Tổng kết
Như các nguồn Mỹ khẳng định, tháng 12 năm 1972 đã chỉ ra rằng các máy bay ném bom chiến lược B-52 phối hợp với không quân chiến thuật – đây là lực lượng hiệu quả, có khả năng ảnh hưởng tới kết quả toàn bộ chiến dịch. Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, “Lainbaker-2” giải thích một cách giống nhau – như là chiến thắng quân sự: buộc Bắc Việt phải quay trở lại bàn đàm phán ở Pari, ở đó ngày 27 tháng 1 năm 1973 đã ký hiệp định hòa bình. Trong 60 ngày sau đó, 591 tù binh Mỹ đã được thả và trở về Mỹ.
Trong quá trình chiến dịch đường không, B-52 đã cất cánh 729 lần (theo kế hoạch – 741) và ném xuống các mục tiêu của Bắc Việt 15 000 tấn bom.
Theo thống kê của Mỹ, phòng không Bắc Việt đã bắn gần 1240 tên lửa phòng không. Không quân Mỹ tổn thất 15 “pháo đài bay” (dưới 2% tổng số máy bay tham chiến). Trong số 92 phi công B-52 bị bắn rơi, 25 người được tìm thấy và cứu thoát, 26 người trở về sau khi kết thúc chiến tranh, số còn lại thiệt mạng hoặc không có thông tin.
Các chuyên gia Mỹ tuyên bố rằng chỉ khi Hà Nội phát tín hiệu muốn trở lại đàm phán hòa bình, chiến dịch “Lainbaker-2” mới kết thúc nhanh chóng. Một số sỹ quan và tướng Mỹ cho rằng đó là sai lầm. Họ khẳng định: nếu Mỹ tiếp tục tấn công với quy mô và cường độ như trước đó, Bắc Việt có thể đầu hàng và chấp nhận thất bại. Thay vào đó, Hà Nội đã được đảm bảo trên bàn đàm phán ở Pari một thắng lợi về chính trị. Sau đó, Hà Nội đã tiến hành cuộc tấn công quy mô lớn và giải phóng Nam Việt Nam.
Theo quan điểm của hàng loạt các tướng lĩnh Mỹ, nếu bắt đầu cuộc ném bom quy mô tương tự vào năm 1965, Mỹ sẽ không gặp phải nỗi nhục ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự kết luận này ở Mỹ không được hầu hết các chuyên gia đồng tình. Họ cho rằng, nếu ném bom vào năm 1965 như chiến dịch “Lainbaker-2”, phía Liên Xô và Trung Quốc sẽ có những hành động không thể đoán trước được. Gần như khi đó, chiến tranh Việt – Mỹ có thể leo thang thành xung đột hạt nhân giữa các cường quốc.