Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:28:17 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp  (Đọc 62729 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #30 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:56:48 am »

Ngày 24, hội nghị vào tiến hành trong hội trường lều tre của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp nói mấy câu mở đầu, sau đó mời Vi Quốc Thanh lên phát biểu. Vi Quốc Thanh mỉm cười, gật đầu đứng dậy bước lên bục phát biểu với giọng nói chắc nịch rõ ràng : “ Thưa các đồng chí ! Tại hội nghị này kế hoạch tác chiến mùa đông được Trung ương Đảng Lao động phê chuẩn, Võ Tổng tư lệnh tuyên bố và hai lần phát biểu của đồng chí đều rất tốt, nói rất toàn diện, tôi hoàn toàn tán thành ”.

Tiếp đó, đồng chí nêu lên ngắn gọn chủ đề của bài phát biểu lần này : “ Trung ương Đảng Lao động quyết định đặt hướng chính của tác chiến mùa đông này ở vùng Tây Bắc, tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, quyết sách này rất đúng đắn ”.

Khi phiên dịch tiếng Việt dịch đoạn này, đồng chí liếc nhìn quanh hội trường. Hội trường rất yên lặng. Đồng chí biết mọi người đang chờ nghe đồng chí nói tiếp. Đồng chí không có bài viết sẵn, cũng không có đề cương, nội dung muốn nói hoàn toàn nằm trong đầu đồng chí. Đây là thói quen được rèn luyện từ bao nhiêu năm. Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Vùng Tây Bắc tuy núi cao vực sâu, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, nhưng đó là một căn cứ chiến lược quan trọng. Giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, thì có thể nối liền với liên khu Việt Bắc lưng dựa vào Trung Quốc, nam tiếp giáp Lào, có lợi cho mở chiến trường Thượng Lào, tiến tới tiến xuống Trung Lào, Hạ Lào cho đến Cao Miên và Nam Bộ Việt Nam, có thể đập tan mộng tưởng của Navarre âm mưu củng cố hậu phương chiến lược của ông ta, tiến tới tập trung binh lực quyết chiến với chúng ta ở Bắc Bộ. Nếu Mỹ nhúng chân thêm vào Đông Dương, tiến hành can thiệp quân sự thì chúng ta có khu vực xoay sở khá rộng lớn để đọ sức với chúng. Có thể nói, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc là một bước then chốt quan hệ đến phát triển của toàn bộ cuộc chiến từ nay về sau là một bước then chốt đánh bại bọn xâm lược Pháp, đập tan âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ ”.

Nói đến đây, đồng chí chuyển đầu đề câu chuyện : “ Nghe nói có những đồng chí còn có tư tưởng này nọ đối với việc lên vùng biên cương xa xôi Tây Bắc, Thượng Lào tác chiến, nhấn mạnh khó khăn này nọ. Cho rằng nên đặt lực lượng chủ yếu vào tấn công cứ điểm boong ke của địch ở châu thổ sông Hồng (công sự bê tông cốt thép địch xây xung quanh châu thổ sông Hồng), đánh chiếm vùng châu thổ sông Hồng, mới thực hiện được tổng phản công, giành thắng lợi chiến tranh chống Pháp. Ý muốn của các đồng chí đó rõ ràng là rất tốt. Các đồng chí đó muốn đi đường thẳng, sớm giành thắng lợi kháng chiến. Nhưng con đường này e khó đi lọt. Đây là chỗ mạnh nhất của quân Pháp ở Đông Dương, không chỉ có số lớn bộ đội tinh nhuệ, mà còn giao thông thuận tiện, có lợi cho bộ đội cơ giới hoá của địch vận động. Điều kiện trang bị kỹ thuật hiện nay của quân đội nhân dân rất bất lợi cho tiến hành tác chiến công kích quy mô tương đối lớn. Chúng ta đã có bài học kinh nghiệm về mặt này. Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, tránh chỗ thực, đánh chỗ hư là một nguyên tắc quan trọng của các nhà quân sự các thời đại trước.

Rất nhiều địa phương Tây Bắc, Thượng, Trung Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, đều là những vùng phòng ngự của địch mỏng yếu, chúng ta chĩa mũi nhọn tấn công vào những địa phương trên, biến hậu phương chiến lược của địch thành chiến trường mới thì có thể điều động địch, phân tán lực lượng cơ động của địch, không ngừng tiêu diệt và tiêu hao địch, từ đó thay đổi hơn nữa tình thế chiến lược của địch, tạo điều kiện cuối cùng tấn công đánh lấy đồng bằng sông Hồng. Thưa các đồng chí đó là con đường quanh co khúc khuỷu, nhưng nó là con đường tất yếu để đi đến thắng lợi cuối cùng ”.

Tiếp đó, Vi Quốc Thanh nói đến kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc : “ Cách mạng Trung Quốc đã đi con đường quanh co khúc khuỷu như thế. Căn cứ địa Tỉnh Cương Sơn và căn cứ địa Trung ương lấy Thụy Kim làm trung tâm do Mao Chủ tịch lãnh đạo mở ra đều ở vùng núi xa xôi, nghèo nàn giáp giới mấy tỉnh. Năm 1935, Hồng quân trải qua cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm đến Thiểm Bắc thành lập khu Thiểm Cam Ninh lấy Diên An làm trung tâm. Nơi đây là cao nguyên hoàng thổ, đất đai cằn cỗi, nhân dân nghèo khó, nhưng Mao Chủ tịch, Trung ương đảng ở Diên An 13 năm liền, ở đây lãnh đạo toàn bộ cuộc chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng thời kỳ đầu, về sau chỉ cần thời gian hơn một năm đã đánh bại Tưởng Giới Thạch, giành thắng lợi trong cả nước. Đó là con đường thành công nông thôn bao vây thành thị, cuối cùng đánh lấy thành thị ”.

Vi Quốc Thanh tiếp tục nói : “ Kháng chiến của Việt Nam cũng đi con đường như thế. Theo bố trí tác chiến mùa Đông năm nay của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết định vạch ra chính là thể hiện cụ thể con đường này, giải phóng Tây Bắc trước, rồi tiến quân sang Thượng Lào và từng bước tiến xuống Trung – Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Việt Nam, ở đấy làm cho chúng đảo điên nghiêng ngả, làm cho Navarre một ngày cũng không được yên, không thể không phân tán binh lực cơ động của y, như vậy sẽ xuất hiện rất nhiều cơ hội tiêu diệt địch, có thể từng bước làm suy yếu địch, làm cho mình mạnh lên cải thiện trang bị kỹ thuật của quân đội nhân dân, nâng cao tố chất quân chính của bộ đội. Đến lúc đó, có thể chắc chắn tiêu diệt địch ở đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến ”.

Cuối cùng, Vi Quốc Thanh nói : “ Thưa các đồng chí ! Được sự ủng hộ đế quốc Mỹ, Navarre đang từng bước thực thi, ông ta được Mỹ viện trợ nhiều hơn, tăng cường trên trăm tiểu đoàn quân nguỵ, tổ chức hơn 80 tiểu đoàn bộ đội cơ động, đang tiến hành càn quét qui mô lớn tại các vùng chiếm đóng ở Nam bộ, Trung bộ và Bắc bộ và chuẩn bị tiến vào vùng giải phóng. Mấy ngày gần đây, Navarre lại cho lính nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, khí thế hung hăng. Nhưng y mừng quá sớm. Sắp tới đây cuộc tấn công chúng ta bắt đầu thì sẽ đánh cho hắn không kịp trở tay, rối loạn lung tung, hết phương ứng phó. Nếu Navarre kiên quyết giữ Điện Biên Phủ, tất nhiên cũng không thoát khỏi số phận bị tiêu diệt. Mà điều đó phải dựa vào người chỉ huy các cấp chỉ huy tài tình, dựa vào cán bộ chiến sĩ bộ đội anh dũng thiện chiến. Chúng tôi tin tưởng các đồng chí dũng cảm gánh vác nhiệm vụ nặng nề này. Chúng tôi xin chúc các đồng chí thắng lợi dễ dàng, mã đáo thành công ”.

Phát biểu của Vi Quốc Thanh thỉnh thoảng nổi lên từng tràng vỗ tay nhiệt liệt. Ý kiến sâu sắc, phân tích thấu đáo đó của Vi Quốc Thanh không thể không làm cho các đồng chí có tư tưởng này nọ chân thành cảm phục. Buổi nói chuyện của đồng chí Vi Quốc Thanh có tác dụng tích cực với thống nhất tư tưởng của cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, Vi Quốc Thanh được biết quân Pháp tiếp tục tăng viện binh lực cho Điện Biên Phủ, gấp rút xây công sự, mở sân bay, tích trữ vật tư quân sự, đồng thời tăng 6 tiểu đoàn cho Thượng Lào, đánh chiếm các nơi Mường Khè, Mường Khay v.v.. xây dựng phòng tuyến sông Mã Việt Nam để tiếp ứng cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ.

Dấu hiệu bọn địch cố giữ Điện Biên Phủ là rất rõ ràng. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính, quyết định điều chỉnh kế hoạch tác chiến tiến quân lên Tây Bắc. Chia toàn bộ cuộc tác chiến Tây Bắc làm hai bước : đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau. Đồng thời quyết định điều thêm bộ binh, trọng pháo, cao xạ pháo, công binh v.v.. dự trù vật tư tác chiến để bảo đảm nhu cầu tấn công Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh điện báo kế hoạch điều chỉnh cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quân uỷ Trung ương lập tức trả lời tán thành và đồng ý giải quyết vấn đề cung cấp vật tư cần thiết cho tấn công Điện Biên Phủ.

Ngày 6/12, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị, thảo luận quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, phê phán kế hoạch tác chiến nói trên của Tổng Quân uỷ và quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy tiền phương Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư và Tổng chỉ huy. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, các bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam lần lượt tiến vào vùng tác chiến đã định. Trên đường hành quân lên Tây Bắc, dại đoàn 316 được biết bọn địch ở Lai Châu ngày 7/12 rút về Điện Biên Phủ, lập tức tuân theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội nhân dân truy kích bọn địch, lần lượt tiêu diệt tổng cộng 24 đại đội. Tàn quân địch chạy về Điện Biên Phủ toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng. Tiếp đó, Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra lệnh cho các đại đoàn 316, 308 tiến xuống phía Nam bao vây Điện Biên Phủ.

Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến xuống phía Tây dọc quốc lộ 8 và trung đoàn 101 đại đoàn 325 thiếu một tiểu đoàn được đưa xuống Hạ Lào tiến xuống phía tây dọc quốc lộ 12, ngày 21, 22 tháng 12 lần lượt tấn công cứ điểm của địch ở Trung Lào, trong mấy ngày ngắn ngủi, tiêu diệt hơn 3 tiểu đoàn cơ động Âu – Phi, tất cả hơn 2200 tên. Quân địch ở Trung Lào khiếp đảm kinh hoàng, bỏ trận địa lũ lượt tháo chạy. Bộ đội Việt Nam rất nhanh tiến đến quốc lộ 13 và sông Mêkông. Lúc này bọn địch ở Thà Khẹt tỉnh lỵ của Khăm Muộn bỏ chạy về phía nam. Quân đội nhân dân lập tức giải phóng Thà Khẹt và phần lớn vùng Trung Lào, buộc quân Pháp nhanh chóng điều động binh lực tăng viện cho Trung Lào, xây dựng tập đoàn cứ điểm ở Xơ Nua và chiếm lại Thà Khẹt. Sau đó quân đội nhân dân chuyển sang củng cố vùng mới giải phóng và làm đường xuống phía nam, đồng thời thừa cơ xuất binh diệt địch.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #31 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:57:16 am »

Ngày 20/1/1954, quân Pháp dùng binh lực của sáu trung tâm cơ động mở cuộc tấn công lớn vào Phú Yên của Liên khu 5 Trung Bộ Việt Nam, hòng thực hiện mục đích của chúng chiếm toàn bộ Nam Trung Bộ. Liên khu 5 điều động số ít binh lực ứng phó với quân địch chính diện, tập trung 2 trung đoàn chủ lực, theo bố trí sẵn của Bộ Tổng Tham mưu, ngày 24/1 mở cuộc tấn công vào quân địch ở bắc Tây Nguyên. Trận đấu thắng lợi, sau khi tấn công phá liền ba cứ điểm, nhanh chóng mở rộng chiến quả. Bọn địch đóng giữ lũ lượt bỏ chạy. Ngày 5/2, quân đội nhân dân giải phóng thị xã Kon Tum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên. Sau đó tiếp tục tiến xuống phía nam tiến sát quốc lộ 19, và tập kích thị xã Pleiku. Đến đây quân đội nhân dân đã giải phóng 16.000 km2 đất và 200.000 dân. Quân Pháp không thể không ngừng tấn công Phú Yên, cấp tốc điều động binh lực tăng cường lực lượng phòng ngự cho thị xã Pleiku và các cứ điểm ở nam Tây Nguyên để ngăn chặn quân đội nhân dân tiếp tục tiến xuống phía Nam.

Tiểu đoàn tiền trạm của trung đoàn 101 được lệnh tiến xuống Hạ Lào, cuối tháng 1/1954 tấn công Attopeu tỉnh lỵ của Mường May, một tiểu đoàn đóng giữ ở đây bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân địch đóng giữ các nơi ở Hạ Lào chỉ có viên chỉ huy là người Pháp, còn lại đều là nguỵ quân Lào, sức chiến đấu rất yếu. Quân đội nhân dân thừa thắng tiến lên, nhanh chóng giải phóng toàn tỉnh Mường May và phần lớn tỉnh Saravan (chiếm khoảng 2/3 tổng diện tích Hạ Lào) và hơn 200.000 dân làm cho nơi đây nối liền với vùng bắc Tây Nguyên Liên khu 5 mới giải phóng, hình thành tình thế chiến lược vô cùng có lợi.

Ban đầu khi nghiên cứu bố trí tác chiến mùa đông, Đoàn cố vấn từng nêu ra đưa một trung đoàn binh lực xuống Hạ Lào. Phía Việt Nam sợ nơi đó thiếu lương thực, bộ đội khó sống, chỉ đưa 1 tiểu đoàn, không ngờ 1 tiểu đoàn này lại giành được thành tích chiến đấu như vậy, thương vong lại rất ít, cung cấp lương thực cũng hoàn toàn không có vấn đề gì. Điều đó làm cho Võ Nguyên Giáp tăng thêm lòng tin ra lệnh điều động thêm đoàn bộ trung đoàn 101 và 1 tiểu đoàn khác đang hoạt động ở Trung Lào xuống Hạ Lào, để tăng cường sự lãnh đạo thống nhất đối với lực lượng vũ trang Hạ Lào, giúp chính phủ kháng chiến Lào xây dựng chính quyền, củng cố vùng mới giải phóng và tiếp tục phát triển xuống phía Nam.

Vi Quốc Thanh tán thành chủ trương này. Sau khi trung đoàn 101 đến Hạ Lào, tiếp tục tiến quân xuống phía nam, giải phóng vùng đồng bằng Cao Miên bao gồm VeunSai và SiemBang, nối liền vùng này với vùng mới giải phóng Hạ Lào. Trong thời gian này, một bộ phận chủ lực quân đội nhân dân ở địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, Trung – Nam Bộ Việt Nam phối hợp với bộ đội địa phương dân quân; du kích tích cực bắt đầu chống càn quét, và chủ động đánh địch, nhổ các cứ điểm của địch, phá đường giao thông và cơ sở quân sự, đạt được thắng lợi không nhỏ.

Tấn công mùa đông của quân đội Việt Nam đạt được thắng lợi rất lớn : vùng Tây Bắc trừ ốc đảo Điện Biên Phủ đã hoàn toàn được giải phóng với binh lực có hạn, trong một thời gian rất ngắn, đã giải phóng một vùng rộng lớn bắc Tây nguyên, Trung, Hạ Lào và đồng bằng Cao Miên có ý nghĩa chiến lược quan trọng, tiêu diệt được rất nhiều quân địch, thu được số lớn vật tư quân sự, cơ bản thực hiện được kế hoạch khai thông tuyến giao thông chiến lược Nam Bắc Đông Dương, kiểm soát đông tây đường số 6, 7, 8, 9, 12, 19 của Việt Nam thông sang Trung, Hạ Lào và Campuchia đến quốc lộ 6. Tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Điều đó làm rối loạn hoàn toàn bố trí chiến lược của Navarre, buộc ông ta không ngừng phân tán binh lực cơ động, ứng phó bị động, mệt bở hơi tai, làm cho kế hoạch quân sự của ông ta giải quyết vấn đề Đông Dương nam trước bắc sau trở thành bong bóng. Điều đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi về chiến lược cho quân đội nhân dân giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #32 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:57:50 am »

Quyết chiến Điện Biên Phủ (trung)

Điện Biên Phủ là vùng lòng chảo nam bắc dài khoảng 18km, đông tây rộng khoảng 6-8 km. Nam cách Lào khoảng 30km, đông cách Hà Nội hơn 300 km. Sau khi quân Pháp nhảy dù xuống đây ngày 20/11/1953, chúng đuổi hết cư dân yên lành sống ở đây, lần lượt tăng thêm binh lực, dùng máy bay vận chuyển vật liệu xây dựng, chặt phá cây rừng bừa bãi, xây đắp công sự làm cho Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm có hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh. Nơi đây có tất cả 49 cứ điểm, chia làm 8 cụm cứ điểm, 3 phân khu phòng ngự : phân khu trung tâm Mường Thanh là trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp nằm giữa thung lũng, trận địa chính của pháo binh, kho hậu cần, sân bay chủ yếu và 2/3 binh lực đều tập trung ở đây.

Phân khu bắc bao gồm hai cụm cứ điểm ở đồi Độc Lập và Bản Kéo ở bắc và tây bắc Mường Thanh, cùng với cụm cứ điểm Him Lam ở đông bắc phân khu trung tâm Mường Thanh trở thành bình phong phía bắc của Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách nam Mường Thanh khoảng 5km là phân khu nam, cũng có sân bay trận địa pháo binh, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân đội nhân dân tấn công từ phía Nam. Mỗi cụm cứ điểm của quân Pháp có nhiều tầng hỏa lực hỗ trợ, đào giao thông hào chằng chịt. Xung quanh cứ điểm có một vùng làm vật cản 40-200m, trong vùng đó chằng nhiều lớp dây thép gai và lưới điện và chôn mìn dầy đặc. Đầu tháng 3/1954, địch lần lượt tăng thêm binh lực lên 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, lính dù, cùng với 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 1 đại đội pháo 155 ly, 2 đại đội súng cối 120, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội xe tăng (10 chiếc), 1 phi đội máy bay (14 chiếc), tổng binh lực khoảng 13.000 tên. Xây 2 sân bay bắc, nam. Hằng ngày địch sử dụng 100-200 lần chiếc máy bay chờ 100-300 tấn vật tư quân dụng đến Điện Biên Phủ.

Một số tướng lĩnh cao cấp của Pháp – Mỹ từng thị sát Điện Biên Phủ cho đây là “một pháo đài bất khả xâm phạm” là “Verdun của Đông Nam Á”. Quân địch cậy thế bộ đội tinh nhuệ đông, hoả lực mạnh, công sự kiên cố, bố phòng nghiêm ngặt nên không lo sợ gì. Navarre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương lên tiếng phải “giữ vững cứ điểm này bằng bất cứ giá nào”, phải “nghiền nát” bộ đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Trung hạ tuần tháng 12/1953, đại đoàn 316 và 308 quân đội Việt Nam nối tiếp nhau đến và bao vây Điện Biên Phủ. Tiếp theo, do Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN điều thêm bộ đội trọng pháo, bộ đội cao xạ pháo được Trung Quốc trang bị huấn luyện cũng lục tục tiến về Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy cố vấn cũng theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Từ tây Yên Bái chỉ có một con đường lên Điện Biên Phủ. Pháo binh ra trận, dân công vận tải đều đưa vào con đường này. Để đề phòng máy bay địch, bộ đội và dân công đều ngày nghỉ đêm đi. Chiều xuống người gánh, xe chở rất chen chúc. Vi Quốc Thanh mang theo phiên dịch và bảo vệ ngồi trên xe jeep, chỉ có thể lăn bánh từ từ. Mỗi lần gặp máy bay địch bắn phá, ôtô phải tắt đèn giảm tốc độ. Gặp phải đoạn đường nguy hiểm chưa gỡ hết bom nổ chậm do máy bay địch ném xuống, phải xuống xe đi vòng. Vì vậy, xe đi một đêm không nổi 100 dặm. Trời vừa hừng sáng phải chui vào rừng sâu ẩn nấp. Vi Quốc Thanh là người nóng tính, hết sức sốt ruột với tốc độ hành quân này, nhưng không biết làm sao được.

Khi sắp đến gần tiền tuyến, có một đoạn đường, pháo tầm xa của địch thỉnh thoảng bắn vài phát để phong toả. Phía Việt Nam sắp xếp ôtô chở vật tư của đoàn cố vấn băng qua đoạn đường này, còn người thì đi vòng theo đường mòn, để bảo đảm an toàn. Để đi nhanh ra tiền tuyến, Vi Quốc Thanh kiên trì ngồi xe băng qua. Khi xe băng qua chỗ phong toả này bỗng nhiên có tiếng nổ to, một phát đạn pháo nổ ở gần đó. Vi Quốc Thanh bình tĩnh ra lệnh cho lái xe không nên hoảng hốt, lái nhanh đi qua. Sau khi đến đích, kính cửa sau ôtô bị mảnh đạn xuyên một lỗ. Khi Võ Nguyên Giáp đến thăm, nghe được chuyện này, vội nói : “ Quá nguy hiểm ! từ nay về sau bố trí hành động không thể nghe đồng chí nữa, đồng chí phải tuyệt đối nghe tôi ”. Vi Quốc Thanh cười nói : “ Vâng ! Vâng ! Từ nay về sau tuân lệnh ”.

Thượng tuần 1/1954, bộ đội được Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam điều thêm tiếp tục đến mặt trận Điện Biên Phủ. Lúc này lực lượng QĐND Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ có các đại đoàn bộ binh 308, 312, 316 và 304 (thiếu 1 trung đoàn) và đại đoàn công pháo binh 351 (gồm 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn sơn pháo, 1 trung đoàn công binh, 4 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn súng máy cao xạ), tổng binh lực hơn 40.000 người, chiến ưu thế tuyệt đối về binh lực. Quân đội nhân dân vừa trải qua chỉnh quân chính trị và huấn luyện quân sự, tố chất quân chính nâng cao rõ rệt. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ tuy lực lượng tinh nhuệ đông, công sự khá kiên cố, nhưng xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, rất cô lập. Vì vậy, quân đội nhân dân có điều kiện cơ bản rất tốt để giành thắng lợi chiến dịch. Nhưng do quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn nên đứng trước tập đoàn cứ điểm kiên cố của đich, có những cán bộ kể cả cán bộ cao cấp nào đó, thấy quá nhiều khó khăn, thiếu lòng tin. Căn cứ vào tình hình đó, Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự đã làm công tác chuẩn bị trước khi chiến đấu.

Thông qua trao đổi riêng với Võ Nguyên Giáp và tham gia hội nghị của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam, Vi Quốc Thanh giúp phân tích tình hình, nghiên cứu cách đánh, đi đến thống nhất tư tưởng, xác định mục đích quyết tâm tác chiến. Đồng thời lợi dụng mọi cơ hội, làm công tác tư tưởng đối với cán bộ trung cao cấp quân đội Việt Nam. Tại hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên các đơn vị tham gia tác chiến, do Bộ chỉ huy tiền phương QĐND Việt Nam triệu tập ngày 14/1/1954, khi được mời phát biểu ý kiến, Vi Quốc Thanh nêu lên sự thật đầy đủ, nói rõ phương châm tác chiến của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn đúng đắn. Đồng chí nêu ví dụ nói từ khi Pháp chiến tranh xâm lược Việt Nam đến nay đã thay 7 Tổng chỉ huy, còn Tổng Tư lệnh của chúng ta vẫn là Tổng Tư lệnh. Điều đó nói lên địch nhiều lần thất bại, chúng ta liên tiếp thắng lợi. Nói lên sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn có thể tin cậy được. Đồng chí vạch rõ, quân đội nhân dân có điều kiện, có khả năng giành thắng lợi của chiến dịch công kiên qui mô chưa từng có này. Đồng chí nói – các đơn vị bộ đội chủ lực quân đội nhân dân đã trải qua rèn luyện chiến đấu thực tế và huấn luyện quân chính. Sức chiến đấu đều được nâng cao rõ rệt, nhất là đại đoàn 308 và 312 càng trưởng thành là bộ đội có sức chiến đấu kiên cường, có thể nói một là bộ đội thép, một là bộ độ sắt, chúng ta có bộ đôi sắt thép sẽ đánh đâu thắng đó. Đồng chí cổ vũ cán bộ các cấp khắc phục mọi khó khăn, đánh tốt trận này, làm cho quân đội nhân dân tiến lên một bước lớn. Phát biểu của Vi Quốc Thanh có tác dụng cổ vũ ý chí chiến đấu, tăng thêm lòng tin.

Lúc này, khí thế của quân Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn rất hung hăng. Một hôm, phiên dịch của Võ Nguyên Giáp cầm mấy tờ truyền đơn của máy bay quân Pháp rải xuống đến gặp Vi Quốc Thanh. Truyền đơn là lá thư viết bằng tiếng Việt của De Castries gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nội dung đại ý là : “ Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tiến công ? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn công, thì xin bắt đầu đi ! Tôi đang chờ đón những thách thức của ông, quyết một phen thắng bại với ông ! ”
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #33 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:58:14 am »

 Vi Quốc Thanh nghe người phiên dịch đọc hết tờ truyền đơn cười nói : “ Lão De Castries này ! Ngông cuồng lắm ! Hãy đợi đấy. Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc đấy ”. Phiên dịch báo cáo nói : “ De Castires là một danh tướng của Lục quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre, đã qua trường quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại tá, gần đây 8 vừa được phong Thiếu tướng ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì hãy để xem chúng ta học được gì ở học viên ưu tú này có tài chỉ huy đến đâu ”.

Đứng trước kẻ địch điên cuồng, vận dụng cách đánh nào mới giành thắng lợi ? Khi quân địch đóng giữ không quá 10 tiểu đoàn, cấu trúc công sự chưa hoàn thiện lắm, Vi Quốc Thanh từng nghĩ, quân đội Việt Nam có trọng pháo và pháo cao xạ trong điều kiện khống chế được sân bay địch và kiềm chế hỏa pháo của địch có thể áp dụng cách đánh nhanh thắng nhanh, chủ lực một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng đich, tiêu diệt trước cơ quan chỉ huy, trận địa pháo binh và quân dự bị của Pháp “nở hoa từ trung tâm”, sau đó đóng từ trong đánh ra, giải quyết quyết nhanh chống cuộc chiến đấu. Võ Nguyên Giáp tán thành ý kiến này. Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam lập tức tiến hành bố trí chiến dịch theo ý đồ đó, dự định khoảng 20/1 mở cuộc tấn công.

Nhưng khi bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam đến gần Điện Biên Phủ, trước mặt không có con đường nào để đi, không thể nào tiến vào trận địa. Mặc dù Võ Nguyên Giáp ra lệnh đại đoàn 312 giúp mở đường kéo pháo, nhưng do núi cao vực sâu, địa hình phức tạp, tiến triển chậm chạp, vẫn không thể nào tiến vào trận địa trước 20/1, do đó không thể không lùi thời gian bắt đầu chiến đấu. Bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam được sự giúp đỡ rất lớn của đại đoàn 312 suốt ngày đêm đạp bằng mọi chông gai, mở đường, kéo pháo. Lúc này, Vi Quốc Thanh lại nảy ra ý nghĩ mới.

Vùng Tây Bắc Việt Nam dân cư thưa thớt không có nhà dân có thể làm nơi nghỉ quân. Bộ đội Việt Nam ngày đêm đều đóng quân ngoài trời, chỉ có Đoàn cố vấn được chiếu cố đặc biệt, công binh chặt tre dựng nhà lá đơn sơ, để tránh gió mưa. Vi Quốc Thanh ở trong nhà lá mười mấy mét vuông trên sàn hầu như trải đầy bản đồ. Đồng chí thường nhìn chăm chú vào bản đồ suy nghĩ rất lâu.

Một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng địch tiêu diệt cơ quan đầu não của địch, làm rối loạn hệ thống chỉ huy của chúng, làm cho địch không đánh mà bị rối loạn, từ đó đánh nhanh thắng nhanh, giành toàn thắng, đó là một cách đánh áp dụng nhiều lần và nhiều lần thành công trong chiến tranh giải phóng. Nhưng cách đánh này vận dụng ở Điện Biên Phủ có thích hợp hay không ? Sau khi tìm hiểu kỹ hơn tình hình địch ở mặt trận, trong đầu Vi Quốc Thanh lúc nào cũng lởn vởn vấn đề này. Mắt chăm chú nhìn vào cứ điểm chi chít ở Điện Biên Phủ trên bản đồ, trong lòng Vi Quốc Thanh tưởng tượng ra một tình huống phức tạp về cơ sở phòng ngự của địch. Đồng chí nghĩ, quân đội Việt Nam thiếu kinh nghiệm đánh công kiên qui mô lớn, theo tình hình địch ta hiện nay, áp dụng cách đánh này thì không nắm chắc phần thắng. Đánh không tốt, còn phải chịu thiệt hại lớn. Vì vậy, cần thay đổi phương châm tác chiến.

Biến đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc thắng chắc, từ ngoại vi vào trung tâm, tiêu diệt địch từng cứ điểm một. Đợi điều kiện chín muồi, mới mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ. Như vậy, có thể làm cho quân đội Việt Nam ở vị thế chủ động và rút kinh nghiệm từ trong từng trận đánh. Muốn như vậy phải chuẩn bị tác chiến thời gian dài, các công tác chuẩn bị phải làm thêm, không thể mở tấn công ngay. Xung quanh Điện Biên Phủ hiện nay, có nhiều bộ đội như thế, làm thế nào mới có thể phát huy tác dụng? Ánh mắt của Vi Quốc Thanh lọt vào vùng Ô Giang nam Thượng Lào, phía tây nam Điện Biên Phủ. Đây là một phòng tuyến hỗ trợ cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ mà địch mới chiếm gần đây. Chiến tuyến tương đối dài, phòng ngự tương đối yếu, cách Điện Biên Phủ không xa lắm. Lệnh cho đại đoàn 308 ở tây Điện Biên Phủ đi đánh vùng này, rất nhiều điều lợi : tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, phân tán binh lực cơ động của địch, giải phóng một vùng rộng lớn, càng cô lập Điện Biên Phủ.

Vi Quốc Thanh nghĩ đến đây trong lòng bỗng nhiên phấn chấn, lập tức bước ra khỏi nhà, đến chỗ Mai Gia Sinh. Đồng chí và Mai Gia Sinh bàn tính tỉ mỉ ý nghĩ của mình, Vi Quốc Thanh liền gọi điện thoại cho Võ Nguyên Giáp, nói có việc cần muốn bàn. Võ Nguyên Giáp đến ngay. Vi Quốc Thanh trình bày khá tỉ mỉ ý nghĩa mới của mình với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp tỏ ý hoàn toàn tán thành thay đổi phương châm tác chiến. Nhưng việc cử đại đoàn 308 đi đánh thượng Lào, thì ngỏ ý để đồng chí sau khi suy nghĩ hãy quyết định.

Đại đoàn 308 là đại đoàn chủ lực số 1 của quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp suy nghĩ đại đoàn 308 đi Thượng Lào là một nước cờ hay cũng nắm chắc thắng lợi, nhưng ở Điện Biên Phủ có hơn 10.000 quân Pháp, trang bị tốt, khí thế hung hăng, liên tục chủ động xuất kích nếu biết được đại đoàn 308 đi Thượng Lào, chúng xuất kích toàn diện thì làm thế nào ? Quân ta có thể trụ nổi không ? Phần lớn đại pháo đã chuyển lên rồi, để tránh bị tổn thất cần phải đưa xuống, bộ đội sẽ có lời ta thán cũng sẽ ảnh hưởng đến tinh thần binh sĩ. Đồng chí mất ngủ, suy nghĩ một đêm. Ngày hôm sau, đồng chí đến gặp Vi Quốc Thanh, bày tỏ đồng ý đại đoàn 308 đi Thượng Lào tác chiến, đồng thời cũng nói rõ nỗi lo lắng của mình. Nghe xong, Vi Quốc Thanh nói : “ Tôi thấy dù địch biết đại đoàn 308 đi Lào, chưa chắc dám xuất kích toàn diện. Nếu địch xuất kích toàn diện, chúng ta cũng có cách đối phó. Để tránh tổn thất có thể rút một số đại pháo đã chuyển lên là cần thiết, có thể nói rõ với bộ đội đại đoàn 312 vẫn phải tích cực mở đường chuẩn bị đưa đại pháo vào, nhất thiết không được lơ là. Bộ chỉ huy mặt trận cũng lùi về một ít, để bảo đảm an toàn ”. Võ Nguyên Giáp yên tâm, tỏ ý tán thành sự sắp xếp đó. Đồng chí lập tức ra lệnh.

Thay đổi phương châm tác chiến đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc thắng chắc, rất nhanh được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn và Quân uỷ Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ý. Ngày 27/1, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Vi Quốc Thanh nêu rõ : “ Tấn công Điện Biên Phủ nên áp dụng chia cắt bao vây, tiêu diệt địch từng toán một. Mỗi lần tiêu diệt khoảng 1 tiểu đoàn, chỉ cần có thể tiêu diệt hoàn toàn bốn, năm tiểu đoàn thì địch ở Điện Biên Phủ có thể dao động hoặc rút chạy về phía nam, hoặc tiếp tục tăng viện. Cả hai trường hợp đều có lợi cho chúng ta ” 9.

Cách đánh, đánh chắc thắng chắc từng bước tiêu diệt địch này, lúc bấy giờ gọi một cách hình ảnh là “bóc măng”, tức là bóc từng lớp một, ăn từng miếng một, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 26/1, đại đoàn 308 tiến đến Thượng Lào, có nhiệm vụ tiêu diệt địch đóng giữ dọc bờ nam Ô Giang, xem tình hình đánh lấy Luông Prabang. Bọn địch ở phòng tuyến nam Ô giang nghe phong thanh tháo chạy. Đại đoàn 308 đuổi đánh dữ dội, trong 10 ngày tiêu diệt hơn 5 tiểu đoàn, giải phóng toàn bộ vùng lưu vực nam Ô Giang, tiến sát Luông Prabang. Navarre cấp tốc điều quân bằng máy bay từ đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ sang Luông Prabang và Mường Xay để chống đỡ. Đại đoàn 308 đã đạt mục đích tấn công Thượng Lào vì binh lực địch tăng thêm, cung cấp lương thực khó khăn, nên không tấn công Luông Prabang nữa, hạ tuần tháng 2 trở về vùng tây Điện Biên Phủ.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #34 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:58:38 am »

Đồng thời với đại đoàn 308 đi đánh Thượng Lào, Trung đoàn 148 quân đội Việt Nam tiến quân lên Phong Xa Lì, Thượng Lào, trung tuần tháng 2 giải phóng toàn bộ tỉnh Phong Xa Lì. Đến đây diện tích vùng giải phóng Thượng Lào lại mở rộng thêm 10.000 km2, nối liền với vùng Tây Bắc, Việt Nam. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ càng thêm cô lập. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ bố phòng nghiêm ngặt, công sự kiên cố hoả lực mạnh mẽ, làm thế nào mới có thể chia cắt bao vây địch, nuốt gọn từng miếng một ? Đó là vấn đề Vi Quốc Thanh ngày đêm suy nghĩ. Vi Quốc Thanh có kinh nghiệm tác chiến phong phú và đã làm Tiểu đoàn trưởng công binh thời kỳ trường chinh, nghĩ đến biện pháp thao tác áp sát và hào sâu tiếp cận địch. Tức tổ chức bộ đội đào hào sâu, lợi dụng hào sâu chia cắt, bao vây, áp sát cứ điểm địch. Sau đó bất ngờ tấn công. Như vậy có thể giảm thương vong bộ đội, lâu ngày đánh chắc, thắng chắc. Mai Gia Sinh cũng tán thành phương pháp này. Vi Quốc Thanh nói : “ Hãy bàn với các cố vấn xem sao ”.

Lúc này, vừa may cố vấn đại đoàn 308 Vu Bộ Huyết đến Ban chỉ huy báo cáo tình hình. Vu Bộ Huyết báo cáo tóm tắt tình hình đại đoàn 308 tác chiến ở Thượng Lào. Vi Quốc Thanh hỏi đồng chí : “ Đồng chí có cách gì đánh Điện Biên Phủ không ? ”. Vu Bội Huyết nói : “ Tôi nghĩ có thể dùng biện pháp áp sát. Tôi và Vương Thừa Vũ (đại đoàn trưởng 308), Lê Quang Đạo (chính uỷ 308) sau khi từ Thượng Lào trở về, ngày nào cũng tâm niệm làm thế nào để gặm cục xương cứng Điện Biên Phủ này. Tôi nêu ra trước biện pháp này, được các đồng chí ấy đồng ý, để bộ đội làm thí nghiệm trong ruộng lúa. Họ càm thấy biện pháp này được, chúng tôi lần lượt báo cáo lên ”. Mấy ngày hôm nay, Vi Quốc Thanh lại mắc bệnh đau đầu, trên trán mang một máy giải nhiệt bằng nhôm, tinh thần mệt mỏi. Lúc này đồng chí phấn khởi đứng lên nói không ngớt lời : “ Thế thì tốt rồi ! Đồng chí nói tỉ mỉ xem nào ”. Tiếp đó, đồng chí lại tập trung tinh thần lắng nghe báo cáo tỉ mỉ của Vu Bộ Huyết trong lòng đã nắm chắc.

Ngày hôm sau, Vi Quốc Thanh chính thức đưa ra kiến nghị nói trên với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp phấn khởi tiếp nhận, chỉ nêu ra, quân đội Việt Nam ngoài số ít công binh ra, lâu nay chưa trang bị công cụ thao tác áp sát, đó là một khó khăn thực tế. Vi Quốc Thanh điện gấp cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, yêu cầu nhanh chóng điều động số lượng lớn cuốc xẻng để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam tuân theo chỉ thị của Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch công trình xây dựng toàn bộ trận địa và truyền đạt cho bộ đội. Vi Quốc Thanh triệu tập họp cố vấn các đại đoàn, yêu cầu họ giúp bộ đội tổ chức thực hiện. Đồng chí còn kết hợp tình hình địch trước mắt, giới thiệu với phía Việt Nam kinh nghiệm tác chiến công kiên của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giúp giải quyết các vấn đề chiến thuật cụ thể, để tăng thêm niềm tin thắng lợi cho bộ đội.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #35 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:59:11 am »

Quyết chiến Điện Biên Phủ (hạ)

Đến thượng tuần tháng 3/1954, quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ đã gần 3 tháng. Trong thời gian này, ngoài việc tiến hành chuẩn bị chiến đấu quân đội nhân dân còn nhiều lần đánh lui các cuộc xuất kích quy mô nhỏ của địch đóng giữ Điện Biên Phủ, qua đó rèn luyện bộ đội. Vào lúc này, để chuẩn bị cho 5 nước Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung và đại biểu các nước có liên quan tham gia hội nghị Genève thảo luận vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương, triệu tập vào giữa tháng 4, Chu Ân Lai nêu ra với Đoàn cố vấn quân sự : “ Để giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh mấy trận thắng đẹp ở Việt Nam như trước khi đình chiến ở Triều Tiên không ? ”. Ngày 3/3, sau khi nhận được điện chỉ thị đó của Chu Ân Lai do Bộ Tổng Tham mưu chuyển đến, Vi Quốc Thanh cho rằng, để phối hợp với đấu tranh đàm phán ở hội nghị Genève, cần phải nỗ lực lớn nhất, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Lúc này, các mặt chuẩn bị của quân đội Việt Nam đã tương đối đầy đủ, lựu pháo và pháo cao xạ đã vào trận địa dự định điều kiện tấn công Điện Biên Phủ đã chín muồi. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc, quyết định ngày 13/3 bắt đầu nổ súng tấn công Điện Biên Phủ.

Toàn bộ chiến dịch trải qua ba đợt.

Tác chiến đợt 1, phát triển thuận lợi. Vi Quốc Thanh cho rằng, trận đầu có thể giành được thắng lợi hay không vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ chiến dịch và đối với quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn như thế này mà nói, thì ảnh hưởng càng to lớn hơn. Vì vậy đồng chí dày công giúp đỡ Việt Nam tổ chức tác chiến đợt 1. Mục tiêu tác chiến là tấn công cụm cứ điểm ở Him Lam và đồi Độc Lập bắc Điện Biên Phủ mỗi nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần việc bố trí tác chiến, quyết định đại đoàn 312 và 308 với binh lực ưu thế tuyệt đối gấp nhiều lần địch, có pháo binh phối hợp và pháo binh của Bộ Tổng Tham mưu chi viện hoả lực, ngày 13 và đêm ngày 14/3 theo chỉ thị của Vi Quốc Thanh giúp đỡ cụ thể các bộ đội tấn công từ quan sát đến bố trí, từ chiến thuật đến kỹ thuật, từ chọn điểm xuất kích đến xây trận địa xuất phát, đều đã chuẩn bị đầy đủ, do đó cuộc chiến đấu phát triển thuận lợi.

Đêm 13, hàng trăm khẩu đại bác của quân đội Việt Nam cùng gầm lên một lúc, đạn pháo gào thét bay tới sân bay, cụm pháo binh và cứ điểm Him Lam của quân Pháp. Máy bay địch bị lật ngửa, đường bay bị phá nát, trọng pháo bị kiềm chế, từng lô cốt một trên đồi Him Lam bị phá sập. Sau đợt pháo gầm, các đội viên đột kích của đại đoàn 312 qua thao tác áp sát đã đào hào đến tận mũi quân địch, lập tức xung phong, nhanh chóng đột phá tiền duyên. Trải qua giành giật tại trung tâm, 11g30’ đêm 13 đánh chiếm toàn bộ đồi Him Lam, tiêu diệt sạch một tiểu đoàn địch.

Đêm 14, một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 308 và một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 312 tấn công đồi Độc Lập. Chiến đấu đến rạng sáng hôm sau, quân đội Việt Nam đã cắm lá cờ mang dòng chữ “quyết chiến quyết thắng” trên đỉnh đồi Độc Lập, tiêu diệt thêm một tiểu đoàn địch, đánh lui 1 tiểu đoàn viện binh địch, phá huỷ 1 xe tăng, bắt hơn 30 tù binh. Trận đầu kết thúc thắng lợi, quân đội Việt Nam trên dưới đều rất hân hoan. Trong lúc phấn khởi, Vi Quốc Thanh bình tĩnh trù tính tác chiến bước tiếp theo. Đêm 15, đồng chí điện báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Hai trận chiến đấu đợt 1, đêm ngày 13 và 14 liên tiếp tấn công chiếm hai cụm cứ điểm ở bắc và đông bắc Điện Biên Phủ, tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn Lê dương. Đây là lần đầu tiên quân đội Việt Nam sử dụng hoả lực trọng pháo có vai trò có tính quyết định đối với việc kiềm chế pháo binh địch, phối hợp tấn công. Trong ba ngày, bắn hỏng 16 máy bay địch, làm cho máy bay địch không dám hạ cánh xuống sân bay và bay thấp, trong chiến đấu nhấn mạnh thao tác áp sát và bộ pháo hiệp đồng, nên thương vong không lớn. Niềm tin của bộ đội tiếp tục vây diệt địch ở Điện Biên Phủ nâng cao hơn trước một bước. Muốn tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ còn phải mấy trận chiến đấu công kiên nữa, và trận sau khó khăn hơn trận trước. Để bảo đảm sử dụng pháo không gián đoạn khống chế sân bay và liên tục kiên trì chiến đấu tương đối dài, cần phải tiếp thêm lương thực và xăng dầu. Xin đưa thêm 3000 quả đạn pháo (cỡ 105 kiểu Mý), 3000 quả sơn pháo, 3000 thùng lớn xăng dầu đến Bằng Tường trước ngày 25/3 ”.

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc luôn luôn dốc toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ hễ Vi Quốc Thanh nêu yêu cầu, là theo đó cấp đủ, cấp đúng.

Mấy ngày qua, tin vui liên tiếp truyền về. Viên trung tá chỉ huy pháo binh quân Pháp ở Điện Biên Phủ vì bị tổn thất nặng nề trong trận đấu pháo, mất lòng tin, dùng lựu đạn tự sát 10. Điều đó giáng một đòn vào tinh thần binh lính quân Pháp. Cứ điểm Bản Kéo rơi vào cô lập do đồi Him Lam, Độc Lập thất thủ, một tiểu đoàn lính Thái đóng giữ cứ điểm này hoang mang cực độ, ngày 27/3 ra hàng Quân đội Nhân dân. Đến đây Quân đội Nhân dân đã chiếm giữ 3 cụm cứ điểm án ngữ phía bắc Điện Biên Phủ, mở cánh cửa thông sang khu trung tâm Điện Biên Phủ. Tác chiến đợt 1 của Quân đội Nhân dân đã vượt mục tiêu dự kiến, tinh thần binh sĩ phấn chấn, niềm tin tăng lên gấp bội.

Để cứu vãn tình thế thất bại, sau tác chiến đợt 1, Navarre tiếp tục cho ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ (về sau trong chiến đấu đợt 2, 3 lần lượt nhảy dù thêm 2 tiểu đoàn nữa).
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #36 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:59:44 am »

Tác chiến đợt 2, giành giật quyết liệt

Sau khi tổng kết kinh nghiệm trận đầu và chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo, đêm 30/3 Quân đội Nhân dân bắt đầu tác chiến đợt 2, tấn công quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh, trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp. Bố trí tác chiến của Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu xác định là : ngoài hai trung đoàn của đại đoàn 308, 312, sư 316 và toàn bộ hỏa lực pháo binh tấn công tiêu diệt địch ở điểm cao phía đông phân khu trung tâm và vùng Tây bắc sân bay, để thít chặt vòng vây, khống chế điểm cao, khống chế sân bay, cắt đường không vận của địch. Nếu phát triển thuận lợi, thì liên tục tấn công, tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Sau khi cuộc chiến đấu bắt đầu, đột phá tiền duyên địch tương đối thuận lợi, nhưng sau khi đi vào sâu lòng địch thì phát triển rất chậm. Quân Pháp dựa vào công sự kiên cố, hoả lực dày đặc, ngoan cố chống cự và tổ chức đánh trả. Cán bộ quân đội Việt Nam thiếu khả năng ứng biến, bộ đội thương vong tăng nhiều, tấn công gặp trở ngại. Qua một tuần chiến đấu, quân đội Việt Nam hạ được 5 cứ điểm địch, tiêu diệt binh lực hơn 3 tiểu đoàn, không chế phần lớn điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ, và hình thành tình thế có lợi đứng trên cao nhìn xuống bọn địch ở Mường Thanh. Nhưng khi tấn công cứ điểm A1 bảo vệ Mường Thanh, do quân địch lợi dụng hầm hào và nhà dưới dất ngoan cố chống cự, không thể đánh hạ được toàn bộ, hình thành thế giằng co, mỗi bên chiếm một nửa. Sau khi cao điểm C1, cứ điểm quan trọng bảo vệ Mường Thanh bị đánh hạ, quân Pháp tổ chức đánh trả, chiếm lại hơn một nửa. Hai bên giành giật nhiều lần, cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Trong tác chiến hơn một tuần, các bộ đội tấn công của quân đội Việt Nam đều bị thương vong không ít.

Vi Quốc Thanh ngày đêm theo dõi phát triển của chiến cuộc. Tin tức từ tiền tuyến về có lúc hỗn loạn. Lúc thì nói hạ được một cứ điểm, sau vài giờ lại nói chưa hạ được. Tình hình tấn công cứ điểm A1 càng như thế. Lúc thì nói gặp đường hầm hào của địch đang đánh bộc phá, lúc thì lại nói, cách đường hầm còn rất xa, không thể nào đánh bộc phá được. Lúc thì nói đường hào không lớn, chỉ có số ít địch ngoan cố chống cự. Một lát sau lại nói, nhà hầm của địch rất lớn, có thể chứa hàng trăm tên. Điều đó một lần nữa phản ánh cái tật của viên chỉ huy cơ sở nào đó không đích thân theo dõi tuyệt một. Vi Quốc Thanh rất bực tức, kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc ra lệnh cho bộ đội tấn công điều tra rõ tình hình thực tế, để nghiên cứu đối sách. Cuối cùng rõ ra là, quân địch ở A1 lợi dụng đường hào và nhà hầm xây dựng thời kỳ quân Nhật chiếm đóng để ngoan cố chống cự và thỉnh thoảng tiến hành phản kích quân đội Việt Nam không thể nào đối phó. Vi Quốc Thanh điện gấp về Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, báo cáo tình hình này, Quân uỷ Trung Quốc cấp tốc điều một số cán bộ từng tác chiến ở Triều Tiên có kinh nghiệm đánh đường hào, đi nhanh ra tiền tuyến Điện Biên Phủ. Họ giúp bộ đội Việt Nam đào hầm ngầm thông đến đường hào cứ điểm A1, chuẩn bị dùng thuốc nổ phá huỷ nó.

Lúc này Võ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1, liền ra lệnh tấn công C1. Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh quyết định điều trung đoàn 102 của đại đoàn 308, ngày 11/4 tấn công đồi C1, kết quả bị hoả pháo địch sát thương nặng, toàn trung đoàn thương vong trên 700 người, không thể tiếp tục chiến đấu. Trung đoàn 102 là trung đoàn chủ lực của đại đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến nay chưa bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này bị không ngờ vấp váp. Vi Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này. Lúc này, hội nghị Genève sắp triệu tập, Điện Biên Phủ trở thành một điểm nóng khiến cả thế giới dõi theo sau khi Triều Tiên đình chiến, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm theo dõi tác chiến Điện Biên Phủ, luôn luôn hỏi Vi Quốc Thanh tình hình chiến sự và có nhiều chỉ thị cụ thể đối với chiến thuật tấn công Điện Biên Phủ.

Vi Quốc Thanh theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, kết hợp tình hình thực tế quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn trong tác chiến đợt hai, một mặt giúp Việt Nam tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, cải tiến chỉ huy tác chiến bổ sung quân lính, chỉnh đốn tổ chức, khôi phục và tăng cường sức chiến đấu, để có lợi cho tiếp tục chiến đấu, đồng thời kiến nghị quân đội Việt Nam áp dụng biện pháp hữu hiệu, tăng cường bao vây và tấn công quân Pháp sau đó quân đội Việt Nam chủ động áp dụng các biện pháp sau đây :

Một là, tổ chức bộ đội đào hầm hào từng bước thắt chặt vòng vây, chia cắt quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh với phân khu nam bằng hầm hào, cắt đứt liên hệ trên mặt đất giữa chúng. Đồng thời, từ các hướng đào đến tận tung thâm phân khu trung tâm Mường Thanh. Lúc này đào hầm hào trở thành phương tiện tấn công tích cực, không ngừng thu hẹp địa bàn quân Pháp chiếm đóng. Quân Pháp tuy thường xuyên pháo kích và phá hoại, nhưng các chiến sĩ quân đội Việt Nam không sợ đổ máu, mồ hôi, càng đào càng hăng, càng đào càng nhanh. Chiến hào cứ mỗi ngày một vươn dài lên phía trước, chiến hào chính, chiến hào nhánh đan xen ngang dọc, chia cắt quân Pháp từng mảnh. Đúng như miêu tả trong cuốn sách Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam của Việt Nam xuất bản những năm 70 : “ Chiến hào như những chiếc thòng lọng, mỗi ngày một xiết chặt cổ của địch ”.

Hai là, khống chế hơn nữa sân bay, cắt đứt vận chuyển hàng không của địch. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ cách xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, mọi cung ứng đều dựa vào vào vận chuyển hàng không, hằng ngày phải có trên trăm lượt chiếc máy bay chở các loạt vật tư quân sự, mới có thể duy trì nhu cầu sinh hoạt cần thiết và tiêu hao chiến đấu của hơn 10.000 quân đóng giữ. Vi Quốc Thanh coi việc cắt đứt vận chuyển hàng không là một điều kiện quan trọng để giành toàn thắng của chiến dịch. Chiến dịch bắt đầu, bộ đội cao xạ quân đội Việt Nam lần đầu tiên bước vào chiến đấu đánh cho máy bay địch bay thấp ném bom bắn phá điên cuồng bị trọng thương. Hoả lực trọng pháo của quân đội Việt Nam bắn vào sân bay buộc máy bay địch chở người và vật tư không dám thả dù phải chuyển sang thả từ trên máy bay xuống. Quân đội Việt Nam chỉnh đốn bổ sung sau khi chuẩn bị đầy đủ, liên tục công phá mấy cứ điểm địch gần sân bay, và lợi dụng ban đêm đào hào cắt ngang lưng sân bay, làm cho sân bay hoàn toàn không sử dụng được. Đi theo chiến hào của quân đội Việt Nam không ngừng vươn dài tới trước, vòng vây ngày càng hẹp lại, vật tư của máy bay địch ném xuống ngày càng nhiều (thậm chí phần lớn) rơi xuống trận địa quân đội Việt Nam. Đây là một hỗ trợ lớn đối với quân đội Việt Nam, nhưng lại là đòn đánh hết sức nặng nề với quân Pháp.

Ba là, tổ chức bộ đội triển khai hoạt động đánh chặn. Các bộ đội rất nhanh tổ chức thành nhóm diệt địch do các tay súng thần, pháo thần tham gia, bắn lén, bắn tỉa vào các mục tiêu hoạt động trên trận địa địch, không ngừng sát thương địch, buộc quân Pháp không dám hoạt động ngoài công sự, đánh mạnh vào tinh thần của quân Pháp.

Bốn là, tổ chức bộ đội triển khai tấn công chính trị. Thành phần binh lính Pháp phức tạp, nhiều loại quốc tịch. Nhằm vào tình hình này, quân đội Việt Nam dùng loa phóng thanh, bằng nhiều ngôn ngữ phát thanh, kêu gọi binh lính địch trên trận địa, có tác dụng làm suy yếu tinh thần chiến đấu của binh lính địch, tiến tới làm tan rã quân địch, thường có lẻ tẻ lính nguỵ, lính nước ngoài và lính da đen ra đầu hàng quân đội Việt Nam.

Biện pháp đấu tranh quân sự chính trị phối hợp cả hai cùng tiến hành song song với tiếp thu được hiệu quả rất tốt. Đến hạ tuần tháng 4, tình cảnh của quân Pháp hết sức khó khăn. Diện tích trong vòng vây không đầy 2 km2, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân Pháp bị chia cắt thành nhiều đoạn, sân bay cũng bị quân đội Việt Nam chiếm một nửa. Do sợ quân đội Việt Nam tấn công, sĩ quan, binh lính Pháp suốt ngày co ro trong công sự. Trong nhà hầm chật ních thương binh, bốc mùi khó thở. Tinh thần quân Pháp sa sút cực độ. Lúc này, tập đoàn thống trị Mỹ không muốn nhìn thấy quân Pháp ở Điện Biên Phủ thất bại, đồng thời với tăng cường viện trợ cho Pháp, tiến hành đe doạ trắng trợn đối với Việt Nam, đưa hạm đội 7 đến Vịnh Bắc Bộ “diễn tập”, đánh tiếng sắp sử dụng máy bay ném bom B29 ném bom xuống trận địa quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, thậm chí để ngỏ ý muốn ném bom nguyên tử cỡ nhỏ.

Vào thời gian này quân đội Việt Nam cũng gặp một số vấn đề và khó khăn mới : do bộ đội đóng quân ngoài trời lâu ngày, số người không trực tiếp chiến đấu tăng lên, tác chiến liên tục nhiều tháng, người chỉ huy nảy sinh tư tưởng mệt mỏi, nhất là tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trỗi dậy trong cán bộ. Có những cán bộ, tinh thần trách nhiệm yếu, tính tích cực chiến đấu không cao, thậm chí xuất hiện hiện tượng nghiêm trọng kiếm cớ rời khỏi vị trí chiến đấu, báo cáo láo tình hình, không chấp hành mệnh lệnh trong tình hình chiến đấu khẩn cấp v.v... Do máy bay địch bắn phá điên cuồng và mùa mưa đến, vận tải hậu cần cũng ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình Mỹ đe doạ, quân Pháp giãy giụa hung hăng, trong số cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam có những người dao động niềm tin giành toàn thắng chiến dịch, thậm chí sợ Mỹ ném bom nguyên tử, cho rằng không nên đánh tiếp nữa. Vào giờ phút then chốt quan hệ đến tiêu diệt hoàn toàn quân địch hay là công dã tràng này, Vi Quốc Thanh đã bình tĩnh suy nghĩ và phân tích khách quan cho rằng, quân đội Việt Nam tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng quân Pháp càng khó khăn hơn, hơn nữa không có cách gì khắc phục được chỉ cần quân đội Việt Nam không sợ hăm doạ, không sợ khó khăn, cắn chặt răng lại, kiên trì chiến đấu, nắm chặt nhược điểm của địch, liên tục tác chiến thì có thể khắc phục được khó khăn, giành toàn thắng cho chiến dịch. Đồng chí nói với các cố vấn : “Hiện tại toàn thế giới đều nhìn về Điện Biên Phủ, chúng ta không có đường lui. Chỉ có hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tạm thời chưa đánh được, mùa mưa đến nước dìm chết chúng. Nước không dìm chết, thì khốn khó lâu ngày, chúng cũng chết. Không lấy được Điện Biên Phủ quyết không lui quân. Các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng này”.

Vi Quốc Thanh trao đổi chân tình với Võ Nguyên Giáp, trình bày tỉ mỉ ý nghĩ trên đây của mình để thống nhất nhận thức, kiên định lòng tin. Hai người còn nghiên cứu biện pháp giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ và khắc phục khó khăn thực tế. Lúc này, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị mở rộng, phân tích tình hình tác chiến Điện Biên Phủ, vạch rõ thêm ý nghĩa quan trọng của chiến dịch, nhấn mạnh phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. Cuối tháng 4, đảng uỷ tiền phương Quân đội Nhân dân triệu tập hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần của hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Võ Nguyên Giáp báo cáo tại hội nghị chú trọng phê bình nghiêm khắc các biểu hiện của tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, đặc biệt là hành vi vô kỷ luật không chấp hành mệnh lệnh kiếm cớ rời bỏ nhiệm vụ, báo cáo láo tình hình v.v... Các cố vấn phản ánh, đây là cuộc nói chuyện chống khuynh hướng sai lầm với lập trường quan điểm rõ ràng ít có của Tổng Tư lệnh. Hội nghị này đã đặt nền móng tư tưởng cho tác chiến đợt 3, giành toàn thắng của chiến dịch.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #37 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:01:00 am »

Tác chiến đợt 3, giành toàn thắng

Từ hạ tuần tháng tư, quân Pháp có dấu hiệu tăng quân cho Thượng Lào, hòng tiếp ứng cho địch đóng giữ Điện Biên Phủ chạy xuống phía nam. Vi Quốc Thanh lập tức cùng phía Việt Nam nghiên cứu, kịp thời bố trí đề phòng địch phá vây. Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào tình hình quân Pháp tập trung mấy tiểu đoàn lính dù ở Hà Nội, cuối tháng 4 đầu tháng 5 hai lần điện cho Vi Quốc Thanh, nhắc đồng chí đề phòng địch nhảy dù xuống nút giao thông quan trọng ở hậu phương quân đội nhân dân, để cắt đường tiếp tế, làm rối loạn hậu phương, và hiệp đồng với quân địch ở Thượng Lào giải vây Điện Biên Phủ.

Theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Vi Quốc Thanh lại bàn với Võ Nguyên Giáp, tăng cường hơn nữa bố trí đề phòng quân địch giải vây ở hai hướng nam, bắc. Đồng thời quyết định : các đại đoàn 308, 312, 316 đêm 1/5 mở tấn công cứ điểm tây và đông sở chỉ huy Mường Thanh của quân Pháp, xiết chặt vòng vây hơn nữa. Trước hết tiêu diệt địch ở các cứ điểm đông sông Nạm Rốn rút binh lực cơ động để đối phó tình huống bất trắc. Sau khi chiến đấu bắt đầu, quân đội nhân dân rất nhanh tiêu diệt địch ở cánh sườn cứ điểm C1 và tấn công cứ điểm 505, 505A v.v.. chiến đấu đến ngày 3/5, lại tấn công tiếp cứ điểm 311A, 311B. Đến đây quân đội nhân dân đã áp sát sở chỉ huy Mường Thanh của địch.

Vi Quốc Thanh cho rằng, thời cơ tổng công kích Điện Biên Phủ đã chín muồi. Cùng với phía Việt Nam nghiên cứu, quyết định đêm 6/5 mở tổng công kích. Lúc này, đã đào xong đường ngầm thông sang đường hào cứ điểm A1, và chôn 1 tấn thuốc nổ. Sau tiếng nổ rền trời của một tấn thuốc nổ ở cứ điểm A1, cuộc tổng công kích trên toàn tuyến bắt đầu. Tất cả hoả pháo của quân đội Việt Nam kể cả pháo tên lửa 17 nòng của Trung Quốc trang bị vừa trở ra tiền tuyến cùng nã vào trận địa quân Pháp, với uy lực to lớn làm sát thương và choáng váng quân địch. Bọn địch dưới nhà hầm A1 bị thuốc nổ xé xác, bọn tàn quân trên mặt đất rất nhanh bị quét sạch. Đến sáng 7, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở cứ điểm Châu Ôn, Na Nông, 506, làm cho Mường Thanh mất bình phong cuối cùng. Quân Pháp thấy rõ thế cờ, tiêu tan hy vọng, lúc 14g ngày 7, lục tục kéo cờ trắng, nộp vũ khí đầu hàng Quân đội Nhân dân. Thiếu tướng De Castries viên chỉ huy quân Pháp đã từng hùng hổ một thời cuối cùng cúi đầu, chắp hai tay cùng nhân viên Bộ Tham mưu của y ra làm tù binh của Quân đội Nhân dân.

Ngày hôm đó, đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hồng Cúm, phân khu nam. Hơn 2000 tên địch đêm tối phá vây chạy xuống phía nam, bị quân đội Việt Nam truy đuổi tiêu diệt vào nửa đêm. Đến đây, chiến dịch Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm, kết thúc với thắng lợi to lớn của quân đội Việt Nam. Thành quả chiến thắng Điện Biên Phủ rực rỡ, tiêu diệt tất cả 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, kể cả bộ đội công binh, thiết giáp, vận tải v.v... tất cả là 16.200 tên địch. Trong đó có 10.903 tù binh, bao gồm 41 sĩ quan cấp tướng tá, 1.749 sĩ quan cấp uý, bắn rơi bắn hỏng 62 máy bay thu 30 khẩu trọng pháo, 6 xe tăng hơn 30.000 chiếc dù và số lớn vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác.

Chiến thắng Điện Biên Phủ như đã làm chấn động thế giới, càng chấn động nước Pháp. Chính phủ Pháp treo cờ rủ để tang cho các tướng sĩ trận vong ở Điện Biên Phủ, tập đoàn thống trị thốt lên tiếng ai oán và lời than vãn, còn những người tiến bộ trên toàn thế giới thì reo hò mừng vui. Ngày thứ hai kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, tức ngày 8/5/1954, chính là ngày hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương. Sự trùng hợp lịch sử này lại bao hàm nhân tố tất nhiên. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã phối hợp mạnh mẽ với đấu tranh ngoại giao ở hội nghị Genève, nó làm cho đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam không chỉ ở vào vị thế của người chống xâm lược, chính nghĩa, mà còn ở vào vị thế của người chiến thắng.

Đoàn đại biểu chính phủ Pháp không chỉ ở vào vị thế của kẻ xâm lược mà còn ở vào vị thế của kẻ thất bại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở đường cho hội nghị Genève cuối cùng đi đến hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Nhưng sau khi hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương, đoàn đại biểu Pháp lại ra sức vẽ vời, xuyên tạc sự thật, vu khống công kích Việt Nam vấn đề đưa thương binh về nước, làm cho hội nghị trước tiến triển khai đấu tranh xoay quanh vấn đề phóng thích thương binh Pháp. Do đoàn đại biểu Việt Nam không có điện đài liên hệ trong nước, nên Trung ương đoàn, đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai điện hỏi Vi Quốc Thanh về tình hình liên quan đến vấn đề phóng thích thương binh. Ngày 13/5 Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh nói : “Các nước phương Tây đang lợi dụng vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ để chỉ trích Liên Xô. Phía nhân sĩ tiến bộ và bạn bè mong muốn kịp thời có được tư liệu liên quan đến tình hình xử lý thương binh của phía địch ở Điện Biên Phủ, có thể điện cho biết bất cứ vào lúc nào về tình hình hai bên thương lượng thả thương binh binh nặng của phía địch và tình hình tiến triển cụ thể trong việc chuyên chở thương binh được thả để chuyển cho Phạm Văn Đồng và đoàn đại biểu Liên Xô, để có căn cứ tuyên truyền, đập tan âm mưu của địch”. Sau đó, Chu Ân Lai căn cứ và tình hình phía Pháp nói phía Việt Nam chỉ thả thương binh người nước ngoài, không thả thương binh người Việt Nam, công kích Việt Nam “kỳ thị dân tộc”, ngày 15/5 một lần nữa Chu Ân Lai điện cho Vi Quốc Thanh hỏi : “ Trong đợt đầu thả thương binh nặng có thương binh nguỵ quân Việt Nam hay không, và nếu có, nếu đợt này không có, thì trong danh sách đợt hai nên có thương binh nguỵ quân Việt Nam, và cho công bố ”.

Lúc này, ở Điện Biên Phủ cũng tiến hành cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề thả tù binh, bị thương nặng của quân Pháp. Theo yêu cầu của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cho phép phía Pháp chở tù binh bị thương nặng của họ và cử đoàn đại biểu đến Điện Biên Phủ để bàn cách chở cụ thể, ngày 13/5 phía Pháp cử đoàn đại biểu do giáo sư Huard dẫn đầu đến Điện Biên Phủ, thương lượng với phía Việt Nam và đạt được thoả thuận như sau : “ Vì sân bay khó sửa chữa nên phía Pháp dùng máy bay trực thăng và máy bay vận tải cỡ nhỏ để chuyên chở tù binh bị thương. Trong thời gian này, phía Pháp bảo đảm ngừng hoạt động máy bay oanh tạc xung quanh Điện Biên Phủ 10 km và trên tuyến đường từ Điện Biên Phủ đi Tuần Giáo dọc quốc lộ số 41 đến Sơn La ”. Ngày hôm sau, thoả thuận được Bộ chỉ huy hai bên phê chuẩn có hiệu lực. Đợt đầu tiên tù binh bị thương nặng được chở về Hà Nội.

Phía Pháp lập tức phát hiện thoả thuận trên có lợi cho Việt Nam, phía Việt Nam có thể nhân cơ hội này vận chuyển số lớn vật tư đã thu được ra ngoài Điện Biên Phủ. Vì thế phía Pháp bác bỏ thoả thuận trước, ngày 16/5 đổi lại cử đoàn đại biểu do thiếu tá Jamis dẫn đầu đi Điện Biên Phủ đưa ra kiến nghị mới với phía Việt Nam, yêu cầu sửa chữa sân bay, để máy bay vận tải cỡ lớn vận chuyển thương binh, thay đổi điều khoản máy bay quân Pháp ngừng hoạt động bắn phá quốc lộ 41. Khi Việt Nam chưa trả lời, phía Pháp đã đơn phương ngừng chuyên chở thương binh nặng của họ và khôi phục hoạt động của máy bay trên tuyến quốc lộ 41. Phía Việt Nam lập tức vạch trần đầy đủ hành vi lật lọng đó của phía Pháp.

Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Chu Ân Lai, trên đường từ Điện Biên Phủ trở về hậu phương, nhiều lần cùng phía Việt Nam nghiên cứu vấn đề thả tù binh bị thương, áp dụng một số biện pháp quan trọng và thuyết phục phía Việt Nam thả một số tù binh bị thương của quân nguỵ Việt Nam. Vi Quốc Thanh đã điện báo kịp thời cho Chu Ân Lai những biện pháp của phía Việt Nam thả tù binh bị thương, tình hình tiến triển thả tù binh hằng ngày và cả tài liệu Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam vạch trần phía Pháp phá hoại thoả thuận chuyên chở tù binh bị thương, từ đó làm cho đoàn đại biểu Việt Nam có sự thực xác đáng vạch trần mạnh mẽ âm mưu của phía Pháp lấy vấn đề tù binh bị thương làm cái cớ để phá hoại đàm phán hoà bình Genève.

Trải qua hơn hai tháng đấu tranh đàm phán, cuối cùng ngày 20/7, hội nghị Genève đạt được Hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Hiệp định quy định : “ Các bên có liên quan ở Việt Nam, Lào, Campuchia chấm dứt hành động thù địch, thực hiện ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân đội của mình ra khỏi Đông Dương, lấy vĩ tuyến 170 Bắc làm giới tuyến quân sự tạm thời, lực lượng vũ trang Việt Nam tập kết ở phía bắc giới tuyến quân đội Pháp tập kết ở phía nam giới tuyến ”.

Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #38 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 07:01:34 am »

Ngày 22/7, hai bên Việt – Pháp ra lệnh ngừng bắn. Cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trải qua hơn 8 năm kết thúc thắng lợi, hoà bình được lập lại ở Đông Dương. Đến đây, nhiệm vụ của Vi Quốc Thanh lãnh đạo đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp hoàn thành thắng lợi. Trong thời gian công tác ở Việt Nam, Vi Quốc Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiệt tình và tín nhiệm rất lớn. Một số kiến nghị trọng đại của đồng chí liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội Việt Nam đều do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận quyết định. Sau đó Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức thực hiện. Hồ Chí Minh nhiều lần đến nơi ở của Đoàn cố vấn thăm Vi Quốc Thanh và các cố vấn, thăm hỏi ân cần, quan tâm hết mực, có lúc còn mời Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm cùng đến chỗ ở của Người ăn cơm, luận bàn chiến sự, kể chuyện gia đình, tự do thoải mái giãi bày tâm sự. Hồ Chí Minh còn tặng thơ cho Vi Quốc Thanh. Đó là một ngày sau chiến dịch Biên Giới, Hồ Chí Minh bất ngờ đến thăm đoàn cố vấn, gặp lúc Vi Quốc Thanh không có nhà. Ngày hôm sau, Hồ Chí Minh cho người đưa đến cho Vi Quốc Thanh một bài thơ chữ Hán

Bách lý tầm quân vi ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

(Trăm dặm tìm bạn nhưng không gặp,
vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi.
Quay về tình cờ gặp cây mai rừng,
mỗi đoá hoa vàng một điểm xuân)

Bày tỏ tình nghĩa sâu nặng của Người đối với Vi Quốc Thanh – cũng là đối với nhân dân Trung Quốc. Khi Vi Quốc Thanh hoàn thành nhiệm vụ giúp Việt Nam sắp về nước, Hồ Chí Minh và mấy vị thành viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh chiêu đãi Vi Quốc Thanh tại phủ Chủ tịch Hà Nội. Trước đó phía Việt Nam đã gửi giấy mời Vi Quốc Thanh và thư ký Vương Chấn Hoa. Tối hôm đó Vi Quốc Thanh dẫn thư ký đến dự tiệc. Trong phủ Chủ tịch ánh đèn sáng choang. Khi Vi Quốc Thanh đến, Hồ Chí Minh và từng người ôm hôn đồng chí. Ngồi ở phòng khách rộng rãi sáng sủa một lát, rồi chủ khách 7 người đi vào phòng tiệc ngồi vây quanh chiếc bàn hình chữ nhật.

Hồ Chí Minh ngồi chính giữa phía chiều dài, bên phải là Vi Quốc Thanh, bên trái là Tổng Bí thư Trường Chinh. Buổi tiệc bắt đầu, Hồ Chí Minh chúc mấy câu ngắn gọn bằng tiếng Việt, ngỏ ý thư ký phiên dịch. Thư ký dịch được mấy câu thì ấp úng. Vi Quốc Thanh vội đỡ lời nói : “ Phiên dịch Hầu Hàn Giang đã về nước. Người thư ký này học được ít tiếng Việt, khó hoàn thành nhiệm vụ này lắm ! ” Hồ Chí Minh nghe xong cười nói : “ À ! Chẳng sao, tôi sẽ nói tiếng Hán vậy, lát nữa khi đồng chí nói chuyện với Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, tôi làm phiên dịch ! ” Trong 5 thành viên phía Việt Nam, Hồ, Phạm, Võ đều biết chữ Hán và nói được tiếng Trung Quốc, Trường Chinh chỉ biết chữ Hán, không biết nói tiếng Trung Quốc, Nguyễn Chí Thanh biết chút ít chữ Hán cũng không nói được tiếng Trung Quốc. Vì thế sau lời chúc Hồ Chí Minh đích thân làm phiên dịch.

Mọi người và Vi Quốc Thanh trò chuyện chân tình nồng nhiệt, thể hiện tình hữu nghị chiến đấu lưu luyến bịn rịn. 34 năm sau, tức tháng 9 năm 1990, khi Bắc Kinh tổ chức Á vận hội, Võ Nguyên Giáp nhận lời mời đến Bắc Kinh khai mạc. Lúc này Vi Quốc Thanh đã qua đời hơn một năm. Võ Nguyên Giáp có nhã ý gặp thăm Hứa Kỳ Thanh, phu nhân của Vi Quốc Thanh, và con gái Vi Tiểu Nhạn. Khi Hứa Kỳ Thanh mời Võ Nguyên Giáp nói đôi lời về Vi Quốc Thanh, đồng chí trầm tư một lát rồi đánh giá như sau : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh là con người kiên định. Thời kỳ tôi cùng làm việc với đồng chí là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử của tôi. Chúng tôi sống với nhau trong những ngày Việt Nam gian khổ nhất. Đồng chí rất kiên định. Khi đồng chí nói sắp rời Việt Nam, chúng tôi cùng nhìn lại công tác mấy năm qua, quan hệ giữa chúng tôi rất tốt. Đồng chí tặng tôi một bức hoành xinh đẹp “ Gió đông đón khải hoàn ” vẫn treo trong phòng làm việc của tôi, người bạn tri kỷ nhất của tôi là đồng chí Vi Quốc Thanh ”.

Công tác của đồng chí Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và những đóng góp của đồng chí cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam là một trang vẻ vang trong lịch sử Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tình hữu nghị chiến đấu gắn bó giữa nhân dân và quân đội hai nước Trung – Việt sẽ trường tồn trong lịch sử hai nước Trung – Việt, nhân dân hai nước mãi mãi không bao giờ quên.

Vu Hoá Thầm

(đăng trong Thượng tướng phong vân lục
nhà xuất bản Đại Bách Khoa toàn thư xuất bản năm 2000.
Khi đưa vào tập sách này có sửa chữa đôi chữ cá biệt ;
tác giả là Vương Chấn Hoa, bút danh là Vu Hóa Thầm)



1 Légion Etrangère (chú thích của Diễn Đàn)

2 Đúng hơn, đó là những binh đoàn Âu-Phi, gồm thiểu số là bính lính Pháp, đa số là người Bắc Phi (Ả rập, Kabyle) và Tây Phi (da đen).

3 Xem hồi kí của La Quý Ba

4 Đây bắt đầu quá trình Mao hoá Quân đội Nhân dân, gạt bỏ các thành phần “không cơ bản”. Trong một hồi ký, Võ Nguyên Giáp kể lại rằng trong các lớp huấn luyện, cố vấn Trung Quốc thấy cán bộ Việt Nam ghi chép rất nhanh, bèn kết luận đây là nhừng phần tử “phức tạp”…

5 Theo những thông tin của chúng tôi, lần này Stalin không tiếp Hồ Chí Minh, một cách để làm sức ép. Trong một bức thiệp gửi Stalin, chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ ý tiếc không được gặp Stalin và hứa sẽ tiến hành cải cách ruộng đất.

6 Nội dung cuộc trao đổi này thực ra là nội dung cuộc găp Stalin – Hồ Chí Minh tháng 2.1950 (xem hồi kí của Khrushev và Võ Nguyên Giáp). Cách trình bày của tác giả hàm ý giảm nhẹ trách nhiệm của Trung Quốc trong cuộc cải cách ruông đất.

7 Dịch giả Dương Danh Dy phiên âm từ Trung văn. Có lẽ là Tou Samouth, chủ tịch Mặt trận Issarak Thống nhất, bị chính quyền Sihanouk ám sát năm 1962 (cũng có nguồn tin cho rằng Pol Pot cũng nhúng tay vào cái chết của lãnh tụ Tou Samouth).

8 Sự thực đến cuối trận đánh, De Castries mới được phong thiếu tướng.

9 Ở đây, tác giả hoàn toàn viết sai sự thật. Quyết định thay đổi cách đánh là của đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 25.1.1954 (“quyết định khó nhất đời tôi”), giờ chót có sự ủng hộ của Vi Quốc Thanh. Bộ chính trị ĐCSVN ở xa, mấy ngày sau mới được báo cáo và tán thành. Năm 2004, trong dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, phía Trung Quốc có rò rỉ tin đồn là quyết định ấy dã được chính Mao Trạch Đông chuẩn y cho Vi Quốc Thanh. Nhưng cuối cùng, tại cuộc hội thảo ở Bắc Kinh, họ đã phải thừa nhận là bức điện này, ngày 27.1, Vi Quốc Thanh mới nhận được (bài viết này cũng thừa nhận ngày 27.1, nhưng trước đó lại trình bày lươn lẹo0. Có thể tham khảo tường trình về cuộc tranh luận này của nhà sử học Pháp Pierre Journoud Paris, Ha Noi, Pekin

10 Trung tá Charles Piroth (1906-1954) đã tham gia chiến đấu chống Đức. Ba lần sang Việt Nam trong hàng ngũ quân đội thực dân. Lần đầu, trong một trận đánh ở Thủ Dầu Một (tháng 12-1946) bị thương, phải cưa cụt cánh tay trái (không gây mê). Trước khi trận Điên Biên Phủ bắt đầu, Piroth cam đoan sẽ dập tắt ‘đại bác của Giáp’ ngay từ giờ đầu (điều này chắc sẽ xảy ra nếu Võ Nguyên Giáp không sáng suốt và dũng cảm thay đổi phương châm tiến công ngày 25.1.1954). Ngày 15.3, sau hai đêm và một ngày, pháo binh của Piroth hoàn toàn bất lực trước hoả lực của QĐND, không làm sao bảo vệ được các cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Trung tá Piroth đi một vòng xin lỗi chiến hữu (C’est ma faute !), trở về boong-ke, rút chốt lựu đạn đeo trước ngực. Bộ chỉ huy của đại tá Christian de Castries giấu nhẹm tin Piroth tự tử vói binh sĩ ở Điện Biên Phủ, chôn cất Piroth ngay trong hầm. Nhưng báo chí Pháp được tin (do một nguồn tin “ẩn danh” báo qua vô tuyến) và khi báo Pháp được thả dù tiếp tế xuống Điện Biên Phủ, tin này đã lan ra các đơn vị “quân dội Liên Hiệp Pháp”, tác động như một tiếng sét giáng vào tinh thần binh sĩ.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #39 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 05:34:40 pm »

ĐỒNG CHÍ TRẦN CANH TRƯỚC VÀ SAU CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI VIỆT NAM
Vương Nghiên Tuyền

Tháng 7 năm 1950, theo lời mời của chủ tịch Hồ Chí Minh – Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Chủ tịch cử đồng chí Trần Canh làm đại diện Trung ương Đảng sang Việt Nam, giúp Bộ Tổng Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức chiến dịch biên giới. Lúc bấy giờ, đồng chí Trần Canh đang giữ nhiều chức vụ : Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, Phó tư lệnh quân khu Tây Nam quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Tư lệnh quân khu Vân Nam, Tư lệnh kiêm chính uỷ binh đoàn số 4, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vân Nam, Chủ nhiệm Uỷ ban quân quản, đã nhận nhiệm vụ vẻ vang và gian khổ này trong tình hình Vân Nam vừa mới giải phóng trăm nghìn việc đang chờ giải quyết, bận rộn một ngày đêm.

 Khi đồng chí Trần Canh từ Côn Minh đi Việt Nam, đưa điều động 10 cán bộ cấp Đại đoàn ở cơ quan và bộ đội binh đoàn số 4 đi theo đồng chí. Tôi được điều động từ bộ đội đi theo đoàn, làm Tham mưu, thu thập tình hình, làm chút ít công việc cụ thể trước khi chiến đấu. Sau khi đến Việt Nam, khi cuộc chiến đấu sắp bắt đầu, vì đồng chí Ngô Hiệu Mẫn được binh đoàn số 4 cử làm cố vấn cho đại đoàn 308 quân đội Việt Nam bị ốm, cần có người khác thay, được Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam đồng ý, đồng chí Trần Canh và đồng chí Vi Quốc Thanh (nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam làm đoàn trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc) lập tức cử tôi làm cố vấn đại đoàn 308. Do nguyên nhân trên tôi may mắn được tiếp xúc với đồng chí Trần Canh trong mấy tháng, tôi đã được giáo dục chủ nghĩa quốc tế và giáo dục tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông sâu sắc từ trong thực tiễn cụ thể của đồng chí Trần Canh.


Thứ nhất, mẫu mực của chủ nghĩa quốc tế vô sản, ân cần dạy dỗ, hành trình gian khổ, nói và làm nhất trí.

Đồng chí Trần Canh dẫn đoàn chúng tôi hơn 170 người (bao gồm phân đội cảnh vệ, phân đội vận tải, vận tải những thứ tặng lãnh đạo Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ngày 7/7/1950 xuất phát từ Côn Minh, tối 14/8 thì đến Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam ở Đại Phi, huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng Việt Nam. Trong hơn một tháng đó, ngoài việc từ Côn Minh đến Khai Viễn đi tàu hoả, từ Khai Viễn đến Vân Sơn ngồi ôtô ra, chặng đường còn lại đều đi ngựa hoặc đi bộ. Lúc này đang là mùa mưa, trời tối sầm và mưa râm liên miên, mưa to xối xả, những nơi đi qua đều là đồi núi và ruộng lúa ngập nước, rất nhiều lúc ngựa cũng không cưỡi được, đành phải đi bộ.

 Hai chân của Trần Canh đều bị thương nặng trong chiến tranh trong nước, chẳng phải nói con đường khó đi như thế, ngay cả đi con đường bình thường cũng đã là vất vả và đau đớn. Sau khi xuất phát từ huyện Vân Sơn được ba bốn ngày, thì bệnh đau răng của đồng chí Trần Canh tái phát, đau đến mức đêm không ngủ được. Tuy vậy, đồng chí vẫn kiên trì hành quân cùng với các đồng chí, mọi người đều lo lắng cho sức khoẻ và an toàn của đồng chí. Tỉnh lỵ các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn v.v... ở Việt Nam mà chúng tôi đi qua lúc bấy giờ, tuy đều nằm trong vùng kiểm soát của quân đội Việt Nam, nhưng từ Hà Giang đến Tuyên Quang, từ Tuyên Quang đến nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lại ngược bắc lên huyện Quảng Uyên của Cao Bằng, trên thực tế đều hành quân trong tình hình sẵn sàng chiến đấu, lúc nào cũng phải đề phòng địch oanh tạc và đặc vụ địch tấn công. Đồng chí Trần Canh chịu đựng những cơn đau răng dữ dội, lê đôi chân bị thương nặng hành quân sẵn sàng chiến đấu trong mùa mưa dài. Ngoài việc hằng ngày tiếp xúc các đồng chí đón tiếp của Chính quyền, bộ đội địa phương, còn tranh thủ mọi thời cơ thu thập tình hình mọi mặt của quân Pháp và Việt Nam, chẳng kể ngày đêm suy nghĩ vấn đề hỗ trợ Việt Nam đánh thắng chiến dịch lúc bấy giờ, đồng thời quan tâm tất cả các đồng chí cùng đi về chính trị, công tác, an toàn, đời sống.

Trước khi xuất phát từ Côn Minh, đến 1/11/1950 hoàn thành nhiệm vụ rời Việt Nam về nước, đồng chí Trần Canh thường xuyên nhấn mạnh với tất cả các đồng chí Trung Quốc đã tiếp xúc với đồng chí : Chúng ta nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh cử chúng ta sang Việt Nam chấp hành nhiệm vụ quốc tế. Chúng ta phải tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân các dân tộc Việt Nam toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân Việt Nam, tôn trọng sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắc phục mọi khó khăn trở ngại. Không tiếc bất cứ hy sinh nào, dốc hết tâm sức hoàn thành mọi nhiệm vụ Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch giao cho chúng ta, phải xử lý tốt quan hệ đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam, bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, tuyệt đối không được phụ lòng mong đợi của Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch. Đồng chí Trần Canh giáo dục chúng tôi như vậy, đồng chí tự làm gương trước, nén chịu cơn đau thương tật và mệt nhọc trên đường đi, dốc toàn bộ tinh lực vào điều tra nghiên cứu, vào suy nghĩ vấn đề tác chiến chống đế quốc Pháp xâm lược quan hệ đến lợi ích lớn nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam, vào việc hỗ trợ Việt Nam đánh thắng chiến dịch Biên Giới.

Trước khi đồng chí Trần Canh sang Việt Nam, tháng 5/1950 đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực của QĐNDVN hơn 10.000 người đã đến tập kết tại vùng Nghiên Sơn, Vân Nam, nhận vũ khí, trang bị, khí tài, trang phục v.v... của Trung Quốc viện trợ, tiến hành chỉnh huấn trước chiến dịch biên giới dưới sự hỗ trợ của binh đoàn 4 Quân Giải phóng. Quân Khu Vân Nam, binh đoàn 4 cử nguyên Tư lệnh biên khu Vân Nam – Quý Châu, Phó tư lệnh quân khu Vân Nam, Trang Điền và quân đoàn trưởng Chu Hy Hán, quân đoàn phó Trần Canh quân đoàn 13 binh đoàn 4, dẫn cán bộ của một đại đoàn từ đại đoàn đến trung đội của một sư, hỗ trợ đại đoàn 308 công tác hai tháng ở doanh trại Nghiên Sơn. Ngày 10/7, ngay sau khi đồng chí Trần Canh đến Nghiên Sơn, lập tức thu thập tình hình của Ngô Hiệu Mẫn, được binh đoàn 4 cử làm cố vấn đại đoàn 308 báo cáo ; nghe Song Hào – chính uỷ đại đoàn 308 và chính uỷ Trung đoàn 165 trung đoàn chủ lực trên chiến trường Tây Bắc quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình ; nghe Trang Điền, Chu Hy Hán hỗ trợ mọi mặt công tác cho đại đoàn 308 trao đổi tình hình, nghiên cứu quyết định ngay tại chỗ những vấn đề cần giải quyết, thảo luận vấn đề chiến dịch mà quân đội Việt Nam sắp bắt đầu.

 Lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam đã xác định cần tập trung đại đoàn 308 và hai trung đoàn 174, 209 do Bộ Tổng trực tiếp nắm, tiến hành chiến dịch biên giới ở phía Việt Nam, biên giới Trung – Việt, nhưng hướng chính của chiến dịch liệu có phải ở vùng Cao Bằng chiến trường Đông Bắc hay không thì vẫn chưa có quyết định cuối cùng. Sau khi sư 308 được chuẩn bị trang bị, huấn luyện ở Vân Nam thì xuất kích đánh Lào Cai. Đồng chí Trần Canh căn cứ vào tình hình tìm hiểu được, cho rằng hướng chính của chiến dịch nên đặt ở vùng Cao Bằng, chiến trường Đông Bắc, đồng thời báo cáo ý kiến đó lên Quân uỷ Trung ương, Mao Chủ tịch và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng quân đội Việt Nam cũng quyết định rất nhanh đặt hướng chính của chiến dịch ở vùng Cao Bằng chiến trường Đông Bắc, coi vùng Lào Cai của chiến trường Tây Bắc là hướng phụ của chiến dịch.

Ngày 20/7, Trần Canh cùng đoàn từ biên giới huyện Ma Li Phô đi vào địa phận tỉnh Hà Giang. Dọc đường, đồng chí Trần Canh tiếp xúc với nhiều cán bộ phụ trách quân chính Việt Nam, lại hiểu được nhiều tình hình của quân xâm lược Pháp và địa phương, quân đội Việt Nam, còn tiếp xúc với bộ đội của trung đoàn 165 quân đội Việt Nam ở Vĩnh Tuy giữa Hà Giang – Tuyên Quang. Căn cứ vào tình hình và vấn đề mà cán bộ phụ trách quân chính Việt Nam cho biết, đồng chí Trần Canh cảm thấy quân đội Việt Nam chưa xác định rõ ràng mục địch chiến dịch sắp tiến hành, các đồng chí rất ít bàn đến vấn đề làm thế nào để tiêu diệt sinh lực địch, giành chủ động chiến trường; mà nói nhiều đến đánh chiếm Lào Cai như thế nào, đánh chiếm Cao Bằng như thế nào, tập trung vào đánh lấy thành phố, thị trấn, đánh lấy địa phương. Đồng chí Trần Canh qua nhiều suy nghĩ trăn trở, cho rằng đây là vấn đề lớn quan hệ đến tư tưởng chỉ đạo tác chiến cần phải sớm giải quyết, vì thế trước khi vào địa phận tỉnh Tuyên Quang, đã gọi điện ngay cho La Quý Ba đang ở chỗ Chủ tịch Hồ Chí Minh (theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam làm cố vấn chính trị, về sau làm Đại sứ ở Việt Nam), trao đổi với đồng chí giải quyết vấn đề này như thế nào,
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM