2- Núi An Hoạch. Chùa Báo Ân
Chừng hai cây số phía tây thành Thanh Hóa, có làng
An Hoạch, kề đường cái đi làng Sim. Hiện nay, làng có một ngôi chùa cổ, ở phía bắc con đường ấy. Cửa Tam quan cũng là lầu chuông. Cửa khi nào cũng đóng. Nhìn qua rào thưa, ta thấy vườn rộng. Trông xa có nhà bái đường lợp tranh. Đường lên chùa có bậc đá. Trông vào thì bên tả thấy có hai bia, một bia to cao, dựng gần bên lối vào.
Bia rất mòn, nhưng ở ngạch còn tám chữ to và rõ AN HOẠCH SƠN BÁO ÂN TỰ BI MINH, nghĩa là bài minh của bia chùa Báo Ân ở núi An Hoạch.
Đó là một ngôi chùa dựng lên trong lúc Lý Thường Kiệt còn trấn Thanh Hóa. Bia tuy mờ mất niên hiệu và mất tên người dựng. Nhưng cũng còn đọc được. Nó cho ta biết nhiều điều rất quí về Lý Thường Kiệt.
Núi An Hoạch thuộc núi Nhồi, là dãy núi Lèn ở phía tây nam Thanh Hóa. Ở chân núi, có làng Nhồi, tên chữ là Nhuệ Thôn. Dân làng chuyên mộ làm nghề lấy đá ở núi để làm bia, khánh, cối xay, trục lăn, tượng. Nghề ấy có đã lâu đời. Đời Tấn (265-418), thái thú Dự chương là Phạm Ninh sai sứ tới Cửu Chân lấy đá làm khánh; tức là lấy ở đó.
Theo bia Báo Ân, thì “năm Nhâm Tuất (1082), vua Lý Nhân Tông đặt riêng một quán ở Thanh Hóa, ban cho Lý Thường Kiệt, để phong ấp. Thường Kiệt ra đó, coi việc quân dân. Các đầu mục đều theo bóng, tất cả dân gian đều mến đức.
“Ông thấy ở phía tây nam quận lỵ, có quả núi cao và to tên là An Hoạch. Núi sẵn một thứ đá đẹp. Đá rất quý cho thợ. Màu sáng như ngọc lam, chất xanh như khói mới lên. Tạc làm đồ dùng rất dễ, làm khánh đánh rất kêu, làm bia rất bền. Ông bèn sai một người quản giác tên là Vũ Thừa Thiết đem dân Cửu Chân tới núi ấy để lấy đá.
“Ông coi quận trong 19 năm (1082-1101) nay. Dân kính mến. Giặc sợ hãi. Dân tự nghĩ rằng, đó là nhờ Phật tế độ cho dân qua bể khổ, mà dân chưa lấy gì báo đáp. Bèn chọn chỗ này; xảy cỏ dựng chùa, đặt tên là chùa Báo Ân. Đắp tượng vẽ đồ. Chùa bắt đầu làm năm Kỷ Mão, (1099) đến năm sau Canh Thìn (1100) thì xong.
“Chùa ngoảnh mặt về hướng nam. Đất là huyện Cổ Chiến. Sau chùa có núi
Tường Phượng. Gần mé sau, có núi Bạch Long, trước chùa có sông chảy ngang; phía tả chảy về phương đông, tới sứ
Phàn Dịch; phía hữu chảy về núi
Nghiêu Nhạc. Trước cửa có giếng đá, trông ra có hai tảng đá nhọn đứng. Bên cạnh có cầu”. (BA)
1.
Trên đây là theo văn bia mà tả. Ngày nay con sông lại chảy quanh sau chùa; có lẽ bị chữa về địa lý. Phía đông sông chia ra hai nhánh, một nhánh xuống qua làng Bố Vệ cạnh đền vua Lê rồi ra sông Mã, một nhánh chảy về phía nam, hợp với sông Hoàng Giang. Phía tây sông bị lấp tại làng Phủ Lý. Sông ấy là sông sóng Bồn. Theo sách
Thanh Hóa kỷ thắng chép lại, thì khi xưa, sông ấy thông với Lễ Khê chảy từ Lương Giang ra. Tục truyền rằng có một bà Thái hậu đời Trần, thấy nước Lễ Khê ngọt, cho rằng đất ở đó có thể phát vua, bèn lấp sông ấy.
Tuy rằng bia Báo Ân mất niên hiệu, nhưng theo năm làm chùa xong là năm 1100, và theo câu nói Lý Thường Kiệt coi quận trong 19 năm nay, thì ta thấy rằng bài bia làm năm Hội Phong thứ 9, Canh Thìn 1100. Vậy bia này là bia bằng chữ Hán xưa nhất còn thấy ở nước ta.
Mà chùa cũng rất đáng chú ý, vì trong chùa còn những tượng rất xưa. Như trên đã nói, hạ đường chỉ là một nhà tranh, nhưng thượng đường lợp ngói. Trong có một pho tượng đất cao gần hai mét, xưa thiếp vàng, nay lớp vàng đã phai hết, chỉ còn lớp sơn đen, nhưng trông rất đẹp. Pho tượng lại ngồi trên tòa sen. Tòa sen đặt trên lưng một con vật bằng đá, điêu khắc rất tinh xảo. Con vật ấy, đầu hình đầu lợn, có nanh, mắt hung dữ; chân có vuốt nhọn, đuôi to hình lông xoắn ốc. Cả pho tượng và con thú ấy đặt trên một bệ đá, có lẽ mặt trước có điêu khắc nhưng nay đã bị người ta xây một bệ khác che khuất. Ở hai góc, còn lòi ra một phần, và góc ấy có hình
aguda tức là vị thần, thân người đầu chim, có cánh, chân có vuốt, tai đeo khuyên, ngực đeo chuỗi hạt, lấy đầu và hai cánh đỡ trên mặt bệ. Kiểu điêu khắc ấy như kiểu nay còn thấy ở cổ vật Chàm, mà người ta cũng thấy ở một vài chùa ta. Chắc rằng đó là do ảnh hưởng của các thợ Chàm, mà ta bắt đem về đời Lý Thánh Tông. Những bức chạm ở đây rất có thể là do người Chàm mà Lý Thường Kiệt đã đem về năm 1069, hay là những học trò thợ ấy. Đó là một chứng cho ta tin rằng bệ đá, và có lẽ tượng đất, là từ đời Lý để lại.
Trong chùa còn có nhiều bệ con; trong số ấy, có một cũng chạm
aguda ở góc. Các tảng đá kê cột cũng chạm hình hoa sen. Chắc xưa chùa to, nay những tảng đá còn lại, to không hợp với những cột nhỏ bé ngày nay. Nếu phá được cái bệ mới thêm vào trước bệ chính ở chùa, thì ta có lẽ thấy những bức chạm khác hay là những dấu chữ xưa.
Ngoài sân đền, còn có một cái khánh đá cũ, nhưng nay bị vỡ. Xem kỹ, không thấy có nét gì. Tên chùa này có nghĩa là báo ơn Phật, mà Phật thì cũng dễ nhắc công Lý Thường Kiệt như ta thấy trong lời tán dương ông ở một chương trên (VIII/8 )
3- Núi Ngưỡng Sơn. Chùa Linh Xứng
Hai chùa trên, tuy có liên quan mật thiết với Lý Thường Kiệt, nhưng không phải tự ông tự dựng lên. Các bia ở hai chùa ấy, tuy có ghi công ông, nhưng cũng không chuyên để tán dương ông. Ở Thanh Hóa còn có một chùa mà tự ông dựng lên, và ta có thể gọi là chùa Lý Thường Kiệt. Ấy là chùa
Linh Xứng.
Chùa Linh Xứng ở núi
Ngưỡng Sơn cạnh đền Lý Thường Kiệt, mà tôi đã tả (VIII/7). Núi Ngưỡng Sơn là một núi nhỏ, đất đá hỗn tạp, ở bờ phía bắc sông Lèn (tên chữ Chùy Giang), cách phía tây cầu hỏa xa Đò Lèn chừng hai cây số. Núi ở làng Ngọ Xá, xưa thuộc huyện Vĩnh Lộc, nay thuộc phủ Hà Trung. Núi thấp không dính với núi xung quanh. Phía nam núi có đường đê và sông. Phía bắc núi là một cánh đồng sâu, xung quanh toàn núi. Ở giữa cánh đồng ấy có vài núi nhỏ, có tiếng nhất là núi Chương Các. Phía đông núi là đồng bằng, kéo dài cho đến dãy núi nhỏ ở phủ Hà Trung. Còn phía tây thì rất gần dãy núi cuối cùng của dãy Kim Sơn thuộc Vĩnh Lộc. Đứng phía tây ngắm lại, núi có hình người đàn bà nằm ngửa. Người ta nói vì vậy mới đặt tên là Ngưỡng Sơn.
Đối với trấn lị Thanh Hóa đời Lý. Ngưỡng Sơn khá gần, “chỉ cách năm dặm, phảng phất như ở trong thành quận” (LX). Tên làng sở tại, đời Lý là làng Đại Lý. Tên Đại Lý bây giờ còn, ấy là làng phía nam sông Lèn, đối ngạn với làng Ngọ Xá. Đời Lý, làng ấy rất to (LX), chắc nó gồm cả vùng bắc và nam sông. Đến đời Trần, phần bắc đã đổi tên ra Đại Lại
2.
Chùa Linh Xứng nay không còn nữa. Nhưng bia chùa, dựng đời Lý vẫn còn. Dân xã đem để trên thềm đền Lý Thường Kiệt. Bia ấy dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 7, năm Bính Ngọ (1126), nghĩa là 21 năm sau khi Lý Thường Kiệt mất. Tác giả bài văn bia là đại sư
Hải Chiếu, tên Pháp bảo, trù trị chùa Phúc Diên tư thánh, kiêm coi công sự ở Thanh Hóa. Đại sư là một thuộc hạ ông. Bia chép khá rõ sự nghiệp của ông, và kể rất tường tận sự ông xây dựng lên chùa Linh Xứng. Văn bia lại rất dài, bia khắc hai mặt, chữ chân phương rất tốt, nét rất rõ. Tuy bia không có chạm trổ trang sức như các bia khác đồng thời, nhưng hàng chữ triệu đề trán bia khá đẹp, và con rùa đội bia rất đơn giản nhưng mỹ thuật.
Nay theo lời bia, ta biết gốc tích chùa Linh Xứng và lòng sùng Phật của Lý Thường Kiệt khi ở Thanh Hóa thế nào.
Ban đầu đời Anh vũ chiêu thắng, vua Lý Nhân Tông ban cho ông hiệu Thiên Tử nghĩa đệ. Ông ra coi các việc quân, dân ở Ái Châu, quận Cửu Chân, trấn Thanh Hóa (theo bia BA thì năm 1082, Anh vũ chiêu thắng thứ 7, ông ra Thanh Hóa). Tuy thân vướng tục, nhưng lòng đã quy y. Ấy vì vua và mẫu hậu (thái hậu) tôn sùng đạo Phù đồ: ông vâng ý hai thánh giúp đỡ đạo trời rất nhiều (LX).
Bấy giờ có vị sư hầu thái hậu, là
Sùng Tín trưởng lão, từ kinh tới thăm quận.
Vị trưởng lão ấy là ai? Xét sách TUTA, thì có lẽ trưởng lão là
Mã giác đại thư3 Đại sư sinh năm 1052, là con viên ngoại lang Lý Hoài Tố, người đi sứ Tống năm 1073, (TUTA chép họ
Nguyễn, vì kiêng húy đời Trần; đây theo TB). Lúc nhỏ, học Nho và Thích đều giỏi. Vào khoảng năm 1071, được chọn vào cung dạy hoàng tử Càn Đức mới lên 6 tuổi. Ông bấy giờ mới 20 tuổi, nhưng đã nổi tiếng là học rộng nhớ nhiều. Tuy còn trẻ, ông đã có ý đi tu. Sau khi Càn Đức lên ngôi, thái hậu ban cho ông hiệu
Hoài tín. Trong đời Anh vũ chiêu thắng ông dâng biểu đi tu, chừng vào năm 1077. Chẳng bao lâu nổi tiếng, và thành vị lãnh tụ các sa môn. Vua và thái hậu dựng chùa bên cung Cảnh Hưng mời sư về ở, để tiện việc hỏi han về đạo. Vua và thái hậu thường không gọi tên, mà chỉ xưng là
trưởng lão, tuy rằng sư mới chừng hơn 30 tuổi mà thôi. (TUTA)
____________________________________
1. Sách ANCL có chép rằng phủ Thanh Hóa có giáp Cổ Chiến, theo bia BA, thì giáp ấy là đất Đông Sơn.
2. Cuối đời Trần, sử chép tên sông Lèn là Đại Lại, làng ở phía bắc sông là làng Đại Lại, núi ở phía bắc Ngưỡng Sơn là núi Đại Lại. Chắc đó là biến danh của Đại Lý. Làng Đại Lại là quê của Hồ Quý Ly. Năm 1398, Quí Ly dựng cung Bảo Thanh ở dưới chân núi Đại lại, để ép vua Trần Thuận Tông ở (TT ). Sau khi Quý Ly lên ngôi, thường hay về nghỉ mát ở đó. Dựng cung gọi là Ly Cung. Có bể tắm, xây đá, có chạm trổ rất đẹp. Bể tắm, thì lấy nước suối cho vào. Nay vết tích bể tắm còn. Nếu bới đất tìm vùng này, ta sẽ biết rõ nhiều điều về đời Trần Mạt. Cũng ở đó, có chùa Kim Âu, dựng đời Trần, nay còn bệ đá điêu khắc rất đẹp, và một pho tượng Phật cổ, có lẽ từ đời Trần.
3. Mã Giác là tên thụy, nghĩa là tên được vua ban cho, sau khi sư đã mất. Húy của sư là Trường. Lúc bé sư vào hầu Càn Đức, Thái hậu rất yêu. Cho nên sau khi Càn Đức lên ngôi, thái hậu lại ban hiệu cho ông là Hoài tín. Sau khi sư đi tu nổi tiếng thái hậu lại mời vào chùa Giáo Nguyên trong cung. Thái hậu không gọi sư bằng tên, mà chỉ gọi bằng trưởng lão. Theo những điều mà TUTA chép trên, thì đang lúc sinh thời, Mãn Giác mang hiệu Hoài tin trưởng lão. Hiệu ấy so với hiệu Sùng tin trưởng lão, chép trong bia LX, có khắc chữ Hoài. Nhưng hai hiệu nghĩa như nhau. Ta có thể đoán rằng, hai trưởng lão kia chỉ là một. Có lẽ, đời Trần có kiêng tiếng Sùng (XV/cth I) cho nên TUTA mới đổi ra Hoài như thế.
Xét tên, xét chức, xét địa vị của Sùng Tín trưởng lão và Hoài tin trưởng lão, ta có thể tin rằng hai người là một. Vậy, vị sư tới thăm Lý Thường Kiệt, năm 1085, ở Thanh Hóa, chính là Mãn Giác đại sư.