Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 12:40:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: FULRO - Tập đoàn tội phạm  (Đọc 17510 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« vào lúc: 19 Tháng Bảy, 2007, 11:37:41 pm »

- Tên sách: FULRO - Tập đoàn tội phạm
- Tác giả: Ngôn Vĩnh
- Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân
- Năm xuất bản: 1983
- Số hóa: Excocet, bodoibienphong, saoden



*Tác giả chân thành cảm ơn:
Các đơn vị:
-Cục bảo vệ Chính Trị II-Bộ Nội vụ
-Đoàn chống FULRO-Bộ Nội vụ
-Công An các tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai-Công Tum, Thuận Hải
-Các đồng chí công an làm nhiệm vụ quốc tế ở địa bàn K.
Các đồng chí:-Lê Đình Thảo, Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị II
-Vũ Thành, Phó Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị II
-Đức Minh, Phó Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị II
-Vũ Nhật Hồng, Giám đốc Công An tỉnh Đắc Lắc
-Trận Đức Hoài, Giám đốc Công An tỉnh Lâm Đồng
-Hồng Hà, Giám đốc Công An tỉnh Gia Lai-Công Tum
-Vũ Huỳnh, Giám đốc Công An tỉnh Thuận Hải
-Y Ni, Phó Giám đốc Công An tỉnh Đắc Lắc
-Y Ngoan, Trưởng phòng Bảo vệ chính trị II, Công an tỉnh Đắc Lắc
-Việt Châu, nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu tổng hợp, Công an tỉnh Đắc Lắc
-Lê Hồng Lư, Trưởng phòng Bảo vệ chính trị II, Công an tỉnh Thuận Hải
-Nguyễn Văn Thành, cán bộ Công an tỉnh Thuận Hải
-Ông Thiên Sanh Cảnh, cán bộ Ty Văn hoá-Thông Tin Thuận Hải
-Chị Thuận Thị Trụ, giáo viên trường phổ thông cơ sở Hiếu Lễ, An Sơn, Thuận Hải.
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Ba, 2022, 05:20:28 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Để gió cuốn đi...
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2017, 08:30:44 pm »

       
       Do Excocet thất lạc VMH từ 2010 nên tôi xin tiếp tục (được đến đâu hay đến đấy)


        Chịu trách nhiệm xuất bản:

                Giám đốc - Tổng Biên tập Đại tá, nhà văn Nguyễn Hồng Thái

        Chịu trách nhiệm nội dung:

                Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập Trung tá Trần Cao Kiều
                Biên tập viên: Phạm Thị Mỹ Nương
                Trình bày: Thùy Linh
                Họa sĩ: Đinh Thành Đức

        Số xác nhận đăng ký xuất bản 1084-2016/CXBIPH/15-1090/CAND. Mã ISBN 978-604-72-1695-6

        Tác giả chân thành cảm ơn các đơn vị và các đồng chí đã cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến hoàn thành tập sách này.

        Các đơn vị:

                Cục Bảo vệ chính Trị II – Bộ Nội vụ.
                Đoàn chống FULRO, Bộ Nội vụ
                Công an các tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai – Công Tum, Thuận Hải.
                Các đồng chí công an làm nhiệm vụ quốc tế ở địa bàn K.

                Các đồng chí:

                        - Lê Đình Thảo, Cục trưởng cục Bảo vệ chính trị II.
                        - Vũ Thành, Phó cục trưởng cục Bảo vệ chính trị II.
                        - Đức Minh, Phó cục trưởng cục Bảo vệ chính trị II.
                        - Vũ Nhật Hồng, Giám đốc Công an tỉnh Đắc Lắc.
                        - Trần Đức Hoài, Giám đốc Công an tỉnh Lâm Đồng.
                        - Hồng Hà, Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai – Công Tum.
                        - Vũ Huỳnh, Giám đốc Công an tỉnh Thuận Hải.
                        - Y Ni, Phó giám đốc Công an tỉnh Đắc Lắc.
                        - Y Ngoan, Trưởng phòng Bảo vệ chính trị II, Công an tỉnh Đắc Lắc.
                        - Việt Châu, nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu tổng hợp, Công an tỉnh Đắc Lắc.
                        - Lê Hồng Lư, Trưởng phòng Bảo vệ chính trị II, Công an tỉnh Thuận Hải.
                        - Nguyễn Văn Thành, cán bộ Công an tỉnh Thuận Hải.
                        - Ông Thiên Sanh Cảnh, cán bộ Ty Văn hóa – Thông tin Thuận Hải.
                        - Chị Thuận Thị Trụ, giáo viên trường phổ thông cơ sở Hiếu Lễ, An Sơn, Thuận Hải.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2017, 02:09:05 pm »

     
LỜI GIỚI THIỆU

        Khối thống nhất dân tộc là sức mạnh quyết định sự sống còn của một quốc gia, nên chia rẽ dân tộc luôn là chính sách lớn của bọn xâm lược.

        Tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp cũng là tám mươi năm dân tộc Việt Nam chống lại mọi âm mưu chia rẽ thâm độc: Đất nước phân thành ba kỳ; chế độ cai trị phức tạp (thuộc địa ở Nam, bảo hộ có vua ở Trung, bảo hộ không vua ở Bắc, “Hoàng triều cương thổ” ở Tây Nguyên, nhượng địa ở Đà Nẵng, quân quản ở Hà Giang…); chưa kể hàng loạt chính sách khác nhằm tạo ra hố ngăn cách sâu sắc giữa người Kinh với người Thượng, người Thượng với người Thượng, lương với giáo, tỉnh này với tỉnh kia, làng này với làng khác.

        Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cách mạng giành lấy chính quyền và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Chưa bao giờ khối thống nhất dân tộc được củng cố thành sức mạnh vô định và được toàn dân ý thức rõ ràng, khoa học như từ sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vì vậy mà cũng chưa bao giờ bọn xâm lược phải chộp lấy “lá cờ dân tộc” vùng lên hùng hổ và loạn xạ như lúc này. Trong 8 năm chống Pháp đã diễn ra một loạt thủ đoạn chia rẽ xảo quyệt, rối rắm, thậm chí có khi liều lĩnh, bất chấp mọi lô-gich: xứ Nam Kỳ tự trị, xứ Tây Nguyên tự trị, Liên bang Đại Thái, xứ Nùng tự trị, xứ Mường tự trị, v.v...

        Đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp vào lúc mà những thủ đoạn thực dân lỗi thời và bọn việt gian nhẵn mặt không còn lừa bịp được ai. Cũng là lúc mà tinh thần dân tộc ăn sâu thành niềm tin vào lòng dân vì đã tỏ rõ sức mạnh vĩ đại của nó qua thử thách của cuộc kháng chiến thắng lợi. Bắt buộc Mỹ phải phất lên “lá cờ dân tộc” dưới một hình thức mới: Trao nó vào những tay cầm cờ khác – và tung ra xung quanh một màn khói mù làm bằng trăm thứ thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa rắc rối.

        Tây Nguyên, vùng sắc tộc phong phú và tập trung nhất của miền Nam, địa bàn chiến lược có lịch sử chống ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, tất nhiên trở thành khu vực trọng yếu buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dồn sức thống trị bằng được.

        Cái gọi là FULRO – Mặt trận thống nhất tranh đấu của các dân tộc bị áp bức – là lá cờ bịp mà đế quốc Mỹ và tay sai đã phất lên trước các sắc tộc Tây Nguyên suốt 20 năm chiếm đóng; và hiện nay không phải là không còn những thây ma thoi thóp mượn tiếng nó, cố phe phẩy những mảnh vụn tả tơi của nó, để tiếp tục phỉnh phờ những người chưa hiểu, mong kéo dài thêm cơn hấp hối.

        Tìm hiểu thực chất FULRO, vì vậy, không phải là điều vô ích. Vì nó còn để lại trong người dân Tây Nguyên không ít mặc cảm và vết thương tâm hồn. Vì nó còn để lại trên đất đai Tây Nguyên đói nghèo, lạc hậu và tàn phá. Vì nó còn để lại trong nhận thức một số người ngoài cuộc những hiểu biết mơ hồ về nội dung “dân tộc” và “tranh đấu” của nó, như một nhà tri thức tiến bộ nọ, ông Minami Yoslizawa đã tưởng tìm ra trong sự hình thành của nó, những “nhân tố của tinh thần dân tộc bài ngoại” nên dễ dàng khoác cho nó vai trò không hề có của “một tổ chức tập hợp các dân tộc miền núi nổi dậy phối hợp với Mặt trận giải phóng làm cho so sánh lực lượng địch, ta ở vùng cao nguyên Trung Bộ thay đổi lớn, buộc quân đội Sài Gòn ở Buôn Mê Thuột, Plây Ku tan vỡ” .

        Không! FULRO không có chút gì là nhân tố dân tộc bài ngoại. Không! FULRO không có một cái vỏ đạn nào góp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.

        Vậy thì FULRO là cái gì? Hãy xét nó qua lời nói và việc làm.

        Dưới lá cờ mang màu đỏ chiến đấu và màu xanh núi rừng những kẻ cầm đầu FULRO (mà hầu hết vốn thuộc tầng lớp trên đầy quyền thế từ thời đô hộ Pháp) lôi cuốn những người dân Thượng vào những cuộc phiêu lưu kỳ quặc.

        Họ đánh Diệm, đánh Thiệu để rồi tham gia bộ máy đàn áp sắc tộc của ngụy quyền Sài Gòn ở những chức vụ chóp bu. Hết cầu cứu sự che chở của Mỹ, họ lại theo Pháp chống Mỹ, rồi theo Mỹ chống Pháp, hoặc có khi lơ lửng tìm đến những chiếc ô còn lơ lửng hơn: Xi-ha-núc, Liên hiệp quốc…Họ tự đánh lẫn nhau, bắt tay nhau, rồi trở mặt dìm nhau trong bể máu, tiếp tục thanh toán nhau đến đuổi kỳ được một bên ra khỏi Tây Nguyên màu mỡ…Họ như con rối mà đầu mối dây nằm trong tay những thế lực không bao giờ nhất trí về quyền lợi riêng: Mỹ, Pháp, ngụy quyền Sài Gòn và những kẻ theo đóm ăn tàn như Xi-ha-núc hay lớp chính khách cùng nhóm máu tương tự.

        Những cuộc phiêu lưu mà chỉ có họ mới hiểu nguồn gốc sâu xa, còn người dân Thượng nghèo nàn lạc hậu chỉ cần tròng vào “lá cờ dân tộc” đã được đế quốc Hoa Kỳ quét lên một lớp vàng chói lóa, giúp họ dù quay quắt hướng nào cũng dễ tìm ra lời biện hộ đầy sự thật mê hoặc.

        Duy chỉ có sự thật họ không lần nào dám nói lên là: Họ chưa tiến hành một trận đánh nhỏ nào để đem lại hạnh phúc thực sự cho người dân Thượng, Chàm. Họ chưa có giây phút nào hết căm thù cách mạng để cộng tác chân thành với Mặt trận giải phóng. Đó lại là sự thật rõ nhất về họ, cũng là sự thật cơ bản của đế quốc Mỹ.

        FULRO, chung quy chỉ là một trò bịp lớn. Những âm mưu thâm độc và những hoạt động cơ hội “kiểu áp phe Hoa Kỳ”, những xâu xé trong nội bộ tầng lớp trên cầm đầu, những mâu thuẫn toàn cuộc và cục bộ đã phủ lên nó một vẻ bề ngoài chỉ dễ nhìn đối với những ai đứng xa, ngoài cuộc. Nhưng đối với chúng ta, chỉ cần có thì giờ và hoàn cảnh đi vào thực chất những kẻ cầm đầu và lần lại đường dây những biến động lớn đã xảy ra trên núi rừng Tây Nguyên trong 18 năm gây rối, thì sẽ không khó khăn gì mà không nhận ra bộ mặt thật của cái gọi là FULRO.

        Cuốn sách này mong cung cấp cho bạn đọc một số tài liệu bước đầu sưu tập được để giúp bạn đọc tự mình nhận ra điều đó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 01 Tháng Ba, 2017, 06:23:35 am »


*

*      *

        Tuy chưa đầy đủ chi tiết – thậm chí có chi tiết còn hời hợt – cuốn sách này cũng giúp ta nhìn rõ được điều cơ bản nhất trong số những tên cầm đầu chủ yếu của FULRO.

        Trong bọn chúng, Y Bhăm có số phận chìm nổi kiểu chính khách dễ lừa đời hơn ai cả. Là một công chức được Pháp đào tạo từ “thời đô hộ”, sau Cách mạng tháng Tám, Y Bhăm tham gia Việt Minh nên sống thoát cho đến ngày Pháp tái chiếm Tây Nguyên thì trở lại thân phận ngụy quyền kéo dài đến thời Diệm. Được gián điệp Pháp tìm cách móc nối, Y Bhăm theo lệnh Pháp tập hợp phe cánh xây dựng thanh thế riêng để hòng dựa vào Pháp mặc cả với Mỹ – Diệm, không ngờ bị Diệm thẳng tay trừng trị, bỏ tù cùng với một loạt tên khác cho đến ngày Diệm đổ…Tung ra một lớp hào quang xung quanh 5 năm tù đày ấy, đế quốc Mỹ đã biến Y Bhăm thành một con cò mồi không bao giờ hoàn toàn mất tác dụng.

        Tuy nhiên thời thế, hoàn cảnh và kinh nghiệm thực tế của con mồi chỉ cho phép Mỹ sử dụng Y Bhăm có mức độ. Khi nâng khi hạ, khi trực tiếp khi từ xa, khi tin, khi chán, nhưng chưa lần nào Y Bhăm bị bỏ rơi hẳn vì Mỹ nắm được thực chất “sự nghiệp dân tộc” của Y Bhăm không ngoài chuyện thay thầy đổi chủ.

        Khác với Y Bhăm, Y Bliêng – một trong những tên cầm đầu FULRO – lộ liễu hơn, trắng trợn hơn nên dễ cho ta thấy rõ bộ mặt bỉ ổi hơn.. Y làm tay sai đắc lực hết cho Pháp đến Mỹ, nhận việc với bất cứ tên bù nhìn nào miễn là được vinh thân phì gia: Diệm, Khánh, Thiệu…Y chuyên ăn hối lộ ở chức phó tỉnh trưởng. Vì tiền, xử án bất công, bất chấp thuần phong mỹ tục người thượng ở chức chánh án “Tòa án phong tục”: gả cả hai con gái cho Mỹ và chịu sự chỉ huy của chính tên con rể là người Mỹ làm CIA.

        Một nhân vật chóp bu khác, Paul Nưr đã làm đến tổng trưởng “Bộ Phát triển sắc tộc” ngụy, nhưng chuyên làm chuyện dâm ô, lợi dụng quyền thế che đậy hoan lạc nên được nhân dân đặt cho cái tên mỉa mai “tổng trưởng phát triển sắc đẹp”, cuối cùng bị đuổi về vườn, chuyển sang nghề buôn lậu và làm hàng giả.

        Cũng có những tên không xuất thân từ tầng lớp trên nhưng khi tham gia phong trào FULRO thì đã bị thoái hóa. Đó là Nay Loét, xuất thân từ gia đình nghèo khổ, sau thời gian dài được tên quận trưởng Nay Mun nuôi ăn học, gả con gái và được đế quốc Mỹ đào tạo cất nhắc lên chức tổng trưởng, đã hoàn toàn biến chất. Đó là Huỳnh Ngọc Sắng, sinh ra trong gia đình trung lưu, nhưng sau khi được đào tạo trong chế độ thực dân mới, sau khi làm tay sai cho Pháp, Xi-ha-núc, Mỹ, đã sa đọa, hướng lòng hận thù dân tộc vào dân tộc Kinh, trở thành tên chỉ huy FULRO Chàm tàn ác, bất lương.

        Có thể kể thêm nhiều tên nữa: Les Kossem, Đàng Năng Giáo, Y Bun…Những kẻ sáng lập ra FULRO, những kẻ làm nên linh hồn, máu thịt nó, đều như vậy. Họ đều thuộc tầng lớp trên hoặc gắn bó chặt chẽ quyền lợi với tầng lớp trên. Cuộc đấu tranh của họ, về thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp, và trên nhiều mặt, nhiều lúc còn mang nặng màu sắc những vụ xâu xé tranh giành miếng ăn kiểu bộ lạc…Chung qui, họ chỉ là một tập đoàn tội phạm vung lá cờ dân tộc lên để che đậy bản chất phản động và cơ hội.

        Họ đã làm gì để “tranh đấu cho dân tộc”? Họ có một số vụ nổi dậy chống Diệm, chống Thiệu, nhưng không phải để đòi quyền sống cho dân tộc mà là để tranh giành quyền làm tay sai trực tiếp cho Mỹ. Ngược lại đế quốc Mỹ vì muốn chia để trị, hoặc thâm hiểm hơn, muốn trực tiếp nắm lấy Tây Nguyên phục vụ âm mưu lâu dài, nên đã xảo quyệt đối lập FULRO với ngụy quyền Sài Gòn. Trong các vụ “nổi dậy” ở các trại Sarpa, Buôn Briêng, Buprang…ta thấy bàn tay đạo diễn của Mỹ, trực tiếp là tên Đệ tam tham vụ tòa Đại sứ Mỹ Beachner và tên đại tá cố vấn tư lệnh vùng II chiến thuật Freund.

        Đến khi thấy FULRO có nguy cơ bị tiêu diệt, Mỹ lại đạo diễn cho FULRO chạy sang Căm-pu-chia. Lá cờ FULRO bị Pháp, Xi-ha-núc, Mỹ chia nhau cấu xé. Cuộc bạo động và tàn sát đẫm máu trên toàn Cao Nguyên năm 1965 cũng là do âm mưu của Pháp – Mỹ. Pháp xúi Y Dhơn chỉ huy FULRO nổi dậy bạo động. Mỹ ủng hộ Y Bhăm, để cho ngụy quyền đàn áp. Khi đàn áp, chúng thống nhất với nhau trong âm mưu làm ngơ cho bọn chỉ huy cấp trên FULRO chạy thoát. Bọn cấp dưới thì bị trừng trị, trở thành vật hi sinh cho cuộc chém giết khốc liệt.

        Hội nghị đàm phán ở Pa-ri sắp kết thúc, lầm tưởng sẽ có giải pháp thành lập Chính phủ liên hiệp, có cơ hội cho tay sai chiếm một số ghế trong chính phủ đó với tư cách “lực lượng thứ ba”, đế quốc Mỹ chỉ huy FULRO vờ xin hợp nhất với Mặt trận dân tộc giải phóng. Bị thất bại, Mỹ lại cho FULRO tung tin “đã liên kết với Mặt trận” để hòng kiếm cái vốn chính trị trước quần chúng, để FULRO thay Thiệu nắm lấy Cao Nguyên, thực hiện kế hoạch hậu chiến của Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 01 Tháng Ba, 2017, 08:17:32 pm »


*

*       *

        Từ ngày giải phóng miền Nam đến nay, để quét sạch tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ để lại, xây dựng Tây Nguyên thành vùng giàu có, vững mạnh, bảo vệ cuộc sống yên vui của nhân dân các dân tộc, chúng ta đã liên tục đặt ra và giải quyết vấn đề FULRO, đã trừng trị nhiều tên chỉ huy nguy hiểm, tàn ác, làm tan rã nhiều mảng FULRO còn sót lén lút hoạt động. Nhiều người dân tộc bị lôi kéo, kích động, lầm lạc theo FULRO đã trở về buôn làng làm ăn lương thiện.

        Tuy nhiên, một số tên chỉ huy FULRO vẫn lẩn trốn trong rừng, liên lạc với bọn gián điệp và các thế lực phản động nước ngoài, đốc thúc chân tay hoạt động chống phá cách mạng, giết hại cán bộ và nhân dân ta. Công tác đấu tranh chống FULRO còn nhiều khó khăn phức tạp.

        Điều khó khăn, phức tạp ở đây không phải vì tàn dư của FULRO còn nhiều và mạnh. Bản thân lịch sử FULRO đã đủ chứng tỏ rằng, ngay trong thời kỳ hoạt động hung hăng nhất, bọn chúng cũng không phải là thế lực đáng gờm gì đối với ngụy quyền Sài Gòn, càng không thể gây cản trở lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng. Tách khỏi mưu ma chước quỷ về sự giúp đỡ của đế quốc, tay sai, FULRO chỉ còn là một tổ chức trơ trọi của bọn tầng lớp trên ngoan cố…Khó khăn phức tạp chính là vì chúng tồn tại ở bối cảnh đặc biệt của xã hội Tây Nguyên, vì thủ đoạn lừa bịp của chúng được che đậy dưới lá cờ dân tộc, còn mê hoặc được một số người lạc hậu về chính trị.

        Cuộc đấu tranh quét sạch tàn dư FULRO là một cuộc cách mạng đưa xã hội Tây Nguyên lên một cách đồng bộ, nhằm giác ngộ quần chúng, cô lập, tiến tới tiêu diệt tàn dư phản cách mạng.

        Để góp phần làm rõ vấn đề phản cách mạng ở Tây Nguyên mà nguồn tư liệu xưa nay ít được biên soạn thành hệ thống, nội dung cuốn sách này chỉ giới hạn trong phạm vi miêu tả phía địch chứ chưa đặt nhiệm vụ phản ánh phong trào quần chúng về cuộc vận động cách mạng nói chung trên Tây Nguyên. Vì mục đích chúng tôi là cung cấp những tài liệu chưa được biết rộng rãi để làm cơ sở cho cán bộ, chiến sĩ Công an và các ngành nghiên cứu, kết hợp với nhiều tài liệu khác, để hiểu vấn đề FULRO một cách trọn vẹn hơn.

        Những sự kiện được miêu tả căn cứ vào sự phản ánh của một số cơ quan và cán bộ có trách nhiệm, căn cứ vào hồ sơ của công an các địa phương có FULRO hoạt động, căn cứ lời khai của một số tên cầm đầu còn bị giam giữ và lời thú nhận của một số nhân chứng theo FULRO lâu năm; dựa vào những điều tai nghe mắt thấy của người viết và có tham khảo tài liệu dịch để lại. Loại tư liệu này nếu có ưu điểm là sinh động, hấp dẫn, ít người biết tới, thì ngược lại, cũng có nhược điểm là dễ bỏ sót những nội dụng hoạt động, những địa bàn, những bộ phận đôi khi còn khá quan trọng của thế lực FULRO vẫn tồn tại rải rác trên một số vùng khác của miền Nam. Vì vậy, rất mong được bạn đọc, nhất là những đồng chí, đồng bào am hiểu vấn đề, nhiệt tình giúp đỡ cho thêm ý kiến.

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN       
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 01:31:08 pm »

       
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG KẺ LƯU VONG

        1. THAM VỌNG

        Les Kossem muốn làm lãnh tụ, điều đó ai cũng biết. Nhưng làm lãnh tụ như thế nào, lại là một bài tính lớn của riêng ông. Cháu chắt một người Chàm phiêu bạt từ Việt Nam sang, vào thế kỷ thứ XVI, sống trên đất Căm-bốt, ông sẽ làm lãnh tụ dân tộc nào trên mảnh đất này đây? Dân tộc Khơ-me Kăng-đăng đã có Xi-ha-núc, Lon-non…lãnh đạo. Dân tộc Khơ-me Krôm có Om Savuk, ông chỉ còn hy vọng chỉ huy dân tộc Khơ-me Islam và Khơ-me Leus.

        Người Chàm ở Căm-bốt dẫu có bộ phận nào còn hướng về cố quốc Champa thì cũng chưa có người đứng đầu. Phải rồi, ông sẽ tập hợp họ, chỉ huy họ, lãnh đạo họ. Ông sẽ thành lãnh tụ của người Chàm, tức là lãnh tụ của dân tộc lớn Khơ-me Islam. Và như thế ông sẽ là một trong những người đứng đầu vương quốc Căm-bốt này. Với tham vọng đó, Les Kosem dành cả đời mình cho hoạt động chính trị.

        Năm 1944 Nhật chiếm Đông Dương. Vốn thành thạo tiếng Nhật, ông xin làm thông dịch viên cho một võ quan cao cấp Phù-tang. Con đường tiến thân không lấy gì làm vinh dự cho một chính trị gia, ông biết thế, những vẫn là con đường dễ nhất. Quả nhiên, ngài võ quan hứa sẽ giúp ông thành lập lực lượng Chàm chống lại quân Pháp, lại còn giao ước sau này khi làm bá chủ Đông Nam Á rồi, chính phủ Nhật sẽ cho dân tộc Chàm được phục hồi cố quốc Champa, được độc lập hoàn toàn. Vớ được cơ hội hiếm có này, Les Kossem liền tập hợp hơn 300 thanh niên Chàm, thành lập một đội quân, nhận vũ khí của Nhật, hoạt động chống quân Pháp đóng ở tỉnh Kông-pông-chàm – nơi ông sinh ra và cư trú (ông không gọi là quê hương).

        Không may cho ông, Nhật thất bại, phải đầu hàng Đồng Minh. Phong trào cách mạng ở Đông Dương dâng lên như thác lũ. Ở Căm-bốt, nó làm rung động nền tảng chế độ phong kiến hàng nghìn năm lẫn chế độ thực dân hàng trăm năm. Tình thế này không dễ gì Pháp muốn trị tội ông, một người tuy theo Nhật, nhưng vẫn chống Cách mạng. Không sợ hãi, Les Kossem quay ngay 180 độ, chạy theo quân Pháp. Ông đoán không sai: Pháp giữ nguyên lực lượng của ông để chống lực lượng Cách mạng đang phát triển. Không chỉ thế, Pháp lấy ân trả oán phong Kossem từ trung sĩ lên chuẩn úy và cho vào làm việc luôn trong Phòng nhì quân đội Pháp. Năm năm sau, ông mang cấp bậc thiếu úy.

        Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông được thăng trung úy và cải hoán sang quân đội Hoàng gia Căm-bốt. Một bước tiến gần hơn nữa đến cái vị trí tầm cỡ vương quốc mà ông hằng mơ ước.

        Ông tỏ ra trung thành và táo bạo hẳn lên nên được Lon-non ưa chuộng, muốn biến thành tay chân tin cẩn. Les được cử sang Pháp theo học khóa tu nghiệp về cải tổ quốc phòng và tổ chức quân đội. Ở Pháp, ông làm quen với một số chính khách. Thông minh, thủ đoạn và biết làm liều, ông tranh thủ được tình cảm của họ. Vài nhân vật quan trọng có thói thích phát minh đã hứa sẽ giúp ông trên con đường sự nghiệp và sẽ tạo ra một “hiện tượng Les Kossem”.

        Tham vọng làm lãnh tụ càng sôi dậy trong lòng ông. Les Kossem dành nhiều thời giờ tìm tài liệu có liên quan đến lịch sử Vương quốc Champa ở thư viện ở Viện Hàn lâm Pháp. Ông quyên góp bạn bè, mua nhiều tài liệu giá trị mang về nước.

        Năm 1957, sau khi mãn khóa, từ Pháp về Căm-bốt, Les Kossem tập hợp một số bạn bè thân thuộc người Chàm như Chek Ibrahim, El Ibrahim, Primê… trình bày những tài liệu thu thập được và thành lập một ban tuyên truyền. Ban này chuyên kích động tinh thần phục hồi cố quốc ở những người Căm-bốt gốc Chàm: quyên góp tiền bạc gây quỹ hoạt động ngầm. Sự kiện này làm cho nhà nước và chính khách Căm-bốt bắt đầu chú ý đến Kossem.

        Trong một đại hội sĩ quan toàn quân do Xi-ha-núc chủ tọa, khi vị đứng đầu Nhà nước này kêu gọi các sĩ quan gia nhập binh chủng dù, Kossem là người ghi tên đầu tiên.

        Năm sau, khi học xong các khóa nhảy dù cơ bản, huấn luyện viên nhảy dù và nhảy dù điều khiển, Les Kossem được sử sang Pháp dự cuộc thi nhảy dù toàn thế giới. Kossem đã đoạt giải nhì sau một phi công Nga.

        Với thành công rực rỡ trên đây, ông được Xi-ha-núc chú ý. Vợ hai ông lại là người Ấn Độ lai Kinh, đã đẹp lại lịch lãm sự đời nên trong các buổi khiêu vũ, Xi-ha-núc thích vời vợ chồng Les Kossem đến.

        Les Kossem được hầu cận bên cạnh Quốc trưởng, còn vợ được hầu cận Hoàng hậu hoặc có khi ngược lại.

        Tất nhiên là Les không bỏ lỡ cơ hội này. Ông trình bày hoài bão cải tổ và xây dựng binh chủng dù của quân lực Hoàng gia thành binh chủng hùng mạnh. Les nói khéo đến nỗi Xi-ha-núc thấy chỉ có Kossem mới là người duy nhất đảm đương được trọng trách ấy. Thế là Xi-ha-núc thành lập liên đoàn nhảy dù đầu tiên của quân đội Vương quốc, phong Les Kossem lên đại úy và giao luôn cho ông tổ chức và huấn luyện binh chủng này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 07:53:40 pm »


        Năm 1959, Les Kossem lại được cử sang Pháp học khóa tham mưu, khi trở về, vẫn chỉ huy binh chủng cũ. Dù ân sủng dồi dào đến như vậy, trước sau, Les Kossem vẫn chỉ là tên lính đánh thuê cho Xi-ha-núc, chưa thể vươn tới cái vị trí lãnh tụ ước mơ được.

        May sao, thời gian này, bang giao giữa Căm-bốt và Hoa Kỳ trở lại tốt đẹp, thân thiện. Les liền tìm gặp vị tướng hai sao, trưởng phái bộ Hoa Kỳ tại Căm-bốt, trình bày hoài bão của mình: lập một phong trào đấu tranh đòi phục hồi Vương quốc Champa hiện đang được ông hoàng Xi-ha-núc ủng hộ.

        Nhưng khi trưởng phái bộ Hoa Kỳ hỏi về mục tiêu, đường lối, yếu tố phục hồi quốc gia Champa thì Les Kossem lúng túng, không biết trả lời. Vốn không lạ gì tính sớm nắng chiều mưa của Xi-ha-núc, mặt khác, ở Việt Nam, Ngô Đình Diệm đang tỏ ra là một tay chống Cộng đắc lực, lúc này Mỹ không dại gì mà làm mất lòng Diệm. Vì vậy Mỹ làm ngơ trước đề nghị của Les Kossem. Nhưng bước sang năm 1960 thì tình hình chính trị thay đổi một cách đáng lo ngại. Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập. Liền sau đó, Mặt trận Tây Nguyên tự trị ra đời, do cụ Y Bih làm Chủ tịch. Đoán ra một cơ hội chính trị thuận lợi để các nước ngoài can thiệp vào mà không sợ Ngô Đình Diệm chống đối mạnh, nhưng vẫn chưa dám mong nhiều vào người Mỹ qua kinh nghiệm năm trước, lần này Les Kossem vội vàng chạy sang toà Đại sứ Pháp ở Nam Vang cầu cứu. Pháp vừa bị hất cẳng ở Đông Dương, đang rất cay cú nên đã chụp lấy cơ hội này, hết sức ủng hộ Kossem. Tòa Đại sứ Pháp yêu cầu Xi-ha-núc ủng hộ “hiện tượng Les Kossem”, tạo mọi thuận lợi để Kossem lập mặt trận Chàm bên hông Việt Nam mà Xi-ha-núc vẫn còn nuôi nhiều điều hậm hực.

        Một chuyện may mắn đã xảy ra đúng lúc, tạo thuận lợi cho vị lãnh chúa Chàm tương lai. Cuộc tranh chấp ngôi đền lịch sử Preah Vihaer ở biên giới Thái – Miên giữa hai Vương quốc bùng nổ. Les Kossem được lệnh đem lực lượng dù bảo vệ lãnh thổ. Les đã chỉ huy Liên đoàn dù đánh thắng quân Thái, giữ nguyên ngôi đền cho Vương quốc Căm-bốt. Sau chiến công hiển hách đó, tên tuổi của Les Kossem nổi như cồn. Người ta coi Les như anh hùng, Xi-ha-núc tin cậy cử Kossem làm sĩ quan cận vệ cho các quốc khách viếng thăm Căm-bốt. Les tha hồ tiếp cận các yếu nhân nước ngoài đến Nam Vang.

        Năm 1962, Les Kossem cận vệ cho Chu Ân Lai. Lợi dụng cơ hội, Les mật đàm với Chu, trình bày về mặt trận phục quốc Chàm. Chu hứa sẽ ủng hộ Les. Sau đó hai vị lãnh tụ Hán – Chàm chụp hình chung làm kỷ niệm. Câu chuyện tưởng rất bí mật, chỉ hai người biết. Ấy thế mà đến nay nó vẫn được lưu trong hồ sơ của Hoàng Minh Mộ, nhân viên tình báo Phủ Đặc ủy Trung ương của Ngô Đình Diệm.

        Cũng bằng con đường như vậy, Les Kossem đã mật đàm với nhiều chính khách khác và đều được các vị hứa giúp đỡ. Như diều gặp gió, Les được phong hàng loạt chức vụ quan trọng: Tham mưu trưởng địa phận Nam Vang. Chủ tịch ban tham mưu phòng nhì quân đội Hoàng gia. Đệ nhị phó Tổng tư lệnh tối cao quân đội Hoàng gia.

        Với ba chức vụ ấy, Les Kossem thực sự có nhiều quyền lực. Đã đến lúc Les có thể bắt đầu phát động phong trào đấu tranh phục quốc Chàm. Ông được người Pháp yểm trợ tài chính và Xi-ha-núc ủng hộ dư luận, nhân lực. Quốc trưởng cho Les được toàn quyền huy động người Chàm ở Căm-bốt vào phong trào chống Việt Nam.

        Bất ngờ – tất nhiên là chỉ đối với những ai chưa hiểu Xi-ha-núc – sau mấy lần bị Mỹ làm nhục, từ năm 1963, Xi-ha-núc nổ ra chửi Mỹ. Les Kossem cũng đành phải họa theo ngoài mặt, nhưng bên trong, ông đã cung cấp nhiều tài liệu cơ mật của Căm-bốt cho Mỹ. Les cử tay chân thân tín liên lạc với bọn sĩ quan CIA tại Sài Gòn. Tài liệu bí mật được chuyển từ Nam Vang sang Sài Gòn trao cho Đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Có lần một nhân viên của Les đem tài liệu đi bị nhân viên an ninh biên giới Căm-bốt bắt được. Khi tài liệu gửi về Nam Vang cho cơ quan an ninh của Xi-ha-núc, thì Les đã khôn khéo cho người chặn đường thu hồi lại được.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 02:38:53 pm »

        Xi-ha-núc không phát hiện ra hoạt động ngầm của Les. Chek Ibrahim, một người bạn thân của Les khuyên Les không nên phản bội Xi-ha-núc, sợ có ngày mất cả chì lẫn chài. Les Kossem mỉm cười nhún vai, nhắc lại một câu của Na-pô-lê-ông mà ông đã lấy làm phương châm xử thế của đời mình: “Mất tài sản là không mất gì hết. Mất danh dự là mất một nửa. Mất can đảm mất tất!”.

        Xi-ha-núc cắt quan hệ với Mỹ. Bang giao Mỹ – Căm-bốt bị gián đoạn. Cái mà Les Kossem cố gọi là “Phong trào phục quốc Champa” cũng phải tìm một chỗ dụng thân ổn định hơn. Nó nghiêng hẳn về phía người Pháp, người cha đỡ đầu từ thủa Les còn đi lính tây. Trong hơi ấm của bàn tay người Pháp, đến đầu năm 1963, Les Kossem hình thành được 2 nhóm trong cái gọi là “Phong trào” mơ ước của mình.

        Một nhóm mang tạm tên “Mặt trận giải phóng Champa”, viết tắt là FLC, do Po Nagar (tên một vị thần Chàm bị Les Kossem lấy làm biệt danh của mình) làm chủ tịch. Nhóm thứ hai lấy tên “Mặt trận giải phóng Khơ-me Krôm” (còn gọi là Mặt trận giải phóng Miên Hạ), viết tắt là FLKK, do Châu Đê-ra (tên một anh hùng dân tộc bị Om Savuk – Tham mưu trưởng Quân đội hoàng gia Căm-bốt – lấy làm biệt danh) giữ chức chủ tịch.

        Les Kossem thu hút một số sĩ quan, công chức, thương gia Chàm như Chek Ibrahim, El Ibrahim , Primê, Taekyđa, bác sĩ Jordo, Tôn Ái Liên… thành lập “Ủy ban chấp hành Trung ương lâm thời Mặt trận phục quốc Champa” . Ủy ban hoạt động tuyên truyền, quyên tiền người Chàm ở Căm-bốt và tìm cách liên lạc với người Chàm ở Việt Nam. Châu Đê-ra cũng gom một số sĩ quan và công chức Khơ-me Krôm như: Thạch Bum, Thạch Chea, Thạch Chanh… thành lập “Ban chỉ đạo Mặt trận giải phóng Khơ-me Krôm”.

        Vì bị Sơn Ngọc Thành chống ra mặt, hăm dọa dùng lực lượng “Khơ-me tự do” lật đổ nên Xi-ha-núc lệnh cho Les Kossem và Châu Đêra đẩy mạnh hoạt động của hai “phong trào” để làm hậu thuẫn cho Quốc trưởng chống lại Sơn Ngọc Thành. Được vị lãnh đạo tối cao ủng hộ, Les và Châu lao vào hoạt động. Nhưng “phong trào” vẫn giẫm chân tại chỗ vì thiếu lực lượng.

        Giữa lúc đó, bên nước Việt Nam láng giềng, tình hình bỗng trở nên lộn xộn. Những cuộc tranh chấp đổ máu để giành lấy quyền làm tay sai cho Mỹ đã tạo cơ hội cho những thế lực vốn bị chánh thể

        Sài Gòn áp bức vùng dậy. Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm. Nguyễn Khánh lật Dương Văn Minh. Phong trào đấu tranh của người Thượng và Chàm nổi lên. Thiên Sanh Thì, Đặng Văn Thủy, những người Chàm vốn bị chế độ Diệm khinh rẻ, liền từ Việt Nam chạy sang Căm-bốt gia nhập mặt trận của Les. Thấy đã có thời cơ thọc bàn tay về xứ sở cũ, Les liền cử Đặng Văn Thủy trở lại Việt Nam móc nối với bọn cầm đầu người Thượng ở Tây Nguyên và người Chàm ở cực Nam Trung Bộ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 10:53:21 pm »


        2. KẺ CHẠY TRỐN

        Tay cầm quyển sách dày cộp, Đàng Năng Giáo khập khiễng bước chân đi đến nhà Thuận Thị Trúc, mạnh dạn gọi cổng, biết chắc giờ này Trúc chỉ ở nhà một mình.

        Một cô gái trạc 16, 17 tuổi, khuôn mặt trái xoan, nước da nâu, đôi hàng mi đen dài và cong, chạy ra nhoẻn miệng cười rất duyên, giọng thanh thanh:

        - Mời anh vào chơi!

        Giáo theo Trúc vào nhà ngồi trước bàn, mặt buồn rười rượi. Trúc rót nước mời rồi bẽn lẽn cúi đầu.

        Giáo nhìn Trúc qua đôi kính cận. Cả hai người đều im lặng.

        Giáo là một học sinh giỏi và có chí, cả vùng biết tiếng. Anh lại thích dấn thân vào những cuộc xô xát chống bọn quan lại địa phương. Cử chỉ hào hiệp gần đây nhất của anh còn gây dư luận tốt trong vùng.

        Chả là đội vũ Chàm ấp Hữu Đức quê anh có cô Chính rất xinh. Một đêm trình diễn ở rạp Thanh Bình, đội vinh dự được ngài tỉnh trưởng Ninh Thuận tới xem và để ý đến Chính. Ngài liền lệnh cho ông Lưu Phụng Kinh, quận trưởng quận An Phước, bố trí cho Chính được ân sủng gặp riêng để ngài khen ngợi một tài năng trẻ xuất hiện trong dân dã Chàm. Ông Kinh đem ô-tô đưa Chính lên dinh tỉnh trưởng. Ở dinh, vị quan đầu tỉnh đã cưỡng hiếp cô gái.

        Từ Sài Gòn về quê, được biết chuyện, Giáo tập hợp học sinh một số trường trong vùng, tung truyền đơn, biểu tình lên án ông Kinh và ngài tỉnh trưởng. Bực bội vì tên học sinh dám phạm thượng, ngài tỉnh trưởng lệnh cho ông quận trưởng trừng trị. Ông quận trưởng lệnh tiếp cho ông xã trưởng Đàng Năng Hương. Ông Hương là anh họ của Giáo nhưng vẫn phải đàn áp Giáo và học sinh, bắt giam một số người.

        Sau vụ này, Giáo nổi lên như một người có nghĩa khí. Chuyện bay đến tai Trúc làm cô thán phục, gặp Giáo là cô mến ngay. Hai người thân nhau, Giáo ngỏ lời cầu hôn với Trúc. Cô yêu Giáo, nhưng còn e ngại một điều, anh đã một đời vợ. Giáo lý giải rất tài tình:

        - Em xem, vợ anh mồ côi cha mẹ từ bé, sống với người bà nội mù lòa. Anh thương hại cô ta, nhận lời lấy làm vợ. Nhưng bà nội anh không nghe. Một, vì ông nội anh là thầy cả giầu có; hai, vì nhà cô ấy nghèo lấy gì cưới anh ? Anh bất chấp ngăn cấm của gia đình, cứ lấy, tưởng rằng sẽ sống hạnh phúc. Ai ngờ, khi anh đi học ở Sài Gòn, cô ấy bắt bồ với một tên “cán bộ bình định” và đã mang thai. Anh về, ai cũng tưởng anh sẽ đánh đập, nhưng anh nghĩ rằng tại anh ham mê học hành, ít gần gũi nên cô ấy mới tìm người khác.

        Nghe xong, Trúc bỗng thấy Giáo cao thượng quá. Con người như thế ít có. Thế là cô càng mến anh. Một lần về nghỉ hè, Giáo đưa cho Trúc xem một quyển “Tập san phổ thông” của học sinh Sài Gòn, trong đó có đăng bài thơ của Giáo, ghi rõ ràng mấy chữ đề tặng Trúc lên đầu.
Logged

bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #9 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2017, 04:18:07 pm »

        Ru hồn “vọng gác đêm sương”.
   Bài ca mộng ước vấn vương trong lòng…

   Trúc mỉm cười sung sướng. Khắp vùng này, cô vốn nổi tiếng có giọng hát hay, nhất là qua bài “Vọng gác đêm sương” mà dân trong vùng không mấy ai là chưa được nghe.
            Từ đó, tình cảm giữa hai người càng thắm thiết. Họ chờ đợi một ngày sum họp.
   Trúc ngước nhìn Giáo:
   - Sao hôm nay anh buồn thế? Có chuyện gì anh?
   - Anh nói với em một tin buồn. Anh sắp phải xa em rồi…
   - Sao?
   - Tên tỉnh trưởng vẫn cho cảnh sát theo dõi anh, anh không thể ở đây được. Phải ra đi thôi!
   Trúc rơm rớm nước mắt:
   - Cho em đi theo anh. Em không thể sống thiếu anh!
   Giáo lắc đầu:
         - Không thể được. Anh còn phải tìm đường. Khi nào tìm ra nơi ở ổn định, anh sẽ đón em. Còn bây giờ, anh chưa biết đi đâu, trong nước hay là ngoại quốc.
   Hai người buồn bã chia tay nhau.
   Giáo về nhà, thăm dò tình hình, tìm cách thoát khỏi sự theo dõi của cảnh sát và bọn cai quản xã, ấp.
   Giữa lúc đó, Huỳnh Ngọc Sắng quê ở Mỹ Nghiệp – cùng quê với Trúc – tìm gặp anh.
   Sắng cũng là một học sinh Chàm. Học hết lớp thứ nhất, y đi lính cho Pháp, làm ở Sở thông tin quận Phan Rang. Thời gian làm ở Sở thông tin, Sắng học hỏi kỹ các ngón tâm lý chiến, tuyên truyền, quảng cáo của báo chí. Sắng tỏ ra có năng khiếu về tuyên truyền, được ông xếp Pháp mến chuộng.
   Sau Giơ-ne-vơ, Pháp rút, Sắng thất nghiệp, về nhà một thời gian rồi vào Nha Trang theo học trung học đệ nhất cấp.
        Vụ hè tới, Sắng về quê nghỉ ngơi. Lúc đó ở xã có tổ chức dân đắp đường làng. Con đường chạy qua ruộng nhà Sắng. Y tức chống gậy ra chửi, bị viên xã trưởng báo cảnh sát Diệm bắt trói, điệu về quận Thanh Hải. Đến quận, mấy tên cảnh sát đẩy Sắng xuống hầm giam. Đầu Sắng đập xuống nền xi măng, tóe máu. Sắng bị giam, bị đánh đập, xỉ vả tàn tệ. Sắng uất ức, căm thù chánh quyền Diệm. Lòng hận thù người Kinh âm ỉ trong lòng từ thuở còn đi lính Pháp bỗng bùng lên dữ dội. Nhờ thầy thợ đút lót, Sắng ra khỏi nhà giam và lặng lẽ tìm cách trả thù.
   Năm 1957, phong trào BaJaRaKa  ở Cao Nguyên nhen nhóm. Đang uất ức, thấy có một tổ chức chống Diệm, chống người Kinh, Sắng vội lên Buôn Mê Thuột, xin gia nhập. Sắng được Y Bhăm – chủ tịch BaJaRaKa – kết nạp vào tổ chức và phải trở về Ninh Thuận vận động người Chàm.
   Về quê hương, Sắng lập “Hội bạn”. Bề ngoài, Hội lo tổ chức giúp đỡ lẫn nhau trong việc dựng vợ gả chồng, cưới xin, vui chơi… Nhưng bên trong là tuyên truyền chống Diệm, chống người Kinh.
   BaJaRaKa bị Diệm đàn áp. Y Bhăm bị bắt giam. Sắng bỏ học về nhà, sống lang thang. Chán làm chính trị, y lao vào chơi bời, tìm thú vui xác thịt với nhiều cô gái.
        Đầu tiên, y bao vây cô Chiêm. Thấy cô đẹp, y tìm cách gạ gẫm. Một đêm, cô Chiêm đang ngủ trong nhà, Sắng mò vào, không dè bị cô la lên, chửi rủa, Sắng phải nhảy rào chạy trốn.
   Sau đó, y lấy cô Tím. Khi vợ có thai, y chán, chẳng ngó ngàng gì đến, bỏ chạy theo các cô gái khác. Đến kỳ sinh nở, lúc cô Tím đang quằn quại, thì y vẫn mải theo các cô gái khác, người nhà đến báo cũng không về. Cô Tím uất, chết ngay khi đứa con trai vừa cất tiếng khóc chào đời. Bà ngoại phải nuôi cháu. Đứa bé được đặt tên là Y Trạng. Sắng càng rảnh chân, bỏ nhà đi mở lớp dạy tư cho trẻ con ở ấp Tuấn Tú. Ở đây y mê cô Lỡ, một cô gái nghèo mồ côi cha, có mái tóc vàng ươm, da trắng mặt tròn. Sắng đã dùng đủ thủ đoạn, tán tỉnh, lừa lọc và cuối cùng cô Lỡ yêu y. Khi cô Lỡ có thai, y lại bỏ. Đẻ xong đứa con gái, không ai giúp cả, cô Lỡ phải bế con đi ăn xin. Cô đặt tên đứa bé là Thị Thịnh.
   Hết cô Lỡ, đến cô Đựng, một người đã có chồng và sau khi chán chê cô Đựng, Sắng cặp bồ với vợ một thày Chang. Nhưng đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma. Một đêm thày Chang cùng với ba người em đã bắt được quả tang Sắng đang ăn nằm với vợ mình. Họ liền lấy thừng trói hai người đang lõa lồ lại, dong đi khắp ấp để bêu riếu, dọa sẽ cắt tai nếu lần sau còn bắt được.
   Biết không còn mặt mũi nào ở lại quê hương, Sắng tính toán tìm một nơi lẩn tránh. Nhưng với những lời bia miệng không đẹp đẽ gì đè nặng lên số phận, Sắng biết đi đâu bây giờ? Đang loay hoay tìm kiếm thì Sắng sực nhớ tới Đặng Năng Giáo, người bạn học cũ, lúc này đã có ít nhiều danh tiếng trong vùng. Sắng liền tìm đến rủ Giáo:
   - Lên Cao Nguyên đi! Đó là con đường tốt nhất đối với chúng ta. Ở đó đang chuẩn bị lập phong trào tranh đấu chống chánh quyền của bọn người Kinh.
   - Liệu họ có kết nạp người Chàm ta không? – Giáo hỏi.
   Sắng quả quyết:
   - Hồi phong trào BaJaRaKa, họ đã chẳng kết nạp tôi là gì!
   Đang không có lối thoát, nghe Sắng nói, Giáo bập luôn. Hai người lên Buôn Mê Thuột, lúc đó là mùa xuân năm 1964.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM