Đúng rồi, người ta hay nói đến Mosin, AK mà chả thấy ai nói đến đạn mấy.
Mosin có đạn ngày nay là 1908/30. Đạn 1908 là đạn có đầu nhọn uốn trục, còn trước đó là đạn hình trụ trục cố định như M16. Năm 1930 sử dụng thuốc cháy đều hơn và đạn cũng nhẹ hơn, cải thiện đường đạn. Đạn AK thì phát triển đâu đó mãi mới xong. Thật ra, những AK-46, AS-44 ban đầu chưa mạnh lắm.
Nhưng mình ít được đọc về đạn, chỉ toàn thấy nói đến súng.
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=654.msg24242#msg24242ở đây đã nói sơ về Fedorov Avtomat rồi, ở đây nói kỹ lại chút.
Buồn cười cái giai thoại MP44 là anh AK nhan nhản trên Internet dùng nhồi sọ liệt não. Người Đức thì từ nguyên thủ quốc gia cho đến các trang web, từ hồi chiến tranh cho đến nay... từ thằng thiết kế ra cho đến thằng dùng, đều bảo STG44 là MP44, là súng ngắn, nhưng các anh liệt não nói tiếng Anh cãi bằng được đó là súng trường.
Thật ra, không giấu được thái độ đê tiên trước vinh quang chói ngời của AK, nên các anh mới bĩu môi AK không có gì mới, chỉ là học của MP44 mà thôi. Nếu máy AK không có gì buống với bất cứ cái gì của MP44, thì AK học cái nguyên lý ?? ví dụ:
Senich, Peter R., The German Assault Rifle 1935 - 1945, Paladin Press (Boulder, Colorado, 1987) Bọn chầy bửa cùn hèn bất chấp cả việc Hitler đã chính thức về MP44 như trên.
Chính Hitler đã phân ra ba chức năng của bộ binh, mà vào năm 1959, AK thực hiện toàn diện. Đó là súng máy trợ chiến, súng trường và vũ khí xung phong. Cái hơn của ÁK là nhập vũ khí xung phong vào súng trường. Còn Hitler tách biệt ra bằng MP43 và K43, do không làm được súng trường nhẹ mà vẫn mạnh.
Thật ra đây là kết quả của chuyện bè phái bên Đức thôi. Các khẩu Mkb42, MP42H, MP42W tuy xuất xứ khác nhau nhưng.... giống nhau. Bè phát dốt nát đã thiết kế khẩu súng mang dáng vẻ mới nưng được tập hợp từ những chi tiết cổ lỗ và quan trọng hơn, biến súng trường M35 thành súng ngắn MP44.
---------------
Nhìn về lâu hơn. Người Pháp đã có ý tưởng thiết kế các súng trường bắn nhanh từ đầu thế kỷ. Nhưng người Pháp chỉ giỏi các ý tưởng để tán nhảm với các quý cô hở lưng, chứ không giỏi toán học và thiết kế, thử nghiệm và sử dụng trên chiến trường. NHìn chung, cuối tk19 và đầu tk20, vũ khí Pháp có rất nhiều ý tưởng tiến bộ, nhưng không được đầu tư quy mô lớn và các nhà khoa học cũng thiếu kiên trì sâu sắc để hoàn thiện các ý tưởng.
Khẩu súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới, Fedorov Avtomat ra đời trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, ngược hoàn toàn với MP44 được vào cạ của Hitler. Thời kỳ 190x, chính phủ Nga suy đồi, bọn con buôn giống như ở nước vịt nào đó, vừa ngu si, vừa có chỗ ngồi tốt, chỉ thích ném các hợp đồng ra nước ngoài ăn tiền cho gọn.
Cũng như AK, Fedorov là một người lính. Ông thiết kế súng không đơn thuần là một nhà khoa học, mà đứng trên các quan điểm của người lính. Phát minh ví đại của ông là súng trường tấn công, loại súng trường tự động nhẹ bắn được khi đang chạy.
Valadimir Grigorevich Fedorov ( Владимир Григорьевич Фёдоров ) sinh năm 1874 , năm 1900 tốt nghệp Học Viện Pháo Binh Mikhailovskaya (Sau cách mạng là Học Viện Kỹ Thuật Quân Sự Leningrad, hiện sát nhập vào Học Viện Tên Lửa Военная академия им. Ф. Э. Дзержинского ), ông về làm việc tại Bộ tham mưu Pháo Binh với chức vụ Đại Úy. Sau Cách Mạng, ôg tham gia nhiều việc trong khoa học chế súng, làm việc tại Kobrov, đạt danh hiệu Tiến Sỹ 1940, Anh Hùng Khoa Học 1928. Sau Thế Chiến II, ông đã làn thành viên của Viện Khoa Học Pháo Binh (cấp bậc Viện sỹ là lớn nhất với một nhà khoa học ở Nga và Liên Xô)
Giai đoạn đầu: những nhà khoa học hy sinh thân mình, và giống nhau ở một điểm, sau này đứng về phía Cách Mạng.Khoảng năm 1906, Fedorov bắt đầu phát triển một súng bộ binh mới. Ban đầu, ông chỉ dự kiến phát triển một súng trường chiến đấu bắn nhanh. Tuy nhiên, dưới con mắt của một nhà quân sự, ông đã nhìn thấy những khác biệt trong thực tế chiến đấu khi có một súng trường bắn liên thanh, và đã đặt những yêu cầu kỹ thuật chính xác, rồi thực hiện khẩu súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới.
Lúc đó, có nhiều súng cá nhan bắn tự động, nhưeng chúng sẽ chỉ phát triển thành súng trường tự động, trung liên, mà không nhà thiết kế nào đủ trình độ cả kỹ thuật và quân sự như Fedorov để cho ra súng trường tấn công.Đây cũng là khẩu súng máy đầu tiên Nga sản xuất số lượng kha khá. Lúc đó, ngay cả Mosin cũng bị bán các hợp đồng chủ yếu ra nước ngoài.
Năm 1907, Fedorov hoàn thành nhiều bản vẽ trong phác thảo và gọi súng của ông là Avtomat, như là cách gọi tắt, sau này được dùng như một từ truyền thống ở Nga.
Đây là thời kỳ khó khăn, rất nhiều nhà khoa học tài ba lúc đó phát triển vũ khí, nhưng không nhận được hỗ trợ gì về tiền bạc, khoa học và sự công nhận của chính phủ, quân sự hay công nghiệp. J. W. Roschepeem, PN Frolov, FV Tokarev, VA Degtyarov... là những nhà khoa học đó. J. W. Roschepeem gọi đó là "thời kỳ hy sinh toàn diện". Các nhà khoa học tự phát triển kỹ thuật bằng chính khả năng của mình. Chính trong công việc, Fedorov đã quen biết, quan hệ và nhận sự giúp đỡ kỹ thuật của nhà chế súng phi thường Vladimir Fyodorov. Qua đó, ông đặt quan hệ thân tình với nhóm các nhà chế súng tiên phong, sau này họ cùng phục vụ trong chính quyền mới và chế tạo ra những vũ khí chủ lực của Hồng Quân.
Nhiều nhà khoa học cố liên lạc với chính quyền, quân đội và công nghiệp để thể hiện các phát triển của họ, yêu cầu trợ giúp. Trong đó, FV Tokarev, VA Degtyarov được đánh giá là có những tiến bộ tốt. Nhưng tất cả đều vô vọng.
May hơn là Fedorov. Ông liên lạc được với Fyodorov. Fyodorov đã chế tạo súng có hộp đạn trong cùng cuộc đua với Mosin, năm 1905 ông đã rất sớm phát triển súng nạp đạn tự động. Qua đó, NM Filatov và Degtyarev cùng tham gia các ván đề tính toán khoa học và khóa nòng. Bản vẽ chi tiết hoàn thành năm 1906 với 54 chi tiết, so với Browning BAR 74 chi tiết. Súng có hộp đạn trong 5 viên. Việc thử nghiệm súng tiến hành chậm chạp từ 1909-1912. Có nhiều tiến trình thử nghiệm khác nhau về khả năng chịu đựng, khả năng bắn... và Fedorov nhận được Huân Chương Mikhailovskaya Vàng, Hoaan chương cho kỹ thuật súng ống 5 năm trao một lần, liền trước chính là Mosin.
Phiên bản súng này dùng đạn Mosin thường và Xường Sestroretsk nhận nhiệm vụ chế tạo 150 khẩu thử nghiệm đầu tiên cho bước kiểm tra tiếp theo. Sau những xem xét thử nghiẹm "sơ sơ", tính ra, lần thử nghiệm đầu tiên là năm 1911 và Hôi đồn súng trường quyết định lần sau là 1913.
Cũng trong thời gian này, khoa học quân sự Thế gới chứng kiến nhiều thay đổi về súng cá nhân. Madsen ( Đan Mạch , 1896) là một trong những khẩu súng trường tự động đầu tiên, được quân Nga sử dụng và thích thú. Madsen Say này trở thành nguyên tắc cho các trung liên. Nhược điểm của Madsen là súng lớn, 10kg.
Các cuộc giáp lá cà ở chiến tranh Nga Nhật cũng cho các nhà khoa học thấy cấp thiết sử dụng đạn nhỏ hơn. Lúc đóa, giáp lá cà không sử dụng được súng trường và chỉ dùng lựu đạn, lê, súng ngắn.
Đây là những vẫn đề tiên quyết của nguyên lý súng trường tấn công. Thêm nữa, vào thời điểm đó, việc thu nhỏ đạn đang là thời trang. Lúc đó, không ít nước dùng cỡ đạn 6,5mm như Hy Lạp, Na Uy, Thụy ĐIển, Ý và Rumania, nên việc quyết định dùng đạn nhỏ khá dễ dàng.
Năm 1913, ông sử dụng loại đạn do ông thiết kế. Đầu đạn chóp chọn đường đạn nặng 8,5 gram, sơ tốc 850 m/s . (Trước thời gian đó, đạn chóp nhọn cho Mosin được quyết định dùng ở Nga M1908 ). Đạn mới chứng minh hiệu quả tốt, súng ít giật hơn và bắn liên thanh tốt hơn. Đầu đạn bọc đồng mềm. Cái tiến bộ của đạn là bỏ gờ móc, hiện đại hơn Mosin. Năng lượng đầu đạn 3140 Joules so với kiểu Mossin là 3600 - 4000 và cao ngang đạn cỡ NATO 7,62x51 sau này. Kiểu đạn này sau được gọi là 6,5mm Fedorov. Xường Sestroretsk nhận được đơn đặt hàng 20 khẩu súng bắn đạn mới để thử nghiệm. Phiên bản súng này chưa có băng tháo rời, nhưng đã có kẹp đạn, (không có kẹp đạn thì phải lắp từng viên vào ổ đạn, có kẹp đạn thì lắp sẵn trong kẹp đạn rồi tống cả vào). Tuy nhiên, chiến tranh nổ ra và các nhân viên Hội Đồng Súng Trường bận rộn ném chương trình vào tủ cất kỹ.
Giai đoạn sau, súng được chấp nhận.Sau gần chục năm phát triển, súng được thử nghiệm ỉu xìu rồi đình lại.
Thế nhưng, ánh sáng bừng lên sau 2 năm công việc đình đốn. Thực tế chiến tranh nhanh chóng chứng minh những điểm cần thiết của chiến thuật. Trong khi đó, bọn đỉa hút máu công nghiệp và các nhân viên quan liêu cũng không thể tác quái được như thời bình. Các nhà quân sự đặt ra nhiều tính huống để yêu cầu kỹ thuật, hậu cần. Có hai tình huống đáng chú ý.
Một là, trận đấu súng trường tay đôi, mà ngày nay là súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa. Địch có những chỗ quan sát kín, từ đó, chúng gọi súng máy và pháo nã vào khu vực các xạ thủ bắn tỉa. Yêu cầu cân tăng tốc độ bắn để tiêu diêt những con cú vọ trước. Đồng thời cú vọ nhà ta cũng cần khẩu súng gọn gàng hơn dễ ẩn mình.
Hai, điều quan trọng này đã đặt ra từ chiến tranh Nga-Nhật. Đó là cuộc chiến giáp lá cà. Đặc biệt là trong hào chật, tốc độ bắn súng phải cao, các mục tiêu xuất hiện đột ngột liên tục, xạ thủ phải bắn liên tục ở tầm rất gần không cần ngắm, không có thời gian kê súng và lên đạn. Trong tình huống đó, súng trường cổ điển không bắn được và chỉ có tác dụng khi lắp lê vào dùng như cây giáo. Nó vừa dài vướng, vừa bắn chậm, vừa đòi hỏi tư thế bắn quá đàng hoàng mà khi thực hiện xong thì đã chết rồi.
Về tầm súng, hiện đã có nhiều pháo và súng máy tầm xa, nên súng cá nhân chỉ còn cần đến ở tầm gần, chứ không ai nói bắn súng trường hiệu quả ở 1500-2000 mét nữa. Trong khi đó các súng trường hạng nặng tầm xa lại vướng víu, chỉ còn là cây giáo trong chiến hào, và đôi khi tác dụng không bằng dao găm. Khi dùng súng trường, hóa ra trong hào nên vứt súng trường đi mà dùng súng ngắn.
Việc thiếu súng mới sẽ dẫn đến chiến tranh quay lại thời kỳ Napoleon, với pháo dập và giáp lá cà, súng rất yếu như là vô dụng. Đây là một trong những nguyên nhân lớn nhất làm chiến tranh Thế Giới I sa lầy trong các chiến hào.
Người Nga đã chấp nhận nguyên lý chiến đấu (concept) súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới như vậy. Súng trường liên thanh như Maden hay Bar là trung liên, mà súng trường tấn công hoàn toàn khác.
Đứng trước sự sa lầy, người Đức đã phản ứng khác. Họ chế ra các súng ngắn bắn nhanh mà đại diện là MP18. Kiểu súng có nguyên lý chiến đấu MP này nay vẫn được sản xuất. Nhưng nó tầm quá gần, nó là súng ngắn, đánh lợi trong hào, không thể thay thế được súng trường.
Hội đồng cân nhắc ý kiến các chiến binh và yêu cầu Fedorrov thêm một số tính năng cho kiểu đã thử năm 1913.
Một là, nòng ngắn đi chút, súng có tay cầm trước để bắn được trên tay khi đang chạy , (ốp lót trước truyền thống của súng trường tiện bắn khi tỳ vai ngắm kỹ), tuy nhiên, thực tế sau này cho thấy, nếu chú ý huấn luyện tốt ngay từ đầu (loại bỏ các thói quen xấu), thì việc dùng ốp lót trong bắn ứng dụng trên tay vấn tốt hơn là tay cầm trước. Tuy vậy, yêu cầu này cho thấy, Hội Đồng đã đánh giá cao động tác bắn ứng dụng trên tay, một đặc điểm cơ sở của súng tấn công.
Hai là, lắp băng đạn tháo lắp nhanh, tăng đạn lên 25 viên
Ba là chọn chế độ bắn.
Đến năm 1916, Fedorov hoàn thành thiết kế theo yêu cầu mới và được yêu cầu đặt hàng 25 ngàn khẩu đầu tiên. Với các yêu cầu trên, Fedorov Avtomat đã trở thành khẩu súng trường tấn công thật sự.
Cho đến cuối chiến tranh, khoàng 3200 khẩu được sản xuất. Súng được đưa ra chiến trường và dễ dàng đánh giá được sự ưu việt của nguyên lý chiến đấu mới.
Việc thử nghiệm chiến thuật hồi đó đơn giản, lô súng đầu tiên được gửi đến lữ đoàn 189 mùa hè 1916. Ngày 1/12 năm 1916 , súng ra đến mặt trận, một đại đội 158 lính và 4 quan, mặt trận Rumania. Súng 6,5 Fedorov được dùng ở 10 đơn vị.
Đến lúc đó, đây là khẩu súng máy nhẹ duy nhất trên thế giới. Ngay cả chức năng súng trường của nó cúng tốt, súng làm việc tin cậy và bền (các chi tiết được thiết kế để sản xuất bằng công nghệ thô sơ, chi tiết nào cũng to tướng), bắn chính xác.
Do công nghiệp Nga tồi và bọn chủ tiền chỉ muốn bán cho gọn, một yêu cầu dở người là Fedorov phải thiết kế lại súng để dùng đạn 6,5mm Nhật. Đạn này yếu hơn, nhưng có thể mua từ Anh đang gia công cho Nhật, hiện đang dùng cho súng Arisaka 1895. Ban đầu, quyết định này không ảnh hưởng lắm đến súng. Nhưng chỉ trong tương lai ngắn sau đó, nó đã giết chết khẩu súng.
Hồng QuânSau Cách mạng Tháng 10 , Fedorov và các bạn mình đều đi theo Hồng Quân. Ông chuyển về nhà máy vũ khi ở Kovrov . Năm 1918, ông trúng cử trong một cuộc bầu cử và trở thành lãnh đạo nhà máy cùng Degtyarov. Ngay sau đó, họ bắt tay vào chế tạo DP và hàng loạt các kiểu súng khác.
Cách mạng đến nhưng số phận Fedorov Avtomat thật hầm hiu. Do súng dùng đạn Anh, nên sau cách mạng, súng bị cấm vận. Trong nội chiến Hồng Quân quá bận rộn và việc tổ chức sản xuất một số lượng lớn loại đạn lạ không được xem xét. Phiên bản dùng chung đạn Mosin vẫn được sản xuất nhưng, thế thì không còn gì là loại thế của súng trường tấn công nữa.
Trong nội chiến trước 1922, chỉ có rất ít hồi ký và báo cáo hiếm hoi nói đến Fedorov Avtomat.
Trong thập niên 193x, một cơ hội đến khi Stalin đè bẹp các đối thủ ngu dốt trì trệ lên nắm quyền, điều kiện tiên quyết cho AVT, AVS, YaK, T-34... phát triển. Một lần nữa loại đạn lạ lại không được chú ý.
Súng được trang bị trên xe tăng MC-1.
Trong chiến tranh Mùa Đông với Phần Lan, súng được trang bị cho bộ binh. Nhưng cũng là lần cuối cùng thấy súng tham chiến.
Đặc tính chính của súngDài 1045 mm
nòng dài 520 mm
Nặng: 4,4 kg rỗng
Băng: 25 viên
Đạn : 6,5x50SR Arisaka
Đánh giá : dạng máy lùi ngắn hay dùng cuối TK20 cho pháo bắn tự động. Nhưng có vẻ hiếm thấy dùng trên súng trường. Súng rất bền vì dạng máy này các chi tiết to tướng, cũng vì thế mà dễ gia công trong điều kiện yếu kém và giá thành chắc chăn là rất rẻ.
Súng dài hơn AK , vì vẫn hơi hướng súng trường cổ, cũng chưa có tay cầm sau (tay bóp cò). Nòng cũng dài, nòng AK dài 415 mm
Khối lượng hơn AK chút nhưng nhẹ hơn thể loại MP44 rởm đời. Đồng thời, năng lực đầu đạn vẫn cao.
Vấn đề băng rời đã được M1892 Mỹ thể hiện trong những cải tiến. Nhưng nó không thành đại trà vì thiếu tin cậy. Mình không hiểu, có lẽ, hồi đó cái băng rời khá nặng nên chỉ áp dụng trên các trung liên như Madsen.
Quan trọng hơnc ả là , tron những yêu cầu thiết kế, người ta đã đặt ra nhứng yêu cầu chính của một súng trường tấn công. Và do đó, hoàn thiện súng tức là hoàn thiện khẩu súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới.
Máy súng dạng lùi ngắn, các chi tiết to khủng bố, rất bền
Chiến ntranh Phần Lan