Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Tư, 2024, 07:32:15 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp  (Đọc 62940 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #60 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:12:16 pm »

Thứ bảy : Tình hình chiến tranh chống Pháp của Việt Nam xuân năm 1953-1954 ; quân đội Việt Nam tiếp tục quán triệt quyết định chuyển hướng chiến lược, bố trí tấn công chiến lược quy mô lớn

Sau nhiều lần thất bại trong các chiến dịch Hoà Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng Lào, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương Xa Lăng bị triệu hồi về nước. Ngày 7/5/1953 đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ thoả thuận cử Henri Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Đế quốc Pháp, Mỹ có ý đồ, bắt đầu từ sáu tháng cuối năm 1953 làm cho thế thất bại của chiến tranh xâm lược chuyển biến từng bước về thế đã vạch ra cái gọi là “Kế hoạch Navarre”. Đối mặt với sự thất bại của quân Pháp lúc bấy giờ, “kế hoạch Navarre” đề xuất “Sẽ không có bất cứ rút lui nào nữa”, điều kiện quân sự của phương thức giải quyết chính trị thể diện là giữ vững trận địa và hoàn thiện những trận địa này”.

Nội dung của “Kế hoạch Navarre” là ra sức phát triển nguỵ quyền, mở rộng nguỵ quân, tập trung chiếm đóng của Pháp, biên chế lại thành đại đoàn cơ động, đến năm 1954 phải xây dựng được 7 đại đoàn cơ động, để năm 1955 quyết chiến với chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam ở Bắc Bộ, giành toàn thắng ; xuân năm 1953 – 1954 giữ vững thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở Bắc Bộ, để tập trung lực lượng tiêu diệt du kích ở Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, chiếm đóng vùng du kích, căn cứ địa du kích, ổn định hậu phương của quân Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch này được Mỹ ủng hộ. Ngày 24/7/1953, Ủy ban quốc phòng quốc gia Pháp do Tổng thống đứng đầu thông qua “Kế hoạch Navarre”. Để thực hiện kế hoạch này, nước Pháp điều động 12 tiểu đoàn chủ lực từ bản xứ, Bắc Phi, Triều Tiên tăng viện cho quân Pháp ở Đông Dương. Nguỵ quyền Bảo Đại Việt Nam ra lệnh tổng động viên, quyết bắt cho được 10 vạn thanh niên để mở rộng quân nguỵ. Mỹ chi 400 triệu đô la cho xây dựng nguỵ quân Việt Nam, và quyết định tăng thêm 90% viện trợ quân sự cho Pháp từ 650 triệu đô la năm 1953, tăng lên đến 1.264 triệu đô la năm 1954, chiếm 73% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, và cung cấp số lớn trang bị máy bay tàu chiến v.v.. kết quả chấp hành “Kế hoạch Navarre”, từ 5/1953 đến 3/1954 nguỵ quân Việt Nam tăng thêm 95.000 người, thành lập mới 107 tiểu đoàn, bộ đội cơ động của địch có 100 tiểu đoàn lính bộ binh, 10 tiểu đoàn lính dù, tổng binh lực lên 480.000 người, trong đó nguỵ quân khng 330.000 người.

Để thực hiện “Kế hoạch Navarre”, quân xâm lược Pháp ráo riết “càn quét” Nam Bộ, Trung Bộ và vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tập trung số lớn lực lượng phòng bị cảnh giác và một nửa binh lực cơ động, tất cả có 106 tiểu đoàn vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, tấn công điên cuồng vào quân du kích ở Nam Định, Kiến An. Đưa số đông đặc vụ, thổ phỉ thu thập tình báo, tiến hành phá hoại căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 7/1953, quân Pháp sử dụng lính dù đánh phá Lạng Sơn. Để tăng cường lực lượng cơ động, tháng 8/1953, quân Pháp ở Nà Sản vận chuyển máy bay đến đồng bằng Bắc Bộ. Quân Pháp tiến hành chuẩn bị quyết chiến với quân đội nhân dân Việt Nam trong khi tạm thời giữ thế phòng ngự.

Từ năm 1952 đến xuân 1953, Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi ba chiến dịch Trung ương Đảng Việt Nam quyết định thực hành giảm tô, giảm tức ở căn cứ địa Việt Bắc, quân đội nhân dân quyết định tiến hành chỉnh quân chính trị, ý chí chiến đấu của quân dân tăng lên cao, lực lượng chống Pháp phát triển nhanh chóng, tình hình rất tốt. Ngày 27/7/1953, đế quốc Mỹ buộc phải ký vào hiệp định đình chiến Triều Tiên thế lực xâm lược của chủ nghĩa đế quốc trên quốc tế gặp khó khăn, lực lượng hoà bình phát triển, rất có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Trong tình hình đó, tháng 9/1953 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị quân sự, thảo luận vấn đề tác chiến đông xuân 1953-1954. Tại hội nghị có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất: tập trung toàn bộ hoặc phần lớn chủ lực ở đồng bằng, hoạt động tương đối phân tán tranh thủ tiêu diệt một bộ phận quân địch, đợi địch bị tổn thất đến mức nhất định, sau khi vùng giải phóng được củng cố, rồi căn cứ vào tình hình sẽ quyết định lưu bộ đội chủ lực tiếp tục lùng ở đồng bằng hay là điều sang hướng khác. Trên thực tế ý kiến này cho rằng quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ ba Trung ương Đảng Lao động Việt Nam năm 1952 chuyển hướng tấn công chính của bộ đội chủ lực lên Tây Bắc là sai lầm, nên trở về quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ hai Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 9/1951 về nhiệm vụ quân sự, là tư tưởng bất mãn với kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, là muốn đi con đường quay đầu lại. Việc đến tháng 9/1953 còn nêu ý kiến này, cho thấy rõ mức độ nghiêm trọng của những trở lực đối với chuyển hướng chiến lược trong cán bộ lãnh đạo Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu của nó là vấn đề trình độ chính trị, trình độ quân sự và vấn đề sợ khổ sợ khó, không tin tưởng lắm vào dân tộc thiểu số. Loại ý kiến thứ hai là : chủ lực của địch đang tập trung cao độ ở đồng bằng Bắc Bộ, chiến trường đồng bằng có lợi cho địch, địch đang hy vọng chủ lực ta chạm trán với chúng, chủ lực hướng về đồng bằng chỉ có thể giành được thắng lợi có hạn, không thể thay đổi tình hình chiến sự, còn bị tiêu hao ; Tây Bắc và Lào là vùng chiến lược quan trọng của địch (yếu kém) mà lại không thể từ bỏ, để chủ lực tiếp tục nhằm vào hướng này, có thể buộc lực lượng cơ động của địch ở đồng bằng phân tán phần lớn, thuận tiện cho việc tìm cơ hội tiêu diệt sinh lực địch, trên các chiến trường sau lưng địch tăng cường chiến tranh du kích tạo điều kiện giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.

Chủ lực tiếp tục hướng vào Tây Bắc, Lào, tuy giao thông vận tải khó khăn rất lớn nhưng thực tiễn đã chứng minh có thể giải quyết được. Kết quả thảo luận là Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định chuyển hướng chiến lược là chính xác, phê chuẩn ý kiến thứ hai. Kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “không thay đổi phương hướng chiến lược”. Bộ Chính trị thông qua “kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954”, yêu cầu chiến trường chính sử dụng bộ đội chủ lực mở ba cuộc tấn công lớn. Mục đích tấn công là : (1) tiêu diệt địch đóng ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ Tây Bắc, phối hợp với bộ đội kháng chiến Pathet Lào giải phóng Phong Xalì ; (2) phối hợp với bộ đội kháng chiến Pathet Lào và quân giải phóng mặt trận tự do Campuchia, tiêu diệt sinh lực địch ở Trung Lào, Thượng Lào và đông bắc Campuchia, mở rộng vùng giải phóng đến Bắc Sài Gòn, khai thông tuyến giao thông nam bắc Đông Dương ; (3) giành lấy vùng quan trọng chiến lược Tây Nguyên trước tiên giành lấy vùng bắc Tây Nguyên đập tan âm mưu của địch là phá hoại, tiêu diệt chiến tranh du kích ở Nam Bộ, Trung Bộ. Kế hoạch còn quy định đưa một bộ phận chủ lực đi sâu vào sau lưng địch, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch, đập tan kế hoạch “bình định”, thu hẹp vùng địch chiếm đóng, mở rộng vùng giải phóng, phối hợp tác chiến với chiến trường chính.

Để bảo đảm chắc chắn thực hiện kế hoạch tác chiến đông xuân, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các Tổng cục QĐNDVN còn triệu tập một loạt cuộc họp làm các công tác cụ thể trước khi tấn công, động viên 100.000 dân công, gia cố và mở rộng mạng lưới giao thông để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ vận tải khó khăn nặng nề phục vụ tác chiến miền núi. Chĩa hướng tấn công chiến lược vào Tây Bắc và Lào ; là chủ trương nhất quán và kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Đoàn cố vấn Trung Quốc. Toàn thể cán bộ của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc nhất trí ủng hộ kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì không thay đổi “phương hướng chiến lược”, và dốc sức hỗ trợ Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến tổ chức thực thi những kế hoạch đó trong điều kiện cực kỳ gian khổ.

Chủ lực Việt Nam tiến công Tây Bắc Việt Nam và Lào, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ tháng 10/1952, phải nói là một chiến dịch tiến công mang tính chiến lược, bởi vì nơi tấn công đối với hai bên Pháp, Việt mà nói đều là vùng chiến lược quan trọng, quân đội Việt Nam giành được những nơi này từ trong tay Pháp tức là tính chiến lược của quân đội Việt Nam được phát triển, tính chiến lược của quân Pháp là rút lui. Căn cứ theo tình thế và ý đồ của hai bên Việt – Pháp lúc bấy giờ để so sánh thì càng thấy là kế hoạch tác chiến Đông xuân 1953-1954 kế hoạch tấn công chiến lược của quân đội Việt Nam. Trong cán bộ lãnh đạo phía Việt Nam có người không đồng ý chủ lực quân đội Việt Nam nhằm vào Tây Bắc, còn người đồng ý cũng nhận thức rất không đầy đủ ý nghĩa chiến lược quan trọng của việc giải phóng Tây Bắc Việt Nam, Lào, cho nên lúc đó không muốn gọi những chiến dịch này là chiến dịch tấn công chiến lược. Qua đó có thể thấy được việc thực hành chuyển hướng chiến lược cực kỳ quan trọng này trong cán bộ lãnh đạo quân đội Việt Nam lúc bấy giờ gian nan biết chừng nào. Sự thực là theo tình hình của hai bên Pháp – Việt lúc đó, chiến dịch tấn công chiến lược này của quân đội Việt Nam đang tạo điều kiện có lợi cho quyết chiến chiến lược.

Mùa đông năm 1953, khi phía Việt Nam sắp bắt đầu chiến dịch tấn công thì trên quốc tế chuẩn bị triệu tập hội nghị Genève giải quyết vấn đề sau đình chiến ở Triều Tiên. Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai kiến nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cuộc tấn công ngoại giao, tranh thủ thúc đẩy triệu tập một hội nghị giải quyết vấn đề Việt Nam tại hội nghị Genève. Tháng 11/1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố, nêu rõ : “Nếu Chính phủ Pháp rút bài học trong chiến tranh Việt Nam mấy năm qua, vui lòng thông qua hiệp thương để thực hiện đình chiến ở Việt Nam và giải quyết vấn đề Việt Nam bằng phương thức hoà bình. Nếu như vậy, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhân dân vui lòng chấp nhận ý đồ đó. Cơ sở của đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp chân thành tôn trọng độc lập thật sự của Việt Nam”. Ngoài ra còn đưa ra đề nghị triệu tập một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Việt Nam. Đồng thời, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra thông tri trong Đảng, trong quân đội, nêu rõ : “Tuyệt đối không nên có ảo tưởng hoà bình sẽ đến rất nhanh và dễ dàng. Chúng ta phải tăng cường kháng chiến, tiêu diệt càng nhiều sinh lực địch, chỉ có như vậy địch mới chấp nhận đàm phán giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng tự do, chủ quyền độc lập của nhân dân ta”. Theo bố tri chính trị này, ý nghĩa chính trị của cuộc tấn công chiến lược đông xuân của quân đội Việt Nam càng to lớn hơn, càng mang tính chất tạo điều kiện có lợi cho quyết chiến chiến lược. Tình hình thực tế sau này đúng là đã phát triển như vậy.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #61 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:12:56 pm »

Thứ tám : Tiến công chiến lược của quân đội Việt Nam đông xuân 1953-1954, sự chống cự liều chết của quân Pháp, từng bước hình thành tình thế quyết chiến chiến lược

Theo kế hoạch tấn công đã định, trung tuần tháng 11/1953 quân đội Việt Nam bắt đầu tiến lên Tây Bắc Việt Nam tác chiến đã định. Sau khi biết quân đội Việt Nam hành động, cảm thấy sâu sắc đang đứng trước nguy cơ mất quyền chủ động về chiến lược, ngày 20/11, quân Pháp một mặt do tướng Guth dẫn sáu tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một mặt điều binh đoàn cơ động số 2 và hai tiểu đoàn cơ động từ Trung Bộ tăng viện cho Trung Lào. Ngày 25/11, lại đưa 6 tiểu đoàn chiếm đóng Mường Khê, Mường Khay ở Thượng Lào, xây dựng phòng tuyến nam Ô Giang nối liền Thượng Lào và Điện Biên Phủ. Như vậy bố trí sơ bộ của hai bên Việt – Pháp trong việc giành lấy vùng chiến lược quan trọng Tây Bắc Việt Nam, Thượng Lào, Trung Lào đã hình thành. Bố trí của quân Pháp, coi Điện Biên Phủ là “ngã tư chiến lược quan trọng” là “căn cứ không quân và lục quân quan trọng” duy trì chiến tranh xâm lược. Ngày 3/12, Tổng chỉ huy quân Pháp Navarre quyết định “không tiếc bất cứ giá nào giữ vững cứ điểm này” tuyên bố phải “nghiền nát” bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tại Điện Biên Phủ, vì thế đã nhanh chóng điều động cho Điện Biên Phủ, bày sẵn tư thế liều chết chống lại quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thảo luận đúng lúc tình hình quân sự, nghiên cứu phê chuẩn quyết tâm và kế hoạch tác chiến của Tổng quân uỷ Việt Nam do Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam vạch ra, quyết định tiếp tục chấp hành kế hoạch trước đây, giải phóng Lai Châu, Phong Xalì và Trung Lào, đồng thời quyết định tiếp theo đó “mở chiến dịch Điện Biên Phủ”, cho rằng Điện Biên Phủ là cụm cứ điểm lớn mạnh, nhưng có nhược điểm chí mạng, trơ trọi một mình, tất cả đều phải dựa vào không vận chi viện, cung cấp. Để bảo đảm chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành thuận lợi, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng chỉ huy, Chính phủ Việt Nam thành lập Ủy ban cung cấp tiền tuyến Trung ương do Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch, các nơi cũng thành lập Ban cung cấp tiền tuyến địa phương, Tổng quân uỷ cử Trần Đăng Ninh phụ trách giải quyết toàn diện vấn đề đường sá và cung cấp hậu cần cho tiền tuyến Điện Biên Phủ. Đồng thời quyết định điều động hàng loạt dân quân bảo đảm nhu cầu cấp bách sửa chữa đường sá lên Điện Biên Phủ.

Căn cứ theo kế hoạch tác chiến được Bộ Chính trị phê chuẩn, Đảng uỷ mặt trận một mặt gấp rút chuẩn bị tác chiến Điện Biên Phủ, một mặt ra lệnh cho các bộ đội triển khai tiến công theo kế hoạch đã định, ra lệnh cho đại đoàn 312, sư 316 tiến thẳng lên Tây Bắc. Ngày 7/12, bọn địch ở Lai Châu tháo chạy về phía nam, bị đại đoàn 316 tiêu diệt một bộ phận ở giữa Lai Châu – Điện Biên Phủ, Lai Châu được giải phóng nhanh chóng. Các đại đoàn 308, 351 được lệnh tiến gấp lên Điện Biên Phủ, tăng cường binh lực của quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và Trần Quý Hai được lệnh tăng cường chỉ huy bộ đội Trung, Thượng Lào, trung đoàn 101 của dại đoàn 325, trung đoàn 66 của đại đoàn 304 tiến công Trung, Hạ Lào cùng quân giải phóng Pathet Là tổ thành liên quân Việt – Lào, đánh rất tốt, tiêu diệt nhiều quân xâm lược Pháp, đến 25/12 tiến sát sông Mekong giải phóng thị trấn Thakhek Trung Lào và vùng đông Savanakhet, đại bộ phận vùng Trung Lào có giá trị chiến lược được giải phóng, quân Pháp không thể không điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ tăng viện cho Seno và Savanakhet cứ điểm còn lại ở Trung Lào. Quân đội Việt Nam theo kế hoạch tác chiến đã định, cho tiểu đoàn 436 trung đoàn 101 tiến xuống Hạ Lào, hành quân cấp tốc hơn 300km trong điều kiện hết sức khó khăn ngày 31/1/1954 bất ngờ tấn công Attopeu thị trấn quan trọng tại Hạ Lào, tiêu diệt hơn một tiểu đoàn và thừa thắng phát triển sang Saravane cơ bản giải phóng cao nguyên Bôlôven có giá trị chiến lược quan trọng. Tiếp đó chủ lực trung đoàn 101 tiến xuống phía nam vùng Đông bắc Campuchia, phối hợp với bộ đội mặt trận tự do Campuchia giải phóng Veunsai, Siembang, hình thành sự đe doạ đối với tỉnh lỵ StungTreng, đồng thời bộ đội Mặt trận tự do vùng đông Campuchia tăng cường hoạt động, giải phóng phần lớn tỉnh Kampong Cham. Đến đây, căn cứ địa vùng đông, Đông bắc Campuchia liền một dải với vùng giải phóng Hạ Lào, Trung Lào, về cơ bản đã thực hiện kế hoạch khai thông tuyến giao thống chiến lược Nam bắc Đông Dương đã định. Quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội Mặt trận tự do Campuchia với binh lực có hạn, trong thời gian rất ngắn đã giải phóng một vùng rộng lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng Trung Lào, Hạ Lào, đông bắc Campuchia, tiêu diệt nhiều địch, phân tán lực lượng cơ động của quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục phát triển tấn công chiến lược, quyết chiến Điện Biên Phủ.

Ngày 27/1/1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ liên khu 5 do Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyên Chánh làm Bí thư và dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, trung đoàn 108, trung đoàn 803 chủ lực liên khu 5 quân đội Việt Nam kiên quyết chấp hành kế hoạch tác chiến đã định, mở cuộc tấn công vào vùng Tây Nguyên có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Bộ đội truy diệt địch trong vùng rừng rậm hơn 300km, áp sát thành phố KonTum tấn công thị xã Plâycu, ngày 5/2 giải phóng thị xã KonTum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên và tiếp tục tiến xuống phía nam áp sát quốc lộ 19 buộc quân Pháp không thể không huy động lực lượng cơ động tăng viện cho một số cứ điểm ở Playcu và nam Tây Nguyên. Điều này đã làm phân tán hơn nữa lực lượng cơ động của địch, tạo điều kiện rất có lợi cho quyết chiến Điện Biên Phủ.

Đến đây sáu con đường đông tây Việt Nam sang Lào, Campuchia đường 9, 7, 8, 12, 9, 19 v.v... đều do Việt Nam khống chế, tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Trong tình hình có lợi, để cô lập quân địch ở Điện Biên Phủ theo kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, đại đoàn 308 chuẩn bị tấn công Điện Biên Phủ được lệnh tiến công phòng tuyến Nam Ô Giang của quân Pháp ở Thượng Lào. Đại đoàn 308 khắc phục khó khăn rất lớn hành quân cấp tốc hơn 200km, sau ngày 31/1 và 3/2, lần lượt tiêu diệt mười mấy đại đội ở Mường Khay, Mường Khè, Na Ngầm (Ngum), phá huỷ phòng tuyến nam Ô Giang của địch, tiến đến bờ sông Mekong, cách Luong Prabang 15km, cắt đứt đường liên lạc chiến lược giữa Thượng Lào và Điện Biên Phủ buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng cơ động tăng viện Luông Prabang. Đồng thời liên quân Việt Lào phát triển lên phía bắc, giải phóng toàn tỉnh Phong Xalì.

Trong thời gian tác chiến Đông xuân, đại đoàn 320 và bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích trên các chiến trường cũng theo kế hoạch, nhiệm vụ đã định, triển khai tác chiến tích cực sau lưng địch, đánh địch, phát triển chiến tranh du kích, kiềm chế, phân tán lực lượng của địch, phối hợp mạnh mẽ với tấn công của chiến trường chính. Như vậy, quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội Mặt trận tự do Campuchia trải qua hai tháng tác chiến anh dũng, gian khổ đã đập tan hoàn toàn âm mưu ý đồ của quân Pháp ngăn chặn cuộc tấn công chiến lược của quân đội Việt Nam đập tan mộng tưởng của “Kế hoạch Navarre” sẽ không có bất cứ rút lui nào nữa, tiêu diệt số lớn quân địch, giành lại hầu hết các vùng trọng điểm chiến lược cao nguyên Đông Dương, làm cho bố cục chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương tản mác manh mún, tạo điều kiện có lợi cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Thắng lợi của tác chiến tiến công chiến lược đã thuyết minh sự đúng đắn của chuyển hướng chiến lược của quân đội Việt Nam và chứng minh ý nghĩa trọng đại của nó.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #62 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:14:07 pm »

Thứ chín : Chiến dịch Điện Biên Phủ của quân đội Việt Nam tiến hành mùa xuân 1954, là trận quyết chiến chiến lược của hai quân đội Việt – Pháp, quân đội Việt Nam giành được thắng lợi quyết chiến

Sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, gia tăng công sự, tích trữ vũ khí, đạn dược và các loại vật tư, đến 3/1954, quân Pháp đã có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội ở Điện Biên Phủ. Về sau trong quá trình chiến dịch quân Pháp lại tăng viện 5 tiểu đoàn tất cả có đến 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, phần lớn là bộ đội tinh nhuệ. Hầu như toàn bộ lính nhảy dù của quân Pháp ở Đông Dương đều ở đây, còn có các bộ đội pháo binh, bộ đội công binh, bộ đội xe tăng, phân đội súng phun lửa và đội máy bay trực chiến (14 chiếc), tổng binh lực khng hơn 16.000 người. Cấu trúc công sự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ khá kiên cố, chia làm 8 cụm cứ điểm, ba phân khu phòng ngự. Vùng trung tâm Mường Thanh là phân khu phòng ngự trung tâm (bao gồm các điểm cao trong khng 1,500 km phía đông Mường Thanh), hai phần ba lực lượng của địch tập trung ở đây, cơ quan chỉ huy trận địa pháo binh, kho bãi hậu cần, sân bay chính cũng đều ở đây. Đồi Độc Lập cách Mường Thanh khng 4km về phía bắc cụm cứ điểm Bản Kéo, cách khng 2,500km chếch về phía tây bắc là phân khu phòng ngự phía bắc, cụm cứ điểm Him Lam cách mường Thanh 2,500km về phía đông (thuộc phân khu trung tâm Mường Thanh) tạo nên bình phong phía bắc Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách Mường Thanh khng 5km về phía nam là phân khu phòng ngự phía nam, không có sân bay và trận địa pháo binh, chịu trách nhiệm ngăn chặn quân đội Việt Nam tiến công từ phía nam. Quân Pháp dựa vào binh lực 16.000 người, hoả lực tương đối mạnh và thiết bị phòng ngự phụ khá dày đặc, xây dựng Điện Biên Phủ thành cụm cứ điểm lớn mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Tham mưu trưởng hải lục không quân của nước Pháp và Tướng O'Daniel (Mỹ) sau khi đích thân thị sát cụm cứ điểm Điện Biên Phủ nhất trí cho rằng : “một pháo đài bất khả xâm phạm”, “Verdun của Đông Nam Á”, đều ca ngợi quyết tâm của Navarre quyết chiến với quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, đều tin tưởng nhất định có thể đánh bại quân đội Việt Nam, tiêu hao bộ đội chủ lực của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Binh lực, hoả lực công sự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ quả là tương đối mạnh, nhưng cần phải thấy rằng, lúc đó bất kể tình hình chung trên chiến trường Đông Dương hay tình hình chiến trường Điện Biên Phủ, đều có lợi cho quân đội Việt Nam, mà không có lợi cho quân Pháp, quân Pháp ở Điện Biên Phủ có thể bị tiêu diệt, kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai với Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ là hoàn toàn đúng đắn, quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ cũng hoàn toàn đúng đắn. Trước hết, tình hình quốc tế lúc bấy giờ có lợi cho Việt Nam. Tập đoàn đế quốc (kể cả đế quốc Pháp) đứng đầu là đế quốc Mỹ bị thất bại trên chiến trường Triều Tiên đang đi xuống dốc. Kinh tế của đế quốc Pháp lúc bấy giờ rất khó khăn, khó đáp ứng nổi kinh phí đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa của Pháp. Có đến 73% chi phí quân sự của Pháp ở Đông Dương năm 1954 là do Mỹ viện trợ. Cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam là chính nghĩa, được tất cả lực lượng yêu chuộng hoà bình và lực lượng dân chủ trên thế giới ủng hộ, quốc tế đồng thanh lên án hành động xâm lược tàn bạo của Pháp ở Việt Nam ; Pháp rất cô lập ; hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Việt Nam đang chuẩn bị triệu tập đã bức thiết yêu cầu quân đội nhân dân Việt Nam phải đánh một trận thắng lớn thật nhanh, cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Triều Tiên và nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi, có thể chi viện cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam mạnh mẽ hơn.

Thứ hai, quân Pháp trên chiến trường Đông Dương liên tiếp bị thất bại, quân đội Việt Nam thắng lợi dồn dập. Sau khi chuyển hướng chiến lược, quân đội Việt Nam qua mấy cuộc tiến công chiến lược đã khống chế phần lớn cao nguyên và tuyến giao thông có giá trị chiến lược, bố trí phòng ngự của quân Pháp đã bắt đầu manh mún, tản mác, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường toàn Đông Dương đã từng bước rơi vào tay quân đội Việt Nam. Sau khi vùng giải phóng Việt Nam phát động quần chúng tiến hành giảm tô, giảm tức, quân đội Việt Nam trải qua chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức và rèn luyện tiến quân lên Tây Bắc, Lào, nhiệt tình và sức chiến đấu chống Pháp lên cao và tăng cường chưa từng có. Những điều đó đã tạo điều kiện cơ bản cho quân đội Việt Nam quyết chiến với quân Pháp. Còn quân Pháp do chấp hành “kế hoạch Navarre” điên cuồng bắt lính, cướp bóc lương thực, đã rơi sâu vào trong vòng vây của nhân dân Việt Nam ; trước tấn công quy mô lớn của quân đội Việt Nam, số lớn bộ đội cơ động phân tán, càng lộ rõ thiếu binh lực, chuẩn bị quyết chiến với quân đội Việt Nam rất không đầy đủ.

Thứ ba, đối với bản thân chiến dịch Điện Biên Phủ mà nói, ưu thế cũng ở phía Việt Nam. Để ngăn chặn, phá hoại tiến công chiến lược quả quân đội Việt Nam lên Tây Bắc Việt Nam, Lào, quân Pháp không thể không tập kết nhiều binh lính ở Điện Biên Phủ, liều mạng với quân đội Việt Nam, tiến hành quyết chiến. Hai bên quyết chiến ở Điện Biên Phủ đều cách xa hậu phương của mình, nhưng trong giải quyết vấn đề giao thông cung cấp, tình hình của quân đội Việt Nam tốt hơn nhiều quân Pháp. Quân Pháp chỉ dựa vào vận tải đường không, bị hạn chế mọi mặt rất lớn. Quân đội Việt Nam có thể dựa vào ôtô, xe đạp để vận tải, ngựa thồ, mang vác v.v.. cung cấp nhu cầu cho tiền tuyến. Lúc bấy giờ tàu hỏa trong nội địa Quảng Tây đã thông đến Bằng Tường biên giới Mục Nam quan chở vũ khí, đạn dược trang bị, vật tư sang Việt Nam, chi viện cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc còn cứ không ít công nhân sửa đường hỗ trợ nhân dân các dân tộc Việt Nam sửa chữa đường sá, bảo đảm cho ôtô vận tải đến tận tiền tuyến Điện Biên Phủ. Lúc bấy giờ phần lớn ôtô của Trung Quốc đều mua của Liên Xô. Chính phủ Trung Quốc đem một số lượng khá lớn ôtô, chi viện vô giá cho quyết chiến Điện Biên Phủ của Việt Nam.

Vì vậy quân đội Việt Nam ở thế có lợi hơn quân Pháp trên vấn đề nan giải là vận tải cung cấp. Quân Pháp không thể lấy được bất cứ thứ gì ở Điện Biên Phủ ngoài một số vật tư được vận chuyển bằng máy bay; quân đội Việt Nam còn có thể được các dân tộc thiểu số địa phương ra sức chi viện ngoài dựa vào hậu phương vận tải, có một số người trong quân đội Việt Nam không tin tưởng lắm quần chúng dân tộc thiểu số, nhưng tính tích cực của quần chúng dân tộc thiểu số đối với chiến tranh chống Pháp trên thực tế không kém quần chúng dân tộc Kinh. Lương thực dùng cho bộ đội dân công tiền tuyến Điện Biên Phủ là một việc chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong nhiệm vụ vận tải cung cấp, ngoài lương thực của Trung Quốc cung cấp, lương thực của Việt Nam chuẩn bị khoảng 27.400 tấn, trong đó quần chúng dân tộc thiểu số đóng góp hơn 7.300 tấn, khoảng 1/4 lương thực của Việt Nam chuẩn bị. Điều đó giảm nhẹ rất nhiều việc chuẩn bị lương thực cho quân đội và nhiệm vụ vận tải. Ngoài ra, nói về địa hình, Điện Biên Phủ là một lòng chảo nhỏ của vùng Tây Bắc Việt Nam sát với biên giới Lào, nam bắc dài khoảng 17km, đông tây rộng khoảng sáu bảy km, chung quanh là gò đồi, đất núi, có lợi cho quân đội Việt Nam tác chiến, so sánh tình thế (quân Pháp hoàn toàn bị quân đội Việt Nam bao vây), binh lực hoả lực của hai bên Việt – Pháp ở tiền tuyến Điện Biên Phủ cũng đều có lợi cho quân đội Việt Nam.

Tóm lại, phân tích các mặt tình hình quốc tế, tình hình chiến trường Đông Dương, tình hình tiền tuyến Điện Biên Phủ quyết chiến ở Điện Biên Phủ không có lợi quân Pháp, có lợi cho quân đội Việt Nam, là thời cơ chiến đấu tốt hiếm có của quân đội Việt Nam. Từ nhu cầu của Việt Nam trong đấu tranh chính trị quốc tế lúc bấy giờ mà nói, càng nên kiên quyết đánh trận này. Nhưng lãnh đạo quân đội Việt Nam lúc bấy giờ có người nhận thức đối với những vấn đề đó còn rất không rõ ràng do đó trong quá trình tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ cũng không phải hoàn toàn thuận buồm xuôi gió.

Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai kiến nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm chắc thời cơ có lợi, tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ là để quyết chiến với quân Pháp, làm cho Việt Nam ở vào vị thế có lợi trong đấu tranh chính trị quốc tế. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc ngoài việc dốc sức chi viện ra, còn luôn luôn thông qua Trưởng đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh kịp thời nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam đối với tác chiến của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, các cố vấn quân sự Trung Quốc theo ý định của lãnh đạo hai bên Trung – Việt, đã hết sức cùng với cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, tận tâm tận lực hỗ trợ quân đội Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn quân Pháp ở Điện Biên Phủ.

Để tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, đến khoảng tháng 1/1954 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh Tổng Quân uỷ đã tập trung ở chiến trường Điện Biên Phủ 4 đại đoàn chủ lực của quân đội Việt Nam, đại đoàn 308 (trung đoàn 36, 88, 102), đại đoàn 312 (trung đoàn 141, 165, 209), đại đoàn 316 (trung đoàn 98, 174, 176), đại đoàn 304 (trung đoàn 9, 57, thiếu trung đoàn 66), tất cả 11 trung đoàn bộ binh, còn có toàn bộ đại đoàn công pháo 351 (24 khẩu pháo 105ly, 20 khẩu pháo 75 ly, 16 khẩu súng cối 120 ly một số khẩu cao xạ pháo, súng máy cao xạ, 1 trung đoàn công binh), quả là quyết tâm lớn chưa từng có.

Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc và Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam vốn định nhanh chóng tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ với phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” và định ngày 25/1 tổng tấn công quân Pháp. Sau đó suy tính tới việc quân Pháp đã chiếm đóng hơn 2 tháng, công sự tương đối kiên cố, chuẩn bị tương đối đầy đủ, nếu đánh nhanh thắng nhanh, trong thời gian ngắn tiêu diệt toàn bộ hơn một vạn mấy nghìn quân Pháp là rất khó khăn, theo kiến nghị của Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ nghiên cứu lại tình hình Điện Biên Phủ xác định thay đổi phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước”, và điều chỉnh lại bố trí theo phương châm mới. Phía Trung Quốc, quân uỷ Trung ương bày tỏ đồng ý và đề ra ý kiến cụ thể rõ ràng về vấn đề này 2. Đảng uỷ mặt trận quân đội Việt Nam kiên quyết chấp hành quyết định mới. Thực hành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước”, mỗi lần chiến đấu có thể tập trung binh lực, hỏa lực ưu thế tuyệt đối công kích một vài điểm, có thể từng bước tiêu diệt địch bằng cách bóc vỏ măng tương đối chắc chắn, hoàn toàn nắm vững quyền chủ động chiến hướng, cuối cùng mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ địch. Sự thực sau đó chứng minh thực hành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước” là đúng đắn.

Sau khi thay đổi phương châm tác chiến, quân đội Việt Nam ngoài tiếp tục tăng cường các công tác chuẩn bị ở tiền tuyến và hậu phương, còn cử đại đoàn 308 tiến về phía tây, đập tan phòng tuyến nam Ô Giang của quân Pháp ở Thượng Lào, cô lập hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ. Sư 308 hoàn thành nhiệm vụ trở lại tiền tuyến Điện Biên Phủ vào nửa sau tháng 2/1954. Thời gian này các sư chủ lực khác ở Điện Biên Phủ không ngừng đánh quân Pháp, đi lùng, quan sát, tiêu hao quân Pháp, bảo đảm các công tác chuẩn bị cho tiền tuyến tiến hành thuận lợi. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt của quân đội Việt Nam ở mặt trận Điện Biên Phủ đã hoàn tất. Ngày 11/3 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể cán bộ chỉ huy, bộ đội tiền tuyến đã được cổ vũ rất lớn. Ngày 13/3, quân đội Việt Nam mở cuộc tiến công quân Pháp ở Điện Biên Phủ, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu.

Đợt 1 chiến dịch là tấn công chiếm ba cụm cứ điểm quân Pháp được phòng thủ nghiêm ngặt ở phía bắc Điện Biên Phủ, cụm cứ điểm Him Lam, cụm cứ điểm đồi Độc Lập, cụm cứ điểm Bản Kéo, đe doạ phân khu trung tâm phòng ngự và sân bay của quân Pháp từ mặt bắc, giành lấy trận địa xuất phát tổng công kích từ mặt bắc. Cụm cứ điểm Him Lam ở Đông bắc Điện Biên Phủ, kiểm soát con đường từ hướng Đông bắc theo đường Tuần Giáo đi vào Điện Biên Phủ, có 5 đại đội quân Pháp canh giữ. Đồi Độc Lập ở chính bắc Điện Biên Phủ, dài khng hơn 700 mét, có 5 đại đội quân Pháp và 4 khẩu pháo cối 120mm canh giữ, nhiệm vụ của nó ngoài đề phòng quân đội Việt Nam tấn công Điện Biên Phủ từ hướng bắc, còn phụ trách bảo vệ an toàn sân bay Mường Thanh. Bốn trung đoàn 88, 141, 165, 209 của đại đoàn 308, 312 và một nửa lực lượng của đại đoàn công pháo 351, từ 15h ngày 13/3 đến ngày 17/3, trải qua chiến đấu ác liệt, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở ba cụm cứ điểm và còn đánh lui quân địch không ngừng phản kích, phá huỷ một phần trận địa pháo binh và kho thàng của địch, kiểm soát đồi Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo tạo nên mối đe doạ trực tiếp mặt bắc Mường Thanh của Điện Biên Phủ. Ngày 16/3, quân Pháp lại cho ba tiểu đoàn nhảy dù tăng viện cho Điện Biên Phủ để bù lấp tiêu hao và tổn thất.

Đợt 2 chiến dịch là tiến công cụm cứ điểm quân Pháp ở các điểm cao phía đông Điện Biên Phủ, giành lấy trận địa xuất phát tổng công kích quân địch ở Điện Biên Phủ. Phía dưới các điểm cao phía đông là phân khu phòng ngự trung tâm Mường Thanh – Điện Biên Phủ, cách phân khu trung tâm Mường Thanh và sân bay Mường Thanh nơi xa khng 1500 mét, nơi gần khoảng 500 mét, là dải đất trọng điểm phòng ngự của quân Pháp, có khoảng hơn 4 tiểu đoàn phòng thủ. Quân đội Việt Nam sử dụng đại đoàn 312, 316 vào 17g ngày 30/3 tiến công quân Pháp ở các điểm cao phía đông, đêm hôm đó đánh chiếm 2/3 đồi E đông bắc, đồi D phía đông chếch bắc, đồi C1 phía đông và đồi A1 phía đông chếch nam. Đồi A1 là một điểm cao áp sát phân khu phòng ngự trung tâm Mường Thanh tương đối gần, địa thế khá cao, rất quan trọng đối với quân Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ. Rạng sáng ngày 31/3, quân Pháp tổ chức số lớn binh lực dưới sự chi viện của pháo binh, xe tăng phản kích quân đội Việt Nam đánh lên đồi A1. Đến ngày 4/4, hai bên Việt – Pháp trải qua nhiều lần giành giật quyết liệt, giằng co qua lại, mỗi bên chiếm một nửa điểm cao, hình thành trạng thái cầm cự. Ngày 8/4, quân Pháp lại cho nhảy dù một tiểu đoàn xuống Điện Biên Phủ để bổ sung tổn thất. Sáng sớm ngày 9/4 quân Pháp phản kích quân đội Việt Nam đánh chiếm đồi C1. Đồi C1 cách đồi A1 tương đối gần, cũng là một điểm cao quan trọng, hai bên trải qua giành giật nhiều lần suốt bốn ngày đêm, cuối cùng cũng như thế, mỗi bên chiếm một nửa điểm cao, hình thành cầm cự, trải qua hơn 10 ngày chiến đấu ác liệt, ngoài tiêu diệt không ít sinh lực địch, quân đội Việt Nam đã đánh chiếm một số điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ. Đồng thời quân đội Việt Nam cũng có không ít thương vong, bộ đội tiến lên khó khăn khá lớn, thực tế hình thành trạng thái giằng co và cầm cự.

Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #63 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:14:21 pm »

Căn cứ theo tình hình địch trinh sát được, để phá vỡ trạng thái hai bên cầm cự, quán triệt tốt hơn nữa phương châm “đánh chắc thắng chắc”, quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, quyết định tăng cường cấu trúc trận địa tiến công, đào công sự xung quanh trận địa địch, không ngừng áp sát địch, chia cắt địch, đánh lấy từng trận địa địch, giành lấy địa vị xuất phát có lợi, mở cuộc tổng công kích địch, đồng thời đào hào vào trận địa chủ yếu đồi A1 của địch khống chế, chuẩn bị phối hợp tác chiến bằng bộc phá đường hào, giành lấy trận địa chủ yếu đó.

Căn cứ quyết định này, quân đội Việt Nam điều chỉnh bố trí lấy trung tâm phòng ngự Mường Thanh của địch làm mục tiêu, dại đoàn 308 phụ trách xây dựng trận địa phía tây, đại đoàn 312 phụ trách xây dựng trận địa phía bắc, đại đoàn 316 phụ trách xây dựng trận địa phía đông, trung đoàn 57 của đại đoàn 304 phụ trách xây dựng trận địa giữa phân khu Hồng Cúm (phân khu nam của quân Pháp) và phân khu trung tâm Mường Thanh. Quân đội Việt Nam chưa có kinh nghiệm về phương pháp xây dựng trận địa tiến công áp sát địch, cố vấn Trung Quốc đi sâu vào các bộ đội tấn công chính ; hỗ trợ chỉ đạo cụ thể. Xây dựng trận địa tiến công đồ sộ là một công trình rất gian khổ, đồng thời còn phải sẵn sàng đánh lui phản kích của địch, đánh lấy trận địa của địch, cũng rất căng thẳng để lâu sẽ xuất hiện tư tưởng sợ vất vả, sợ làm công sự. Qua làm công tác tư tưởng chính trị sâu sắc, khắc phục những tư tưởng đó đã xây dựng được tư tưởng không sợ vất vả, không sợ gian khổ. Kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân đich, quân đội Việt Nam triển khai thi đua đào đắp công sự sôi nổi xung quanh Điện Biên Phủ, quân Pháp quyết chiến với quân đội Việt Nam, liều mình cựa quậy, thường xuyên tiến hành các cuộc phản kích qui mô và quân đội Việt Nam, và cho nhiều máy bay thay nhau bắn phá trận địa của quân đội Việt Nam, có ngày xuất kích hơn 250 lần/chiếc.

Bom napan của địch hầu như thiêu rụi cây cối trên các đỉnh núi phía đông Điện Biên Phủ. Để đối phó với bắn phá của địch, phong tỏa chi viện của địch từ trên không cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ, dưới sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, bộ đội pháo cao xạ kịp thời chi viện mạnh mẽ quân đội Việt Nam, khống chế vùng trời Điện Biên Phủ. Để đối phó với phản kích của địch, quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, áp dụng biện pháp chủ động đánh địch triển khai thi đua các tay súng thần, tay pháo thần tiêu diệt địch, đánh cho sĩ quan binh lsinh Pháp co vòi trong trận địa không dám làm liều. Công sự của quân đội Việt Nam ngày càng áp sát địch, không ít trận địa địch bị quân đội Việt Nam đánh chiếm, liên hệ giữa phân khu nam và phân khu trung tâm của địch bị cắt đứt, sân bay Mường Thanh bị khống chế, cuối cùng diện tích địch khống chế ở phân khu trung tâm Mường Thanh chỉ còn khng một cây số vuông. Vào giờ phút quan trọng này để cứu vãn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa hai tàu hàng không mẫu hạm vào vịnh Bắc Bộ để đe doạ, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra kế hoạch sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-29 ném bom xuống quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ và bắn tin sẽ sử dụng bom nguyên tử, nhưng do sợ nhân dân thế giới phản đối trên thực tế không dám manh động.

Ngày 26/4/1954, hội nghị Genève có đại biểu của 23 nước Trung Quốc, Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Triều Tiên (kể cả Nam Triều Tiên), Việt Nam (có cả Nam Việt Nam 3), Lào, Campuchia v.v... tham gia khai mạc. Hội nghị chưa đi đến thoả thuận khi thảo luận vấn đề Triều Tiên. Khi thảo luận vấn đề Đông Dương, hội nghị có bất đồng, thái độ của đại biểu Chính phủ Pháp Laniel kiên trì chiến tranh thực dân rất xấu. Để tranh thủ triệu tập hội nghị Genève thảo luận vấn đề Việt Nam có hiệu quả, Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai thông qua điện đài vô tuyến thường xuyên tìm hiểu tình hình chiến trường qua Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đang hỗ trợ quân đội Việt Nam tác chiến ở Điện Biên Phủ, cổ vũ hỗ trợ quân đội Việt Nam nhanh chóng tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ để tranh thủ vị thế chính trị có lợi cho Việt Nam ở hội nghị Genève.

Trước đó ngày 19/4, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp thảo luận tình hình chiến trường Điện Biên Phủ cho rằng : “Quân đội Việt Nam đã giành được thắng lợi trong tấn công hai đợt trước, đã tạo điều kiện cơ bản cho tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ”. Nhưng tư tưởng hữu khuynh còn tồn tại nghiêm trọng, gây nên tổn thất hoặc ít hoặc nhiều không cần thiết, ảnh hưởng đến thành quả thắng lợi ở mức độ nào đó. Hội nghị đề xuất chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tình hình quân sự và chính trị ở Đông Dương, đối với sự trưởng thành của quân đội Việt Nam và đối với việc bảo vệ hoà bình thế giới, nhất là vào lúc hội nghị Geneve sắp triệu tập lại càng như vậy. Hội nghị vạch rõ, cần phải nỗ lực khắc phục tư tưởng hữu khuynh, kiên định lòng tin, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Và quyết định đánh toàn đảng, toàn dân, chính quyền các cấp dốc toàn lực chi viện Điện Biên Phủ, làm tốt mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch toàn thắng.

Đêm 1/5, tiến công đợt 3 chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Chiến đấu đến ngày 3/5, trung đoàn 98 của đại đoàn 316 đã tiêu diệt quân địch khống chế sườn phía tây đồi C1 đông Điện Biên Phủ; trung đoàn 209 đại đoàn 312 phá huỷ hai cứ điểm dưới chân núi bên bờ sông Trắc phía đông Điện Biên Phủ, trung đoàn 88, trung đoàn 36 của đại đoàn 308 lần lượt đánh chiếm 2 cứ điểm phía tây Mường Thanh, cách sở tổng chỉ huy của địch chỉ có 300 mét. Ngày 4/5, địch cho một tiểu đoàn cuối cùng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và chuẩn bị đêm mồng 7 phá vây chạy trốn sang hướng Lào. 21g ngày 6/5, lấy bộc phá đường hào thông tới trung tâm trận địa địch đồi A1 làm tín hiệu, quân đội Việt Nam mở tổng công kích địch ở Điện Biên Phủ, các sư hiệp lực tấn công địch. Sáng ngày 7/5, quân địch vẫn tổ chức phản kích chiến đấu đến 14g ngày 7, quân Pháp bắt đầu kéo cờ trắng đầu hàng. Sau đó, quân đội Việt Nam vào bên trong đến đến đâu quân Pháp ở đó kéo cờ trắng đến đó. 17g30 ngày 7, Tướng De Castries viên chỉ huy cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ và toàn bộ sĩ quan bộ tham mưu của ông ta bị quân đội Việt Nam bắt làm tù binh, gần 10.000 quân Pháp trong công sự ra đầu hàng. Tối ngày 7, đại đoàn 304 tấn công vào Hồng Cúm hơn 2000 quân Pháp trốn chạy sang Lào, bị tiêu diệt toàn bộ ở dã ngoại. Quyết chiến Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm đã kết thúc thắng lợi. “Kế hoạch Navarre” của quân Pháp phá sản hoàn toàn. Không lâu, Chính phủ Laniel của Pháp tuyên bố từ chức.

Sau khi hơn 10.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 7/5, ở hội nghị Genève, đoàn đại biểu của Chính phủ Laniel Pháp không thể không co lại, buộc phải đồng ý triệu tập hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương. Ngày 8/5, hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương bắt đầu tiến hành. Đoàn đại biểu Chính phủ Pháp lúc này không chỉ ở vị thế của kẻ xâm lược phi chính nghĩa mà còn ở vị thế bất lợi của kẻ chiến bại. Ngược lại, Đoàn trưởng Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng không chỉ ở vị thế chính nghĩa chống bọn xâm lược, mà còn ở vị thế cực kỳ có lợi giành được chiến thắng to lớn trong chiến tranh. Thế nhưng do đại biểu Mỹ phá hoại và đại biểu chính phủ Laniel Pháp cản trở, hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương chưa thể đi đến hiệp nghị nhanh chóng, cuộc chiến đấu trên chiến trường Đông Dương vẫn tiếp tục.

Được thắng lợi Điện Biên Phủ cổ vũ, quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội mặt trận tự do Campuchia trên các chiến trường Đông Dương triển khai toàn diện tấn công quân Pháp, tiêu diệt rất nhiều quân Pháp và quân nguỵ, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, trong đó đặc biệt là cuộc chiến đấu của trung đoàn 96 quân đội Việt Nam ngày 24/6 trên quốc lộ 19 An Khê đi Pleiku tiêu diệt 1 trung đoàn bộ binh, và 1 tiểu đoàn pháo binh của binh đoàn cơ động 100 tinh nhuệ của quân Pháp, giáng một đòn nặng nề vào quân Pháp. Tháng 6/1954, Chính phủ Laniel Pháp từ chức, Chính phủ Mendès-France lên thay, buộc phải có thái độ tương đối hiện thực. Hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương đàm phán đến ngày 21/7 đạt được hiệp định về khôi phục hoà bình ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu của Hiệp định là đình chỉ hành động đối địch ở ba nước Đông Dương, các nước tham dự hội nghị bảo đảm tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp nội bộ của ba nước, ba nước lần lượt tổ chức bầu cử tự do toàn quốc vào tháng 7/1956. Mỹ kiên trì dã tâm đối với ba nước Đông Dương không chịu ký tên vào hiệp định này, nhưng ra tuyến bố giả vờ Mỹ không sử dụng vũ lực để gây cản trở thực thi hiệp định.

Trước khi ký hiệp định Genève về vấn đề Đông Dương, trước cuộc đấu tranh đe doạ tấn công của nhân dân, quân đội ba nước Đông Dương, quân Pháp rút dần khỏi đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Ngày 10/6 rút khỏi Việt Trì, ngày 28, 29, 30 rút khỏi Thái Bình, Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, ngày 1/7 rút khỏi Nam ĐỊnh, ngày 3/7 rút khỏi Phủ Lý. Đến đây, ngoài tuyến Hà Nội – Hải Phòng – Sơn Tây và vùng chật hẹp dọc hai bên đường, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam do quân đội Việt Nam kiểm soát. Phép biện chứng của chiến tranh là như vậy, năm 1951 quân đội Việt Nam đưa chủ lực nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, không những không lấy được đồng bằng, mà ngược lại làm cho chiến tranh du kích ở đồng bằng xuất hiện hiện tượng co cụm ; mùa đông năm 1952, bắt đầu đưa chủ lực vào vùng núi, sau 20 tháng, không chỉ khống chế miền núi mà còn nắm cả đồng bằng trong tay. Ngày 21/7/1954, hội nghị Geneve về vấn đề Đông Dương ký kết hiệp định, tuyên bố bế mạc. Ngày 22/7, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ra lệnh chiến trường Việt Nam ngừng bắn, cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp xâm lược bắt đầu từ ngày 23/9/1945 kết thúc thắng lợi. Theo hiệp định quân đội Việt Nam tiến vào Hà Nội, quân Pháp hoàn toàn rút lui. Ngày 1/1/1955, nhân dân Hà Nội mittinh chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh thắng lợi trở về Hà Nội. Ngày 16/5/1955 đại đoàn 320 quân đội Việt Nam tiếp quản Hải Phòng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng.

Theo hiệp định Geneve, bộ đội và quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia tập kết tại miền nam Việt Nam sau khi rút về miền Bắc Việt Nam, đã biên chế thành đại đoàn 330, 338, 305, 324, 335.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #64 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:16:08 pm »

Thứ mười : Đã có phương hướng phát triển chiến lược đúng đắn, còn phải có đông đảo quần chúng nhân dân và đông đảo cán bộ chỉ huy dốc sức tham gia chiến đấu, mới có thể giành được thắng lợi

Năm 1951, quân đội Việt Nam chưa chấp nhận kiến nghị đặt hướng phát triển chiến lược nhằm vào Tây Bắc, Lào đặt hướng phát triển chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam có trọng binh quân Pháp đóng giữ, đánh phá cái gọi là phòng tuyến “boongke” của quân Pháp, nhiều lần không đạt được mục đích chiến dịch, không những không thể thay đổi tình hình đồng bằng Bắc Bộ, mà còn hầu như đánh mất quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ Việt Nam đã giành được qua chiến dịch biên giới, ngược lại quân Pháp đã chuyển từ thế thủ sang thế công, đánh chiếm vùng Hoà Bình lần nữa. Mùa đông năm 1952 quân đội Việt Nam bắt đầu chấp nhận kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, sử dụng chủ lực vào vùng Tây Bắc Việt Nam có vị thế chiến lược quan trọng, binh lực địch suy yếu, đã giành được thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc mùa đông năm 1952, chiến dịch Thượng Lào mùa xuân 1953, làm cho tình hình chung trên chiến trường Đông Dương bắt đầu có thay đổi, bất lợi cho quân Pháp, có lợi cho quân đội Việt Nam.

Tháng 9/1953, trong cán bộ lãnh đạo Việt Nam, có một số người nêu ra ý kiến khác với hướng chiến lược và tiếp tục nhằm vào Tây Bắc, Lào, nảy sinh dao động lại muốn sử dụng bộ đội chủ lực vào đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Rất may là, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì áp dụng kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, tiếp tục đưa chủ lực nhằm vào Tây Bắc, Lào và giành được thắng lợi rất lớn trong tấn công chiến lược đông xuân 1953-1954, không những làm rối loại bố trí chiến lược của quân Pháp, giành quyền chủ động về chiến lược, mà còn giữ chân quân Pháp ở Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho quân đội Việt Nam tiến hành quyết chiến chiến lược với quân Pháp.

Thượng tuần tháng 5 năm 1956, tôi theo đồng chí Trần Canh đến xem địa hình hình Điện Biên Phủ, khi ôtô đi qua thượng nguồn sông Nậm Hu phía tây Tuần Giáo một cán bộ cơ sở của quân đội Việt Nam nói với tôi : Con sông này đến mùa mưa, ôtô không thể vượt qua được, khi chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, nếu ngày 10/5 (mùa mưa ở miền Bắc Việt Nam nói chung bắt đầu trước sau trung tuần tháng 5) vẫn không thể giải quyết được chiến đấu, dù cho các đồng chí Trung Quốc nói thế nào chúng tôi cũng không đánh. Liên hệ một số tình hình của phía quân đội Việt Nam vào lúc căng thẳng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 4/1954, cách nói của vị cán bộ phụ trách là đáng tin. Phương châm đặt phương hướng phát triển chiến lược nhằm vào Tây Bắc, Lào mà Mao Chủ tịch kiến nghị, Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định, dắt dẫn chiến tranh chống Pháp giành được thắng lợi, đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.

Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trên vấn đề quán triệt chuyển hướng chiến lược trọng đại từ 1951 đến 1954, đã trải qua một quá trình quanh co, phức tạp. Mặt khác, hướng chiến lược đúng hay không, rõ ràng là có vai trò quyết định với sự phát triển của tình hình. Nhưng, nếu không có sự phát động đầy đủ và sự ủng hộ tích cực đối với chiến tranh của đông đảo quần chúng nhân dân không có cán bộ chỉ huy có giác ngộ chính trị cao tích cực lao vào cuộc chiến tranh, dù cho hướng chiến lược đúng đắn đến đâu, vẫn không làm được. Thử nghĩ, nếu đầu năm 1953 vẫn không giảm tô, giảm tức, đi sâu phát động quần chúng nông dân, cũng không tiến hành chỉnh quân chính trị, dù cho đã chuyển hướng chiến lược, e rằng cũng khó khắc phục những khó khăn nghiêm trọng khi tiến công lên Tây Bắc, Lào, khó mà kiên trì lâu dài trên chiến trường tàn khốc quyết chiến Điện Biên Phủ. Đi sâu phát động quần chúng, được đông đảo quần chúng nhân dân hết lòng ủng hộ, đi sâu chỉnh quân chính trị nâng cao giác ngộ chính trị của đông đảo cán bộ chỉ huy và tăng cường tinh thần anh dũng tác chiến là bảo đảm căn bản cho sự quán triệt chấp hành phương hướng phát triển chiến lược đúng đắn.

Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tiến hành viện trợ to lớn cho Việt Nam, đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự viện trợ vẻ vang, vô tư đó sẽ mãi mãi ghi vào sử sách phong trào cộng sản quốc tế.


1 Không thích hợp - altus.

2 Đoạn này là một điển hình về sự “viết lại lịch sử” của phía Trung Quốc. Sự thật, trứoc khi đại tướng Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh tới chiến trường, Bộ tham mưu chiến dịch nghe lời cố vấn Mai Gia Sinh, đã lên kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”, kéo pháo “vào” để bắn thẳng xuống tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và dùng chiến thuật “biển người” (cách đánh cố hữu của quân đội Trung Quốc ở Triều Tiên (sẽ được tái bản và thất bại năm 1979 ở biên giới phía bắc). Quyết định thay đổi kế hoạch, chuyển sang “đánh chắc thắng chắc” và kéo pháo “ra” là quyết định cá nhân ngày 25.1.1954 tướng Giáp. Lúc đó, việc liên lạc giữa Bộ chỉ huy ở Điện Biên Phủ với Bộ chính trị ở Việt Bắc không dùng vô tuyến điện, mà dùng ngựa, nên đi về phải nhiều ngày. Tướng Giáp đã lấy trách nhiệm của vị “tướng ngoài mặt trận” và ông đã tranh thủ được sự đồng tình của Vi Quốc Thanh. Họ Vi gửi điện về Bắc Kinh xin ý kiến Mao Trạch Đông. Tại cuộc hội thảo kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ họp tại Bắc Kinh tháng 6.2004 (sau khoá họp ở Paris và Hà Nội), các nhà sử học Trung Quốc đã phải thừa nhận rằng bức điện chuẩn y của Mao, mãi đến ngày 27.1.1954, Vi Quốc Thanh mới nhận được, tức là 2 ngày sau khi đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh đổi kế hoạch. Như vậy, cách trình bày của tác giả hoàn toàn sai lệch, đổi trắng thay đen để đề cao vai trò của đoàn cố vấn Trung Quốc.

3 Ý nói chính quyền bù nhìn Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam). Những cụm từ “miền Bắc Việt Nam”, “miền Nam Việt Nam” chỉ xuất hiện sau ngày ký kết Hiệp định Genève (20.7.1954)

Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #65 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:01:53 am »

GHI LẠI CHẶNG ĐƯỜNG THAM GIA ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ SANG VIỆT NAM
Độc Kim Ba

I. Chỉ thị của các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc

Hạ tuần tháng 4 năm 1950, tôi đang làm Trung đoàn trưởng trung đoàn pháo binh tại quân đoàn 32, vừa từ Thanh Đảo chuyển về Kiến Âu, Phúc Kiến, chuẩn bị tham gia chiến dịch giải phóng Kim Môn, Đài Loan. Thượng tuần tháng 5, bỗng nhận được lệnh bất ngờ, bổ nhiệm tôi làm cố vấn pháo binh tham gia Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam và lập tức có mặt tại Bộ tư lệnh quân khu Hoa Đông, Nam Kinh. Trung tuần tháng 5, tôi đến Nam Kinh, sau khi báo cáo có mặt, tôi được giới thiệu với đồng chí Mai Gia Sinh tham mưu trưởng đoàn cố vấn. Đồng chí cho tôi biết Ban chỉ huy đoàn cố vấn do quân khu Hoa Đông thành lập, đoàn trưởng Đoàn cố vấn là đồng chí Vi Quốc Thanh, Chủ nhiệm Ban chính trị là đồng chí Đặng Dật Phàm, và giới thiệu đại để tình hình biên chế, tổ chức của đoàn cố vấn. Cuối cùng đồng chí bảo tôi chỗ sau khi mọi người đến đầy đủ, có thể đi Bắc Kinh nhận nhiệm vụ. Khoảng 20/6 Tham mưu trưởng Mai Gia Sinh, Chủ nhiệm Đặng Dật Phầm dẫn đầu cán bộ trung đoàn trở lên trong đoàn cố vấn đi Bắc Kinh. Lúc đó Phó tư lệnh quân khu Hoa Đông Túc Dụ cũng đi Bắc Kinh, chúng tôi cũng ngồi xe riêng của đồng chí. Sau khi đến Bắc Kinh ở khách sạn Hương Thôn cũng là chiêu đãi sở của quân ủy Trung ương. Lúc đó đoàn trưởng Vi Quốc Thanh cũng ở trên một lầu nhỏ trong khách sạn này.

Sau khi chúng tôi gặp Vi Quốc Thanh, đồng chí dặn chúng tôi không nên đi ra ngoài chờ thủ trưởng Trung ương tiếp kiến. Nhưng lúc đó, tình hình chiến tranh Triều Tiên căng thẳng, các đồng chí lãnh đạo Trung ương rất bận, buổi tiếp tạm thời hoãn lại. Chiêu đãi sở tổ chức cho chúng tôi đi xem thành phố Bắc Kinh. Ngày 25/6, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, buổi tiếp lại hoãn. Tuyệt đại đa số chúng tôi lần đầu tiên đến Bắc Kinh, nhân dịp này đều muốn xem một lượt các phố chính, danh lam thắng cảnh của Bắc Kinh. Ở chiêu đãi sở, chúng tôi được báo bốn vị lãnh đạo Trung ương : Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng tư lệnh Chu Đức cùng tiếp chúng tôi long trọng, mọi người không ai đoán trước nên phấn khởi lạ thường.

Sáng 27/6, Đoàn cố vấn đi công tác ở Việt Nam gần 40 người kể cả nhân viên cơ yếu lên hai xe khách đến Phong Trạch viên, Trung Nam Hải vào một căn phòng rất rộng rãi, tấm biển trên cửa đề chữ “Di niên đường”. Đây là một kiến trúc kiểu cũ, các cửa đều chạm hoa, trong phòng trống trơn, không có thảm, cũng không có salông, cũng không bầy sẵn trà, thuốc, không bày biện thứ gì cả. Ở góc đông bắc phòng đặt hai chiếc bàn, mấy chục chiếc ghế tựa và ghế đẩu quanh hai chiếc bàn làm thành nửa vòng tròn. Trên tường bốn phía xung quanh treo nhiều bức hoạ cung đình nhà Thanh, rất cổ kính. Trong một ngôi nhà có mấy nam nhân viên phục vụ.

Một số chúng tôi xem các bức hoạ trong phòng chở thủ trưởng đến. Chưa đầy 20 phút, nhân viên công tác nói Thủ trưởng đến rồi. Chúng tôi vội vàng về chỗ đứng. Tổng tư lệnh Chu Đức vào trước, theo sau là Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ và đồng chí Vương Quang Mỹ cũng bước vào mọi người vỗ tay chào mừng. Lần đầu tiên tôi được gặp Lưu phó chủ tịch, còn Chu Tổng tư lệnh thì tôi đã gặp nhiều lần trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, đồng chí không thay đổi mấy. Các đồng chí xem ra rất mạnh khoẻ, chào mọi người và sau khi hàn huyên mấy câu với các thủ trưởng Vi, Mai, Đặng liền mời mọi người ngồi xuống, các đồng chí cùng ngồi bên hai bàn. Đồng chí Vương Quang Mỹ đứng bên Lưu Phó chủ tịch.

Tiếp đó Lưu Phó chủ tịch đứng dậy nói : “ Hôm nay mời các đồng chí đến đây là để bàn vấn đề các đồng chí đi công tác ở Việt Nam. Lẽ ra Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng cùng tiếp các đồng chí, nhưng Triều Tiên đã đánh nhau rồi, các đồng chí đều đã xem báo, tình hình rất căng thẳng. Sợ bọn đế quốc nhúng tay vào điều này quan hệ đến vận mệnh của Triều Tiên, cũng quan hệ đến an ninh của đất nước chúng ta, cho nên Trung ương rất quan tâm đến tình hình, rất bận. Mấy hôm nay Chủ tịch rất vất vả, làm việc ban đêm, ban ngày nghỉ, bây giờ chủ tịch đang nghỉ, chúng tôi không đánh thức Chủ tịch. Chu Thủ tướng đang bận họp, cũng không thể đến được, chỉ có hai chúng tôi trao đổi với mọi người ! Nói thế nào đây nhỉ, toạ đàm vậy ! Hay là các đồng chí nói trước có vấn đề gì, có quan điểm gì không ? ”

Lưu Phó chủ tịch tỏ ý mời mọi người phát biểu, nhưng trong phòng im phăng phắc, không ai nói gì. Sau một lát, Lưu Phó chủ tịch nói “ Tổng tư lệnh, thế đồng chí nói trước đi ”. Chu Tổng tư lệnh nói : “ Phó chủ tịch nói trước đi ! ”.

Vì thế Lưu Phó chủ tịch đi thẳng vào vấn đề nói “ Nghe nói có đồng chí không muốn sang Việt Nam công tác, nguyên nhân gì vậy Có thể nêu ra trao đổi được không. Có gì thì nói thẳng. Nếu lý do chính đáng có thể xem xét không đi. Đồng chí nào đó nói đi ”. Nhìn thấy không có ai nói gì, ngừng một lát, Lưu Phó chủ tịch nói : “ Không có ai nói thì tôi nói. Lần này các đồng chí sang Việt Nam công tác là một việc lớn là chấp hành một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Trung ương đưa ra quyết định này là có lý do quan trọng, là đi giúp người ta giải phóng. Các đồng chí đến đó, phải giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy, tiến hành tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận, nhiệm vụ lớn lao ! Vì vậy các đồng chí đi hay không là vấn đề nguyên tắc, là vấn đề lập trường của người Cộng sản”.

Lưu Phó chủ tịch nói, mọi người đều là đảng viên cả. Người cộng sản nhìn nhận vấn đề này như thế nào. Chúng ta đã giải phóng, trên thực tế điều này, phải suy nghĩ sâu sắc, Đài Loan vẫn chưa giải phóng. Rất nhiều đảo, chưa được giải phóng. Trên đại lục còn có thế lực tàn dư và kẻ thù ẩn náu, nhiệm vụ của chúng ta còn rất nặng nề. Mao Chủ tịch nói, đó chỉ là bước đầu tiên trong cuộc vạn lý trường chinh, các đồng chí hiểu như thế nào Chúng ta đã giải phóng đại lục, Tưởng Giới Thạch liệu có cam chịu không  ? Chủ nghĩa đế quốc đặc biệt là đế quốc Mỹ có cam chịu không ? Đài Loan còn mấy chục vạn quân đội lại đang chiếm một số đảo ven biển, chuẩn bị làm gì ? Chẳng phải là âm mưu phản công đại lục hay sao ? Chúng ta thấm nhuần bài học lịch sử, các đồng chí đã đi xem Cố cung chưa ? Lý Tự Thành chẳng phải đã chiếm Bắc Kinh tiến vào Cố cung rồi sao ? Kết quả thế nào ? Bộ đội của Lý Tự Thành kiêu ngạo, tưởng rằng việc lớn đã xong, không ngờ một bộ phận thế lực còn lại của triều Minh liên hệ với tộc Mãn tiến vào cửa quan, chưa được mấy ngày là mất. Hiện nay đằng sau Tưởng Giới Thạch có đế quốc Mỹ rất lớn mạnh, nếu câu kết lại phản công đại lục nguy hiểm đó chẳng phải rõ ràng sao ! Người cộng sản có thể xem thường được sao ? Nếu Triều Tiên, Việt Nam bị đế quốc chiếm đóng hình thành sự bao vây đối với chúng ta ở phía Đông, phía Nam của chúng ta liệu chúng ta có an toàn không ? Đó là điều đầu tiên muốn các đồng chí suy nghĩ kỹ.

Người cộng sản là người quốc tế chủ nghĩa, chủ nghĩa quốc tế tức là không chỉ giải phóng quốc gia dân tộc mình, mà còn phải giải phóng tất cả các quốc gia và dân tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân bị áp bức của nước đế quốc, xây dựng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên toàn thế giới. Các đồng chí nghĩ xem nhiệm vụ đó to lớn biết bao, gian khổ biết bao, có thể gọi là mới bắt đầu, không phải đã hoàn thành nhiệm vụ, đó chẳng phải là việc rất rõ ràng hay sao ? Vì vậy, chúng ta không có lý do để thoả mãn, không có lý do để kiêu căng không thể có tư tưởng hưởng lạc, không thể xả hơi. Còn nói về Việt Nam, họ bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược áp bức không kém chúng ta, nỗi đau khổ phải chịu đựng còn nặng hơn chúng ta, như trong nước sôi lửa bỏng. Chúng ta là láng giềng gần gũi, nhân dân hai bên trên biên giới đều có họ hàng thân thích, chúng ta có thể khoanh tay ngồi nhìn không cứu sao ? Hơn nữa, nếu Việt Nam hoàn toàn bị Pháp chiếm đóng, khống chế liệu biên giới của chúng ta có an toàn được không ? Nếu họ bị chinh phục chúng ta sẽ bị đe doạ trực tiếp. Vì vậy viện trợ Việt Nam vừa là nghĩa vụ quốc tế, cũng vừa là để củng cố thắng lợi của chúng ta.

Phó chủ tịch Lưu nói tiếp, mọi người đều biết, trong quá trình cách mạng của nước ta, cũng có rất nhiều người cộng sản nước khác tham gia cuộc đấu tranh của chúng ta đổi máu, hy sinh, trong đó có đồng chí Việt Nam, đồng chí Triều Tiên, còn có các đồng chí thuộc nước khác, Béthune chẳng phải đã hy sinh ở nước ta đó sao ? Vì sao họ làm như vậy ? Đó là tinh thần quốc tế chủ nghĩa, chúng ta phải học tập họ. Không nên chỉ thấy trước mắt, chỉ thấy gia đình nhỏ của mình, chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt, phải nhìn xa hơn, tấm lòng phải rộng mở hơn, mới là khí phách của người cộng sản, mới đáng gọi là một người cộng sản. Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi, khó khăn không ít, thời gian cũng không thể quá nhanh, tôi thấy cần chuẩn bị ba năm. Trong công tác, các đồng chí đặc biệt chú ý làm tốt đoàn kết với các đồng chí Việt Nam, làm cố vấn tức là đề ra kiến nghị và biện pháp, còn việc quyết định để người ta làm, quan hệ tốt thì người ta có thể nghe ý kiến của các đồng chí. Tôi nói những điều này các đồng chí xem có đúng không có ý kiến gì khác thì có thể thảo luận. Tổng tư lệnh đồng chí xem có phải thế không ?

Phó chủ tịch nói khoảng nửa giờ. Tổng tư lệnh Chu tiếp lời nói : « Đồng chí nói rất hay, tôi hoàn toàn tán thành ». Phó chủ tịch Lưu nói : Đề nghị đồng chí nói một chút về vấn đề nhiệm vụ, cách làm việc của họ khi đến đó. Tổng tư lệnh chu nói : Tôi hoàn toàn đồng ý những điều Phó chủ tịch Lưu đã nói. Người cộng sản chúng ta là người quốc tế chủ nghĩa, có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giải phóng, cần phải coi đó là nhiệm vụ quốc tế quan trọng và phải nghiêm túc làm tốt công tác bảo mật. Phải không tiếc mọi thứ giúp họ đến thắng lợi. Người cộng sản phải nên như thế. Nhiệm vụ của các đồng chí đi Việt Nam lần này rất quan trọng, rất gian nan, cũng rất vinh quang. Các đồng chí đi làm gì ? Không phải như làm cán bộ ngoại giao mà là đi giúp người ta đánh trận, phải ra chiến trường. Giúp đỡ không phải là thay thế, không phải đẩy người ta ra ngoài, mà là đề xuất ý kiến, nghĩ ra biện pháp, lúc bình thường giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta, lúc chiến đấu phân tích tình hình địch, đề xuất ý kiến. Phải tìm hiểu tình hình của người ta. Người ta cũng có kinh nghiệm không nên coi thường kinh nghiệm của người ta. Giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta phải sát tình hình thực tế của người ta, không được rập khuôn kinh nghiệm của chúng ta. Cho nên phải tìm hiểu tình hình của người ta, nghiên cứu tình hình của người ta.

Tổng tư lệnh Chu nói, trên hành động quân sự phải thực sự cầu thị, xuất phát từ tình hình thực tế, không được hành động nóng vội nguyên tắc là có vũ khí gì thì đánh trận nấy, phải vừa dũng cảm lại vừa khôn khéo linh hoạt cơ động đặc biệt quan trọng. Tình hình hiện nay của họ giống như thời chiến tranh chống Nhật của chúng ta, phải chăng nên lấy đánh du kích là chính, trong điều kiện có lợi đánh thử vận động chiến. Còn về cách đánh cụ thể tôi thấy kinh nghiệm trước đây của chúng ta có thể ứng dụng được. Muốn đánh thắng trận, xây dựng bộ đội là điều kiện tiên quyết, không có một quân đội tốt thì khó đánh trận tốt. Kinh nghiệm xây dựng quân đội của chúng ta, tôi thấy đều có thể dùng được. Muốn xây dựng một quân đội nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì phải làm tốt quan hệ quân dân, quan hệ quân chính, quan hệ cán bộ chiến sĩ. Kinh nghiệm của chúng ta có thể dùng được. Còn phải huấn luyện học tập sử dụng vũ khí. Công tác chính trị của quân đội rất quan trọng, càng là sở trường của chúng ta, không có công tác chính trị hoặc công tác chính trị không mạnh, thì không thể xây dựng tốt quân đội, không đánh trận tốt được. Tổng tư lệnh Chu nói tiếp, hoàn cảnh Việt Nam rất gian khổ, các đồng chí phải chuẩn bị chịu gian khổ, phải mang theo tác phong gian khổ chất phác. Như vậy có thể lấy mình làm gương cũng giữ được tác phong tốt của mình. Tôi đã thấy bản kê đồ dùng của các đồng chí, phải mang theo có một số cái không cần lắm như giầy da, ở đó còn phải ở nhà nông thôn, khắp nơi ruộng lúa nước, rừng núi, giầy da không dùng được chiến đấu mà mang theo thì rất nặng, nên mang nhiều giầy cỏ, giầy vải, thích hợp hơn, đồng hồ có cần mỗi người 1 chiếc không ? Tôi thấy đồng chí lãnh đạo có là được rồi đánh du kích, cũng không cần lắm, nghe nói những mấy chục tệ một chiếc (lúc đó một nhân dân tệ đổi được 1 nhân dân tệ mới sau này). Viết chữ đẹp không phải do cây bút. Mao Chủ tịch viết chữ đẹp, người không có bút máy Parker, chỉ có mấy cây bút lông, đôi khi còn dùng cả bút chì. Tôi thấy bút máy Tân Hoa của chúng ta mới sản xuất cũng rất tốt, lại rẻ, dễ dùng có thể phát mỗi người mỗi chiếc, quần áo không cần như nhà ngoại giao, không cần loại vải này loại vải nọ, mang nhiều một chút quần áo thường, họ đánh du kích đều mặc quần áo thường, gần đây thành lập quân chính quy, nghe nói quân phục chính quy cũng chưa được phát hết. Chúng ta có thể may một ít quần áo giống như quân phục của họ. Không nên riêng biệt. Quân đội họ khổ như thế anh mặc âu phục còn ra làm sao ! Tổng tư lệnh Chu chưa nói xong, chúng tôi phát hiện ngoài sân, đồng chí Vương Quang Mỹ đưa Mao Chủ tịch từ từ đi vào, Phó chủ tịch Lưu nhìn qua cửa sổ cũng thấy Mao Chủ tịch đến, mọi người đều đứng dậy vỗ tay. Mao Chủ tịch bước vào nhà. Lúc này, người đã hơn 50 tuổi, không thấy tóc bạc, da dẻ hồng hào thân hình béo hơn khi tôi gặp Người ở Diên An, xem ra rất tinh thần.


Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #66 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:02:38 am »

Phó chủ tịch Lưu nói với Mao Chủ tịch : Các đồng chí ấy đến được một giờ rồi. Mấy hôm nay Chủ tịch rất mệt, muốn để chủ tịch ngủ thêm một lúc nên không đánh thức. Mao Chủ tịch nói : “ À ! Không ngủ được ”. Người bắt tay trước ba vị Vi, Mai, Đặng, nói chuyện một lát, rồi lại bắt tay từng người hỏi tình hình mọi người tên họ, tuổi tác, quê quán, chức vụ gia đình v.v... còn hỏi có khó khăn gì. Phó chủ tịch Lưu đề nghị Mao Chủ tịch nói chuyện. Mao Chủ tịch nói : “ Các đồng chí đã nói cả rồi, tôi nói lại sẽ trùng ”. Lúc này, Lưu, Chủ và cả Vi, Mai, Đặng đều nói xin chủ tịch nói vài lời, cho thêm chỉ thị. Mao Chủ tịch bảo chúng tôi ngồi xuống, Người đứng giữa chúng tôi.

Mao Chủ tịch nói : « Lần này các đồng chí đi làm cố vấn, là một việc lớn, việc mới, nhà nước, đảng và quân đội chúng ta lần đầu tiên cử đoàn cố vấn ra nước ngoài, ý nghĩa rất to lớn, là vinh quang của chúng ta. Các đồng chí chấp hành một nhiệm vụ rất quan trọng, rất vẻ vang. Mong các đồng chí có thành tích tốt, đạt được kinh nghiệm tốt. Cùng với sự phát triển của công cuộc xây dựng đất nước và quân đội, theo sự thay đổi của tình hình quốc tế, chúng ta còn có thể cử nhiều cố vấn ra nước ngoài, giúp đỡ cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc, các nước bị áp bức. Đó là vấn đề của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đó là nhiệm vụ của người cộng sản. Trên thế giới còn rất nhiều nước dân tộc bị áp bức, bị xâm lược họ ở dưới gót sắt của chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta không chỉ đồng tình với họ, còn phải chìa hai tay ra viện trợ họ. Không nên vì chúng ta đã đánh bại Tưởng Giới Thạch thì cho rằng nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành. Nhà nước ta muốn củng cố còn phải thấy chủ nghĩa đế quốc rất lớn mạnh, chúng sẽ không can tâm chịu thất bại ở Trung Quốc. Hành động của chúng ở Triểu Tiên, ở Việt Nam là muốn tạo nên tình thế bao vây chúng ta, một khi có cơ hội là sẽ trực tiếp đối với chúng ta, cho nên giúp đỡ họ cũng có lợi đối với an ninh của chính chúng ta, vì giúp đỡ các dân tộc anh em, các đồng chí đi công tác là một công đôi việc. Đó là nguyên nhân quan trọng chúng ta phải cử đoàn cố vấn ».

Mao Chủ tịch nói tiếp, trong quá trình cách mạng Trung Quốc chúng ta, rất nhiều bạn bè quốc tế tham gia cuộc đấu tranh của chúng ta, đồng chí Hồ Chí Minh đã tham gia từ thời Đại cách mạng Trung Quốc, còn rất nhiều đồng chí Việt Nam đổ máu hy sinh cho cách mạng Trung Quốc. Tất nhiên còn có các nước khác mà mọi người đều biết. Họ làm như vậy dưới sự chỉ đạo của tư tưởng quốc tế chủ nghĩa. Người ta có tư tưởng chủ nghĩa quốc tế, chúng ta cũng cần phải có. Lời xưa nói, nhận được một chút ân huệ của người đời phải coi như là suối nguồn để báo đáp, tất nhiên đó là nói từ mặt tiêu cực, còn nói từ mặt tích cực tức là thi hành nghĩa vụ chủ nghĩa quốc tế. Còn có một nguyên nhân trực tiếp vào dịp tết, tôi chẳng phải ở Moscow sao ? Đồng chí Hồ Chí Minh cũng đến đó. Đồng chí đi nhờ Liên Xô viện trợ. Ở Moskva Stalin không muốn tiếp Hồ Chí Minh cho lắm. Stalin không hiểu Hồ Chí Minh, nói không biết Hồ có phải là người mác xít không. Tôi nói Hồ là người Mác xít, là lãnh tụ cách mạng của nhân dân Việt Nam, tiếp đồng chí ấy thì tốt. Thế là Stalin tiếp đồng chí. Nhưng khi Hồ Chí Minh nêu ra yêu cầu Liên Xô viện trợ, thì Stalin không đồng ý, nhất là không đồng ý cử cố vấn. Trên đường về, Hồ Chí Minh nói đến vấn đề này, đồng chí yêu cầu chúng ta cử đoàn cố vấn. Tôi nói, viện trợ vật chất, tất nhiên chúng tôi phải cố hết sức làm, cũng có thể giúp các đồng chí huấn luyện một phần bộ đội, còn về cử đoàn cố vấn, chúng tôi làm không tốt lắm, bởi vì cán bộ của chúng tôi đa phần không được huấn luyện chính quy, đánh trận có những kinh nghiệm, nhưng chưa qua trường chuyên môn. Đồng chí Hồ Chí Minh cứ một mực yêu cầu. Tôi nói cá nhân tôi không có ý kiến, trở về bàn với các đồng chí Trung ương, nếu cử cũng là cố vấn vườn thôi ! Thật vậy, chúng ta vẫn đều là quê mùa cả thôi. Song Hồ Chí Minh vẫn cần, sau khi tôi về, Trung ương nghiên cứu mọi người nhất trí đồng ý cử đoàn cố vấn. Hiện tại, có một đoàn công tác (chỉ đồng chí La Quý Ba) ở Việt Nam, căn cứ theo tình hình các đồng chí tìm hiểu được nên đã quyết định cử đoàn cố vấn quy mô như thế này. Điều này cần các đồng chí vất vả một lần nữa. Còn chuẩn bị cho đồng chí Trần Canh đi trước một bước, đồng chí ấy quen biết đồng chí Hồ Chí Minh và ở tiểu đoàn biên giới giúp họ biên chế tổ chức bộ đội, trang bị vũ khí, đồng chí ấy đi hỗ trợ các đồng chí một thời gian.

Mao Chủ tịch nói, lần này cử đồng chí Vi Quốc Thanh làm đoàn trưởng đoàn cố vấn, vốn định để đồng chí đi làm việc ở Liên Hợp Quốc, nhưng Liên Hợp Quốc dưới sự thao túng của Mỹ không cho chúng ta vào, nó còn có Tưởng Giới Thạch ; về sau lại chuẩn bị để đồng chí đi Anh làm đại sứ, nhưng Anh vẫn còn lưỡng lự nước đôi với chúng ta, ở đó chỉ có cấp thấp, không cử Đại sứ. Thế là bảo đồng chí đi Việt Nam làm Trưởng đoàn cố vấn. Đồng chí đồng ý ngay như vậy rất tốt ! Người cộng sản, ở đâu cần thì đến đó, có thể đi đến nơi có hoàn cảnh thoải mái, cũng có thể đi đến nơi gian khổ, miễn là có nhu cầu công tác, mọi thứ khác đều không tính toán. Điều đó, các đồng chí phải học tập đồng chí Vi Quốc Thanh.

Mao Chủ tịch nói, nhiệm vụ của các đồng chí là giúp người ta đánh trận. Hiện giờ họ vẫn đánh du kích, chưa đánh trận tương đối lớn, chủ yếu là phân tán đánh du kích. Quân Pháp hiện giờ chủ yếu khống chế thành thị, đường giao thông, các cảng ven biển, quân đội Việt Nam chiếm nông thôn rộng lớn. Điều đó gần giống tình hình chiến tranh chống Nhật của chúng ta. Nhưng chỉ đánh du kích thôi không được, muốn giành thắng lợi phải đánh trận lớn hơn, có thể công kiên có thể đánh vận động chiến, mới có thể chuyển sang phản công đánh bại nước Pháp. Các đồng chí đến Việt Nam trước hết phải giúp đánh thắng trận, mở ra một vùng để tập trung bộ đội, sau đó đánh trận sẽ càng đánh càng lớn. Muốn đánh trận lớn phải có bộ đội tập trung lớn một chút, trước mắt họ đã thành lập một số, chúng ta giúp trang bị. Còn phải tập trung thêm một số bộ đội có kinh nghiệm chiến đấu biên chế thành quân đội chính quy, qua huấn luyện, đánh một số trận lớn, dần dần phát triển lớn mạnh. Tất nhiên không thể làm suy yếu cách đánh du kích, phải có những đội du kích được nâng cấp, còn phải mở rộng đội du kích, về mặt này các đồng chí có kinh nghiệm. Nói tóm lại đánh du kích vẫn là chính, nhưng các đồng chí phải giúp họ xây dựng bộ đội chính quy, bày cho họ có thể đánh chính quy, còn đánh du kích tự họ có kinh nghiệm, do họ từ làm lấy. Chuyển sang vận động chiến phải chú ý bước đi, làm nhiều điều tra nghiên cứu, có thể đánh trận lớn bao nhiêu ? Không nên mở quá to. Đánh mấy trận nhỏ, rèn luyện bộ đội, nâng cao lòng tin dũng khí đánh trận đầu phải thắng. Đánh trước mấy trận thắng cầm chắc, thì dễ làm, sẽ mở ra cục diện mới. Không nên quên nguyên tắc của chiến tranh giải phóng, mỗi lần đều phải tập trung ưu thế binh lực nhất định, phải có ưu thế gấp 3, 5 lần thậm chí lớn hơn nhiều lần, không đánh thì thôi, đã đánh thì phải thắng. Vận động chiến vẫn lấy tiêu diệt sinh lực địch là chính. Đánh chiếm cứ điểm ở thành thị là thứ. Tiêu hao địch đến một mức nhất định, tất nhiên phải đánh chiếm các địa phương nhưng đó là việc của thời kỳ sau. Lần đầu đánh vận động chiến, chủ yếu xem tiêu diệt được bao nhiêu địch, nhất định phải đánh tiêu diệt chiến. Cho nên đi đánh thì phải tập trung trước bộ đội, tăng cường trang bị, huấn luyện phải có pháo binh. Phải học biết công kiên, không công kiên thì không đánh được viện binh, không đánh được cứ điểm thì không thể tiêu diệt nhiều địch hơn. Đánh đêm, đánh gần, đánh bộc phá, đâm lê, đều phải bày cho họ. Chủ lực biên chế bao lớn còn phải xem tình hình để quyết định, cho nên phải điều tra nghiên cứu nhiều. Căn cứ theo tình hình thực tế của người ta truyền thụ kinh nghiệm của chúng ta, phải thực sự cầu thị, nhất thiết không được cứng nhắc đem kinh nghiệm của chúng ta bất kể tình hình như thế nào, gán cho người ta điều đó chỉ làm hỏng việc, nhất thiết không được nôn nóng muốn thành công ngay.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #67 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:03:08 am »

Mao Chủ tịch nói : “ Muốn xây dựng một bộ đội dã chiến vững mạnh đánh không đổ đập không nát, cần có một loạt cán bộ có giác ngộ có thể đánh trận, có thể luyện quân. Nhà trường là một biện pháp đào tạo cán bộ, chúng ta cũng phải giúp họ làm. Nhưng chỉ có nhà trường chưa đủ, còn phải đào tạo trong công tác thực tế và trong chỉ huy chiến đấu thực tế. Điều đó phải dựa vào các đồng chí, từ công tác chi bộ, công tác tư tưởng chính trị, công tác quản lý, huấn luyện cho đến chỉ huy tác chiến, tác phong chiến đấu đều phải hỗ trợ họ trong đấu tranh thực tế, ngoài việc các đồng chí lấy mình làm gương ra, còn phải giới thiệu cho người ta kinh nghiệm của chính các đồng chí. Đánh một trận, tiến một bước, không ngừng tổng kết bài học kinh nghiệm, khi cần thiết huấn luyện ngắn ngày giữa lúc nghỉ chiến đấu. Bỏ hết công sức thì công việc sẽ mặc nhiên thành công, điều này đòi hỏi phải rất nhẫn nại, đồng thời cũng phải khiêm tốn học tập kinh nghiệm của người ta để nâng cao mình. Tự mình không ngừng nâng cao mới có thể thường xuyên giúp đỡ người ta ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Làm thế nào để làm tốt cố vấn, điều đó phải nghiên cứu nghiêm chỉnh. Cố vấn tức là cố vấn, trên thực tế tức là tham mưu, làm tốt tham mưu cho đồng chí lãnh đạo của người ta. Tham mưu tức là đề xuất ý kiến, nghĩ ra biện pháp hỗ trợ lãnh đạo, không được bao biện làm thay, càng không thể làm thái thượng hoàng, ra mệnh lệnh. Cần phải đoàn kết tốt với người ta, nhất là đoàn kết tốt với người lãnh đạo Việt Nam, phải thực sự chú ý làm không tốt đoàn kết thì thà không làm còn hơn. Chỉ có làm tốt quan hệ với người ta không nên coi thường người ta, không nên vỗ ngực là người thắng lợi, không nên lên mặt dạy đời, nhất thiết phải đề phòng kiêu căng, thái độ của các đồng chí phải đúng đắn, đã là thành tâm thiện chí giúp đỡ người ta thì phải coi sự nghiệp giải phóng của họ là sự nghiệp của chính chúng ta để làm. Có tư tưởng đó mới có thể làm tốt công tác. Cho nên các đồng chí phải yêu quý từng ngọn cỏ gốc cây con sông quả núi ở đó, phải yêu mến nhân dân ở đó, phải như ỏ Trung Quốc, tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân, tuân theo ba kỷ luật lớn tám điều chú ý ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Muốn làm tốt đoàn kết, chúng ta nhất định phải khiêm tốn. Sau khi đến gặp người ta, trước hết phải xin lỗi người ta, bởi vì tổ tiên của chúng ta xưa kia có lỗi với người ta. Một thời gian dài Việt Nam là thuộc địa của Trung Quốc là từ triều Hán ! Thời kỳ Đông Hán chẳng phải có Mã Viện “ da ngựa bọc thân ” đó sao ! Là một viên đại tướng của Đông Hán, chính ông đã chính phục Việt Nam “ Mã Viện chinh Giao Chỉ ” chính là chuyện này, Mã Viện được phong làm Phục Ba tướng quân trong lịch sử gọi ông là Mã Phục Ba. Bộ đội của ông đại bộ phận không trở về, ở lại đó và kết hôn với phụ nữ ở đó, lập gia đình xây sự nghiệp ở đó. Bộ đội các vương triều về sau cử đi cũng phần nhiều như thế ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp như thế nào ? Đó là những năm cuối triều Thanh, có tướng quân tên là Phùng Tử Tài trấn giữ Trấn nam quan, Pháp xâm lược Việt Nam, Phùng Tử Tài đánh một trận ở Trấn nam quan. Quân đội của Phùng Tử Tài đánh bại quân đội Pháp, quân đội Pháp thất bại rất thảm hại, Phùng Tử Tài giành được thắng lợi rất lớn. Nhưng triều Thanh thối nát cực độ, thông tin lạc hậu, khi triều Thanh chưa nhận được tin thắng lợi thì công sứ Pháp ở Triều Thanh thừa cơ lừa bịp nói họ đánh thắng trận, phải tiến quân vào Trung Quốc. Hăm doạ triều Thanh buộc triều Thanh hiệp ước cắt đất bồi thường cầu hòa, nhượng Việt Nam cho Pháp. Sau khi ký hiệp ước, tin vui thắng lợi mới đến Bắc Kinh, thế là Việt Nam biến thành thuộc địa của Pháp (1). Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, Đức chiếm đóng lãnh thổ Pháp, Pháp cũng không kham nổi Việt Nam, đế quốc Nhật thừa cơ tiến vào, chiếm đóng Việt Nam. Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945 kết thúc, sau khi Nhật Bản đầu hàng, đội du kích của Hồ Chí Minh tiến về Hà Nội thành lập chính phủ. Không bao lâu Pháp khôi phục lại, lại đưa quân xâm lược Việt Nam, lại đẩy Hồ Chí Minh ra khỏi Hà Nội. Hồ Chí Minh lại đánh du kích mấy năm. Lúc này là thời kỳ chiến tranh giải phóng của chúng ta không có cách nào viện trợ họ được. Bây giờ chúng ta vừa giải phóng thì bắt đầu viện trợ ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Các đồng chí phải hiểu rõ những tình hình này, trước tiên nói rõ tổ tiên của chúng ta có lỗi với họ, sau đó hãy nói rõ chúng ta là người cộng sản, Trung Quốc là nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thực hiện chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản, khác với chủ nghĩa phong kiến, khác với chủ nghĩa đế quốc chúng ta viện trợ họ là hoàn toàn vô tư, là thành tâm thiện chí, hỗ trợ họ đánh bại nước Pháp, giành giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau thắng lợi họ xây dựng nhà nước độc lập tự chủ, với đảng, nhà nước, quân đội chúng ta, là quan hệ đảng, nhà nước và quân đội như anh em ”.

Mao Chủ tịch một lần nữa nhấn mạnh nói, các đồng chí đi phải làm tốt công tác đoàn kết, phải tiếp thu những bài học. Lòng dạ quá hẹp hòi không tốt, người cách mạng không nên kèn cựa danh lợi địa vị, không nên tính toán được mất. Điều đó không có lợi cho đảng, không có lợi cho đất nước, không có lợi cho sự nghiệp giải phóng, Các đồng chí đi phải khiêm tốn, không được coi thường người ta, cho mình có cái gì ghê gớm. Có thể nói với họ, chúng tôi cũng có thất bại. Giới thiệu nhiều cho họ bài học kinh nghiệm, ít nói “ qua năm ải chém sáu tướng ”, trong quá trình giúp người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình. Nhất thiết phải tôn trọng sự lãnh đạo của người ta, các đồng chí làm không tốt cũng sẽ làm tổn hại quan hệ hai nước, trách nhiệm to lớn, nhất định phải xử sự cẩn thận.

Mao Chủ tịch nói tiếp : “ Còn có một vấn đề, tức là phải chú ý làm cho các đồng chí Việt Nam hiểu rõ ý nghĩa quan trọng của tự lực cánh sinh. Cách mạng phải tranh thủ viện trợ bên ngoài, nhưng không thể dựa vào viện trợ bên ngoài. Về mặt này cũng phải giúp đỡ nhiều. Đó không phải chỉ vì chúng ta nghèo, không thể bao cả nhu cầu của họ. Nghèo cũng là sự thực, hơn 100 năm nay, nỗi lo thù trong giặc ngoài, chiến tranh liên miên làm cho chúng ta rất nghèo, nhưng chúng ta viện trợ dân tộc bị áp bức, là vô tư, là đem hết mọi nỗ lực, thậm chí phải hy sinh. Nhưng nước chúng ta cần viện trợ cũng không chỉ có Việt Nam, chúng ta vừa thắng lợi, không ít đảng anh em đều yêu cầu chúng ta viện trợ, tất nhiên chúng ta sẽ phân rõ nhẹ, nặng, hoãn, gấp, nhưng viện trợ của chúng ta rốt cuộc là có hạn. Ý nghĩa quan trọng của tự lực cánh sinh ở chỗ tự mình có tư tưởng, tinh thần, và phương pháp khắc phúc khó khăn, mặt này chúng ta có kinh nghiệm phương pháp, cho nên nên giới thiệu cho họ. Một quốc gia, một đảng, một quân đội phải có tư tưởng tự lực cánh sinh, có tinh thần khắc phục khó khăn có biện pháp và khả năng khắc phục khó khăn thì quốc gia đó, đảng, nhân dân, quân đội đó mới là kiên cường, mới có hy vọng thắng lợi; thắng lợi rồi mới có sức mạnh xây dựng đất nước mình, mới có thể giàu mạnh mới là độc lập giải phóng thật sự, mới là thắng lợi thực sự ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Phải đặc biệt chú ý vấn đề bảo mật. Tên “ đoàn cố vấn ” các đồng chí không nên gọi tuỳ tiện, phải có biệt hiệu, nếu đế quốc biết chúng ta cử cố vấn, nhất định sẽ gây chuyện, kiếm cớ quấy chúng ta là mánh khoé quen dùng của chúng. Vì vậy không nên cho chúng cơ hội kiếm cớ, cho nên hành động của các đồng chí phải tuyệt đối giữ bí mật, không nên khoe khoang, ngay cả bạn bè thân cũng phải giữ bí mật, mặc thường phục hoặc quân phục Việt Nam, quân phục của chúng ta nhất thiết không được mang đi. Ở Việt Nam không nên đi ra ngoài tuỳ ý, không nên đi một mình, khi tác chiến hết sức thận trọng, không nên quá áp sát tiền tuyến, tránh bị địch bắt làm tù binh tạo cớ. Và lại làm cố vấn cũng không thể thay thế người ta chỉ huy, cũng không cần xung phong hãm trận. Không cần thiết ra tuyến đầu trực tiếp tiếp xúc với địch. Tất nhiên, nhỡ bị địch bắt làm tù binh cũng không sao, bọn chúng chẳng phải công khai viện trợ cho phái phản động là gì ? Chúng ta viện trợ dân tộc bị xâm lược là chính nghĩa, chúng ta làm là để chống lại hành động của chúng, chẳng là không làm ầm ĩ lên mà thôi ! Song, để giảm bớt những việc không cần thiết xảy ra để không cho địch bắt sống thì tốt. Các đồng chí phải nghĩ nhiều biện pháp, giữ nghiêm cơ mật ”.

Cuối cùng Mao Chủ tịch quan tâm hỏi : “ Đồ dùng mang theo đã định xong chưa ? ”. Chu Tổng tư lệnh nói : “ Các đồng chí có một bản kê, còn phải để cấp dưới nghiên cứu, có những cái hình như không cần thiết lắm, hoặc không cần nhiều như đồng hồ, giày da, bút máy Parker v.v...” Mao Chủ tịch nói : “ Tổng tư lệnh duyệt là không cần bảo người khác nghiên cứu, càng ít người biết càng tốt. Đồng chí rộng lượng một chút. Đồng hồ, giày da, bút máy, đều thoả mãn hết yêu cầu của các đồng chí, lần đầu tiên cử đoàn cố vấn mà ! Đại diện cho đất nước chúng ta, chúng ta có khó khăn mấy cũng không coi những thứ đó là cái gì lớn. Các đồng chí thấy thấy nào ? ” Phó chủ tịch Lưu, Tổng tư lệnh Chu đều nói : “ Tốt ”. “ Thế thì theo bản kê này đi ! ”: Mao chủ tịch lại nói : “ Sinh hoạt phí của các đồng chí cũng tăng chút ít ! Và gửi những thứ an cữ gia đình. Theo tập quán cũ, lấy danh nghĩa cứu tế cấp một số gạo gì đó, những việc đó cần làm. Còn có khó khăn gì đặc biệt thì giải quyết. Đồng chí Vi Quốc Thanh, những việc này giao cho đồng chí ! ”. Mao Chủ tịch lại hỏi Phó chủ tịch Lưu, Tổng tư lệnh Chu còn có nói gì nữa không, hai vị đều nói không, cuối cùng Mao Chủ tịch nói : “ Thế nhé, chúc các đồng chí mạnh khoẻ thắng lợi ! ”. Mọi người đứng dậy vỗ tay. Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lưu, Tổng tư lệnh Chu, bắt tay tạm biệt từng người chúng tôi. Mao Chủ tịch vẫn do đồng chí Vương Quang Mỹ đưa Mao Chủ tịch ra về, buổi tiếp đến đây kết thúc.

Ngày hôm sau hoặc ngày thứ ba gì đó đã mời đồng chí Hồng Thuý (tức đồng chí Nguyễn Sơn) giới thiệu tình hình Việt Nam. Đồng chí chủ yếu nói về : địa hình, khí hậu, phong thổ, nhân tình, tình hình địch ta, phương pháp tác chiến v.v.. Sau đó chúng tôi trở về Nam Kinh, khẩn trương chuẩn bị rời đất nước.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #68 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:03:54 am »

2. Trước và sau chiến dịch biên giới

 
Ngày 19/7/1950 Ban chỉ huy Đoàn cố vấn và cố vấn của một đại đoàn (từ cấp tiểu đoàn đến cấp đại đoàn) tất cả gần 20 người xuất phát từ Nam Kinh qua Thượng Hải, Hàng Châu, Hành Dương đến Liễu Châu, lại lên xe ôtô đến Nam Ninh. Sau khi tiến hành giáo dục trước khi ra nước ngòai, lập tức lên ôtô đến Tịnh Tây. Đêm 11/8 cán bộ ở phòng tiếp tân Việt Nam đưa chúng tôi lên ôtô vào lãnh thổ Việt Nam. Sáng sớm ngày 12 đển Quảng Uyên, đi bộ bốn năm cây số đến trụ sở Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam thì trời vừa sáng. Người phụ trách ở đấy là Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, còn có Ủy viên Trung ương Trần Đăng Ninh (phụ trách công tác hậu cần), Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Sau khi trời sáng, nghỉ một lát, rồi họp hội nghị chào mừng ngắn gọn, sau đó khẩn trương đi vào hoạt động tìm hiểu tình hình. Thông qua giới thiệu của Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam và vài ngày sau đồng chí Trần Canh đến, nói thêm tình hình đồng chí tìm hiểu được trên đường từ Vân Nam đến Việt Nam, đã cho chúng tôi hiểu đại thể về quân đội nhân dân Việt Nam và quân xâm lược Pháp như sau :

1. Quân đội Việt Nam : phần lớn là tác chiến du kích, chưa qua chiến đấu tiêu diệt binh lực một đại đội địch trở lên. Trước mắt đã thành lập Đại đoàn tức đại đoàn 308, binh đoàn số 4 quân khu Vân Nam Trung Quốc cử đồng chí Vương Nghiên Tuyền làm cố vấn, được Trung Quốc, trang bị đầy đủ đã tiến hành chỉnh huấn, hiện đã di chuyển đến vùng Tây Bắc Cao Bằng. Đại đoàn này có 3 trung đoàn, một tiểu đoàn pháo binh. Hai đại đoàn khác đang thành lập là đại đoàn 304 và đại đoàn 312. Hai đại đoàn này do đang biên chế tổ chức trang bị, chưa thể đảm nhận nhiệm vụ tác chiến lớn. Cố vấn của đại đoàn 304 là đồng chí Chu Hạc Vân là cán bộ của quân khu Hoa Đông cử đến, lần này sang Việt Nam cùng với Ban chỉ huy đoàn cố vấn. Ngoài ra có hai trung đoàn độc lập đã trang bị đầy đủ, tức trung đoàn 174 và trung đoàn 209. Trung đoàn 74 đã có cố vấn là đồng chí Trương Chí Thiện. Còn có 1 trung đoàn pháo binh, tức trung đoàn 95, đã trang bị đầy đủ sơn pháo, do Trung Quốc trang bị, đã trải qua mấy tháng huấn luyện, đang tập kết ở bắc Cao Bằng. Còn có một số tiểu đoàn độc lập. Chủ lực có thể tham gia tác chiến là đại đoàn 308, trung đoàn 174, 209, trung đoàn pháo binh 95 và 2 tiểu đoàn bộ binh độc lập. Ban chỉ huy đại đoàn chưa chỉ huy tập trung tác chiến ba trung đoàn, Ban chỉ huy trung đoàn cũng rất ít có kinh nghiệm tập trung tác chiến ba tiểu đoàn.

Còn lại là đội du kích, trải khắp cả nước, nằm ở vùng nông thôn rộng lớn, tiến hành tác chiến du kích nhỏ. Võ Nguyên Giáp từng nói đùa : “Đại đoàn 308 tượng trưng Bát lộ quân của Tây Bắc, cho nên các đồng chí Bát lộ quân trước đây làm cố vấn, đại đoàn 304 tượng trưng Tân tứ quân của Trung Quốc, thì do các đồng chí Tân tứ quân trước đây làm cố vấn.

2. Quân Pháp : Tổ chức rất phức tạp. Đại thể chia làm hai loại. Một loại là binh đoàn người da trắng, còn gọi là binh đoàn lê dương, phần đông là lính Đức và sĩ quan cấp dưới của Đức sau khi đầu hàng, cộng với binh lính và lao động khổ sai các nước Đông Âu, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari, Bulgari, Nam Tư, Rumani v.v.. bị quân Đức bắt làm tù binh tổ chức nên, chỉ huy tiểu đội trở lên là người Pháp, trong đó tuy có số ít binh lính Pháp, nhưng đa phần là những tù phạm bị xử mấy năm tù thì phục dịch quân đội mấy năm. Trong những người này binh lính Đức chiếm tỉ lệ khá lớn, có khi cả trung đội, tiểu đội đều là người Đức. Một loại khác là binh đoàn người da đen do quân đội thuộc địa thành lập, đại bộ phận là bộ đội Maroc, Algérie, còn gọi là binh đoàn Maroc, binh đoàn Algérie, cũng có số ít người da đen Nam Phi 2. Chỉ huy chính của các binh đoàn này là người Pháp. Hoạt động tác chiến của quân Pháp cũng chủ yếu là lấy tiển đoàn (có 3 đến 5 đại đội) là chính, rất ít tập trung tác chiến vài tiểu đoàn.

Nhưng ở Hà Nội, Lạng Sơn theo người ta nói có binh đoàn gồm 3 đến 5 tiểu đoàn. Người Pháp chia những bộ đội này thành bộ đội canh giới phòng thủ và bộ đội cơ động. Thành phố thị trấn quan trọng dọc đường sắt, quốc lộ và cảng biển đều do bộ đội cảnh giới, phòng thủ đóng giữ. Bộ đội cơ động dùng để chi viện bộ đội cảnh giới phòng thủ, trong đó có những tiểu đoàn lính dù có thể kịp thời nhảy dù chi viện. Còn có một bộ phận nguỵ quân, sức chiến đấu rất yếu, cũng chủ yếu chốt giữ cứ điểm, phần lớn ở ven biển và nội địa.

 

Trong quá trình phía Việt Nam giới thiệu tình hình, chúng tôi hiểu được phía Việt Nam từ Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đến người phụ trách chủ chốt các cơ quan đều nói đang chuẩn bị “tổng phản công”. Tổng phản công có nghĩa là quyết chiến, nhưng theo tình hình Việt Nam lúc bấy giờ, phải nói là không có tình hình đó. Chủ lực quân đội Việt Nam chỉ có một đại đoàn, hai trung đoàn, một trung đoàn pháo, chưa có kinh nghiệm, tác chiến quy mô lớn, ngay đánh công kiên cỡ nhỏ, hoặc đánh dã chiến tiêu diệt một tiểu đoàn địch trở lên đều không nắm chắc làm sao có thể “tổng phản công”; ngoài ra trận đánh lớn mà họ chuẩn bị đánh lúc đó là chuẩn bị “chiến dịch Cao Bằng”, điểm tập trung là muốn đánh thành phố lớn, ý tưởng đấy cụ thể là hễ bắt đầu thì đánh Cao Bằng. Cao Bằng là tỉnh lẻ, thuộc thành phố loại vừa, là cứ điểm nổi bật của địch ở Việt Bắc, bố trí phòng thủ rất nghiệm ngặt, công sự kiên cố, là quả hồ đào cứng, dự đoán quân đội Việt Nam rất khó gặm. Họ không hề nói đến tiêu diệt sinh lực địch như thế nào. Trong so sánh binh lực hai bên địch chiếm ưu thế, không trải qua tiêu diệt lớn sinh lực địch, chỉ lấy tấn công thành phố làm mục tiêu chính, càng không thể đạt mục đích “tổng phản công”. Căn cứ vào những điều đó, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và các đồng chí phụ trách trong đoàn cố vấn đều giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta, tuyên truyền tư tưởng quân sự của Mao Chủ tịch, đề xuất lấy tiêu diệt sinh lực địch làm mục tiêu, chiếm thành thị là phụ, chiếm các địa phương phải trên cơ sở tiêu diệt sinh lực địch mới có thể củng cố, nói rõ quân Pháp bổ sung khó khăn, cách xa nước Pháp, tác chiến vượt trùng dương, nhiều khó khăn ; quân đội Việt Nam chiếm nông thôn rộng lớn, dư địa tiến thoái lớn, dễ đánh dã chiến, điều động địch, cơ động tiêu diệt địch trong dã chiến, như vậy dễ đánh dễ thắng. Lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Bộ chỉ huy tiền tuyến, ngày 11/9 tiếp các đồng chí Đoàn cố vấn rồi chỉ thị cán bộ Việt Nam phải đoàn kết tốt, cán bộ phải học tập tốt các đồng chí Trung Quốc, học tập lẫn nhau, phải cần kiệm, tiết kiệm mọi vật tư, phải dựa vào quần chúng nhân dân, nỗ lực công tác v.v... Bài nói của Hồ chủ tịch đã cổ vũ rất lớn mọi người. Những người trong đoàn cố vấn và số đi theo đồng chí Trần Canh đã nghiên cứu một phương án tác chiến đánh cứ điểm Đông Khê chặn viện. Đông Khê ở cách Cao Bằng 40 km về phía Nam, bốn bề là núi, ở giữa là một thung lũng nhỏ, phía bắc thung lũng dựa vào núi có một thung lũng nhỏ cứ điểm quân Pháp đóng ở đây lúc đó tìm hiểu biết địch đóng giữ Đông Khê một tiểu đoàn, có một số pháo binh, tổng binh lực khoảng bảy, tám trăm người. Về sau kết quả chiến đấu thực tế cho thấy chỉ có một ban chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội địch, kể cả pháo binh, tổng cộng không đến 400 người (tình báo quân đội Việt Nam rất không chính xác). Mở màn từ căn cứ Đông Khê có rất nhiều cái lợi. Đây là một nhược điểm của địch, dễ công khó thủ, phía đông bắc điểm cao nhỏ của cứ điểm này liền với núi cao, nếu công từ trên núi, đứng trên cao nhìn xuống, núi rừng dày đặc, dễ ẩn nấp ; đây lại là một trọng điểm của địch nắm giữ Lạng Sơn – Cao Bằng trên đường quốc lộ 4 cách Cao Bằng 40km về phía bắc, cách Lạng Sơn 60, 70km về phía nam.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #69 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2009, 07:04:31 am »

Chặn đúng giao điểm quốc lộ từ cửa Thuỷ Khẩu Quảng Tây Trung Quốc đi vào Việt Nam, cách cửa Thuỷ Khẩu chừng 10km, có thể phong toả giao thông với Trung Quốc nếu mở được Đông Khê phía bắc có thể đe doạ Cao Bằng lại có thể đột phá phong toả từ Trung Quốc đến nội địa Việt Nam. Vì vậy, đánh Đông Khê địch phải tiếp viện, có thể tạo cơ hội đánh chặn viện. Nếu địch từ Thất Khê ở phía nam lên tăng viện, sẽ có chiến trường tốt đánh chặn viện ở nơi cách Đông Khê 20 km ; nếu địch ở Cao Bằng tăng viện xuống phía nam thì núi non nhiều cũng dễ đánh ; nếu địch cho lính dù nhảy xuống lòng chảo thì càng dễ đánh. Nếu quân đội Việt Nam công kiên bất lợi, có thể cơ động đôi thành vây điểm chặn viện ; xung quanh lòng chảo Đông Khê núi rừng rậm rạp dễ cho ta đóng quân số lớn. Phương án tác chiến này sau khi nội bộ Đoàn cố vấn thống nhất ý kiến do Thủ trưởng Trần, Vi, Mai, Đặng chính thức đề xuất kiến nghị lên Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, và giải thích đầy đủ, nói rõ ý nghĩa to lớn của việc đánh trận đầu phải thắng, vì vậy lúc bắt đầu không cần nói lớn, không cần vội đánh thành thị lớn, chủ yếu cần tiêu diệt sinh lực địch. Dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ quan lãnh đạo quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của chúng ta.

Sau đó thảo luận ý đồ, quy mô và bố trí chiến dịch, đại thể là : đầu tiên đánh Đông Khê, sau thắng lợi, nếu địch không tăng viện thì đánh Thất Khê. Như vậy có thể mở ra một cửa ngõ lớn trên tuyến phong toả biên giới. Sau đó tranh thủ đánh chặn viện và xem tình hình tiến lên phía bắc đe doạ Cao Bằng buộc địch bỏ chạy, tiêu diệt địch ở Cao Bằng trong dã chiến. Bố trí : trung đoàn 174 công kiên Đông Khê có một tiểu đoàn pháo binh phối hợp ; trung đoàn 209 bố trí ở đông thung lũng, sẵn sàng đánh lính nhảy dù do địch thả xuống, có một hoặc hai tiểu đoàn độc lập phối hợp ; đại đoàn 308 ở phía đông nam Đông Khê, đánh địch ở Thất Khê đến chi viện có hai tiểu đoàn pháo binh phối hợp.

Lúc này, tham mưu trưởng Mai Gia Sinh ra lệnh cho tôi cấp tốc đi xuống trung đoàn sơn pháo 95, với nguyên tắc không được bộc lộ ý đồ chung và địa điểm cụ thể, giúp đỡ trung đoàn pháo binh tiến hành công tác chuẩn bị chiến đấu và cùng theo trung đoàn này đến địa điểm chiến đấu. Tham mưu trưởng Mai Gia Sinh chỉ định tôi phụ trách công tác của Phòng tham mưu Ban chỉ huy Đoàn cố vấn kiêm nhiệm cố vấn pháo binh. Tôi mang theo phiên dịch Hoàng Đôn đi xuống trung đoàn 95. Trung đoàn này đóng ở trong bản gần đấy. Chính ủy là Hoàng Phương, trung đoàn phó tên là “Ước” làm sĩ quan pháo binh trong quân đội Pháp. Quân đội Việt Nam vốn có một đại đội pháo binh, chỉ có một khẩu sơn pháo của Nhật Bản mấy tháng trước có đánh Đông Khê, cũng phối hợp với trung đoàn 174, nhưng không lấy được cứ điểm. Đại đội này hiện nay cũng trong biên chế trong trung đoàn 95. Sau khi thành lập trung đoàn 95 ở Quảng Tây – Trung Quốc đã trang bị 2 tiểu đoàn sơn pháo kiểu Mỹ, 1 tiểu đoàn sơn pháo kiểu 41, lừa ngựa đầy đủ, nhưng lừa ngựa phương bắc không hợp với phương nam, bị bệnh chết không ít. Họ lại không có kinh nghiệm nuôi lừa ngựa, cũng không có thức ăn tinh gồm các loại đậu v.v.. đều chăn thả ăn cỏ dại, nên lừa ngựa rất gầy yếu, có con bệnh tật không thể thồ nổi súng. Pháo thủ của trung đoàn này có một bộ phận người Kinh, trình độ văn hoá tương đối cao, còn lại đại đa số là người dân tộc Nùng ở phía bắc Việt Nam, trình độ văn hoá thấp, nhưng có thể chịu khổ chịu khó. Khi họ hành quân, các chiến sĩ thường vác pháo, rất ít dùng đến lừa ngựa, cho nên cũng không luyến tiếc ngựa mấy. Như vậy đến khi tác chiến, hoả pháo của trung đoàn không thể dùng hết được, chiến sĩ vác pháo hành động cũng chậm chạp, trong tình hình khẩn cấp rất khó kịp thời tham gia chiến đấu. Nhưng nếu có đường khi lừa ngựa có thể kéo được thì tình hình sẽ tốt hơn nhiều.

Trước khi lên đường đi xuống trung đoàn 95, Mai tham mưu trưởng đã bảo tôi biết thời gian bắt đầu chiến dịch khoảng trung tuần tháng 9, công tác chuẩn bị chiến đấu phải hoàn thành vào thượng tuần tháng 9, cho nên thời gian, tôi tìm hiểu tình hình rất ngắn. Sau khi đến trung đoàn tôi bắt đầu ngay, một mặt kiểm tra, một mặt giới thiệu công việc chuẩn bị chiến đấu như công tác chính trị, công tác hậu cần, cung cấp đạn dược và tình hình kỹ thuật chiến thuật của pháo ; giới thiệu tổ chức chỉ huy trong công kiên dùng số ít pháo bắn gần và đa số pháo phối hợp ; nói rõ các vấn đề đa số pháo đánh đột phá khẩu trong công kiên, nên áp dụng trực tiếp ngắm bắn (vì xung quanh cứ điểm của địch đều là lô cốt ngầm) v.v. Khi tôi giảng giải kỹ chiến thuật, vị tiểu đoàn phó “Ước” không nói năng gì, ông ta hoài nghi nhưng lại không dám phát biểu ý kiến bất đồng, Hoàng Phượng cũng nửa vời. Nhưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 3 của họ – Doãn Tuế – cảm thấy rất hứng thú với kinh nghiệm, biện pháp tôi giới thiệu, hỏi han tỉ mỉ, thái độ rất tích cực. Người này là cựu đội viên du kích, nhập ngũ từ thời kỳ đấu chiến tranh chống Nhật, có kinh nghiệm tác chiến cơ sở, văn hoá không cao lắm, nhưng nhanh nhậy lão luyện. Lúc này tôi đã ngầm chọn tiểu đoàn của ông phối hợp với trung đoàn 174 đánh công kiên, lấy tiểu đoàn của ông là trọng điểm để công tác, ông cũng biểu thị khi đánh trận, sẽ dẫn một đại đội đến gần địch nổ súng, để rút kinh nghiệm. Tôi giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta với ông, nói rõ cách đánh này không áp dụng trong quân đội cũ. Nó là hành động pháo đi theo bộ binh, nói về mặt chiến thuật, tôi nói chúng ta nhiều lần sử dụng cách đánh này trong các trận chiến đấu lớn nhỏ của cuộc chiến tranh trong nước, hiệu quả lớn mà thương vong ít, thường làm địch bất ngờ. Thế là chọn ra một đại đội giảng giải một loạt động tác và biện pháp từ tiếp cận địch, chuyển pháo bằng sức người, đến ẩn nấp, ngắm đúng mục tiêu, và diễn tập thực địa, họ nắm vững rất nhanh. Lúc đó quân đội ta ở Quảng Tây cử một đại đội phó và hai chiến sĩ dạy kỹ thuật trong trung đoàn này. Tôi tạm thời điều động ba người ấy đến giúp đại đội này. Nhưng dặn họ khi tác chiến, không theo hành động của đại đội này, mà theo phối hợp hành động của một tiểu đoàn trong hai tiểu đoàn của đại đoàn 308. Nhưng việc này đều chưa bộc lộ ý đồ tác chiến, họ chỉ biết sắp đánh nhau, không biết gì các cái khác.

Khoảng 10/9, trung đoàn 95 được lệnh tiến về một nơi cách Đông Khê 10km về phía đông chờ lệnh. Khi hành quân đều đi ban đêm, ban ngày nghỉ trong rừng. Trời xẩm tối các con vắt trong rừng hoạt động điên cuồng, từ trên ngọn cây rơi xuống trên người, trên cổ, khi hút máu không có một chút cảm giác gì, đến lúc no thì rơi xuống đất, chỗ hút máu vẫn tiếp tục chảy máu, ướt đẫm áo, giống như người bị thương. Các chiến sĩ vác pháo hết sức vất vả nhưng không kêu ca.

Khi tìm hiểu tình hình Đoàn cố vấn được biết quân Pháp cắm đầy vỏ chai rượu xung quanh cứ điểm để đối phó với quân đội Việt Nam đi chân đất. Đoàn cố vấn bảo bộ đội đột kích chuẩn bị vải lót, chờ khi xung kích lót trên vỏ chai, và điện gấp về nước gửi cho một số giày thể thao đế cao su đem phát cho đội biệt kích. Pháo binh cũng được phát một ít. Nhưng chiến sĩ đi chân đất quen, mang giày thấy khó chịu, cho nên họ vẫn đi chân đất vác pháo. Hành quân không đội hình, phần nhiều là chỉ huy cấp trên chỉ định địa điểm tập kết, thời gian đến, còn cách đi như thế nào tự mình tự do quyết định, đi đường nào cũng tự chọn. Sau khi chỉ định xong địa điểm tập kết thời gian đến cán bộ đại đội trở lên đi ngựa, không quản bộ đội. Kiểu hành quân tự do đó, tốc độ rất chậm, dù bộ binh hay pháo binh, một ngày đi không được 20 km. Họ nghe nói trong chiến tranh giải phóng chúng ta một ngày ba bốn mươi cây số, nhất là có lúc có thể đến 50-80 cây số, cảm thấy không tin, cho rằng căn bản không thể được.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM