Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:51:46 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp  (Đọc 62895 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #50 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 05:44:37 pm »

ĐỒNG CHÍ TRẦN CANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Trương Quảng Hoa

Rất nhiều người đều biết công lao hiển hách của đồng chí Trần Canh trong chiến tranh cách mạng Trung Quốc. Nhưng rất ít ai biết đến đồng chí đã có những đóng góp lớn đối với cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam.

Sang Việt Nam với cương vị đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc

Đầu năm 1950, Hồ Chí Minh Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam bí mật thăm Bắc Kinh, tranh thủ sự ủng hộ cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam. Lúc đó, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở thăm Moskva, Chủ tịch liền đi ngay sang Moskva, cùng Mao Trạch Đông, Stalin trao đổi vấn đề trọng đại liên quan đến chiến tranh Việt Nam chống Pháp. Stalin nói, tình hình Trung Quốc và Việt Nam gần giống nhau, tiếp giáp lãnh thổ, nhiệm vụ viện trở đấu tranh cách mạng của Việt Nam chủ yếu nên do Trung Quốc phụ trách.

 Lúc bấy giờ Trung Quốc mới ra đời, vết thương chiến tranh đầy mình, kinh tế khó khăn chồng chất, nhưng để chi viện cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nước, đảng anh em Việt Nam, và đập tan sự bao vây của các nước đế quốc đối với Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc quyết định chấp nhận yêu cầu của Hồ Chí Minh. Sau khi hai bên Trung Quốc – Việt Nam trao đổi cho rằng, để việc viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam tiến hành thuận lợi, trước tiên cần tổ chức một chiến dịch ở biên giới Trung – Việt, để khai thông tuyến giao thông vận tải giữa hai nước, mở ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp. Vì vậy, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa tích cực thành lập đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm đoàn trưởng, vừa điện báo cho Trần Canh Phó tư lệnh quân khu Tây Nam, kiêm Tư lệnh quân khu Vân Nam, đi sang trước Việt Nam giúp tổ chức và chỉ huy chiến dịch biên giới.

Sau khi Trần Canh sang Việt Nam với cương vị là đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 18/6 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ thị rõ ràng nhiệm vụ của Trần Canh đi Việt Nam : “ Ngoài bàn bạc và giải quyết một số vấn đề cụ thể với phía Việt Nam ra, nhiệm vụ chủ yếu nên căn cứ vào tình hình mọi mặt của Việt Nam, vạch ra một kế hoạch quân sự đại thể thiết thực khả thi, để căn cứ vào kế hoạch đó cung cấp các loại viện trợ...”. Sau đó không lâu, Trung ương lại yêu cầu rõ ràng Trần Canh : “ Ở Việt Nam nên giúp các đồng chí ấy đánh mấy trận, mở ra một cục diện tương đối ”.

Ngày 7/7/1950 Trần Canh dẫn đầu Tổ công tác gồm cán bộ quân sự, chính trị hậu cần rời Côn Minh lên đường sang Việt Nam. Đúng lúc giữa hè oi bức, nóng như đổ lửa, có lúc mưa to dầm dề, hằng ngay đi trên đường núi và lội trong ruộng lúa ngập nước, làm cho Trần Canh bị thương nặng hai chân cảm thấy vô cùng khó khăn và vất vả. Đồng chí viết trong nhật ký : “ Sang Việt Nam vào mùa mưa... sáng dậy, mưa vẫn như trút nước ”, “ Thời tiết oi bức, núi cao đường mòn, bùn trơn khó đi, có ngựa cũng không cưỡi được. Xuống núi đến sông Thanh Thuỷ đã mệt nhoài ”, “ Qua cầu, Đảng Cộng sản Việt Nam cử người dựng lều đón tiếp, có các loại thức uống và hoa quả. Đói khát, đến đây ăn như hùm như hổ. Nghỉ ngơi một lát, lập tức ra lệnh cho các đồng chí trong đoàn đại biểu triển khai hoạt động điều tra. Một đêm mưa to, răng đau dữ dội ”.

Trong hai mươi ngày đêm gian khổ đó Trần Canh lê đôi chân bị thương, chịu đựng từng cơn đau răng dữ dội, trên đường đi vẫn cười nói tự nhiên. Đồng chí vừa đi vừa chăm chú điều tra nghiên cứu, nắm vững tình hình liên quan đến tác chiến, xem xét tỉ mỉ vấn đề tác chiến từ nay về sau của quân đội Việt Nam. Ngày 20/7, Trần Canh điện báo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và La Quý Ba (về sau làm đoàn trưởng đoàn cố vấn chính trị Trung Quốc, Đại sứ Trung Quốc đầu tiên tại Việt Nam) đã có mặt tại Việt Nam và nói : “ Theo tôi tìm hiểu dọc đường đi quân Pháp ở Việt Nam chưa có khả năng tấn công, bọn địch ở Lạng Sơn, Lào Cai v.v. còn khống chế binh lực cơ động tương đối với thuyết hiện thực, quân đội Việt Nam chưa giành được chủ động hoàn toàn, một bộ phận chủ lực quân đội Việt Nam, sau khi qua Quảng Tây, Vân Nam chỉnh huấn trang bị, tinh thần rất cao, nhưng cán bộ tiểu đoàn trở lên phần nhiều là phần tử tri thức mới, khả năng chỉ huy thực tế tương đối ít, phương châm tác chiến ở Bắc Bộ Việt Nam hiện nay nên tranh thủ tiêu diệt bộ đội cơ động của địch trong dã chiến, trước hết, nhổ một số cứ điểm cô lập tương đối nhỏ, giành thắng lợi, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao và củng cố tinh thần bộ đội, tranh thủ chủ động hoàn toàn, từng bước chuyển sang tác chiến quy mô lớn ; phía Việt Nam đã quyết định đánh Cao Bằng trước ; kiến nghị bao vây tấn công bộ đội ở Cao Bằng, đánh chiếm trước cứ điểm cô lập ở vòng ngoài, rút kinh nghiệm, nếu địch ở Cao Bằng ra chi viện, tranh thủ tiêu diệt một bộ phận của chúng ở dã ngoại, tạo điều kiện có lợi cho đánh chiếm Cao Bằng, rồi đánh lấy Cao Bằng sau...”

Ý kiến của Trần Canh được Quân uỷ Trung Quốc tán thành. Ngày 26/7, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Trần Canh : “ Chúng tôi cho rằng ý kiến của đồng chí là đúng, quân đội Việt Nam nên đánh trận nhỏ trước, từng bước luyện tập, có thể đánh trận lớn hơn một chút. Sau đó mới có thể đánh trận tương đối lớn. Trước mắt chưa nên đánh Cao Bằng, đánh cứ điểm nhỏ trước, đồng thời tranh thủ vây thành chặn viện là thích hợp ”.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #51 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 05:45:12 pm »

Gặp Hồ Chí Minh trong rừng sâu

Hồ Chí Minh và Trần Canh biết nhau ở Quảng Châu ngay từ thời kỳ đại cách mạng Trung Quốc. Ngày 27/7, sau bao nhiêu năm xa cách, họ lại gặp nhau trong rừng nguyên thuỷ Bắc bộ Việt Nam, hai người cảm động ôm chặt lấy nhau, phấn khởi nói : “ Chúng ta lại gặp nhau rồi ! ”

Ngay đêm hôm đến trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trần Canh và Hồ Chí Minh đã tiến hành hội đàm thân thiết. Hồ Chí Minh rất tán thưởng quan điểm của Trần Canh và yêu cầu Trần Canh nhanh chóng ra Bộ chỉ huy tiền phương hỗ trợ chức chỉ huy chiến dịch này.

Ngày 30/7, tức trước ngày Trần Canh rời trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một hôm Hồ Chí Minh mời Trần Canh và La Quý Ba đến gian nhà sàn lợp nan, nơi ở của Chủ tịch trong rừng trúc. Trần Canh nhìn bốn phía xung quanh, trong nhà, chỉ có một chiếc giường, một bàn một ghế, trên giường trải một tấm thảm, trên bàn đặt một máy chữ và mấy quyển sách, đồng chí bất giác quay người nhìn người bạn cũ của mình với tấm lòng trìu mến nói : “ Hồ chủ tịch quá giản dị, thật đáng kính, đáng kính ”. Hồ Chí Minh càng không khỏi nhớ lại tình hình thời kỳ đại cách mạng ở Quảng Châu, thời kỳ chống Nhật ở Diên An. Khi nhắc đến hai người bạn cũ lại gặp nhau trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, Hồ Chí Minh thông thạo nói và viết chữ Hán, liền ngâm thơ : “ Cao sĩ nằm trên núi đá lởm chởm, anh hùng đến trong rừng sâu thăm thẳm ”, thể hiện tấm lòng phấn khởi của Người khi gặp lại Trần Canh. Ngày 31/7 Trần Canh cùng đoàn lên đường đến Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam đóng ở Quảng Uyên.

Khi Hồ Chí Minh đi ra tận bìa rừng để tiễn Trần Canh, nhìn thấy trong tay mỗi người trong đoàn Trần Canh ai nấy đều cầm chiếc ô che mưa mang từ trong nước, bèn chỉ tay vào ô của Trần Canh nói : “ Cái này không được ”. Người nhìn thấy Trần Canh mặt ngơ ngác, lại nói : “ Người Việt Nam chúng tôi đi đường rừng rất ít người cầm ô, để bảo mật và khỏi lộ thân phận, phải đổi trang phục cho các đồng chí ”. Tiếp đó, Hồ Chí Minh tự tay thu lại chiếc ô của Trần Canh, phát cho mỗi người một mũ lá cọ và dặn đi dặn lại Trần Canh, trên đường phải đề cao cảnh giác, chú ý an toàn.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #52 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 05:45:47 pm »

Thuyết phục cán bộ quân đội Việt Nam đánh Đông Khê trước.

Ngày 14/8, đoàn Trần Canh đến Bộ chỉ huy tiền phương ở Quảng Uyên, gặp Đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn đã đến đó trước hai ngày.

Trần Canh không quản mệt mỏi, tranh thủ thời gian cùng Vi Quốc Thanh nghe Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Hoàng Văn Thái và các đơn vị tác chiến giới thiệu tình hình liên quan đến hai bên địch ta, nhất là tình hình cụ thể của chiến trường Đông Bắc. Toàn cảnh của chiến khu Việt Nam tức thì hiện lên trong đầu óc của Trần Canh. Tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương có khoảng 230.000 người, trong đó bộ đội gốc Pháp hơn 40.000 người còn lại là lính đánh thuê châu Âu, châu Phi và quân nguỵ Việt Nam.

