Các vua Trần thường được sử liệu Trung Quốc ghi là thế tử:
Vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) thì sử Trung Quốc ghi là Nhật Cảnh và Quang Bính.
Vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) thì ghi là Nhật Huyên.
Vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm) thì ghi là Nhật Tôn...
(xem Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII).
Chết tôi.
Sau khi quân Minh đánh thành Đại Đô thì cướp bóc huỷ diệt sạch bách. Cuốn Minh Sử trên là do nhà Minh lập ra, nó nhiều cái sử đến nỗi nhà Minh phải đính chính lại thành Tân Nguyên Sử. Nhưng có cái đính chính được, có cái không.
Không biết có phải thế này không, Trần Nhật Thận chỉ là ghi sai chữ Huyến mà ra, trong cái link kia. CÙng một quyển mà chúng nó dùng hai từ khác nhau, có thể là thằng gõ vào máy tính nhầm hay thằng sắp chữ nhầm từ cổ xưa.
Trần Thánh Tông
Thế tử Trần Nhật Huyến (không phải Huyên )
世子陈日烜Thử so sánh các chữ Trần Hoảng
陳晃 (Trần Thánh Tông) mà bọn Tầu có thể từ thời Nguyên nhầm thành
陳日烜 Trần NHật Huyến, rồi thành Huyến lại thành Thận
昚 . Trần Nhật Thận, mình đọc mà tí ngất xỉu. Quốc sử j` mà ngộ ngó tởm a. Thế mới biết nhà Minh chả hay chữ tẹo nào. Rồi chữ Huyến và chữ Huyên cũng lẫn lung tung cả, nhất là mấy bác hạ ngoại vốn nổi tiếng hay chữ.
Trần Thái Tông nhà ta có có hai tên cúng cơm là Trần Bồ
陳蒲, Trần Cảnh
陳煚.
Trong các đống rác dạng wiki
http://wapedia.mobi/zh/%E9%99%B3%E6%9C%9D_(%E8%B6%8A%E5%8D%97) có một số chế tạo sau, rất đậm chất đống rác thối.
陳昺 Trần Bính.
陳光 Trần Quang
陳光昺 Trần Quang Bính
陳日煚 Trần Nhật Quýnh
陳日照 Trần Nhật Chiếu
Tên đã sai lung tung rồi, sự kiện cũng láo toét
十四年,光昺卒 國人立其世子日烜
Thập tứ niên, quang bính tuất, quốc nhân lập kỷ Thế tử Nhật Huyến
Năm 14 (nhà Nguyên), Quang Bính tèo, người nước lập Thế Tử Nhật Huyến lên
Quang Bính hình như đánh bại mấy lần quân Nguyên, mấy lần cử sứ sang điếu ông đồng nghiệp bên Nguyên chết cơ mà nhỉ ?? Quốc mới chả sử, một đống hổ lốn cũng gần xấp xỉ đống rác wiki
http://www.hoolulu.com/zh/25shi/23yuanshi/t-208.htmMình lạ quá, đang chủ nhật rỗi rãi tìm hiểu thử, ôi già, các bác hải ngoại cũng không phải hoàn toàn vô dụng.
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,30396,page=2Phá ra cười, hoá ra các truyền thuyết nhà Trần gốc Tầu nó là đây, quýnh chiếu cũng là đây. Hoá ra là tam sao thất bản từ các nhảm nhí. Mà các bác Tầu cũng thuộc loại nhân từ, cái nghi án giết họ Lý cướp ngôi bị chuyển thành nhân duyên đáng yêu.
Đấy, cứ mỗi lần sao là một chút thay đổi, nhưng rác thối wiki thế này không seo, quốc sử nhà nó mà cũng thế này thì hài vãi nhẩy. Thanh các bác VH. Bây giờ cứ nói chuyện nhà Trần gốc Tầu thì các bác cứ dẫn chứng ở đây nhé.
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,30396,42319,quote=1#REPLYRe: Tìm nguồn gốc nhà Trần
Posted by: Tích Dã (123.18.151.---)
Date: June 16, 2009 01:08AM
齐东野语
安南国王
安南国王陈日煚者,“煚”,原作“照”,据《宋史》卷四二《理宗纪》二、卷四八八《交阯传》改。《交阯传》纪事与本刊合。本福州长乐邑人,姓名为谢升卿。少有大志,不屑为举子业。间为歌诗,有云:“池鱼便作鹍鹏化,燕雀安知鸿鹄心。”类多不羁语。好与博徒豪侠游,屡窃其家所有,以资妄用,遂失爱于父。其叔乃特异之,每加回护。会兄家有姻集,罗列器皿颇盛,至夜,悉席卷而去,往依族人之仕于湘者。“湘”,稗海本、学津本作“湖”。至半途,呼渡,舟子所须未满,殴之,中其要害。舟遽离岸,谢立津头以俟。闻人言,舟子殂,因变姓名逃去。至衡,为人所捕。适主者亦闽人,遂阴纵之。至永州,久而无聊,授受生徒自给。
永守林,亦同里,颇善里人。“里人”,稗海本、学津本作“遇之”。居无何,有邕州永平寨巡检过永,“平”,原作“年”,据稗海本、学津本、《宋史》卷九十《地理志》六广南西路、邕州条改。一见奇之,遂挟以南。寨居邕、宜间,与交趾邻近。境有弃地数百里,每博易,则其国贵人皆出为市。国相乃王之婿,有女亦从而来,见谢美少年,悦之,因请以归。令试举人,谢居首选,因纳为婿。其王无子,以国事授相。相又昏老,遂以属婿,以此得国焉。自后,屡遣人至闽访其家,家以为事不可料,不与之通,竟以岁久难以访问返命焉。其事得之陈合惟善佥枢云。
__________________
Tề đông dã ngữ
An Nam Quốc Vương
An Nam Quốc Vương Trần Nhật Quýnh, "Quýnh", nguyên viết là "Chiếu", dựa vào "Tống sử" quyển thứ bốn mươi hai, "Lí Tông kỉ" hai, quyển thứ bốn trăm tám mươi tám "Giao Chỉ truyện", sửa lại. "Giao Chỉ truyện" ghi chép cùng hợp bản khắc. Vốn là người ấp TRƯỜNG LẠC, PHÚC CHÂU [thuộc tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc ngày nay], họ tên là TẠ THĂNG KHANH. Lúc nhỏ có chí, không để ý tới nghiệp thi cử. Lúc rảnh làm thơ ca, có nói: "Cá ở ao há chẳng hóa nên chim bằng; chim yến, chim sẻ sao biết lòng của chim hồng, chim hộc". Đại khái phần nhiều không có lời gò bó. Ưa cùng bọn cờ bạc, hào hiệp đi đây đi đó, thường trộm của cải ở nhà mình, để dùng vào việc riêng, rút cuộc mất lòng tin yêu của cha. Chú của ông ta cho là khác lạ, thường giúp đỡ. Gặp lúc nhà của anh có hôn nhân cưới vợ, bày đồ dùng, bát đĩa nhiều, đến lúc đêm, thu lấy hết rồi bỏ đi, đến nương dựa vào người trong họ làm quan ở đất Tương. "Tương", bại hải bản, học tân viết là "Hồ". Đến nửa đường, kêu gọi người lái đò để vượt sông, người chèo thuyền chờ đợi chưa bằng lòng, đánh người đó, đánh trúng chỗ yếu hại của người đó. Người chèo thuyền sợ hãi bỏ lên bờ. Lùi lại đứng trên bờ để chờ. Người đưa tin nói người chèo thuyền chết, dó đó đổi họ tên trốn đi. Đến đất Hành Châu, bị người ta tìm bắt. Người quát chủ cũng là người Mân, rồi ngầm thả anh ta ra. Đến Vĩnh Châu, lâu ngày mà không có chỗ nương dựa, nhận dạy học trò để tự cấp.
Vĩnh Thủ Lâm, cũng là người cùng làng, dần dần thân với người Lí. "Người Lí", bại hải bản, học tân bản viết là "Ngộ Chi". Ở không lâu, có người Tuần kiểm trại Vĩnh Bình, Ung Châu đi qua Vĩnh Châu. "Bình", nguyên viết là "Niên", dựa vào bại hải bản, học tân bản, "Tống sử" quyển chín mươi "Địa lí chí" sáu Quảng Nam Tây Lộ, Ung Châu sửa lại. Có người thấy anh ta quái lạ, rồi về phía nam. Làm trại ở vùng Ung, Nghi, cùng Giao Chỉ gần kề. Đất có vùng bỏ quên mấy trăm dặm, thường lấy trao đổi, học theo người tôn qúy của nước ấy đều đi ra làm chợ để mua bán. Nước chọn làm rể của Vương, có con gái cũng từ đó mà đến, thấy Tạ ít tuổi, đẹp, thích anh ta, nhân đó xin lấy chồng. Ra lệnh thi cử nhân, Tạ chiếm ngôi đầu, do đó nạp vào làm rể. Vương của nước đó không có con trai, để việc nước cho Tể tướng. Tể tướng lại già cả, rồi phó thác cho con rể, cho nên lấy được nước đó. Từ đó về sau, thường sai người đến đất Mân thăm hỏi nhà mình, người nhà cho là việc không thể dự đoán, không cùng ông ta qua lại, cuối cùng lâu ngày khó để về thăm hỏi...