngày 17 hoặc 18 tháng 12 năm 1950, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam xuất phát từ Tả Trúc, tiến đến vùng trung du sông Hồng. Lúc này miền bắc Trung Quốc là mùa đông giá rét, còn ở đây lại như mùa xuân, nước trong đồng phẳng như mặt gương, từng tốp hai ba phụ nữ nông thôn khom lưng cấy mạ, trong ruộng lúa nhô lên gò đất lớn nhỏ, trên những gò đất ấy đều là rừng cây hoặc rừng tre um tùm hoặc là rừng cây cọ, lá cây cọ giống như lá dùng làm quạt lá chuối của ta, nhưng rất to, đường kính khoảng một mét, có cốt cách riêng, xinh xắn. Trên đường, chim hót trên cành, từng đàn chim oanh ca lông màu sặc sỡ ríu rít trên cây, cũng thường thấy đàn bướm đủ sắc màu tung tăng bay lượn. Nhưng đêm đến, nhiệt độ xuống thấp, ở trong nhà tre, bốn phía gió lùa, lại cảm thấy lạnh thấu xương. Ở đây không như dân tộc Nùng vùng núi Việt Bắc không có nhà sàn đơn sơ phần nhiều là nhà tranh xây trên gò đất giữa đồng, trong nhà cũng giống như dân tộc Nùng dùng cả thân cây nhóm lửa, một đầu châm lửa để lâu không tắt, khi nấu cơm cho một ít cành khô thì bốc lửa, bình thường không có ngọn lửa, chỉ có tro ủ, người ta nói các loài rắn độc hoặc dã thú không dám đến gần ; ban đêm chúng tôi ngủ gật xung quanh đống lửa như vậy.

Ngày 22 hoặc 23 tháng 12, chúng tôi đi lên phía phải một quả núi lớn đen ngòm bao phủ trong mây mù, đó là núi Tam Đảo, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở tây bắc Hà Nội, cũng là đích đến của chúng tôi, chúng tôi sẽ hỗ trợ phía Việt Nam tác chiến trên đỉnh núi đó. Gần trưa, mới đến chân núi, vào một thôn làng ở giữa đồng lúa ăn cơm trưa. Thôn này có mười mấy hộ, xung quanh là tre xanh um tùm, làm bức tường vây tự nhiên, nhà cửa cũng làm bằng tre. Dáng người ở đây có khác với nơi khác đã gặp, dù nam hay nữ đều có nước da sáng sủa, cử chỉ nhỏ nhẹ, nam thường mặc quần áo màu vàng đất, màu nâu, áo ngắn tay, quần rộng ống, nữ mặc váy dài liền áo vải xanh một màu có hoa văn nhỏ thêu chỉ trắng, trên bắp chân quấn vài hoa văn xanh trắng giống như miếng băng quấn của chiến sĩ chúng ta thời kỳ chiến tranh chống Nhật. Thì ra đây là một chi của dân tộc Mèo, là vùng tập cư của Mèo trắng. Dân tộc Mèo có mấy chi, Mèo đỏ, Mèo đen, Mèo trắng, Mèo hoa. Mèo đỏ, Mèo đen thân lùn và béo, da ngăm đen, Mèo hoa và Mèo trắng gần giống nhau. Mèo trắng của thôn này rất hiếu khách. Chúng tôi ăn trưa ở đây, chuyện trò vui vẻ với họ, rất chan hoà.

Ăn cơm xong nghỉ một lúc rồi tiến lên núi Tam Đảo, đi khoảng năm, sáu cây số thì bắt đầu leo núi. Dốc phía nam núi, có đường nhựa do người Pháp làm, nhưng chúng tôi leo lên dốc phía bắc. Dốc phía bắc dựng đứng, trong đá lổn nhổn có một lối mòn. Núi này cao như Thái Sơn, khí hậu tuy không nóng nhưng chúng tôi leo núi mồ hôi chảy thấm lưng, và thỉnh thoảng xuyên qua một cánh rừng, con vắt thường bám cổ chúng tôi, mồ hôi và máu có lúc ướt cả quần áo, như bị thương vậy. Leo một mạch đến chiều, sức cùng lực kiệt, tối đến mặt trăng đằng đông xuất hiện qua mây mù, mới leo đến đỉnh núi. Nhìn ra xung quanh tối đen ngòm không thấy rõ cái gì, thì ra chúng tôi đã ở trên mây mù. Trên đỉnh núi thấp thoáng tản mác bảy tám ngôi biệt thự nhỏ. Nhà còn nguyên nhưng cửa giả đã hư hỏng, đồ đạc trống trơn, chúng tôi bẻ một ít cành cây làm chổi, quét bụi, tìm mấy tấm ván hỏng làm nơi có thể ngủ được, tìm cây khô đốt một đống lửa ở giữa nhà, ăn tối xong rửa chân đi ngủ. Vào mùa đông, đến nơi nghỉ mát, chăn áo mỏng manh, rét đến khó ngủ. Nhưng do quá mệt vẫn ngủ say.

Phiên dịch bảo chúng tôi trên núi này có thể nhìn thấy mặt trời mọc. Cho nên ngày hôm sau dậy thật sớm, chạy đến tảng đá to ở phía đông núi để nhìn mặt trời mọc. Lưng chừng núi vẫn bao bọc mây mù, bầu trời chỉ có mấy đám mây trắng nhỏ, đằng đông đã từ màu trắng bạc dần dần biến thành màu đỏ, trên vừng mây phía xa, từ từ ló lên mặt trời hồng, nhìn như là trồi lên từ trong nước biển trên thực tế là bên trên mây mù. Sau khi mặt trời đỏ mọc lên, đằng đông muôn ánh sáng màu. Ngoài cái đó ra cũng không có chỗ nào kỳ thú chỉ thấy mặt trời to hơn. Nhìn sang bên trái, muốn xem dưới núi như thế nào, nhưng mây ở giữa núi, cũng không nhìn rõ những gì ở dưới.

Trên một quả núi khác trước mặt chúng tôi thấp hơn quả núi chúng tôi đang đứng cũng có mấy ngôi nhà biệt thự đó là Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam, nhìn thì rất gần, nhưng đi lại rất xa. Ở nơi cao về phía bắc quả núi của chúng tôi có một miếu thờ, đi tới xem, cửa ngõ đều hoàn chỉnh, giữa ban thờ trong miếu có một tượng thần bằng đồng đen, dáng như Quan Công của Trung Quốc nhưng mặt không đỏ, thì ra đó là Mã Viện, đó là miếu tướng quân Phục Ba. Xung quanh ban thờ và cả trên tường, đều treo bức trướng lớn bằng lụa, bằng vải nhỏ màu đỏ, viết chữ Trung Quốc “Tá ngã xích tử” “phổ cứu chúng sinh” “đệ tử ... kính hiến” v.v... trên nền đất còn có dấu vết đốt vàng mã, lư hương còn tro mới, chứng tỏ thường xuyên có người đến đây cúng bái. Phiên dịch nói, miếu Phục Ba tướng quân ở Việt Nam đâu đâu cũng có, hương hoả không kém miếu Phật Như Lai 3.

Hai ba ngày tới, chiến đấu chưa bắt đầu. Lần này chúng tôi không thường xuyên ở bàn chủ nhân Bộ chỉ huy tiền phương mà chỉ thường chạy đi tìm hiểu tình hình, trở về báo cáo Thủ trưởng Đoàn cố vấn. Thủ trưởng đoàn cố vấn đôi khi cũng tự đi. Có lúc trời nắng, có thể nhìn thấy hai bờ sông Hồng dưới núi, cảm giác rất xa, thị trấn ẩn trong lá xanh cũng không thấy rõ cái gì. Có lúc có máy bay bay qua bay lại, nhưng nhìn xuống, độ cao của nó vẫn không cao bằng núi này.

Đêm 25/12 cuộc chiến bắt đầu, hướng Vĩnh Yên, ở phía đông nam núi này. Đánh trước mấy cứ điểm gần Vĩnh Yên, đều đánh được trong đó còn có huyện lỵ. Nhưng chiến thuật của địch thay đổi, khi tăng viện chúng áp dụng cách làm hết sức cẩn thận, trước tiên dùng pháo bắn vào các địa điểm trên hướng quân Pháp tiến lên, dự đoán có quân đội Việt Nam ẩn nấp, máy bay oanh tạc ở những nơi xa hơn một chút, khi cho là đã an toàn, bộ binh mới thẳng tiến lên, nơi nào tầm pháo chưa đến, thì bộ binh dừng lại, đắp công sự dã chiến đơn giản chiếm giữ, pháo binh đuổi theo, khi đến phía sau điểm bộ binh đóng giữ thì chiếm lấy trận địa rồi phát huy hoả lực, phối hợp với máy bay đánh tiếp trận nữa. Bộ binh lại tiếp tục tiến lên, cứ như thế tiến hành nhiều lần. Tuy vậy, vẫn bị quân đội Việt Nam đánh mai phục. Thế nhưng không chờ quân đội Việt Nam bao vây một khi đọ súng quân Pháp tháo chạy tứ tung, ôtô kéo pháo cũng nhanh chóng rút lui, chiến đấu kết thúc rất nhanh. Lần này có hai tiểu đoàn, bắt tù binh tại chỗ không nhiều, trong khi tiếp tục lùng sục đã bắt được một số trốn trong rừng, trong làng. Máy bay Pháp yểm hộ trên trời. Quân đội Việt Nam không dám dùng vũ khí nhẹ bắn máy bay, họ cho rằng không có hiệu quả, thậm chí có người cho rằng dùng vũ khí nhẹ bắn máy bay sẽ gọi máy bay tới cho nên khi máy bay đến thì ẩn nấp tránh đi, mặc cho máy bay bắn phá, máy bay cũng cố bay thấp, khiến quân đội Việt Nam không dám động đậy, động tác chậm chạp, quân Pháp thừa cơ bỏ chạy, không ít tên địch chạy thoát. Đánh tan rã được một trận quân đội Việt Nam cho rằng đó là một thắng lợi lớn, báo cáo vống lên là tiêu diệt được hai tiểu đoàn địch cộng với đánh cứ điểm, nói bắn chết 800 tên đich, bắt làm tù binh 700 tên. Sơn pháo lần này ngoài một bộ phận tham gia đánh cứ điểm thực hiện bắn sát cự ly gần ra, đã không sử dụng trong dã chiến. Tiếp đó lại đánh hai cứ điểm, địch căn bản không đến cứu viện, đánh phải dừng lại.

Bộ đội nghỉ ngơi chỉnh đốn một tuần rồi di chuyển đến vùng Việt Trì, Phú Thọ, khoảng ngày 10/1/1951 lại cũng như lần trước, đánh mấy cứ điểm khoảng 2 tiểu đoàn địch ở Phú Thọ ra chi viện, vừa tiếp xúc thì tháo chạy, lại không thể tiêu diệt hết địch. Quân đội Việt Nam vẫn báo lên là tiêu diệt được hai tiểu đoàn, sau đó tiếp tục đánh mấy cứ điểm nữa, địch không ra cứu viện. Ngày 20/1, chiến dịch kết thúc. Chiến dịch lần này bao gồm, vùng ven biển đông bắc Hà Nội, phía Việt Nam nói đánh tất cả 10 cứ điểm, bắn chết làm bị thương và bắt làm tù binh hơn 4000 tên địch (trên thực tế không tới con số này), còn thương vong của mình còn lớn hơn chiến dịch Biên Giới. Hai trung đoàn 174, 98 đánh ở vùng ven biển đông bắc Hà Nội cũng không lý tưởng lắm, chủ yếu là địch rất ít ra chi viện. Chỉ nhổ cứ điểm thu hoạch không nhiều. Vì vậy mục đích của chiến dịch lần này không thực hiện được, phía mình thương vong không nhỏ, mà tiêu diệt địch không nhiều muốn kiểm soát đồng bằng Bắc Bộ nhưng không làm được, ngược lại do mù quáng nâng cấp mở rộng đội du kích thành chủ lực quân dã chiến nên đã làm suy yếu chiến tranh du kích ở đồng bằng, quân địch thừa cơ len vào, lại xây dựng được rất nhiều nguỵ quyền, một số vùng đồng bằng vốn đã được Việt Nam kiểm soát lại bị mất. Đó là kết quả của việc thiếu đầu óc chiến lược. Sau chiến dịch lần này sĩ khí bị ảnh hưởng rất lớn, còn kẻ địch, ngược lại càng hung hăng.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #77 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:09:28 am »

Lãnh đạo phía Việt Nam tuy chưa thu được chiến quả lý tưởng trong chiến dịch Trung Du, nhưng vẫn chưa cam tâm. Trung du không thành, lại chuyển sang vùng đông bắc Hà Nội cũng tức là vùng bắc châu thổ sông Hồng, định làm cái gì ở đông bắc Việt Nam. Trung du không thành công, chuyển sang hạ du, mục đích vẫn là muốn khống chế vùng phía đông đồng bằng, “uy hiếp Hà Nội”. Lúc này tướng de Lattre de Tassigny đã được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam, ông ta từng bước ổn định tinh thần hoang mang sợ hãi của vùng Pháp chiếm do chiến dịch Biên Giới gây ra, khôi phục một số thị trấn bị Pháp bỏ tại một số vùng đông bắc Hà Nội khi hốt hoảng rút lui trong chiến dịch Biên Giới, tăng cường phòng vệ, rút bỏ một số cứ điểm cô lập, và xây cứ điểm xung quanh cứ điểm trọng điểm, hoả pháo có thể chi viện cho nhau, áp dụng biện pháp trong tình hình bình thường không đưa quân chi viện, tránh đánh dã chiến, chú trọng tăng cường kết hợp, giữa hoả lực trên không với hoả lực mặt đất, phát huy ưu thế hoả lực của mình.

Trong tình hình, không thuyết phục được lãnh đạo quân đội Việt Nam, Đoàn cố vấn kiến nghị cách đánh cắm chắc đánh chắc tức đánh Móng Cái trước. Quân Pháp đã từng bỏ Móng Cái trong chiến dịch Biên Giới, sau đó không bao lâu quay lại chiếm đóng. Đánh Móng Cái trước, lưng dựa vào Trung Quốc, đánh lấy được dễ cố thủ và từ đó phát triển xuống phía nam. Nhưng phía Việt Nam không muốn đánh, vì ở đó có một đám vũ trang đặc vụ của Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, nên có phần sợ bọn chúng. Khi Quảng Tây Trung Quốc giải phóng, hơn 20.000 quân của Hoàng Kiệt Bộ, Quốc dân đảng chạy sang Việt Nam, sau đó tập kết ở vùng đồng bằng sông Hồng, sau đó đi sang Đài Loan bằng đường biển, để lại một số vũ trang đặc vụ ở biên giới Trung – Việt. Bọn chúng đóng ở Móng Cái, không dám công khai quấy rối Trung Quốc, chỉ có thể ngầm đưa đặc vụ vào nhưng rất nguy hại cho tài sản tính mệnh của nhân dân Việt Nam. Khi Hoàng Kiệt Bộ đi Đài Loan, còn có một số người không muốn đi đã lang bạt ở Việt Nam hoạt động, không ít kẻ tham gia nguỵ quyền Việt Nam. Trong chiến dịch trung du, trung đoàn 174, 98 hành động ở đông bắc Hà Nội, có một trung đoàn. Khi đánh cứ điểm ngoại vi của một cứ điểm đánh suốt đêm, rất gian khổ đến lúc trời sáng mới hạ được. Trinh sát ban đầu là lính da đen, hơn 40 người, nhưng đánh xong xem lại chỉ có bảy lính Quốc dân đảng (tham gia nguỵ quân Việt Nam), trong đó có một phụ nữ bắn chết 5 người bắt sống 2 người đàn ông, còn mình thương vong 30 người. Lúc bình thường quân đội Việt Nam áp giải tù binh, đều là trước sau mỗi đầu một người lính cầm súng, ở giữa mấy chục tù binh. Lần này áp giải hai tù binh Quốc dân đảng cũng phái hai binh sĩ, kết quả trên đường đi hai tên tù binh này cướp súng của hai người áp giải chạy trốn. Cho nên họ rằng bộ đội Quốc dân đảng nguy hiểm. Không dám đánh Móng Cái lắm. Ngoài ra họ nôn nóng “uy hiếp Hà Nội” nói chung con mắt lúc nào cũng nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng. Vì vậy quyết định mở chiến dịch đông bắc trên quốc lộ 18 giữa Mạo Khê – Yên Lập. Bộ đội dã chiến tham gia chiến dịch này ngoài đại đoàn 308, còn có trung đoàn 174, 98 (dự định biên chế thành đại đoàn 316) trung đoàn 209, 141 (định biên chế thành đại đoàn 312). Đồng thời còn có trung đoàn sơn pháo 95.

Trung tuần tháng 3, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn và Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam tiến lên Lạng Sơn, từ vùng nam Lạng Sơn, bắc Phủ Lạng Thương, tiến vào phía đông vùng núi đồi đông bắc. Ở đây rừng cây tương đối ít, làng mạc tương đối nhiều, tình hình xã hội tương đối phức tạp, cho nên hành quân ban đêm, ban ngày nghỉ. Khi nghỉ cũng không ở trong làng mà ở trong rừng, cách xa làng mạc. Thực ra không thể bảo mật được. Bộ đội dân công rồng rắn suốt ngày liên tục, không thể bảo mật được, dù ban ngày hay ban đêm cũng bất kể gió mưa, lúc nào cũng thấy họ đang hành động. Vì vậy, nhiều nhất cũng chỉ có thể giữ được những bị mật cho những hành động của Đoàn cố vấn. Khi chúng tôi đến một chỗ trong rừng ở đó đã có công binh quân đội Việt Nam dựng nhà tranh cho chúng tôi, Ban chỉ huy đóng gần đó. Đêm 23/3 cuộc chiến đấu bắt đầu. Đánh lấy được mấy cứ điểm nhưng địch không tăng viện máy bay địch thường bay như con thoi trên đầu chúng tôi, bắn phá, ném bom, quân đội Việt Nam ban ngày ẩn nấp nên cũng không có thương vong lớn. Nhưng nghe nói, đánh cứ điểm thương vong không nhỏ. Sơn pháo tuy cũng có áp sát bắn gần, nhưng bị cứ điểm khác chi viện hoả lực, trong quá trình đánh, ngoài hoả lực của cứ điểm bị đánh uy hiếp còn bị hoả lực của cứ điểm khác uy hiếp. Cứ điểm đánh không lý tưởng thường thường là quân đội Việt Nam thương vong lớn hơn thương vong của địch trong cứ điểm bị đánh được.

Cách mấy hôm lại đánh vài cứ điểm và cứ làm như thế. Trước sau đánh 11 cứ điểm, còn 2 cứ điểm chưa đánh được quân địch không chịu ra cứu viện. Xem ra chiến thuật của địch đã thay đổi. Bị tiêu hao trên cứ điểm, như vậy quân đội Việt Nam bị thiệt, chỉ đánh cứ điểm, không đánh được tăng viện, điều đó rất bất lợi cho quân đội Việt Nam. Đến thượng tuần tháng 4, tình hình không thay đổi, đành kết thúc chiến dịch, ta thương vong 1700 người, tiêu diệt khoảng 1200 địch, được không bù mất, chiến dịch kết thúc, chúng tôi lại về chỗ cũ Tả Trúc. Sau đó chẳng bao lâu, tôi bị tê thần kinh trên mắt phải về Nam Ninh chữa bệnh.

Từ Nam Ninh đến Ban chỉ huy Đoàn cố vấn đã là tháng 6. Đoàn cố vấn lại dời địa điểm mới, cách Bắc Kạn hơn 10 km, vì phía bắc nơi đó gọi là Tả Mây, thực tế là ở trong hang núi gần Tả Mây. Đi dọc theo con suối nhỏ quanh co, khoảng năm sáu cây số có một hẻm núi nhỏ đường kính không đến 1 km, trên dốc núi xung quanh, dưới rừng cây phủ kín, công binh Việt Nam làm rất nhiều nhà tre kiểu dáng rất mới lạ, có cái như ngồi nhà tây nhỏ. Đoàn cố vấn ở trên dốc bắc và dốc đông. Ở đây là khu rừng nguyên thuỷ cây rừng là loại dây leo như mây song và tre, trúc, quấn quít chằng chịt, rất khó đi. Có nhiều loại cây và nhiều cây ăn quả mọc hoang. Sau nhà tôi ở có một cây mít, trên cành cây to có ba bốn quả mít, rất thơm. Chuối tây, chuối tiêu, quít mọc dại thấy khắp nơi, còn có các loại hoa không biết tên. Động vật hoang dã cũng rất nhiều, có khỉ, bò rừng, hươu, trong suối có cá chép. Các ông lão trong địa phương bảo với tôi, trong núi sâu có một loại “đười ươi”. Sau khi thấy người nó chồm dậy túm lấy hai cánh tay anh, sau đó ngửng mặt lên trời cười hà hà rất to, cười rất lâu, sau đó ăn thịt anh. Họ nói : “ Anh gặp loại động vật này đừng sợ, khi đi vào núi sâu trong tay chuẩn bị hai cây gậy to nhỏ gần như hai cánh tay, thấy nó không nên chạy, chạy không được, đưa hai cây gậy cho nó, nó tưởng là túm được hai cánh tay của anh, nhân lúc nó ngửng mặt lên trời thì lặng lẽ chạy trốn, đến lúc nó cười xong thì anh đã chạy rất xa rồi, có thế tránh được tai nạn này ”. Chúng tôi không vào rừng sâu nên không biết đây là tin đồn hay quả thực vẫn còn loại động vật này. Buổi sáng hằng ngày, trời vừa tờ mờ sáng, động vật trong rừng bắt đầu nhốn nháo cả lên, các loại chim thét ra đủ loại tiếng kêu ầm ĩ, làm bạn không ngủ được. Nhất là có một loại thú nhỏ, màu đen dạ bụng trắng, đầu to như đầu mèo nhưng thân nhô cao, dài hơn cánh tay con người, nhảy từ cành cây này sang cành cây khác, rất linh hoạt, tiếng kêu giống hệt tiếng súng đại liên, khi trời sắp sáng bỗng kêu lên trên cây gần nhà, lần đầu tiên nghe thấy, tưởng bị đột kích, sợ thót tim.

Tôi về Ban chỉ huy Đoàn cố vấn được biết đến tháng 6, hai đại đoàn 308 và 304 ở vùng Ninh Bình phía nam đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, đã đánh một trận ngoài kế hoạch, cũng gọi là chiến dịch Bình Minh, lấy được Ninh Bình. Lần tác chiến này gần giống chiến dịch Trung Du, nhưng lần này nhìn thấy mấy xe tăng lưỡng dụng nho nhỏ của quân Pháp (tôi nhớ hình như bắt được hai chiếc, đã bắn hỏng). Do ở vùng lúa nước, quân đội Việt Nam lại tránh tác chiến ban ngày, sợ máy bay, sợ xe tăng, lại sợ địa đạo, cho nên vẫn là đánh cho tan rã, chứng tỏ ở vùng đồng bằng, quân đội Việt Nam không thể đánh trận như chiến dịch biên giới. Thời gian chiến dịch này kết thúc rất nhanh.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #78 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:09:53 am »

Cuối năm 1951, lại đánh chiến dịch Hoà Bình. Sau chiến dịch Trung Du và Đông Bắc v.v.. đầu óc của phía Việt Nam tỉnh táo hơn. Họ thấy được vì nôn nóng muốn thành công ngay, cơ bản đánh mất quyền chủ động chiến trường giành được từ chiến dịch Biên Giới, thương vong của mình không nhỏ mà lại không tiêu diệt nhiều sinh lực địch ; cũng không mở rộng được vùng giải phóng, ngược lại vùng du kích bị thu hẹp. Còn địch lại xây dựng phòng tuyến boongke trên tuyến từ Hải Phòng qua Hà Nội, Hoà Bình đến Sơn La, để khống chế vùng đồng bằng, cắt đứt đường thông thương Bắc Nam của quân đội Việt Nam, cô lập Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam. Đoàn cố vấn căn cứ vào đó kiến nghị :

1– Căn cứ tình hình của địch và kinh nghiệm của mấy chiến dịch về chiến thuật phải điều chỉnh lớn, không đánh trận lớn, không đánh cứ điểm lớn, mà đánh cứ điểm nhỏ phân tán, cô lập của địch.

2- “Phòng tuyến boongke” từ Hoà Bình lên hướng tây là đồi núi là vùng địch phòng thủ mỏng yếu, các cứ điểm dựa vào tiếp tế bằng đường không không phải dễ, dựa vào vận tải đường bộ và sông Đà tương đối nhiều, có thể đánh đội vận tải của chúng.

3- Điều động đại đoàn 316, 320 được thành lập từ đội du kích, vào vùng du kích cũ ở đồng bằng, phân tán đánh du kích, đập tan nguỵ quyền, khôi phục chính quyền của mình, làm tan rã quân nguỵ, phục hồi chiến tranh du kích ở đồng bằng, mở rộng đội du kích.

Từ bài học kinh nghiệm của các chiến dịch trước quân đội Việt Nam đã đồng ý kiến nghị trên, tiến hành bố trí chiến dịch. Lần này về cơ bản đều sử dụng tất cả bộ đội chủ lực. Đại đoàn 308 và 312 phá hoại đường giao thông của địch ở hai bờ sông Đà, đánh đội vận tải của địch và cứ điểm yếu của địch, trung đoàn sơn pháo 95 của đại đoàn công pháo 351, lần lượt điều động phối hợp với hai đại đoàn này, đại đoàn 304 ở gần Hoà Bình, có nhiệm vụ giống như đại đoàn 308, 312, đại đoàn 316 đến quốc lộ 18 đông bắc, Hà Nội chạy về hướng Hải Phòng, phân tán đánh địch, khôi phục vùng du kích, đại đoàn 320 đến Nam Định, Ninh Bình vùng đồng bằng. Các đại đoàn đều có nhiệm vụ đánh sập nguỵ quyền, làm ta rã nguỵ quân, mở rộng đội du kích, khôi phục chính quyền địa phương, tổ chức quần chúng chống Pháp v.v... Do đánh trận nhỏ là chính, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn không ra tiền phương, lợi dụng thời gian này, căn cứ bài học kinh nghiệm của mấy chiến dịch trước, nghiên cứu chỉnh quân chính trị nâng cao sức chiến đấu, và báo cáo xin chỉ thị Trung ương Đảng ta. Lúc này, tôi kiêm nhiệm cố vấn đại đoàn công pháo 351, đi công tác một thời gian ở đại đoàn này, chủ yếu giới thiệu những vấn đề như : công tác chính trị của đảng, quản lý hành chính, công tác hậu cần v.v.. về mặt kỹ thuật pháo binh họ đã có huấn luyện riêng, tôi chỉ giới thiệu tri thức và kinh nghiệm sử dụng trọng pháo trong tác chiến. Vì đánh phân tán, đánh trận nhỏ nên thời gian chiến dịch này tương đối dài. Nhờ chuyển biến kỹ thuật, thu được kết quả rất tốt. Không chỉ đánh một số cứ điểm, chủ yếu đã dập tan “phòng tuyến Boongke” đánh lấy Hoà Bình, làm tan rã số lớn nguỵ quân, theo báo cáo có hơn 10.000 người. Khôi phục chính quyền kháng chiến cơ sở vùng đồng bằng, phá tan hàng loạt nguỵ quyền, có nhiều căn cứ địa và vùng du kích bắt liên lạc được với nhau, phá vỡ phong toả của địch, tình hình có sự chuyển biến rất lớn. Khí thế hung hăng của quân Pháp một lần nữa bị đập tan, tình hình bất lợi của quân đội Việt Nam có cơ hội chuyển biến tốt, chiến dịch bắt đầu từ thượng tuần tháng 12/1951 đến hạ tuần tháng 2/1952 mới kết thúc.

Qua mấy chiến dịch, có cái thành công và không thành công, phía Việt Nam bắt đầu nhận thức được giành được thắng lợi không phải dễ như trở bàn tay. Ngoài cơ quan chỉ huy có tư tưởng chiến lược chiến thuật đúng đắn, còn phải có cán bộ quán triệt chấp hành đúng đắn, còn phải có một đội ngũ kiên cường, sự kết hợp lẫn nhau giữa công tác đảng, chính quyền, quân đội v.v... những điều kiện đó không đầy đủ thì đều không thể nói đến phản công, thắng lợi. Những vấn đề này lãnh đạo Trung ương Đảng ta đã nhìn thấy trước từ lâu và đã nêu ra trong chỉ thị khi tiếp chúng tôi. Còn cần nêu cao toàn diện tố chất của cán bộ, quân đội, không chỉ là đánh trận, còn phải có phương hướng chính trị kiên định, trình độ, chính sách, tri thức chiến lược chiến thuật, điều đó đòi hỏi tăng cường công tác chính trị của đảng, tăng cường xây dựng quân đội. Cần mở lớp huấn luyện cán bộ, tăng cường xây dựng đảng, giáo dục cán bộ làm thế nào để làm tốt công tác chính trị, công tác quản lý hành chính và một loạt công tác khác. Sau chiến dịch Hoà Bình, công việc này từng bước triển khai. Vì vậy, Trung ương Đảng ta nêu ra rất nhiều ý kiến có tính xây dựng với phía Việt Nam. Lúc này tôi được lệnh trở về nước nên không biết được tình hình công tác sau này.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #79 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:10:27 am »

4. Mấy câu chuyện dân dã

1. Sau khi kết thúc chiến dịch Đông Bắc từng nghe có người gọi chiến dịch này là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”, và biết Hoàng Hoa Thám là một vị anh hùng dân tộc Việt Nam. Chúng tôi đều không để tâm lắm, tưởng rằng lấy anh hùng dân tộc đặt tên cho một chiến dịch cũng không có gì phải bàn tán. Tại hội nghị tổng kết chiến dịch Đông Bắc, khi Võ Nguyên Giáp phát biểu, chính thức nói chiến dịch Đông Bắc là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”. Vì vậy tôi đã hỏi kỹ phiên dịch Hoàng Đôn. Anh ta nói: “Hoàng Hoa Thám là anh hùng chống quân Thanh trong thời kỳ Triều Thanh Trung Quốc xâm lược Việt Nam, địa điểm đại để cũng là chiến trường của chiến dịch Đông Bắc lần này, Hoàng Hoa Thám đánh bại quân Thanh ở đây, trở thành anh hùng dân tộc Việt Nam. Tôi vốn cho là Hoàng Hoa Thám là anh hùng đấu tranh chống Pháp! Không ngờ Việt Nam lấy ngay một tên người như thế để đặt tên cho chiến dịch Đông Bắc. Xem xét từ mục đích đến đại cục nên gọi là “chiến dịch Đông Bắc” thì lẽ ra chiến dịch này xác đáng hơn. Bây giờ có sự thay đổi đó là có dụng tâm. Tôi từng hỏi phiên dịch Hoàng Đôn, có biết điều đó là vì sao không ? Anh nói anh không biết, liệu có phải anh ta thật sự không biết hay không rõ. Lúc bình thường, tôi và phiên dịch quan hệ rất thoải mái, bây giờ làm tôi phải chú ý. Việc này tôi đã báo cáo với tham mưu trưởng Mai và đề nghị đồng chí chú ý quan hệ với phiên dịch báo cho Đoàn cố vấn biết đồng chí tỏ ý đồng ý.

Trước đó, sau chiến dịch trung du, phía Việt Nam gọi chiến dịch này là “chiến dịch Trần Hưng Đạo mà Trần Hưng Đạo nghe nói là “anh hùng” chống quân đội triều Nguyên Trung Quốc ở vùng Việt Trì. Nhớ lại sau một chiến dịch khác cũng có trường hợp tương tự, nhưng tôi không nhớ tên cái gọi là anh hùng đặt cho chiến dịch đó.

Trước chiến dịch biên giới Hoà Bình, Đoàn cố vấn ở trong hẻm núi vùng Tả Mây. Có một hôm phía Việt Nam thông tri cho chúng tôi họ tổ chức hai buổi dạ hội, mời chúng tôi tham gia. Một buổi là biểu diễn nhạc giao hưởng, một buổi là Việt kịch (thì ra Việt kịch ở Việt Nam là “quốc kịch” của họ), bảo chúng tôi tự do tham gia. Bởi vì nghe không hiểu nên tôi không tham gia. Theo đồng chí nghe nhạc giao hưởng về nói lại, đoàn nhạc giao hưởng mang từ Hà Nội lên, ở Hà Nội là đoàn nhạc cao cấp nhất, do thống đốc quân Pháp ở Việt Nam trước đây thành lập, nhạc khí rất quý, có những cái làm bằng bạc, nhưng rất tiếc nghe không hiểu, không thể nào thưởng thức được. Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh rất thích Việt kịch, đồng chí đi xem nhưng lạc đường phải quay về. Thì ra Việt kịch đó lại là tiết mục biểu diễn Việt Nam đánh bại quân đội triều Thanh 4.

2. Trước chiến dịch Trung Du, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn chúng tôi đi Tam Đảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đi một nơi nào đó, ngày đầu tiên đi cùng đường với chúng tôi. Hồ Chí Minh và Trưởng đoàn Vi Quốc Thanh đi ngựa, nhìn thấy trên gò cao phía bên kia ruộng lúa bên đường có một đám bò đầu to lông vàng tươi, Vi Quốc Thanh phấn khởi ca ngợi nói : “ Con bò này thật đẹp, vừa cao vừa to, hình dáng màu sắc đều rất đẹp, là loại giống tốt ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “ Đúng vậy, nhưng rất đáng tiếc, chẳng bao lâu sẽ bị Đoàn cố vấn ăn sạch ”. Vi Quốc Thanh rất ngạc nhiên : “ Hồ chủ tịch có ý kiến gì đối với Đoàn cố vấn không ? Nếu Đoàn cố vấn có sai lầm gì, xin Hồ chủ tịch phê bình, chúng tôi nhất định sửa chữa ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “ Theo người ta nói, các đồng chí Đoàn cố vấn yêu cầu ăn cơm rất cao, bây giờ Đoàn cố vấn hơn 300 người (kể cả người đi theo cố vấn, người Việt Nam cũng gọi bảo vệ v.v... là cố vấn), mỗi ngày mỗi người phải ăn hết một con bò và một con gà. Mãi như thế chúng tôi chịu không nổi ! ” Vi Quốc Thanh nói : “ Hồ Chủ tịch! Việc này sợ không đúng sự thật. Tình hình sinh hoạt của cố vấn ở các đơn vị bộ đội, tôi không rõ lắm, nhưng tình hình ở Ban chỉ huy Đoàn cố vấn quyết không phải như vậy. Xin Chủ tịch kiểm tra thêm, tôi cũng kiểm tra lại, nếu quả thực như vậy, chúng tôi chịu trách nhiệm bồi thường hơn nữa sẽ kiên quyết sửa chữa. Không nên vì những việc đó ảnh hưởng đến quan hệ của chúng ta ”. Sau khi chiến dịch Trung Du trở về, Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh nói với các đồng chí tham mưu trưởng Mai, Chủ nhiệm Đặng, cố vấn hậu cần Mã Tây Phu về vấn đề “một con bò, một con gà” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với đồng chí, bảo các đồng chí đó lần lượt đi điều tra.

Tham mưu trưởng Mai bảo chúng tôi cùng đi điều tra, và nói tỉ mỉ cho chúng tôi biết tình hình Hồ Chủ tịch nói chuyện với Vi đoàn trưởng, chủ yếu bảo chúng tôi tìm hiểu tình hình thực tế, chuẩn bị tài liệu, báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này chúng tôi nhiều lần nói việc này với tham mưu trưởng Mai, Vi đoàn trưởng. Nội dung đại thể là : bữa ăn chính bình thường của Ban chỉ huy Đoàn cố vấn là gạo của Trung Quốc viện trợ. Rau tươi như rau cải, cà, cà chua, không thấy ở Việt Nam, nhân dân cũng không trồng. Về thịt, thì ăn thịt gà nhiều hơn, khoảng một tuần một lần. Đó là vì phong tục của Việt Nam như vậy. Nông thôn Việt Nam không ăn trứng gà, gà mái đẻ trứng không lấy trong ổ ra, đẻ 10 đến 12 trứng thì tự động ấp ra gà con. Sau khi gà con lớn lúc đó có thể phân biệt con gà mái, một con gà trống, số còn lại không phân biệt trống mái đều đem thiến, gà thiến đó lớn lên cao to, mỗi con đều nặng đến bốn năm kilô, họ ăn thịt gà chứ không ăn trứng gà. Cán bộ Việt Nam hầu hết trong túi áo đều có một ống chì con, như cái nắp bút, trong đó đựng mấy chục cái tăm rất nhỏ, khi ăn thịt gà, thì dùng cái đó xỉa răng, chứng tỏ họ cũng thường xuyên ăn thịt gà. Chúng tôi ăn thịt gà không thể nhiều hơn họ. Còn thịt lợn khoảng một tuần một hai lần, Việt Nam nuôi lợn đều lớn đến ba, bốn mươi kilô thì giết, không có lợn to đến 50, 100 kilô. Còn thịt bò, ăn rất ít, tổng cộng chỉ có vài lần.

Theo người ta nói, ở Việt Nam ăn cá không khó khăn, nhưng cũng rất ít thấy. Thời chiến, có gì ăn nấy mức độ không quá mức bình thường, thậm chí trong hành quân, ăn cơm nắm nguội, ăn ớt rừng, uống nước lã là chuyện thường xuyên. Có một lần Ban chỉ huy Đoàn cố vấn đi nhầm đường, đến một quả núi lớn không người, buổi trưa không có cơm ăn. Vi đoàn trưởng bảo chúng tôi đào măng nấu ăn, bởi vì không biết có loại măng đắng, nấu phải măng đắng, nên không ăn được trở thành chuyện cười. Vi Quốc Thanh còn nói, con trai miền bắc đến miền nam phải học biết sinh hoạt ở miền nam, nếu không sẽ bị đói. Như vậy, đại thể tính ra mỗi ngày cũng không ăn hết một con gà, còn nói chi cái thứ sơn hào hải vị khác. Còn các cố vấn trong bộ đội sinh hoạt đại thể cũng như vậy. Cũng thường nghe họ nói đời sống quá đơn điệu, cũng không có rượu. Sau chiến dịch biên giới có tặng cho Đoàn cố vấn một ít rượu của Pháp, lấy được chỉ có mấy chai ngon một chút, còn phần lớn là rượu bình thường để cho binh sĩ uống. Đưa đến cho đoàn hai thùng rượu nho, loại rượu nho chất lượng kém, lính người da đen thường uống rượu này, còn binh đoàn người da trắng thì không uống, lấy nó để tắm. Mở nắp thùng ra, sĩ quan tắm trước một lúc, sau đó theo cấp bậc lần lượt từng người thay nhau tắm. Người ta nói tắm rượu này để phòng bệnh sốt rét. Cho chúng tôi uống loại rượu này, chúng tôi đều không uống, mọi người thường bàn tán chuyện này. Dù có tình thế nào chăng nữa cũng không thể nói một ngày một con bò, một con gà. Chúng tôi phân tích đến, một là có thể có người tham ô, hai là có thể có người làm trò ma, phá hoại tình hữu nghị giữa chúng ta với các đồng chí Việt Nam, điều này phải đặc biệt cảnh giác. Các đồng chí kiến nghị, cung cấp sinh hoạt cho cố vấn chúng tôi, đổi lại do trong nước cung cấp. Văn phòng Đoàn cố vấn ở Nam Ninh lúc đó (tên đầy đủ là Văn phòng đoàn công tác Hoa Nam ở Nam Ninh, trên thực tế là Tổng cục Hậu cần chi viện Việt Nam) đã thành lập hoàn thiện, Thủ trưởng Đoàn cố vấn đồng ý ý kiến này, giao cho đồng chí Mã Tây Phu phụ trách.

Tháng 6, 7 năm 1951, khi Đoàn cố vấn ở Tả Mây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Đoàn cố vấn và ở lại với Đoàn cố vấn. Chủ tịch đến để tìm hiểu tình hình. Chủ tịch thường đi lại ở Phòng tham mưu, Ban chính trị, Ban hậu cần tìm hiểu tình hình sinh hoạt của chúng tôi, chúng tôi đều trả lời đúng sự thực. Lúc này chúng tôi bỗng được ăn một lần bít tết. Người ta nói đây là món ăn nổi tiếng của Pháp, làm bằng thịt bò tơ, nhưng chúng tôi ăn vào thấy khó nuốt, một là gặm không nổi, hai là gặm một miếng còn có máu tươi, ba là mùi vị không ngon còn có mùi tanh. Chúng tôi ý thức được đây là người đầu bếp cố ý để Chủ tịch Hồ Chí Minh xem. Bởi vì người ta nói thịt bò làm bít tết chỉ có một bộ phận trên thân con bò có thể làm được, nhiều người như thế này ăn bít tết, mấy con bò cho đủ. Các làm này muốn phủ một tấm màn, nhưng ngược lại bộc lộ ra càng nhanh. Khoảng hơn nửa tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về, nhưng sau đó không lâu trở lại vẫn ở Ban chỉ huy Đoàn cố vấn và rất thân thiết nói cười với mọi người. Từ đó về sau, mỗi lần Chủ tịch đến Bộ Tổng tư lệnh quân đội Việt Nam đều ở Ban chỉ huy Đoàn cố vấn, mỗi lần Hồ chủ tịch ra ngoài đều phải hoá trang, bác sĩ Chu Hy Tường ở Phòng Tham mưu chúng tôi thành nhà hoá trang chuyên nghiệp của Chủ tịch. Bởi vì Chủ tịch Hồ Chí Minh thích hoá trang thành thương binh, trên đầu băng bó có thể che bộ râu. Điều đó trở thành một nhiệm vụ của đồng chí Chu Hy Tường. Chúng tôi càm thấy được Chủ tịch đã rõ việc “một con bò, một con gà”.

Quả nhiên không lâu có một hôm phiên dịch cho chúng tôi biết phòng giao tế của phía Việt Nam xảy ra vụ tham ô lớn, nhiều người bị bắt 5. Còn nghe nói Phó trưởng phòng của Phòng giao tế bị xử tử hình. Lúc này Văn phòng Đoàn công tác Hoa Nam ở Nam Ninh đã bắt đầu cung cấp một phần đồ dùng sinh hoạt của chúng tôi, không lâu sau đó toàn bộ do Trung Quốc cung cấp. Trung Quốc còn định kỳ gửi tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh mấy thùng sắt to, trong đó có những hộp to nhỏ đựng bánh bích quy, đồ điểm tâm, sữa, các loại đồ hộp, lạp xường v.v... Viện trợ của chúng ta đối với Việt Nam thực là thành tâm chí thiện hơn nữa rất chu đáo. Thế nhưng một số người phía Việt Nam làm cái trò mất nhân tâm, phá hoại tình hữu nghị của nhân dân Trung – Việt là rất không nên .
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM