Trận tiến công căn cứ Đồng Dù của Sư đoàn bộ binh 320 (thiếu) Quân đoàn 3
Ngày 29 tháng 4 năm 1975
Sau thắng lợi to lớn liên tiếp cửa quân dân ta trên khắp các chiến trường Tây Nguyên, Huế, Đà Nắng, Nha Trang, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn của địch ở quân khu 1 và 2, phá vỡ thế phòng ngự chiến lược liên hoàn của chung. Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn tổng công kích vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đòn tiến công quyết định vào thủ phủ ngụy quyền Sài Gòn, Quân đoàn 3 được Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng tiến công trên hướng tây bắc Sài Gòn. Trong đội hình quân đoàn, ngày 29 tháng 4 năm 1975, sư đoàn 320 đã tiến công căn cứ Đồng Dù, một căn cứ lớn nằm án ngữ phía tây bắc cửa ngõ Sài Gòn.
Tiến công căn cứ Đồng Dù là trận đánh mở đầu của chiến dịch, có qui mô lớn, hiệp đồng binh chủng tiến công trong điều kiện chuẩn bị gấp, địa bàn hoạt động mới, tình huống diễn biến khẩn trương, quân địch đông, hỏa lực mạnh, có công sự vững chắc, phòng ngự liên hoàn và phản kích quyết liệt. Ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt, bắt sống và làm tan rã sư đoàn 25 ngụy, phá vỡ tuyến phòng ngự vòng ngoài trên hướng tây bắc Sài Gòn, mở cửa tạo điều kiện thuận lợi cho quân đoàn tiến công danh chiếm Sài Gòn nhanh chóng và kết thúc thắng lợi, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
I. Tình hình chung
A. Địa hình, thời tiếtCăn cứ Đồng Dù thuộc huyện Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa (cũ). Nay thuộc huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, cách Sài Gòn 30 ki-lô-mét về phía tây bắc, nằm trên một khu gò đất có bình độ cao 12m, hình bầu dục, có chu vi gần 8.500m. Xung quanh căn cứ bằng phẳng và trống trải. Hướng bác và đông bắc là đầm lầy, cách 7 ki-lô-mét là Phú Hòa Đông.
Hướng đông và đông nam cách 12ki-lô-mét là Tân Quy. Tây và tây nam có rừng cao su kín đáo tiện cho việc cơ động và triển khai lực lượng tiến công. Nam và tây nam giáp quận ly Củ Chi. Xung quanh cứ điểm có 5 đường lớn. Đường số 2 từ Củ Chi đi qua trung tâm căn cứ lên Phú Hòa Đông. Đường 8A tỉnh lộ từ Củ Chi đi Tân Quy. Đường 15 từ Phú Hòa Đông đi Tân Quy. Đường 237 từ Trung Hòa - Đồng Dù đi ấp Chợ. Đường 1A quốc lộ từ Đồng Chùa đi Củ Chi và ấp Chợ.
Trên các trục đường địch đều tổ chức các điểm chốt để khống chế, cơ động binh khí kỹ thuật. Thời điểm diễn ra trận đánh, thời tiết đang cuối mùa khô, không có mưa lớn, nên việc cơ động thuận tiện.
Tóm lại: Địa hình thuộc căn cứ Đồng Dù bằng phẳng và trống trải, hướng tây và tây bắc có điều kiện để triển khai lực lượng và phương tiện nhưng chỉ eo một con đường đi vào căn cứ muốn cơ động phải khắc phục nhiều. Chất đất mềm, dễ đào công sự, nhưng vật liệu không eo phải mang từ ngoài vào.
B. Tình hình địchNằm trên trục quốc lộ số 1 Sài Gòn đi Tây Ninh, căn cứ Đồng Dù thực sự là cánh cửa thép án ngữ phía tây bắc Sài Gòn. Từ đây còn có các trục đường giao thông thuận tiện nối với Bình Dương và Hậu Nghĩa. Đồng Dù là căn cứ phòng ngự chủ yếu trong tuyến phòng thủ ngoài Sài Gòn. Nên từ lâu Mỹ - ngụy đã ra sức xây dựng nó thành một căn cứ xuất phát hành quân hỗn hợp với qui mô lớn. Nó vốn là hang ổ của sư đoàn 25 Mỹ (tia nhớp nhiệt đới). Sau khi Mỹ rút bàn giao căn cứ lại cho sư đoàn 25 ngụy một trong những sư đoàn chủ lực mạnh của quân ngụy.
Lực lượng địch trong căn cứ gồm: bộ tư lệnh sư đoàn 25 bộ binh, ban chỉ huy trung đoàn 50, tiểu đoàn 2 bộ binh, tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp, một chi đoàn xe tăng và hậu cứ đại đội 10/T6 tiểu đoàn 25 công binh, tiểu đoàn 25 vận tải, tiểu đoàn 25 thông tin, tiểu đoàn 333 tiếp vận (Quân khu 3), tiểu đoàn 25 chiến tranh chính trị, tiểu đoàn 25 quân y, ban chỉ huy căn cứ Củ Chi, trường huấn luyện hạ sĩ quan và binh sĩ. Tổng quân số có khoảng 3.000 tên.
Căn cứ Đồng Dù địch cấu trúc có bốn cổng ra vào: đông nam, tây nam, tây bắc và bắc - đông bắc được chia thành bốn tuyến, lực lượng chiến đấu chủ yếu ở vòng ngoài.
Tuyến ngoài cùng bao gồm hàng rào, mìn và hào chống tăng có sáu lớp rào chính, quá trình phòng ngự địch bổ sung có hướng lên tới 10 hàng rào, nhưng không thành qui luật, chiều dày hỗn hợp từ 80-100 mét, Hướng nam và đông nam, sáu hàng rào, tây nam và tây bắc, 10 hàng rào, bắc và đông bắc tám hàng rào. Xen kẽ các lớp rào địch kết hợp gài mìn, tuyến trong cùng là mìn có điều khiển. Hướng tây nam có hào phóng tăng.
Tuyến hai: Địch xây tường cao khoảng 1,2m, dày 1m, lợi dụng bờ tường chúng xây 56 lô cốt thành hình vuông bằng gỗ đất mỗi cạnh bằng 6m, nửa chìm nửa nổi, nấp bằng bao cát dày mét, ở được một tiểu đội. Từ lô cốt này đến lô cốt kia có năm đến sáu ụ súng chiến đấu cá nhân không có nắp.
Tuyến ba: Bao gồm các ụ súng chiến đấu và nhà ngủ, tuyến này không thành qui luật, giữa tuyến 2 và 3 có một đường xe chạy vòng quanh căn cứ.
Tuyến trong cùng: Là tuyến nhà ở lớp bằng tôn, xung quanh nhà xếp thùng phi đựng cát hoặc xếp bao cát dày 0,6m, cao 1,2m phân chia từng đơn vị có hàng rào ngăn cách kết hợp ụ súng chiến đấu và lô cốt giao thông hào nối liền của từng khu vực. Các sở chỉ huy từ tiểu đoàn trở lên đều xây dựng kiên cố chống được đạn pháo 105 và 155 ly. Khu sở chỉ huy sư đoàn, thông tin ở trung tâm căn cứ xây bằng bê tông cốt thép kiên cố, xen kẽ trong khụ vực có nhiều đường xe chạy, cơ động bên trong thuận tiện. Dựa vào công sự sân có cùng các chướng ngại vật đã thiết bị sần, để đối phó ngăn chặn ta tiến công từng bước và tổ chức triển khai lực lượng phản kích khi ta đánh vào trung tâm. Ngoài ra còn có lực lượng lớn địch có liên quan bao gồm: tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 ở ấp Mới, tiểu đoàn 1 trung đoàn 50 ở Trảng Bàng, trung đoàn 46 ở Đồng Chùa, trung đoàn 49 ở Trà Võ - Bến Kéo, chi đoàn thiết giáp thuộc trung đoàn 10 ở Tráng Bàng, pháo bỉnh: Phước Mỹ - Trung Hòa - Tân Quy, Lão Táo và lực lượng bảo an dân vệ: tiểu đoàn 233 ở Phú Hòa Đông, tiểu đoàn 331 ở ấp Chợ, tiểu đoàn 305 ở Đồng Chùa, Củ Chi, tiểu đoàn 320 ở Trung Hòa - Gò Nổi. Vì đây là khu vực phòng thủ vòng ngoài tây bắc Sài Gòn và cũng là đầu mối giao thông quan trọng. Khi Đồng Dù bị ta tiến công, các khu vực phụ cận trực tiếp chi viện và giải vây, ứng cứu. Thủ đoạn đối phó của chúng là dựa vào hệ thống công sự vật cản, hỏa lực bản thân ngoan cố chống trả, khi bị chọc thủng, địch có thể dùng pháo binh, xe tăng và bộ binh ra bịt cửa mở, tổ chức đánh vào bên sườn, phía sau đội hình tiến công của ta, kết hợp với lực lượng bên ngoài đến chi viện, ứng cứu đánh bật ta ra ngoài khôi phục trận địa.
Tóm lại: Hệ thống phòng thủ khu vực Củ Chi và căn cứ Đồng Dù là một hệ thống phòng thủ chặt chẽ, chu đáo, liên hoàn, chuẩn bị sẵn có quân đông, hỏa lực mạnh, các căn cứ phụ cận sẵn sàng chi viện ứng cứu khi bị tiến công đường sá cơ động thuận tiện, công sự vật cản xây dựng cơ bản và có hệ thống. Nhưng địch có những điểm yếu cơ bản là tinh thần binh lính đang bị sa sút, hoang mang do thất bại liên tiếp ở các chiến trường, dễ tan rã khi mất chỉ huy. Căn cứ rộng lớn lại nằm gần Sài Gòn, từ lâu chưa giao chiến nên ít xây dựng củng cố lại. Lực lượng phòng thủ chủ yếu là lực lượng hậu cứ, chuyên môn, phục vụ và chỉ huy nên sức chiến đấu kém, yếu về chiến thuật, sơ hở trong tổ chức phòng ngự nên khó chống đỡ khi ta tiến công đồng loạt bằng sức đột kích mạnh.
C. Tình hình taTham gia trận đánh này sư đoàn bộ binh 320 (thiếu) do đồng khí Bùi Đình Hòe sư đoàn trưởng chỉ huy, trong biên chế có ba trung đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo binh. Trung đoàn bộ binh 48, trung đoàn bộ binh 9 và trung đoàn bộ binh 64 (riêng trung đoàn 64 được đảm nhiệm hướng độc lập của quân đoàn, nên trận đánh này không tham gia chiến đấu trong đội hình của sư đoàn). Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc khác. Mỗi tiểu đoàn có từ 220 đến 240 người, mỗi đại đội chiến đấu có từ 30-40 tay súng. Trung đoàn pháo binh 54 có hai tiểu đoàn pháo mặt đất (10, 11) gồm các loại hỗn hợp pháo 1551y, 1051y, 851y, H12, cối 1601y, cối 1201y, và tiểu đoàn cao xạ 12 có ba đại đội súng máy cao xạ. Trong biên chế còn có các tiểu đoàn hỏa lực cối 1201y, tiểu đoàn ĐKZ, tiểu đoàn súng máy cao xạ và các tiểu đoàn bảo đảm chiến đấu như trinh sát, thông tin, công binh. Các tiểu đoàn phục vụ như quân y, vận tai, huấn luyện, được tổ chức biên chế ổn định trang bị chiến đấu hiện tại bao gồm ba khẩu 1551y, sáu khẩu 105 ly, hai khẩu 851y, một khẩu cối 1601y, một dàn H12, ba khẩu cối 1201y, 18 khẩu cối 821y, chín khẩu ĐKZ, 14 khẩu súng máy cao xạ. Trước khi bước vào chiến đấu, các đơn vị đều đã tham gia chiến đấu trong các chiến dịch ở chiến trường Tây Nguyên, nhất là trận đánh thắng định ở Cheo Reo - Phú Bổn, đã tích lũy được một số kinh nghiệm về tác chiến trong thị xã, thị trấn và huyện ly bằng nhiều hình thức chiến thuật hiệp đồng binh chủng vời qui mô vừa và nhỏ. Đơn vị đã được rút kinh nghiệm sau đợt hoạt động chiến dịch Tây Nguyên, huấn luyện bổ sung, khí thế đơn vị phấn khởi, cán bộ và chiến sĩ đều tin tưởng quyết tâm hăng hái thi đua giết giặc lập công hoàn thành nhiệm vụ.
Cùng phối hợp tác chiến với sư đoàn trong địa bàn có sư đoàn 316 đang chốt chặn tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy ở Tràng Bàng về Củ Chi, Tây Ninh, sư đoàn 10 đang triển khai lực lượng ở phía sau sư đoàn để tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất sau khi ta mở thông cánh cửa Đồng Dù, phía Hậu Nghĩa có lực lượng Miền, ngoài ra còn có sự phối hợp chiến đấu của nhiều lực lượng khác.
Phối hợp chiến đấu với sư đoàn còn có lực lượng vũ trang địa phương huyện Củ Chi đã từng tham gia chiến đấu đánh độc lập, hiệp đồng với qui mô vừa và nhỏ, thông thạo địa hình có khả năng giúp đỡ và phối hợp với sư đoàn trong quá trình chiến đấu. Khu vực tác chiến là nơi tập trung dân cư đông đúc kinh tế trù phú, xã hội phức tạp nhiều giáo phái. Nhân dán sống dưới chế độ Mỹ-ngụy từ lâu bị tuyên truyền lừa bịp, ít hiểu biết về cách mạng chưa giác ngộ, ít nhiều đều có quan hệ với địch. Riêng nhân dân vùng giải phóng đã nhiều năm chiến đấu kiên cường chống Mỹ-ngụy bảo vệ cách mạng, một lòng tin tưởng vào Đảng sân sàng giúp đỡ bộ đội khi cần thiết. Đảng và chính quyền các cấp tử xã đến huyện được củng cố và phát triển, chiến đấu kiên cường, bền bỉ xứng đáng là “đất thép Củ Chi”.
Tóm lại: Các lực lượng tham gia trận đánh đều đả có kinh nghiệm chiến đấu, bộ đội phấn khởi quyết tâm cao. Mọi công tác chuẩn bị được sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp cửa thường vụ Bộ tư lệnh Quân đoàn. Song trước mắt cũng còn khó khăn: Thời gian làm công tác chuẩn bị ngắn, trinh sát nắm địch ngoài thực địa ít, trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng qui mô lớn đánh địch trong căn cứ kiên cố còn hạn chế, kinh nghiệm tổ chức chỉ huy chiến đấu cấp sư đoàn chưa nhiều, nên sư đoàn phải tập trung lãnh đạo chỉ huy khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.