Binh lực ở vùng Bắc Bộ Việt Nam là hơn 70.000 người, 100 máy bay (máy bay chiến đấu và máy bay vận tải mỗi thứ một nửa). Trong tấn công mùa xuân 1950, quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Thái Nguyên, Hà Nam và Ninh Bình, cơ bản khống chế vùng sản xuất lương thực đồng bằng sông Hồng. Ở biên giới Trung – Việt tiếp giáp với Quảng Tây, tổng binh lực của quân Pháp khoảng 11.000 người, cơ bản ở thế thủ, lập tuyến phòng ngự trọng điểm dọc quốc lộ 4. Tháng 5/1950 quân đội Việt Nam công kích Đông Khê, cứ điểm nhỏ nằm giữa Cao Bằng, Thất Khê, tuy cuối cùng không công kích được, nhưng thực tế làm cho quân Pháp sợ khiếp vía. Sau đó quân Pháp tăng cường lực lượng phòng thủ cứ điểm biên giới Cao Bằng, Đông Khê và Thất Khê.

Tổng binh lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam khoảng 160.000 người trong đó bộ đội thuộc đại đoàn 308 có tất cả hơn 20.000 người do Bộ Tổng trực tiếp nắm, toàn bộ tập trung ở gần Cao Bằng. Quân Pháp ở vùng Cao Bằng chỉ có hơn 2000 tên, quân đội Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng. Đánh tốt, chiến dịch biên giới thì quân đội Việt Nam có thể giành được chủ động về chiến lược. Để tìm hiểu cụ thể tình hình chiến trường, Trần Canh cử người đi trinh sát thực địa Cao Bằng, phát hiện quân đóng giữ Cao Bằng đã tăng thêm 3 tiểu đoàn khoảng 1500 tên, ba mặt là nước, một mặt là núi dễ phòng thủ, khó tấn công, là cục xương rất khó gặm, với kỹ thuật tác chiến và tố chất tâm lý của quân đội Việt Nam trước mắt, tấn công Cao Bằng trước là cả một vấn đề, khó khăn rất lớn.

Trần Canh trầm ngâm suy nghĩ. Đồng chí vừa nghe báo cáo, vừa từ từ đưa ánh mắt lên bản đồ, nhìn qua Cao Bằng dần dần di chuyển xuống đông nam Cao Bằng 45km, rồi ngắm kỹ hướng phía nam, rồi đi qua Thất Khê, Nà Sầm, một lần nữa dừng lại ở Lạng Sơn. Sau một lúc im lặng, cuối cùng Trần Canh phát biểu, đồng chí cất cao giọng nói : “ Tác chiến trận đầu biên giới, đánh từ đâu rất then chốt, vấn đề này cần giải quyết nghiêm túc, đánh trận đầu, phải thắng ! Tôi thấy Đông Khê là nơi thích hợp nhất. Đánh chiếm được Đông Khê thì quyền chủ động của toàn bộ chiến dịch nắm chắc trong tay chúng ta ”.

Đông Khê là điểm giao nhau từ cửa Thuỷ Khẩu, Quảng Tây Trung Quốc qua cửa Bố Cục đi vào quốc lộ Việt Nam, thị trấn rất nhỏ này là điểm cao nhỏ nhổ lên ở phía bắc thung lũng bốn bề là núi chặn đứng con đường Trung – Việt hướng này, quốc lộ 4 từ tây bắc sang đông nam cũng đi qua thị trấn, phía tây bắc thị trấn là Cao Bằng, phía nam là Thất Khê, tấn công lấy Đông Khê thì chặt đứng ngang lưng hệ thống phòng ngự của quân Pháp trên tuyến này. Vi Quốc Thanh và cố vấn quân sự Trung Quốc nhất trí đồng ý ý kiến của Trần Canh, nhưng có cán bộ quân đội Việt Nam lại không thông. Trần Canh nói, hiện nay quân Pháp ở Việt Nam nói chung trong tình thế bất lợi, từ bản quốc tăng số lớn quân tấn công sang Việt Nam cũng rất khó khăn, trước mắt Quân đội Nhân dân Việt Nam đang từ đánh du kích phân tán chuyển sang đánh chính quy tương đối tập trung, từ đội du kích không tập trung lớn chuyển sang quân chính quy tương đối tập trung, từ đánh tiêu hao chuyển sang đánh công kiên và đánh tiêu diệt, muốn hoàn thành thuận lợi quá trình chuyển biến này, cần phải làm rất nhiều công việc gian khổ tỉ mỉ, chiến dịch trước mắt là mở đầu của chuyển biến này, cần phải bảo đảm trận đầu thắng lợi, theo thực lực của quân đội Việt Nam hiện nay một trận đánh lấy Cao Bằng là rất khó khăn, dù cho dốc toàn lực gắng gượng lấy được Cao Bằng, thì quân đội Việt Nam cũng sẽ tổn thất nặng nề, rất có thể lợi bất cập hại. Nếu đánh Đông Khê trước, nơi địch phòng thủ tương đối yếu, chiếm được Đông Khê, toàn cục chiến dịch sẽ sôi động lên, cũng dễ giải quyết quân địch ở Cao Bằng.

Trải qua bàn bạc cọ xát nhiều lần Trần Canh và Võ Nguyên Giáp cuối cùng đi đến nhận thức chung. Ngay sau đó, ngày 22/8 Trần Canh báo cáo kế hoạch tác chiến cùng với Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc vạch ra về Quân uỷ Trung Quốc. Lúc này, Hồ Chí Minh cũng đến Quảng Uyên, Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng ý kế hoạch tác chiến của Trần Canh nêu ra, ngày 24/8 Trần Canh lại nhận được điện trả lời : “ đồng ý ” của Quân uỷ Trung Quốc, quyết tâm tác chiến của Trần Canh càng kiên định hơn. Ngày 23-24 tháng 8, Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam triệu tập hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên của các bộ đội tham chiến trong chiến dịch biên giới, Trần Canh được mời tham gia hội nghị. Sau khi Võ Nguyên Giáp tuyên bố xong kế hoạch tác chiến, muốn nghe ý kiến của mọi người. Trung đoàn trưởng trung đoàn 102 Nguyễn Hữu An vẫn chủ trương đánh Cao Bằng trước. Đồng chí nói : “ Lực lượng của chúng ta có hạn nên tập trung binh lực một trận đánh lấy Cao Bằng. Nếu đánh Đông Khê trước, lực lượng bị tiêu hao, thì làm sao đánh được Cao Bằng ? Không đánh được Cao Bằng thì làm thế nào có thể phá vỡ phong toả biên giới của quân Pháp ? ”. Trung đoàn trưởng trung đoàn 88 Thái Dũng cũng nói : “ Nhân lúc quân địch chưa kịp tăng viện nếu chúng ta tấn công Cao Bằng ngay từ đầu, chẳng phải khả năng giành thắng lợi rất lớn hay sao ? Nếu đánh Đông Khê trước bọn địch ở Cao Bằng tăng cường công sự, chẳng phải tăng thêm khó khăn tấn công Cao Bằng hay sao ? ”.

Trần Canh bình tĩnh nghe hết ý kiến của các đồng chí đó, thừa nhận suy nghĩ của đồng chí đó có lý nhất định. Nhưng Trần Canh kiên nhẫn giải thích nói điểm đột phá đánh trận của chúng ta là gì ? Nhìn bề ngoài, phong toả của quân Pháp đã hình thành từ mấy cứ điểm quan trọng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Nà Sầm, Lạng Sơn v.v.. Nhưng chỉ cần đánh lấy Cao Bằng, thì tuyến phong toả của quân Pháp sẽ sụp. Những cứ điểm của quân Pháp dựa vào cái gì để phát huy tác dụng ? Dựa vào quân đồn trú, kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc chúng tôi là : Tập trung binh lực ưu thế, tiêu diệt sinh lực địch, là quan trọng nhất, trong chiến tranh giải phóng điểm đột phá đánh trận của chúng tôi chủ yếu là tiêu diệt sinh lực địch, ngay cả mấy chiến dịch lớn Liêu Thẩm, Hoài Hải, Bình Tân ở giai đoạn quyết chiến cũng là như thế. Kết quả mỗi một chiến dịch đều tiêu diệt mấy vạn, mấy chục vạn quân địch, toàn quốc tương đối nhanh chóng được giải phóng. Nhân lúc địch phòng ngự sơ hở, bất ngờ tấn công Cao Bằng, hoặc thời kỳ đầu chiến đấu cũng sẽ giành được thắng lợi đó, nhưng chúng ta có thể một đấm đánh gục quân địch được không ? Nếu một đấm đánh trúng nhưng không đánh gục quân địch, nó còn có thể chiến đấu với chúng ta, sau lưng lại có quân địch ở Đông Khê, Thất Khê, Lạng Sơn, thừa thế xông tới, chúng ta sẽ không bị địch đánh ở mấy mặt hay sao ? Nhưng đánh trước Đông Khê thì khác, bọn địch ở Cao Bằng, Thất Khê, Lạng Sơn như chim chết hụt, chúng ta lấy nhàn nhã đối phó vất vả, kẻ nào đưa quân tăng viện thì đấm kẻ đó, tiêu diệt địch ở ngoài công sự, đó là cuộc chiến đấu dễ dàng hơn nhiều ! Cuối cùng Trần Canh cười nói : “ Thay đổi kế hoạch, tất nhiên chúng ta phải nghiêm túc nói rõ nguyên nhân cho bộ đội biết, dù cho số ít người có tâm tư, chỉ cần đánh thắng trận thì có nói gì cũng dễ đánh thắng liên tục, cái giá phải trả lại nhỏ, thì ai còn ý kiến gì nữa ”.

Những lời nói của đồng chí Trần Canh khiến các đồng chí Việt Nam đi sâu thảo luận thêm, cuối cùng đã thống nhất tư tưởng với kế hoạch đánh Đông Khê trước. Sau hội nghị của Bộ chỉ huy tiền phương vào một ngày thượng tuần tháng 9, Hồ Chí Minh nắm chặt tay Trần Canh nói : “ Tôi muốn nhờ đồng chí bao luôn thắng lợi chiến đấu Đông Khê, cũng bao luôn thắng lợi của chiến dịch Biên Giới ”. Trần Canh phấn khởi nói : “ Tôi nhất định sẽ đem hết sức giúp đánh tốt trận này, nhưng đánh trận chủ yếu vẫn dựa vào các chỉ huy quân đội Việt Nam và quần chúng nhân dân ”.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #53 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 05:46:28 pm »

Chiến dịch biên giới giành thắng lợi hoàn toàn

Trung tuần tháng 9, công tác chuẩn bị cho chiến dịch biên giới cơ bản hoàn thành, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp từ Quảng Uyên chuyển xuống khu Bản Viễn đông Đông Khê, gần sở chỉ huy tác chiến trận đầu chiến dịch biên giới – chiến đấu Đông Khê.

Ngày 16/9, bắt đầu tấn công Đông Khê. Mở đầu rất là thuận lợi, nhanh chóng áp sát công sự chính của địch. Nhưng chiến đấu đến sáng 17, quân địch được không quân yểm hộ phản kích, có đơn vị bộ đội tiến công phía trước đã rút lui khỏi trận địa đã chiếm được. Trần Canh đich thân đến Bộ chỉ huy tiền phương tìm hiểu tình hình cùng với Võ Nguyên Giáp v.v.. nghiên cứu nguyên nhân trắc trở, nêu ra ý kiến tác chiến mới, nhưng do hợp đồng tác chiến kém, đánh đến đêm 17 vẫn không tiến triển rõ rệt. Có bộ đội lại nảy sinh dao động quyết tâm tấn công. Vào giờ phút then chốt này, Trần Canh kiến nghị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cần phải nghiêm khắc ra lệnh cho bộ đội không tiếc bất cứ giá nào, tiếp tục kiên trì, đồng thời kiến nghị điều chỉnh bố trí, thực hiện tấn công bốn mẳttọng điểm ở hai mặt nam, bắc.

Sau khi bộ đội mở lại tấn công lần nữa, rất nhanh phát triển vào sâu trong lòng địch, chiến đấu đến 8g sáng ngày 18, cuối cùng đã tiêu diệt hơn 270 tên địch đóng giữ Đông Khê, thu rất nhiều vũ khí đạn dược và vật tư khác. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt cứ điểm có hai đại đội địch đóng giữ. Sau khi cuộc chiến đấu Đông Khê kết thúc, Hồ Chí Minh thăm dò ý kiến của Trần Canh đối với trận Đông Khê, suốt hai ngày căng thẳng suy nghĩ rất nhiều, Trần Canh chậm rãi nói : “ Trận đánh Đông Khê đã thắng, ý nghĩa rất lớn, nhưng phải nói rằng đó không phải là cuộc chiến đấu thành công, quân ta thương vong hơn 500 người mà tiêu diệt không đầy 300 tên địch, cái giá quá lớn ”. Khi đề cập đến những vấn đề của quân đội nhân dân bộc lộ ra trong chiến đấu, Trần Canh thẳng thắn nói với Hồ Chí Minh : “ Nghiên cứu quá trình chiến đấu, chiến sĩ dũng cảm nhưng điều then chốt là có những cán bộ thiếu kinh nghiệm tác chiến, năng lực chỉ huy kém, không áp sát mặt trận chỉ huy. Từ nay về sau cần lựa chọn đề bạt cán bộ trong số chiến sĩ cũ và cốt cán chiến đấu có kinh nghiệm thực tiễn ”. Hồ Chí Minh nghe gật đầu liên tiếp.

Ngày hôm sau, Trần Canh sốt cao, chẩn đoán là sốt rét ác tính, nằm bẹp trên giường suốt một tuần. Thời gian này bốn tiểu đoàn địch đã tập kết ở Thất Khê. Trần Canh suy nghĩ, theo tình hình chiến đấu ở Đông Khê, quân đội Việt Nam với lực lượng hiện có, đánh chiếm Thất Khê rất khó khăn, vì vậy đồng chí cùng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu quyết định, bỏ kế hoạch tấn công Thất Khê trước đấy, thay vào đó mai phục ở nam Đông Khê, để tiêu diệt địch tiến lên bắc Đông Khê. Lúc này quân Pháp ở Thất Khê vẫn án binh bất động, lại tập kết 5 tiểu đoàn binh lực tấn công Thái Nguyên, trực tiếp đe doạ an toàn của cơ quan đầu não Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam. Lúc này một số cán bộ quân đội Việt Nam chủ trương bỏ mai phục, đưa quân về Thái Nguyên.

Trần Canh thấy tình hình đó, kiên quyết trình bày với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, tấn công Thái Nguyên là âm mưu quỷ kế của đich, mục đích là dụ quân ta rút khỏi Đông Khê, bảo đảm an toàn cho quân địch ở Cao Bằng khi rút chạy xuống phía nam, nhất thiết không được mắc mưu địch. Quả nhiên, không ngoài dự kiến của Trần Canh, ngày 30/9, quân địch ở Thất Khê bắt đầu tiến lên phía bắc, ngày 3/10, quân địch ở Cao Bằng cũng bỏ thị xã chạy xuống phía nam. Hai cánh quân do Lepage và Charton chỉ huy hòng sau khi hội quân ở Đông Khê sẽ chạy về Thất Khê, Lạng Sơn để tránh số phận bị tiêu diệt. Do binh đoàn Lepage từ Thất Khê tiến lên phía bắc, bị quân đội Việt Nam kiên quyết đánh chặn, ngày 4/10 chuyển sang vùng núi Cốc Xá ở tây nam Đông Khê. Trong tấn công ngày 5/10, quân đội Việt Nam bị thương vong khá lớn. Đại đoàn 308 chiến đấu liên tục 4 ngày liền, đứng trước một vấn đề là tạm dừng tiến công hay là kiên quyết đánh tiếp. Vào giờ phút then chốt này Trần Canh nói dứt khoát với Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam trong máy điện thoại : “ Trận này không đánh thì không có trận nào có thể đánh được ” rồi nói tiếp một cách chân thành thắm thiết : “ Vào giờ phút then chốt của chiến dịch, Bộ chỉ huy dao động sẽ chôn vùi thắng lợi của chiến dịch ”.

Trần Canh ngắt máy điện thoại, lập tức cầm bút viết một bức thư ngắn cho Hồ Chí Minh, mong Hồ Chí Minh cổ vũ các chỉ huy tiền phương hạ quyết tâm kiên trì đến cùng, tập trung lực lượng tiêu diệt binh đoàn Lepage trước, sau đó lập tức tiêu diệt binh đoàn Charton giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. Trước những đòn đánh kiên quyết của quân đội Việt Nam, tình hình chiến trường chuyển biến nhanh chóng. Đến ngày 7/10, hai cánh quân địch lần lượt bị quân đội Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn, Lepage, Charton và tham mưu của họ và tỉnh trưởng tỉnh Cao Bằng của nguỵ quyền Việt Nam đều bị bắt sống.

Chiến dịch Biên Giới tiêu diệt tất cả 8 tiểu đoàn, hơn 8000 người, toàn bộ phòng tuyến của quân Pháp trên biên giới Trung – Việt sụp đổ, bọn địch ở Đồng Đăng, Yên Đình, Lạng Sơn v.v. tháo chạy tan tác, bọn địch tấn công Thái Nguyên sau khi bị tổn thất hơn 600 tên cũng rút khỏi Thái Nguyên, bọn địch ở Lào Cai, Tây Bắc cũng hốt hoảng chạy, mục đích dự kiến của chiến dịch được thực hiện hoàn toàn.
 

(đăng trên “ Xuân Thu Viêm Hoàng ” số 9 năm 1999,
với tiêu đề là : “ Đại tướng Trần Canh trong
viện trợ Việt Nam chống Pháp ”,
khi đưa in vào tập sách này, tác giả có sửa chữa đôi chút).
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #54 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:06:53 pm »

VẤN ĐỀ PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Vương Nghiên Tuyền

Sau chiến dịch biên giới Việt Nam tháng 10 năm 1950, tôi tiếp tục ở lại làm cố vấn đại đoàn 308. Năm 1953 đến 1954 tôi về nước học tập hệ cao cấp Học viện quân sự Nam Kinh, đầu năm 1955 lại được lệnh sang công tác ở Đoàn cố vấn quân sự nước ta tại Việt Nam. Mùa xuân 1956, bỏ tên Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam, đổi lại là Tổ chuyên gia quân sự tại Việt Nam, tôi làm tổ trưởng. Tháng 7/1957 tôi về nước. Trong thời gian này, Trung ương Đảng ta đã nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5/1956 cử đồng chí Trần Canh sang Việt Nam hỗ trợ quân đội Việt Nam xây dựng phương án tác chiến phòng ngự, tôi có may mắn lại theo đồng chí Trần Canh đi khảo sát tại chỗ những nơi Đồng Hới bắc vĩ tuyến 17 Việt Nam, Nghệ Tĩnh, Thanh Hoá, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai, Yên Bái, Mộc Châu, Sơn La, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ v.v.. Trong khi khảo sát, đồng chí Trần Canh và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trao đổi một số vấn đề liên quan đến các chiến dịch chủ yếu trong chiến tranh chống Pháp. Khi khảo sát Điện Biên Phủ, phía Việt Nam giới thiệu khá tỉ mỉ tình hình chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi cho rằng, trong thời gian chống Pháp từ 1951 đến 1954, trong cán bộ lãnh đạo chủ chốt của quân đội Việt Nam luôn luôn có sự bất đồng nào đó về mặt lựa chọn liên quan đến phương hướng chiến lược, đó là vấn đề đặt hướng tấn công chính vào vùng đồng bằng Bắc Bộ hay là ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam và vùng núi Thượng Lào. Nhân đây tôi muốn tường thuật lại khái quát một số tình hình mà phía Trung Quốc và phía Việt Nam đề cập đến, bản thân tôi đã trải nghiệm lúc bấy giờ và tìm hiểu được trong chuyến khảo sát thực địa lần này.

Thứ nhất : Tình hình chiến tranh chống Pháp sau chiến dịch biên giới Việt Nam năm 1950 và vấn đề hướng phát triển của hai bên Pháp – Việt

Trong tháng 9, 10 năm 1950, Việt Nam giành được thắng lợi chiến dịch Biên Giới, giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn, Đình Lập, Tiên Yên, Lào Cai, khai thông tuyến giao thông với Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, phá vỡ bao vây của quân Pháp đối với căn cứ địa chủ yếu Bắc Bộ Việt Nam, quân đội Việt Nam nắm chắc quyền chủ động chiến trường ở vùng Bắc Bộ Việt Nam, đồng thời còn giải phóng vùng Hoà Bình, đột phá hành lang Hải Phòng, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La do địch kiểm soát, mở tuyến giao thông giữa căn cứ địa chủ yếu Bắc Bộ với Trung Bộ, tạo điều kiện có lợi hơn cho chiến tranh chống Pháp của Việt Nam. Nhưng nói về tình hình chiến tranh chống Pháp của cả ba nước Đông Dương, Việt Nam, Campuchia, Lào, quân Pháp lúc bấy giờ vẫn chiếm ưu thế, cơ bản khống chế vùng sản xuất lương thực đồng bằng đông dân cư, lại khống chế phần lớn vùng núi có giá trị chiến lược quan trọng, nói tóm lại, quân Pháp vẫn đang nắm quyền chủ động chiến lược. Sau chiến dịch biên giới, đã phá vỡ bao vây từ phía đông, phía bắc của quân Pháp đối với căn cứ địa chủ yếu Việt Bắc (vùng Thái Nguyên, Truyên Quang, Bắc Cạn), nhưng vùng núi rộng lớn Lai Châu, Sơn La, Tây Bắc Việt Nam, Nghĩa Lộ, Phù Yên, Tây Yên Bái v.v. và vùng núi rộng lớn của Lào vẫn trong tay quân Pháp; quân Pháp vẫn đóng trên các điểm cao đe doạ căn cứ địa Việt Bắc từ phía tây, đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam ở phía nam căn cứ địa, là vùng tập kết chủ lực của quân Pháp, căn cứ địa Việt Bắc, trụ sở cơ quan đầu não của Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam vẫn trong vòng uy hiếp của quân Pháp, vẫn chưa phải là hậu phương ổn định, an toàn. Vì vậy, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông từ năm 1951 thông qua Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam đã nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển lên vùng núi Tây Bắc Việt Nam và vùng núi Thượng Lào, nhưng không được phía Việt Nam chấp nhận.

Sau chiến dịch biên giới, Revers, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương bị triệu hồi về nước. Ngày 6/12/1950, Pháp cử Jean de Lattre de Tassigny, Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, kiêm Cao uỷ. Sau khi đến nhậm chức, De Lattre vẫn tiếp tục đặt trọng điểm tấn công vào Bắc Bộ Việt Nam, mở rộng lực lượng cơ động, phát triển nguỵ quân, tiến hành cái gọi là “chiến tranh tổng lực”, xây dựng cái gọi là “phòng tuyến boongke”, tạo ra vùng trắng, âm mưu khống chế toàn diện đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, trên cơ sở đó cơ bản khống chế uy hiếp hơn nữa căn cứ địa Bắc Bộ Việt Nam. Cái gọi là “phòng tuyến boongke” của De Lattre, tức là từ Hòn Gai theo hướng tây qua Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Vĩnh Phúc rồi theo hướng nam qua Sơn Tây, Hà Nam đến Ninh Bình, tiếp tục xây thêm công sự trên cơ sở công sự, cứ điểm sẵn có, hình thành một phòng tuyến kiên cố, nhằm cắt đứt liên hệ giữa đồng bằng và miền núi Bắc Bộ Việt Nam, hòng lấy đó để khống chế toàn diện vùng đồng bằng, uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc. Trên phòng tuyến và bên trong phòng tuyến này, tập kết lực lượng phòng giữ cảnh giới chủ yếu và bộ đội cơ động của Pháp, là vùng chiếm đóng của quân chủ lực Pháp là điểm mạnh về bố trí chiến lược của quân Pháp ; Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ ở Bắc Bộ Việt Nam và vùng núi rộng lớn Sầm Nứa, Xiêng Khng, Phông Xa Lì v.v.. của Thượng Lào là vùng chiến lược và hậu phương quan trọng của quân Pháp, nhưng binh lực tương đối ít, tương đối yếu – là vùng yếu của quân Pháp. Trong tình hình trên về tổng thể quân Pháp vẫn chiếm ưu thế, quân đội Việt Nam vẫn ở thế yếu, căn cứ địa chủ yếu Việt Bắc vẫn chưa ổn định, không thể trở thành hậu phương an toàn, để làm suy yếu quân Pháp phát triển lực lượng chống Pháp, mở rộng vùng giải phóng xây dựng căn cứ địa Việt Bắc ổn định, xây dựng hậu phương an toàn, rộng lớn cho chiến tranh chống Pháp, thúc đẩy cuộc kháng chiến toàn quốc phát triển thắng lợi, thì hướng tấn công chủ yếu, hướng phát triển của quân đội Việt Nam đặt ở Tây Bắc và vùng núi Thượng Lào, nơi địch yếu về chiến lược về bố trí, hay là đặt ở nơi đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam nơi mà địch khá mạnh về chiến lược, về bố trí và sẵn sàng chống lại ? Theo tình hình chung, phải nói rằng sự lựa chọn này không khó, nhưng trong cán bộ lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ thì trở thành vấn đề tương đối nan giải.

Ngay từ tháng 8/1950, khi Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam giới thiệu tình hình cho những cán bộ đi theo đồng chí Trần Canh, nói rất rõ ràng, vùng Tây Bắc Việt Nam là vùng tập trung dân tộc thiểu số, ngôn ngữ không thông, công tác cơ sở yếu, núi cao rừng rậm, đất rộng người thưa, thiếu thốn lương thực, giao thông không tiện, tác chiến đại binh đoàn rất khó khăn, và nói dù cho giải phóng vùng núi Tây Bắc cũng không giải quyết nổi những vấn đề mà Việt Nam đối mặt lúc bấy giờ, cho nên sau khi chiến dịch biên giới sẽ chuẩn bị phát triển về vùng trung du hoặc phát triển theo hướng Hoà Bình ; vùng trung du tức là vùng đồng bằng phía bắc Hà Nội. Sau chiến dịch biên giới, quân đội Việt Nam hành động theo phương án dự kiến này. Sau khi xem xét các mặt, đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cũng đồng ý phương án đó.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #55 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:07:43 pm »

Thứ hai : Hướng tác chiến của quân đội Việt Nam nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, mở ba chiến dịch từ 12/1950 đến 6/1951.

Chiến dịch biên giới kết thúc thắng lợi, tình hình chiến tranh chống Pháp ở miền Bắc Việt Nam rất tốt, quyền chủ động nằm trong tay quân đội Việt Nam, ở mức độ khá lớn. Nhưng làm thế nào để giữ vững quyền chủ động, phát triển tình hình tốt hơn, vẫn chưa phải là việc dễ dàng ở Việt Nam lúc bấy giờ. Do có những cán bộ lãnh đạo Việt Nam không muốn chấp nhận kiến nghị phát triển lên vùng núi Tây Bắc Việt Nam, bị tư tưởng “tốc thắng” chi phối, đặt trọng điểm tấn công chiến lược vào vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, từ tháng 12/1950 đến 6/1951, sử dụng bộ đội chủ lực liên tiếp mở ba chiến dịch.

Từ 25/12/1950 đến 17/1/1951, mở chiến dịch trung du sông Hồng, Việt Nam gọi là “chiến dịch Trần Hưng Đạo”. Vùng tiến hành chiến dịch đầu tiên tại huyện Kim Anh, huyện Đa Phúc của tỉnh Vĩnh Phúc, và huyện Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội 30km về phía bắc, sau đó chuyển sang bắc, đông Vĩnh Yên tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Phúc. Điều động bộ đội chủ lực là trung đoàn 36, 88, 102 của sư 308 và trung đoàn 141, 209 của sư 312 vào hướng chính của chiến dịch. Sau chiến dịch biên giới đến 6 tháng đầu năm 1951, quân đội Việt Nam lần lượt thành lập đại đoàn (sư) 312, đại đoàn (sư) 320, đại đoàn (sư) 316 và đại đoàn công pháo (sư) 351.

Về phía địch, sau khi De Lattre giữ chức Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương đã tăng cường xây dựng bộ đội cơ động, năm 1951 từng bước thành lập 2 đại đoàn cơ động. Sư cơ động thứ nhất do Le Blanc chỉ huy đóng ở Hà Nội, sư cơ động thứ hai do Debechou chỉ huy, đóng ở Hải Dương (trên quốc lộ 5 phía tây Hải Phòng). Có tất cả 7 trung đoàn cơ động. Mỗi trung đoàn có từ 4 đến 6 tiểu đoàn. Tuyệt đại bộ phận trong những tiểu đoàn này là lính Âu Phi, chỉ có 5 tiểu đoàn nguỵ quân, ngoài ra còn tăng cường lính dù, pháo binh, công binh. Ngày 20/3 đến 7/7/1951 trên quốc lộ 18 từ Phả Lại đến Uông Bí, cách Hải Phòng 20, 30 km về phía bắc, tây bắc, quân đội Việt Nam lại mở một chiến dịch ở vùng phía bắc sông Bạch Đằng, Việt Nam gọi là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”. Bộ đội chủ yếu tham gia chiến đấu ở hướng chính của chiến dịch là trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, trung đoàn 141, 209 của đại đoàn 312, trung đoàn 98, 174 của đại đoàn 316.

Ngày 28/5 đến 24/6/1951, vùng Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, phía nam Liên khu 3 (trọng điểm ở hữu ngạn sông Đáy tỉnh Ninh Bình) quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch gọi là “chiến dịch Quang Trung”. Bộ đội chủ lực tham gia chiến đấu ở hướng chính chiến dịch là trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, trung đoàn 9, 57, trung đoàn 66 của đại đoàn 304. Đại đoàn 308 đánh trước thị xã Ninh Bình, trong khi tiêu diệt quân địch đóng giữ Ninh Bình, đã bắn chết trung úy Bernard, con của De Lattre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, tại cứ điểm Âu Hà bên bờ sông Đáy. Sau đó gặp khó khăn khi công kích cứ điểm Non Nước.

Ba chiến dịch nói trên đều tiến hành ở ven đồng bằng Bắc Bộ, trên cái gọi là “phòng tuyến boongke” của quân Pháp, hơn nữa lại tiến hành từ điểm khởi đầu và điểm kết thúc ở mặt chính và hai bên sườn của “phòng tuyến boongke” dựa vào sông, ven biển nói chung là chiến dịch tiến công cứng chạm cứng. Vì vậy kết quả của ba chiến dịch đều không lý tưởng, hơn nữa, càng đánh càng không lý tưởng. Những cứ điểm cần đánh, một số không đánh được, mà dù cho đánh được, tuyệt đại bộ phận cũng không củng cố nổi, được rồi lại mất. Trong kế hoạch đánh viện binh có cái không đánh được, có cái đánh được nhưng rất ít khi trở thành tiêu diệt chiến. Nói chung lại, cả ba chiến dịch không đạt được mục đích tiêu diệt số lượng lớn sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, phát triển tình hình rất tốt do chiến dịch biên giới tạo ra.

Trong khi quân Pháp âm mưu phá hoại và “càn quét”, tư tưởng của cán bộ đảng, chính quyền, quân đội địa phương dao động, chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có hiện tượng co lại. Tất cả những điều đó đều ảnh hướng đến cán bộ quân đội Việt Nam, một số cán bộ bắt đầu suy nghĩ tới vấn đề cơ bản của tác chiến và xây dựng quân đội. Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam lúc bấy giờ có bất đồng với cán bộ lãnh đạo chủ chốt của quân đội Việt Nam trên vấn đề phương hướng phát triển chiến lược cũng có những quan điểm không giống nhau lắm trên vấn đề phát động quần chúng, trên vấn đề công tác chính trị bộ đội. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 của Việt Nam giành được thắng lợi, trong “Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng Việt Nam ngày 25/11 năm đó, rõ ràng nhắc đến vấn đề phải “cải thiện đời sống nhân dân”, “động viên lực lượng toàn dân kháng chiến” nhưng mãi đến đầu những năm 50, đời sống của đông đảo nông dân nghèo khổ vẫn chịu sự bóc lột nặng nề của địa chủ và những kẻ cho vay nặng lãi. Thậm chí có những cán bộ địa phương, cán bộ quân đội xuất thân từ gia đình bóc lột, không chút giấu diếm chống lại giảm tô giảm tức cho nông dân nghèo khổ. Cho nên tính tich cực kháng chiến của đông đảo nông dân bị kìm hãm rất lớn, tinh thần chủ động cũng không được phát huy đầy đủ, đông đảo chiến sĩ trong bộ đội đa số chỉ biết làm theo mệnh lệnh, thiếu tinh thần trách nhiệm và tinh thần chủ động tích cực của người làm chủ. Tất cả những người trong đoàn cố vấn chúng tôi cho rằng như thế không thể giải thoát được nỗi khổ của đông đảo quần chúng cơ bản, không nghiêm chỉnh giải quyết vấn đề đời sống của người dân, không thể nào phát động đầy đủ quần chúng, tất nhiên cũng khó kiên trì chiến tranh chống Pháp lâu dài. Nhưng không ít các đồng chí Việt Nam không đồng ý, không coi trọng lắm ý kiến của cố vấn Trung Quốc phát động quần chúng, bất đồng về vấn đề tăng cường công tác chính trị bộ đội, cũng bắt đầu rõ rệt. Tháng 8/1950, sau khi đoàn cố vấn Trung Quốc đến Việt Nam, phía Việt Nam chỉ cần cố vấn giúp đỡ về công tác quân sự, còn về công tác chính trị không muốn để cho cố vấn nhúng tay vào. Căn cứ vào tình hình tư tưởng chính trị và tình hình quan hệ nội bộ, của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ, các cố vấn Trung Quốc cảm thấy nếu không tăng cường xây dựng công tác chính trị, thì quân đội Việt Nam khó kiên trì kháng chiến lâu dài.

Sau chiến dịch Biên Giới, nhất là sau ba chiến dịch ở ven đồng bằng Bắc Bộ, các cố vấn Trung Quốc đề xuất thêm, nếu không tăng cường công tác chính trị cho bộ đội thì sẽ gặp khó khăn nhiều hơn khi tiếp tục tác chiến. Bất đồng về mấy mặt trên đây hay là nói những cách nhìn bất đồng nào đó, sau ba chiến dịch ven đồng bằng đều được đề xuất tương đối rõ, sự phát triển của tình hình làm cho các đồng chí Việt Nam không thể không suy xét những vấn đề này [1].
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #56 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:08:18 pm »

Thứ ba : Quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ hai Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đối với vấn đề quân sự : Quân Pháp chiếm lại vùng Hoà Bình, quân đội Việt Nam tiến hành chiến dịch Hoà Bình

Ngày 27/9 đến 5/10 năm 1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp hội nghị toàn thể lần thứ hai, phân tích tình hình chiến tranh chống Pháp. Hội nghị nêu rõ : “ quân đội Việt Nam vẫn chưa giành được ưu thế về quân sự, vẫn chưa đập tan phòng tuyến của đich, vẫn chưa thay đổi tình hình đồng bằng Bắc Bộ ”; quân Pháp “ tăng cường chiến tranh toàn diện ở vùng địch chiếm và vùng du kích ”, làm cho chiến tranh du kích của Việt Nam “ gặp rất nhiều khó khăn mới ”, “ về mặt xây dựng bộ đội chủ lực, chất lượng chưa theo kịp số lượng, đánh du kích sau lưng địch không triển khai mạnh mẽ, chưa thể phối hợp mạnh mẽ với chiến trường chính ”. Hội nghị quyết định “ ra sức đập tan âm mưu thâm độc của địch lấy chiến tranh nuôi chiến tranh dùng người Việt đánh người Việt, củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến toàn quốc, toàn dân, nâng cao chất lượng bộ đội chủ lực, ra sức tăng cường xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích ”, “ phát triển đánh du kích ”, “ nâng cao tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội ”. Vì vậy hội nghị ra “ nghị quyết về nhiệm vụ và phương châm công tác ở vùng địch chiếm và vùng du kích ”, yêu cầu đảng uỷ các cấp coi trọng sự lãnh đạo thống nhất đối với đấu tranh trên mọi mặt, chỉ đạo chặt chẽ công tác quân sự, căn cứ vào tình hình so sánh lực lượng địch ta, quy định tương ứng nhiệm vụ và phương châm đấu tranh, nắm bắt khắc phục tư tưởng “ tả ”, hữu khuynh tồn tại, trong bộ đội còn phải chống quân điểm quân sự đơn thuần. Để nâng cao chất lượng bộ đội, phát triển chiến tranh du kích, Tổng quân uỷ ra quyết định : thay đổi hình thức hoạt động của bộ đội chủ lực, làm cho nó thích ứng với nhu cầu của phát triển chiến tranh du kích, phương châm hoạt động là phân tán chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương, luân lưu tác chiến, bộ đội chủ lực bất cứ lúc nào cũng phải có một bộ phận tốc chiến, một bộ phận huấn luyện, một bộ phận đánh địch ở ngoại tuyến, một bộ phận đánh địch ở sau lưng địch, tác chiến kết hợp với công tác làm tan rã quân nguỵ.

Và quyết định thượng tuần tháng 10, đại đoàn 312 tấn công địch ở vùng Nghĩa Lộ Tây Bắc. Nhưng đến thượng tuần tháng 10, trên thực tế đại đoàn 312 không đi Nghĩa Lộ đánh địch. Từ nội dung của quyết định, nghị quyết nói trên có thể thấy, Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ cảm thấy một số vấn đề cải tiến đang tồn tại trong chiến tranh chống Pháp, nhưng không đi sâu trình bày, không nêu ra việc giải quyết căn bản vấn đề phát động quần chúng nông dân cần giải quyết lúc bấy giờ, cũng không nêu ra rõ ràng vấn đề tăng cường công tác tư tưởng chính trị bộ đội thay đổi phương hướng phát triển chiến lược, chủ lực vẫn quanh quẩn xung quanh đồng bằng Bắc Bộ. Tất cả các biện pháp chỉ là giải quyết một cách tương ứng một số vấn đề cụ thể.

Vì vậy sau hội nghị lần này, vẫn chưa thay đổi được tình hình vẫn từng bước phát triển bất lợi đối với kháng chiến ở Bắc Bộ Việt Nam lúc bấy giờ. Còn quân Pháp thì tương đối đứng chắc chân trên trận địa, và có sự phát triển, thậm chí De Lattre cho rằng, đã đến lúc bắt đầu phản công, giành quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ. Đây là hậu quả của quân đội Việt Nam kiên trì phương hướng phát triển chiến lược nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, nơi bọn địch có quân đội mạnh. Mùa đông năm 1951, tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương từ 230.000 người năm 1950, tăng lên hơn 330.000 người. Ngày 9 đến 14/11/1951 De Lattre đưa 20 tiểu đoàn binh lực đánh chiếm Hoà Bình, trong thời gian này lúc sử dụng binh lực nhiều nhất lên 27, 28 tiểu đoàn, mục đích nhằm khôi phục lại hành lang Hải Phòng, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La đã bị quân đội Việt Nam đột phá, chia cắt lại Bắc Bộ Việt Nam, cắt đứt tuyến đường liên lạc tiếp tế giữa chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Trung Bộ, thu hút và tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam. Bố trí cụ thể của quân Pháp là : bố trí ở vùng Hoà Bình binh lực trên 8 tiểu đoàn, hình thành trận địa phòng ngự tập đoàn cứ điểm, binh lực còn lại lần lượt bố trí ở hai bờ sông Đà, bắc và đông bắc Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6 đông Hoà Bình, để mở rộng vùng chiếm đóng, bảo vệ tuyến vận tải.

Trong tình hình quân Pháp mở lại tấn công quy mô lớn vào Bắc Bộ Việt Nam, Bộ tổng quân đội Việt Nam mời các đồng chí cố vấn Trung Quốc nghiên cứu tình hình và xác định quyết tâm và bố trí. Qua nghiên cứu cho rằng, cuộc tấn công lớn của địch tạm thời gây không ít khó khăn cho phía Việt Nam, nhưng quân địch sử dụng số lớn lực lượng cơ động ở Hoà Bình và vùng rộng lớn ở bắc và đông tỉnh này, dựa vào công sự xây dựng tạm thời, bảo vệ tuyến giao thông khá dài, đã tăng thêm nhiều cơ hội cho quân đội Việt Nam tiêu diệt sinh lực địch ; đồng thời quân Pháp đánh chiếm Hoà Bình là điều động quân từ vùng đồng bằng, vùng đồng bằng tương đối trống, tạo cơ hội rất tốt cho quân đội Việt Nam khôi phục phát triển đánh du kích ở đồng bằng ; nếu chiến trường chính diện Hoà Bình phối hợp tốt với chiến trường sau lưng địch ở đồng bằng, thì không khó tiêu diệt và đuổi cổ quân Pháp xâm chiếm Hoà Bình. Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng quân đội Việt Nam quyết tâm mở chiến dịch Hoà Bình, động viên toàn bộ lực lượng, đập tan cuộc tấn công của quân Pháp lên Hoà Bình, đồng thời khôi phục, phát triển chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng trong quá trình chiến đấu. Vì vậy ngày 24/11/1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra : “ nhiệm vụ và chỉ thị về đập tan quân địch tấn công Hoà Bình ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho toàn thể cán bộ chỉ huy bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, nêu rõ “ địch tự động ra cho chúng ta đánh ”, là một cơ hội tiêu diệt địch rất tốt, phải tích cực chủ động, kiên quyết chiến đấu ngoan cường, các mặt phối hợp chặt chẽ, đập tan kế hoạch tấn công mùa đông của địch, phát triển lực lượng chống Pháp. Bố trí cơ bản của chiến dịch là các đại đoàn : 304, 308, 312 và đại đoàn công pháo 351 tiêu diệt bộ đội cơ động quân Pháp ở trận Hoà Bình, đại đoàn 320, 316 kết hợp với bộ đội địa phương và quần chúng nhân dân phát triển chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng từ hai hướng nam bắc, tiêu diệt nguỵ quyền, làm tan rã nguỵ quân, xây dựng rộng rãi tổ chức cơ sở kháng chiến. Bố trí cụ thể của mặt trận Hoà Bình là : đợt 1 của chiến dịch đặt trọng điểm công kích vào hai bờ sông Đà bắc Hoà Bình, đại đoàn 308 ở tả ngạn, 312 ở hữu ngạn, tìm cơ hội tiêu diệt cứ điểm của địch, phục kích bộ đội vận tải của chúng ; pháo binh của đại đoàn 351 bố trí ở bên bờ sông Đà, với sự phối hợp của bộ đội đại đoàn 308, 312, phong t giao thông trên toàn sông của địch, tiêu diệt thuyền bè của địch, cố gắng buộc địch rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà, mở rộng vùng chiếm đóng của quân đội Việt Nam ; đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6, phía đông Hoà Bình cắt đứt tuyến giao thông tiếp tế đường số 6 của địch, kiềm chế địch ở Hoà Bình hiệp đồng tác chiến với chủ lực phía bắc. Đợt 1 chiến dịch bắt đầu từ ngày 10/12/1951, đại đoàn 308 dưới sự chỉ huy của Vương Thừa Vũ, Song Hào, đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Lê Trọng Tấn, Trần Độ, sư 304 dưới sự chỉ huy của Hoàng Minh Thảo, Lê Chưởng, đạị đoàn công pháo 351 dưới sự chỉ huy của Phạm Ngọc Mậu, đại đoàn 316 dưới sự chỉ huy của Lê Quảng Ba, Chu Huy Mân, đại đoàn 320 dưới sự chỉ huy của Văn Tiến Dũng đều đánh rất tốt, đánh nhiều trận công kiên, phục kích, chặn viện, tiêu diệt nhiều địch làm tan rã không ít nguỵ quyền, nguỵ quân. Trong đó có cuộc chiến đấu của trung đoàn 88 đại đoàn 308 đánh cứ điểm Tu Vũ cách bắc Hoà Bình 30km là nổi bật nhất. Tu Vũ là cứ điểm then chốt của quân Pháp chiếm giữ hai bờ sông Đà. Ở hai bờ sông Đà có một tiểu đoàn Âu Phi đóng giữ có chi viện của hỏa lực tại các cứ điểm lân cận. Đêm 10/2/1951 Trung đoàn 88 qua năm giờ đồng hồ chiến đấu ác liệt, ngoan cường, đã tiêu diệt quân địch đóng giữ Tu Vũ, giáng một đòn nặng nề vào khí thế hung hăng của quân Pháp, có tác dụng rất lớn buộc quân Pháp rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà.

Các bộ đội tham gia chiến đấu đến tháng 12/1951, làm cho tuyến giao thông sông Đà, tuyến giao thông quốc lộ 6 của địch ở Hoà Bình bị cắt đứt, quân địch đóng giữ Hoà Bình bị cô lập, nguyên Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu của Pháp, Cao uỷ Pháp, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương De Lattre đứng trước tình thế thất bại dồn dập, ấm ức đổ bệnh mà chết. Nước Pháp lại cử Le Tourneau làm Cao uỷ ở Đông Dương. Ngày 8/1/1952, Salan bị buộc phải rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà, bắc Hoà Bình. Số quân rút đi, một phần dùng để tăng cường phòng ngự cho Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6 đông Hoà Bình, một phần đưa về vùng đồng bằng để đối phó với chiến tranh du kích phát triển trở lại. Đến đây, đợt 1 chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi. Nhiệm vụ của đợt 2 chiến dịch Hoà Bình là tập trung lực lượng vây đánh quân địch ở Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6, buộc địch hoàn toàn rút khỏi vùng chiếm đóng Hoà Bình, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích. Cuộc chiến đấu đợt 2 bắt đầu từ ngày 8/11/1952. Các đại đoàn chủ lực bộ đội địa phương, dân quân du kích đều đánh rất tốt. Nhất là đại đoàn 316 vượt qua “phòng tuyến boongke” của quân Pháp trên dọc tuyến quốc lộ 18 đồng bằng Bắc Bộ, đi vào đánh địch ở hai bên sườn quốc lộ 5 Hà Nội đi Hải Phòng ; đại đoàn 320 đánh địch ở vùng đồng bằng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, trừng trị Việt gian làm tan rã nguỵ quân, nguỵ quyền, Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến vào địa giới tỉnh Hà Đông, tạo nên mối đe doạ với Hà Nội. Cuộc chiến đấu của những bộ đội đã gây phấn chấn mạnh mẽ cho nhân dân vùng sau lưng địch, đánh vào khí thế phản động của địch, làm cho hàng vạn nguỵ quân, nhân viên nguỵ quyền rời bỏ quân Pháp, kẻ chạy trốn, kẻ đầu hàng, tổ chức cơ sở sau lưng địch của Việt Nam đã im ắng lại được khôi phục, và xây dựng được nhiều tổ chức cơ sở mới, chiến tranh du kích sau lưng địch phát triển.

Điều đó có tác dụng rất lớn đối với cô lập quân địch ở Hoà Bình, đập tan hoàn toàn cuộc tấn công Hoà Bình của quân địch. Ngày 23/2, quân địch xâm chiếm Hoà Bình, trong tình hình chiến trường chính và hậu phương đều bị tấn công nặng nề, không thể không rút lui thảm hại. Trong cả chiến dịch, đã tiêu diệt số lớn quân địch, làm tan rã số lớn nguỵ quân, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch, làm cho căn cứ địa du kích, khu du kích phân tán từ Bắc Giang đến Bắc Ninh, rồi đến hai bên quốc lộ 5, cho đến Hưng yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình v.v.. đều có thể liên hệ với nhau. Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.

Chiến dịch Hoà Bình trải qua ba tháng đã có tác dụng bước ngoặt nhất định dù đối với quân Pháp hay với quân đội Việt Nam. Tình hình quân Pháp dần dần phát triển trong năm 1951, đến chiến dịch Hoà Bình thì đi xuống. Sau chiến dịch Hoà Bình kết thúc, quân Pháp không thể mở nổi cuộc tiến công nào có tiếng vang lớn nữa. Tình hình bất lợi của quân đội Việt Nam từng bước thể hiện trong năm 1952, trải qua chiến dịch Hoà Bình có chuyển biến, nhất là chiến tranh du kích, sau lưng địch ở đồng bằng đã phát triển trở lại. So sánh thay đổi tình hình trước và sau chiến dịch Hoà Bình, quân đội Việt Nam đã nhìn thấy rõ hơn vấn đề tồn tại của mình về tác chiến, về xây dựng. Điều đó đã tạo tiền đề cho việc giải quyết cơ bản những vấn đề tồn tại, phát triển cục diện thắng lợi mới.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #57 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:10:10 pm »

Thứ tư : Quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ ba Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề quân sự ; quân đội nhân dân tiến hành chỉnh huấn chính trị, bắt đầu chuyển biến phương hướng phát triển chiến lược, tiến quân lên Tây Bắc, mở ra cục diện thắng lợi mới

Tháng 4/1952, Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam suy tính tới kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, chỉ rõ : “ đã có tiến bộ rất lớn, nhưng còn có rất nhiều nhược điểm, như trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn thấp, nhất là trình độ chính trị còn chưa nâng cao, lập trường giai cấp chưa vững, cán bộ công nông chưa được đề bạt xứng đáng ”. Hội nghị thông qua nghị quyết nêu rõ : “ Muốn làm cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng, thì phải cải thiện đời sống của bộ đội, nâng cao trình độ chiến thuật kỹ thuật, nhất là phải tiến hành giáo dục chính trị và giáo dục tư tưởng đối với bộ đội làm cho quân đội có lập trường giai cấp rõ ràng, tức lập trường của quân đội nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và xây dựng cho quân đội tư tưởng giai cấp vô sản, khắc phục tư tưởng phi giai cấp vô sản, làm cho quân đội ta thực sự trở thành một quân đội cách mạng của nhân dân ”. Căn cứ vào nghị quyết này, tuyệt đại bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cơ quan trường hợc ở Trung Bộ, Bắc Bộ Việt Nam từ tháng 5/1952 kế tiếp nhau tiến hành chỉnh huấn chính trị dưới sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc. Đây là một cuộc vận động giáo dục và học tập chính trị tập trung nhất, rộng rãi nhất từ khi quân đội Việt Nam ra đời đến nay, cán bộ đại đội trở lên học tập giáo trình “ mấy vấn đề của cách mạng Việt Nam ”, cán bộ chiến sĩ tiểu đội trung đội học tập “ quân đội nhân dân Việt Nam ” và “ kháng chiến trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi ” v.v.. Để làm tốt chỉnh huấn, theo ý kiến của các đồng chí Trung Quốc, Tổng quân uỷ mở trường chính trị trung cấp, tiến hành giáo dục cán bộ trung cao cấp trước. Phương châm và biện pháp học tập là cởi mở tư tưởng, lý luận liên hệ thực tế, so sánh nhận thức cũ mới, tiến hành thảo luận, vạch rõ ranh giới giữa đúng đắn và sai lầm, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm.

Tăng cường công tác chính trị tư tưởng cho bộ đội đi sâu tiến hành giáo dục chính trị cơ bản, đó là kiến nghị của cố vấn Trung Quốc được nhiều lần nêu ra kể từ khi bắt đầu công tác giúp đỡ quân đội Việt Nam tháng 8/1950, là kiến nghị mà đồng chí Trần Canh nhiều lần nhấn mạnh trong công tác giúp đỡ quân đội Việt Nam ở Việt Nam năm 1950, nhưng năm 1950, 1951 không được phía Việt Nam coi trọng, thậm chí có cán bộ lãnh đạo không đồng ý. Năm 1952, phía Việt Nam từ Trung ương Đảng Lao động, Quân uỷ Trung ương đến các Tổng cục quân đội nhân dân nhấn mạnh công tác tư tưởng chính trị tất cả các cố vấn đều rất phấn khởi, dốc sức giúp đỡ từ xác định mục đích, nội dung, phương châm, chính sách, biện pháp đến tổ chức thực hiện. Phía Việt Nam từ trên xuống dưới cũng tương đối coi trọng một loạt kiến nghị của cố vấn Trung Quốc trong chỉnh huấn chính trị. Cuộc chỉnh huấn chính trị lần này đạt thành tích khá tốt qua chỉnh huấn, bước đầu nâng cao giác ngộ giai cấp của quân đội Việt Nam, làm cho cán bộ chiến sĩ nhận rõ mục đích của chiến tranh chống Pháp, vạch rõ ranh giới giữa ta bạn thù, xác định rõ bản chất và nhiệm vụ của quân đội nhân dân, uốn nắn thái độ đối với cốt cán chiến đấu công nông, nâng cao tinh thần trách nhiệm chính trị, tăng cường tinh thần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, cải thiện quan hệ nội bộ bộ đội và quan hệ quân dân, xây dựng quyết tâm chiến đấu đến cùng cho kháng chiến thắng lợi, cách mạng Việt Nam thắng lợi.

Theo tinh thần nghị quyết hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, năm 1952, dưới sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra “ nghị quyết về chế độ Đảng uỷ trong bộ đội chủ lực ”, quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng uỷ các cấp trong quân đội Việt Nam và quan hệ với đảng uỷ cao cấp địa phương, nghị quyết đó có tác dụng quan trọng trong việc Đảng Lao động Việt Nam tăng cường sự lãnh đạo đối với bộ đội, tăng cường xây dựng chi bộ của đảng. Bộ tổng còn ra chỉ thị coi trọng đề bạt cốt cát chiến đấu công nông bổ sung đội ngũ cán bộ, nhằm tư tưởng coi thường cốt cán, công nông tồn tại khá phổ biến, ngay sau đó đã mạnh dạn đề bạt một loạt cốt cán chiến đấu đã trải qua thử thách chiến đấu, làm lãnh đạo các cấp từ trung đoàn trở xuống.

Để bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ của cán bộ công nông, quân đội Việt Nam còn tăng cường lực lượng lãnh đạo cho trường lục quân, cử Lê Thiết Hùng làm Hiệu trưởng, Trần Tử Bình làm Chính uỷ. Đồng thời với việc tăng cường công tác chính trị, sự lãnh đạo của đảng, công tác cán bộ, được sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, quân đội Việt Nam còn chỉnh đốn công tác của các cơ quan quân sự chính trị ; hậu cần các cấp, tăng cường xây dựng tổ chức. Qua chỉnh huấn chính trị và xây dựng chỉnh đốn toàn diện cơ quan quân sự, chính trị, hậu cần, quân đội Việt Nam trên các chiều hướng, nhất là bộ đội chủ lực trên chiến trường Bắc Bộ, đã nâng cao rõ rệt sức chiến đấu, đặt cơ sở tương đối tốt cho nhiệm vụ nặng nề sau này.

Với nhiều lần kiến nghị của Mao Chủ tịch, Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn Trung Quốc, sau khi trải qua ba chiến dịch của quân đội Việt Nam vào 6 tháng đầu năm 1951 và thể nghiệm thực tế do việc quân Pháp tấn công Hoà Bình mùa đông, tháng 4/1952, hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định rõ ràng chấp nhận kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, quyết định từ nay chuyển hướng tấn công chính của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc, do đó bắt đầu chuyển hướng chiến lược.

Vùng núi Tây Bắc Việt Nam là một vùng chiến lược quan trọng của quân Pháp đe doạ căn cứ địa Việt Bắc và yểm trợ vùng Thượng Lào, có quan hệ an nguy rất lớn đối với việc đồng bằng Bắc Bộ bị quân Pháp khống chế. Đối với lực lượng chống Pháp của Việt Nam mà nói, là vùng chiến lược vô cùng quan trọng, quan hệ đến việc xây dựng hậu phương lớn ổn định, an toàn, phát triển thuận lợi tình thế rất tốt của cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam và việc có giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương hay không. Binh lực của quân Pháp lên bảy phần tại Vùng Tây Bắc Việt Nam có 8 tiểu đoàn 41 đại đội phân tán đóng giữ các cứ điểm quan trọng, phần lớn là nguỵ quân, sức chiến đấu không mạnh. Công sự phần nhiều không kiên cố. Những vùng Tây Bắc là vùng tập trung dân tộc thiểu số, lại là vùng núi, giao thông rất không thuận tiện, sản lượng lương thực không nhiều, dân cư thưa thớt, những điều đó gây khó khăn rất lớn cho việc tiến quân vào vùng này. Được sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, để thực hiện quyết tâm tiêu diệt quân địch ở Tây Bắc, giải phóng vùng Tây Bắc, phía Việt Nam đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị, kiện toàn cơ quan hậu cần, phân phát “ điều lệ dân công ”, ra “ nghị quyết về chính sách phát động dân tộc thiểu số ”. Để xây dựng quan hệ quân dân tốt đẹp, Hồ Chủ tịch còn đích thân khởi thảo “ tám mệnh lệnh của Chính phủ gửi bộ đội và vùng mới giải phóng ”, Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các Tổng cục quân đội nhân dân, các bộ độ tham gia chiến đấu cũng đều làm rất nhiều công tác chuẩn bị tương ứng. Những việc làm đó đều bảo đảm đắc lực cho hành động quân sự tiến quân lên Tây Bắc sau này thuận lợi.

Bộ đội chủ lực tiến quân lên Tây Bắc là đại đoàn 308, 312, 316, đại đoàn công pháo 351, trung đoàn 148, đại đoàn 320, 304 tấn công và kiềm chế địch ở vùng đồng bằng tả hữu ngạn sông Hồng. Các đồng chí trong đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đi theo chủ lực quân đội Việt Nam lên Tây Bắc hỗ trợ chỉ huy tác chiến. Ngày 14/10/1952 bắt đầu chiến dịch tiến quân lên Tây Bắc. Các đại đoàn và trung đoàn 148 trải qua 13 ngày hành quân và chiến đấu gian khổ, đã tiêu diệt quân địch ở vùng Nghĩa Lộ, Phù Yên, Vạn Yên, Quỳnh Nhai... và giải phóng những vùng này. Sau khi bị tấn công địch hốt hoảng điều 9 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ, tăng viện cho vùng hữu ngạn sông Đà, đồng thời điều động 3 binh đoàn cơ động do De Linarès chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ chỉ huy tiến quân lên Phú Thọ, hòng phá hoại hậu phương chiến dịch của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.

Để bảo đảm chiến dịch Tây Bắc tiếp tục tiến hành thắng lợi, quân đội Việt Nam cho trung đoàn 36 thuộc sư 308, trung đoàn 176 thuộc đại đoàn 316 kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích chặn đánh cánh quân này. Trải qua hơn nửa tháng chiến đấu đã khiến chúng không đạt được mục đích mong muốn, phải rút về đồng bằng một cách thảm hại. Sau đó, trung đoàn 88, trung đoàn 102 thuộc đại đoàn 308, trung đoàn 141, 209, thuộc đại đoàn 312, trung đoàn 98, 174 thuộc đại đoàn 316 bắt đầu đợt 2 chiến dịch Tây Bắc vào ngày 15/11/1952. Các trung đoàn nhanh chóng vượt qua sông Đà, triển khai bao vây tấn công quân địch ở các vùng dự định qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến giải phóng các thị xã, thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Sơn La, Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ v.v.. tiêu diệt số lớn quân địch ngoài nửa phía bắc của tỉnh Lai Châu và vùng Nà Sản của tỉnh Sơn La ra, còn toàn bộ vùng Tây Bắc rộng lớn đều nằm trong vùng kiểm soát của quân đội Việt Nam.

Tàn quân địch ở tỉnh Sơn La có khoảng 8 tiểu đoàn binh lực, ngày 22/11 tháo chạy tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20 km về phía nam, gấp rút xây đắp công sự, nhanh chóng hình thành một cụm cứ điểm ở vùng Nà Sản. Đêm 30/11, quân đội Việt Nam tấn công cứ điểm vòng ngoài Nà Sản, tiêu diệt một số quân địch. Để đối phó với quân đội Việt Nam, quân Pháp nhanh chóng cho hai tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản. Vì đã đạt được mục đích dự định, theo kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, quân đội Việt Nam chủ động đúng lúc ngừng tiến công quân địch ở Nà Sản, ngày 10/12 kết thúc thắng lợi chiến dịch Tây Bắc kéo dài gần hai tháng.

Trong quá trình tiến hành chiến dịch Tây Bắc, đại đoàn 304, 320 tích cực tấn công quân Pháp, quân nguỵ ở vùng đồng bằng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình v.v.. công phá một loạt cứ điểm, tiêu diệt nhiều địch, làm tan rã số lớn nguỵ quyền cơ sở, phối hợp tác chiến mạnh mẽ với chiến trường chính Tây Bắc. Do chiến tranh du kích ở các chiến trường năm 1952 có phát triển tương đối rõ rệt, đã tạo điều kiện cho trung đoàn 18, trung đoàn 95, trung đoàn 101 của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên tập trung xây dựng đại đoàn chính quy, đại đoàn 325 quân đội Việt Nam chính thức thành lập vào mùa đông 1952.

Trong chiến dịch Tây Bắc, hai chiến trường vùng núi và đồng bằng đều tiêu diệt rất nhiều quân địch, giải phóng toàn bộ tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện phía nam tỉnh Lai Châu, hai huyện phía tây tỉnh Yên Bái tất cả khoảng 28.000 km2 và hơn 250.000 dân làm cho vùng núi Tây Bắc liền một dải với căn cứ địa Việt Bắc, hình thành một hậu phương tương đối ổn định an toàn, mở đầu tốt đẹp cho sự chuyển hướng chiến lược tạo điều kiện tốt cho tiếp tục tiến quân sau đó. Đáng tiếc là năm 1952 phía Việt Nam vẫn chưa đưa ra biện pháp quyết sách mạnh mẽ đối với vấn đề phát động nông dân.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #58 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:10:57 pm »

Thứ năm : Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam năm 1953 thông qua “ Dự thảo cương lĩnh về chính sách ruộng đất ”; quân đội Việt Nam tiếp tục chấp hành quyết định chuyển hướng chiến lược, tiến quân lên Thượng Lào

Tháng 1/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị toàn thể lần thứ 4, thông qua “ Dự thảo cương lĩnh về chính sách ruộng đất ”, quyết định phát động đông đảo nông dân vùng giải phóng tiến hành triệt để giảm tô, giảm tức động viên hơn nữa tính tích cực của đông đảo nông dân tham gia chiến tranh chống Pháp trên các mặt chính trị, kinh tế. Đó là một quyết định có ý nghĩa lịch sử. Trước đó, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nhiều lần nêu kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo khác của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về việc thực hành giảm tô, giảm tức, giảm nhẹ gánh nặng của nông dân, cải thiện đời sống nông dân ở vùng giải phòng Việt Nam, các cố vấn Trung Quốc trong Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng sớm cảm thấy nếu không thực hành giảm tô, giảm tức, phát động hơn nữa nhiệt tình của nông dân tham gia chiến đấu thì muốn kiên trì cuộc chiến tranh chống Pháp lâu dài đến thắng lợi cuối cùng là có khó khăn. Sau khi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra quyết định phát động nông dân thực hành giảm tô, giảm tức, toàn thể cố vấn đều phấn khởi vui mừng, cho rằng, một vấn đề cơ bản trong chiến tranh chống Pháp mong đợi đã lâu bắt đầu được giải quyết, cơ sở quần chúng của chiến tranh chống Pháp sẽ càng thêm sâu rộng hơn, cùng với sự chuyển hướng chiến lược quyết định năm 1952, tăng cường công tác chính trị cho bộ đội, nâng cao giác ngộ chính trị của cán bộ chỉ huy nhất định sẽ thúc đẩy rất mạnh mẽ cuộc chiến tranh chống Pháp phát triển, thắng lợi của chiến tranh chống Pháp có thể đếm từng ngày.

Để tiếp tục thi hành quyết định chuyển hướng chiến lược, mùa xuân 1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận kiến nghị của phía Trung Quốc, cùng với Chính phủ kháng chiến Lào quyết định : Cử quân đội nhân dân Việt Nam sang Lào cùng với quân giải phóng Pathet Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch giải phóng Sầm Nứa, mở rộng căn cứ địa du kích, phát triển chiến tranh chống Pháp của nhân dân Lào.

Lúc đó Thượng Lào là vùng chiến lược và hậu phương quan trọng của quân Pháp. Sau khi thất bại ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cụm cứ điểm có ba tiểu đoàn phòng thủ. Thượng Lào là vùng núi lớn, điều kiện khí hậu điều kiện giao thông kém hơn vùng Tây Bắc Việt Nam, tác chiến ở đây khó khăn hơn nhiều so với tác chiến ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng quân đội nhân dân Việt Nam trải qua chỉnh huấn chính trị, qua rèn luyện tại chiến dịch Tây Bắc, quyết tâm và năng lực khắc phục khó khăn giành thắng lợi đã nâng cao. Được sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc, qua chuẩn bị một thời gian ngắn, mở chiến dịch Thượng Lào ngày 8/4/1953. Quân đội Việt Nam và quân giải phóng Pathet Lào tham gia chiến đấu chia làm ba mũi tấn công. Các đại đoàn 308, 316, 312 tấn công Sầm Nứa theo quốc lộ 6, mũi thứ hai là đại đoàn 304, xuất phát từ Nghệ An tấn công Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7, cắt đứt đường rút lui của địch chạy từ nam Sầm Nứa, mũi thứ ba là trung đoàn 148 chủ lực chiến trường Tây Bắc Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến công vào bắc Sầm Nứa, đe doạ Luông Prabang.

Sau khi phát hiện liên quân Lào – Việt xuất quân tấn công Thượng Lào, đêm 12/4 quân Pháp bỏ Sầm Nứa tháo chạy, từ đó chiến dịch Thượng Lào diễn biến thành một cuộc truy kích chiến lâu dài gian khổ. Quân đội Việt Nam phát huy tinh thần ngoan cường của chiến dịch Tây Bắc truy diệt quân địch, sau khi được tin quân Pháp tháo chạy, bất chấp vất vả hành quân đường dài, lập tức truy kích. Chiều tối 13/4, bộ đội đi đầu giải phóng thị xã Sầm Nứa, lúc này bọn địch đã chạy được 19 giờ, quân đội Việt Nam tiếp tục hành quân gấp rút qua truy kích bảy ngày đêm liên tục hầu như tiêu diệt toàn bộ quân địch tháo chạy. Bộ đội đại đoàn 304 tiến công theo quốc lộ 7 cũng nhanh chóng giải phóng Xiêng Khoảng. Cuộc tấn công của trung đoàn 148 cũng thuận lợi như thế, làm cho Luông Prabang bị đe doạ. Để ngăn chặn tình thế thất bại phát triển, quân địch ở Thượng Lào đưa thêm bộ đội lên Mường Xay, Luông Prabang, Cánh đồng Chum và tạm thời trụ được.

Bộ đội chủ yếu tham gia chiến dịch Thượng Lào từ nơi xuất phát đến thị xã Sầm Nứa hơn 300km, từ Sầm Nứa truy kích địch cách nhau 270 km, trên chặng đường hơn 570 km đó đều là vùng núi cao, hành quân rất khó khăn. Trong trận truy diệt địch đường dài gian khổ này, quân đội Việt Nam được rèn luyện mới, tạo điều kiện có lợi cho tấn công chiến lược Đông Xuân 1953/1954. Chiến dịch Thượng Lào gian khổ, kết thúc thắng lợi vào ngày 3/5/1953, liên quân Việt – Lào đã tiêu diệt quân địch ở Sầm Nứa và số địch tháo chạy, giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một phần của hai tỉnh Xiêng Khoảng và Phong Xalì, tất cả 300.000 dân, mở rộng căn cứ địa kháng chiến tranh chống Pháp của Lào, làm cho Sầm Nứa liền một dải với Tây Bắc và căn cứ địa Việt Bắc Việt Nam hình thành hậu phương lớn của chiến tranh chống Pháp toàn Đông Dương. Quân đội Việt Nam nắm vững thêm quyền chủ động chiến lược trong chiến tranh chống Pháp ở Đông Dương. Lúc này càng có nhiều người nhận thức và lý giải được tính đúng đắn của chuyển hướng chiến lược của quân đội Việt Nam.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #59 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:11:32 pm »

Thứ sáu : Chỉnh quân chính trị của quân đội nhân dân Việt Nam năm 1953

Hội nghị toàn thể lần thứ 4 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông qua “Dự thảo cương lĩnh và chính sách ruộng đất” tháng 1-1953, còn ra quyết định về các vấn đề tình hình chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, nhiệm vụ chiến lược xây dựng bộ đội v.v..., nhấn mạnh cần tăng cường công tác chính trị cho bộ đội, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội, nâng cao trình độ chính trị giác ngộ giai cấp của cán bộ chỉ huy quân đội, bảo đảm chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, tự giác tuân thủ kỷ luật chính trị, quân sự, thực hành dân chủ quân sự, chính trị kinh tế. Để quán triệt tinh thần của hội nghị năm 1953, Tổng Quân uỷ tham khảo tinh thần kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc ra quyết định chỉnh quân chính trị. Mục đích của chỉnh quân chính trị là : “nâng cao một bước giác ngộ giai cấp của bộ đội, làm trong sạch và củng cố tổ chức, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, làm cho bộ đội trở thành một đội ngũ lớn mạnh kiên quyết ủng hộ chính sách giảm tô, giảm tức của Đảng và Chính phủ”. Nội dung học tập chủ yếu là phát động quần chúng thực hành chính sách giảm tô, giảm tức và các vấn đề có liên quan. Phương châm chỉ đạo của chỉnh quân là nghiêm túc thận trọng, lấy giáo dục là chính, tiến hành điều chỉnh cần thiết về tổ chức. Để làm tốt việc chỉnh quân chính trị sâu sắc nghiêm túc chưa từng có lần này, ngày 6/3 Bộ tổng mở lớp học tập chỉnh quân chính trị cho cán bộ trung cao cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lên lớp, giảng về mục đích, ý nghĩa, phương châm của chỉnh quân chính trị, nêu rõ: “dù có bao nhiêu vũ khí tinh nhuệ, nhưng nếu con người (cán bộ, chiến sĩ) không có lập trường kiên định, quan điểm đúng đắn, tư tưởng lành mạnh và tinh thần toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, thì những vũ khí đó đều không có ích gì”. Và nói: “ai cũng có thể tiến bộ, mọi người phải có quyết tâm cải tạo, tự mình phải cải tạo, quyết tâm tranh thủ tiến bộ”. Tháng 7 và tháng 8, cán bộ sơ cấp và chiến sĩ cũng tiến hành rộng khắp học tập chỉnh quân chính trị.

Năm 1953 vùng giải phóng Việt Nam phát động quần chúng nông dân thực hành giảm tô, giảm tức chống Việt gian, chống ác bá, thực chất là một cuộc đấu tranh phong kiến dưới tiền đề chống Pháp, là một cuộc cách mạng làm chấn động cả Việt Nam, cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống và tư tưởng chính trị của cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam từ trên xuống dưới đều cho rằng, chỉnh quân chính trị rất kịp thời rất quan trọng cần phải làm tốt. Tiến hành chỉnh quân chính trị là điều cố vấn Trung Quốc mong muốn từ lâu, và nhiều lần kiến nghị với Việt Nam. Sau khi Tổng Quân uỷ QĐND Việt Nam quyết định chỉnh quân chính trị, tất cả cố vấn Trung Quốc trong quân đội Việt Nam đều được động viên, lao vào vông tác giúp quân đội Việt Nam.

Làm tốt cuộc vận động chỉnh quân chính trị, tích cực giúp đỡ quân đội Việt Nam nhận thức đúng đắn và quán triệt quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phát động quần chúng giảm tô, giảm tức, hỗ trợ các cấp quân đội Việt Nam làm tốt cải tạo tư tưởng, tranh thủ tiến bộ chính trị, thực hiện mục đích chỉnh quân chính trị của Tổng quân uỷ đề ra xứng đáng với lòng mong đợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam.

Qua chỉnh huấn chính trị, đông đảo cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam đã nâng cao giác ngộ chính trị, làm rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, ghi sâu lòng căm thù đối với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người làm chủ. Các cán bộ chỉ huy xuất thân từ nông dân lao động đã xoá bỏ tư tưởng tự ti, nâng cao lòng tin, tính tích cực chính trị càng lên cao. Cán bộ xuất thân từ giai cấp bóc lột quyết tâm xoá bỏ tư tưởng giai cấp bóc lột, tiến hành tự cải tạo, xây dựng tư tưởng tôn trọng chiến sĩ, trong phong trào giảm tô, giảm tức kiên định đứng về phía nhân dân lao động. Đoàn kết trong nội bộ quân đội, giữa quân đội và nhân dân được nâng lên một mức mới, tăng thêm tình hữu ái và đoàn kết giai cấp, tính tích cực kháng chiến của quân dân Việt Nam và sức chiến đấu của bộ đội Việt Nam được nâng cao rất nhiều. Trên cơ sở giáo dục chỉnh huấn chính trị, tiến hành chỉnh đốn tổ chức, làm cho gần 10.000 cán bộ xuất thân từ công nông được thử thách trong chiến đấu đảm nhiệm các chức vụ quan trọng hơn, cơ quan quân sự, chính trị hậu cần các cấp trong quân đội cũng được bổ sung, lãnh đạo của Đảng các cấp được kiện toàn hơn trước, sức chiến đấu của chi bộ được nâng cao. Thông qua chỉnh quân chính trị, quân đội nhân dân Việt Nam về mặt công tác tư tưởng, chính trị hay mặt xây dựng tổ chức đều có bước nhảy vọt về chất, tinh thần muốn chiến đấu có nhiều cống hiến cho chiến tranh chống Pháp trong cán bộ chỉ huy lên cao hơn bao giờ hết, rất ít thấy tư tưởng hữu khuynh đã từng xuất hiện một dạo vào năm 1951, tư tưởng ngại khó ngại khổ đã từng xuất hiện một dạo vào năm 1952. Những điều đó đã đặt cơ sở chính trị và tổ chức cho các cuộc tấn công chiến lược, quyết chiến chiến lược sau này.

Trên cơ sở chỉnh quân chính trị, tiến hành chỉnh huấn quân sự, tăng cường công tác xây dựng binh chủng và tiếp tế hậu cần và công tác chuẩn bị chiến đấu trên các mặt khác, cung cấp bảo đảm cần thiết cho cuộc tấn công chiến lược, quyết chiến chiến lược.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM