Trongc6
Thành viên
Bài viết: 495
|
|
« Trả lời #434 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2010, 01:00:30 pm » |
|
…. Thời gian ở Nam đường 23 xảy ra thật lắm chuyện. Vui cũng có mà buồn cũng có. Mùa mưa đang vào độ đỉnh điểm giữa mùa. Mưa nhiều hơn, kéo dài và liên tục hơn. Người lúc nào cũng ẩm ẩm. Đi rừng lúc mưa khó chịu lắm. Quàng áo mưa thế nào cũng ướt. Gấp đôi lại mà quàng phía trên thắt lưng thôi, không dám mở to vì sợ đi rừng cây nó cào vào rách hết nilon rồi sau lại không có cái mà dùng. (Tấm nilon của lính mình là tốt nhất. Bọn địch nó cũng có nilon là tấm vải dù quét nhựa. Loại này nhẹ mềm nhưng không chống được mưa to. Còn loại Pông-xô che mưa rất tốt nhưng nặng chình chịch, chả ai muốn dùng). Phía dưới ướt đã đành, mà đầu và cổ trước sau rồi cũng ướt. Lính tráng khi đó thằng nào cũng có một cái ví vỏ nilon để đủ các thứ linh tinh. Cần giữ khô nhất là cái bật lửa và cái túi con đựng thuốc lá. Chỗ tạm trú quân có đào hầm trên dốc cao, không bị ngập nước, nhưng hầu như chả ai chịu vào nếu không có pháo bắn. Ban đêm chúng tôi cứ mắc võng sát đó mà nằm. Chỉ có về đêm mới là thời gian riêng của mình. Duỗi thẳng chân tay trên võng cho nó đỡ mỏi, hay khoanh tay trước ngực để tự ủ ấm mình mà ngủ. Mơ gì tùy thích, nhưng nhiều khi đặt lưng lên võng là ngủ như chết. Sẽ quên đi tất cả nếu nửa đêm không bị thằng khác gọi dậy gác.
Lính Hà Nội chúng tôi vào đây mấy tháng rồi, nhưng hầu như chỉ có trong cùng C gặp được nhau, còn khác C và nhất là khác K thì chịu. Chẳng biết những thằng ở các C trên Trung đoàn thế nào. Một lần theo đại trưởng Băng về tuyến sau, tôi gặp bọn hỏa lực trung đoàn. Trong E tôi có 2 C hỏa lực. Một C có DKB và cối 120 ly. C khác có DKZ và 12ly7. Lần đó tôi gặp thằng Lân "xế lô" ở cối 120 ly. Chúng nó đi hướng Lào Ngam đường 231 về đến đó thì nhập chung với đường về của chúng tôi. Đó là một giông đồi rất cao gần huội Chăm Pi. Thằng Lân cũng chẳng cao to gì hơn tôi, vào C16 hỏa lực được ưu tiên vác cái núm "qui tỳ" của khẩu cối vì nó nhỏ con nhất tiểu đội cối. Lúc gặp nhau thấy nó lấm lem bùn đất đầy người, chào hỏi mà như mếu. Hóa ra nó đang đánh vật với cái núm qui tỳ. Đó chính là cái cục sắt có kim hỏa nằm ở cuối nòng khẩu cối, chỗ gắn với bàn đế. Cái cục đó tròn như cái cối đá nhỏ, nặng tới ba chục cân chứ không ít. Vì nó tròn nên rất khó vác. Dốc huội Chăm pi rất dốc và cao, đường từ huội lên đỉnh dốc phải tạo ngoắt ngoéo chữ chi cho dễ đi. Vì trời mưa, dốc cao, đường trơn nên thằng Lân bị trượt chân ngã liên tục. Mỗi lần như thế, cái cục qui tỳ lại lăn vào bụi rậm. Thế là lại phải hạ ba lô rồi chui vào vần ra. Cũng phải lên gân lên cốt mới kéo ra được chứ. Rồi lại đeo ba lô, lại dé chân chèo để bốc nó lên vai. Có lần thằng Lân "tối kiến" lấy dây dù buộc vào cái mấu (phần cắm vào đế cối) rồi quấn vào người với hy vọng khi ngã cái núm qui tỳ không lăn xa. Không ngờ ở chỗ dốc quá, khi ngã cái núm qui tỳ vẫn lăn lông lốc, còn sợi dây thì giằng vào cổ thằng Lân thít lại, suýt nữa thành treo cổ nằm ngang. Mấy thằng khác trong A cối cũng nặng nhọc không kém vì phải khiêng đế và nòng cối còn cồng kềnh và nặng hơn, nên chẳng giúp được gì cho thằng Lân. Gặp nó trong cảnh đấy, tôi cũng xáp vào cùng nó hì hục vần cái núm qui tỳ cho đến khi lên được tận đỉnh dốc. Người tôi cũng bê bết đất, mệt rã rời. Dạo trước lúc mới chia quân đôi khi thắc mắc là tại sao, tiêu chuẩn nào mà bọn thằng Lân, thằng Khiêm được bổ sung vào hỏa lực (luôn ở phía sau, sướng thế), còn mình lại vào bộ binh ở tuyến trước, gần hơn với cái chết. Sau vụ gặp và giúp thằng Lân vần cái núm qui tỳ lên dốc huội Chăm pi, tôi dẹp ngay cái suy nghĩ ấy. Sống chết có số. Nếu phải chết thì chết ở tuyến đầu sướng hơn, ít nhất là không phải hành quân chiến đấu quá vất vả như thế.
Chia tay thằng Lân, tôi phải gần như chạy mãi mới đuổi kịp đại trưởng Băng. Anh ấy xạc luôn sau khi tôi nói lý do bị rớt lại. Anh ấy bảo, "ai có nhiệm vụ người ấy, nhiệm vụ của cậu là bám sát tôi nghe lệnh chứ không phải gặp đồng hương là dừng lại giúp như thế. Nếu không phải đang về hậu cứ mà đi sang hướng khác, làm sao cậu tìm được tôi". Tất nhiên là tôi sai rồi. Sau này tôi còn nhận ra là mình không đủ khả năng để làm một thằng liên lạc nữa cơ, vì sức khỏe của tôi chỉ có hạn. Hôm đó, dọc đường đi, Anh Băng lúc thì dừng lại lấy dao găm đào một búp măng mai, lúc lại rẽ ngang nương dân đào mấy củ dong riềng già hay vặt ít lá thuốc lá. Tất cả đều giao cho tôi mang. Anh ấy đang dạy tôi thêm nhiệm vụ khi đi đường luôn phải để ý tìm và kiếm đồ cải thiện thêm cho BCH. Tối về khu hậu cứ rừng già mà vắng tanh không có người, anh Băng bày tôi cách nấu các thứ. Thế là tôi biết thêm nhiệm vụ phải nấu ăn cho chỉ huy khi không đi cùng đơn vị có anh nuôi. Tôi tiếp thu rất nhanh và dần dà nấu nướng cũng khá thạo. Chỉ mỗi tội tôi không làm được nhanh và không lanh lợi bằng anh Liêu (cũng là liên lạc) người Bắc Thái vào chiến trường trước tôi hai năm. Anh ấy rất khỏe, có thể vác thay cả ba lô cho thủ trưởng. Hai ba lô mà đi băng băng, dọc đường dừng lại đào vội một củ măng mai bên đường mà vẫn theo kịp đội hình hành quân đơn vị. Ngay cả khi ở hậu cứ có anh nuôi nấu cơm chung, ngoài cơm và thức ăn chia giống như lính, bao giờ anh Liêu cũng nấu thêm một món thức ăn khác bổ sung cho bữa ăn của các thủ trưởng (và của cả liên lạc nữa).
Được dịp đi theo chuyến công tác về hậu cứ hội họp của thủ trưởng, tôi cũng có thêm điều kiện gặp lính Hà Nội ở các đơn vị khác để hỏi thăm tin tức của nhau. Có một chuyện của thằng Tuấn "đen" làm lính Hà Nội bọn tôi không được vui. Tôi đã kể về thằng này ít nhiều trong những trang hồi ức trước. Nó ở cùng B với tôi từ ngày mới vào lính (C36 D50) ở trong dốc Bụt (Hòa Bình), rồi lại cùng nhau chuyển ra ngoài C40 D52 ở khu suối cạn ngoài Bãi Nai. Thằng này chỉ tội đen thôi, chứ khuôn mặt nó rất đàn ông và đẹp trai, dáng dấp khỏe mạnh. Đặc biệt nó có giọng hát rất trầm ấm. Nó không hát nhạc vàng, nhưng lúc sinh hoạt đại đội, nó hát mấy bài thời tiền chiến như bài "Đêm đông"… thì nghe tuyệt vời lắm. Lẽ ra nó phải vào Văn công thì hợp hơn, nhưng lúc đó người ta cần thêm tay súng chứ không cần thêm giọng ca, nên nó vẫn đi B cùng chúng tôi. Nó còn hơn những thằng như tôi là đã có người yêu (lại rất xinh nữa chứ). Người yêu tiễn nó vào bộ đội và tiễn nó cả lúc đi B với những lời thề non hẹn biển. Người yêu của nó nói "chỉ cho anh đi B 6 tháng thôi" và nó đã đinh ninh lời dặn ấy. Thời gian phía trước trôi đi thật chậm lúc người ta mong ngóng, nhưng lại trôi quá nhanh khi ta ngoái đầu nhìn lại. Kể từ lúc chúng tôi rời Đại Mỗ (Hà Đông), hành quân qua Trường Sơn rồi vào đơn vị, hưởng mùa mưa đầu tiên trong chiến trường thì sáu tháng trời đã trôi qua lúc nào không biết. Những người lính theo đoàn quân hành quân rầm rập vào Nam thì chúng tôi ai cũng biết, nhưng con đường trở ra Bắc sẽ như thế nào thì lại không ai hay. Có một điều chắc chắn rằng không ai dám mong đó là đường về trong đoàn quân ngày chiến thắng, vì ai biết bao giờ mới kết thúc chiến tranh. Thằng Tuấn "đen" hiểu lờ mờ con đường về trước mắt chỉ có thể là con đường lẻ loi đối với cá nhân từng người lính mà thôi. Thế là nó đã tự chọn cho mình con đường đau thương nhất: tự thương. Nó lấy đủ loại khăn vải quấn quanh cổ tay rồi dùng súng AK tự bắn vào tay mình trong một lần K15 của nó ra tuyến trước.
Các bác sĩ (và cả y sĩ, y tá) trong chiến trường là những chuyên gia bậc thầy về giám định vết thương. Kết hợp với tình huống chiến đấu và vết đạn, mùi khói súng trên vết thương, họ dễ dàng bắt được thằng Tuấn nói ra sự thật. Nó được đưa về trạm xá trung đoàn. Nó cũng được chữa chạy, nhưng không được đối xử tử tế như những thương binh khác, nếu không muốn nói là bị phân biệt. Người ta khinh rẻ nó ra mặt và luôn bỏ rơi nó. Những thương binh khác bị vết thương như thế chỉ cần hai tuần là khô vết thương, sau một tháng có thể được giám định sơ bộ để chuyển ra Bắc hay đưa trở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu. Vết thương của thằng Tuấn "đen" tới sáu tháng sau vẫn chưa lành. Tới tận sau hiệp định Viên chăn (Hiệp định đình chiến tại Lào này ký sau Hiệp định Pari - Việt Nam một tháng và cũng có ý nghĩa giống như Hiệp định Pari vậy), thằng Tuấn vẫn còn ở trên Trạm xá Trung đoàn. Chúng tôi đi công tác lên đó gặp nó không được tự do mà phải hạn chế trong một phạm vi nhất định. Những thằng đào ngũ đã quay lại đơn vị cũng không bị đối xử đến mức như nó. Sáu tháng rồi mà vết thương của nó vẫn không lành, có lúc còn đầy ròi, tưởng như phải cắt bỏ cả cái tay. Vết tiêm trên bắp tay của nó cũng bị áp-xe, nhiễm trùng. Nó không được cấp đủ thuốc mà cũng không dám kêu, vì mở mồm ra là bị mắng chửi. Có lúc muốn ép mủ từ vết thương ra mà không có người giúp, nó phải nhét gấu áo vào mồm cắn chặt rồi ra nắm chặt tay vào một cành cấy, nén đau lên gân vặn cho cơ tay nó ép mủ trào ra. Một lần thằng Kim "con" cùng C lên gặp nó đúng lúc như thế đã xông vào giúp rồi chửi ầm lên mắng y tá, nhưng đã nhanh chóng bị tống cổ ra khỏi khu quân y. Sau thằng Kim "con" gặp kể lại chuyện cho tôi, tôi cũng thấy rơm rớm nước mắt vì thương thằng Tuấn. Dù sao nó cũng là đồng đội, là đồng hương Hà Nội với tôi. Chúng tôi không nghĩ là người ta lại có thể xử ác như thế với thằng Tuấn, tuy nó có lỗi lầm. Nhưng hèn nhát chưa chắc đã phải là một cái tội. Thằng Tuấn phải tự lau rửa vết thương cho nó bằng nước muối pha. Khổ thêm một nỗi là mùa mưa năm đó, trung đoàn chúng tôi cũng thiếu muối. (Nhiều khi trong đơn vị chúng tôi không nấu thức ăn có muối, mà muối nhận về được đếm hạt chia theo đầu người để tự bảo quản và sử dụng. Chuyện này tôi sẽ kể riêng sau). Lính Hà Nội chúng tôi thương nó tìm cách góp muối gửi cho nó để nó tự rửa vết thương. Chuyện này cũng phải làm giấu chứ không dám công khai. Có lẽ tình đồng đội cũng giúp được nó ít nhiều để cuối cùng cái tay của nó cũng trở nên lành lặn. Mãi tới cuối mùa khô năm 1973, Tuấn "đen" mới được ra Bắc, tất nhiên không phải với tư cách là một chiến sĩ quân giải phóng. Lính Hà Nội chúng tôi chẳng ai biết mà tiễn nó. (Sau năm 1985 tôi có gặp lại, nhưng nó không muốn nói chuyện nhiều. Chúng tôi có mời nó đến gặp mặt vào ngày nhập ngũ 4/9 tổ chức hàng năm, nhưng không lần nào nó đến. Có lẽ nó còn tự mặc cảm thôi, chứ chúng tôi cũng không nghĩ xấu về nó).
…..
|