Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:59:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch 12 ngày đêm (Linebacker II), tháng 12/72  (Đọc 419229 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #430 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2012, 11:50:07 am »

Chuyện của phi đội đánh đêm:
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/100168/en-bac-di--san--phao-dai-bay.html

Én bạc đi 'săn' pháo đài bay

'Khi máy bay vừa dừng lại, tôi giật mình bởi phía trước là một hố bom khá lớn, chỉ nhích thêm một chút nữa thôi là máy bay của tôi đã đâm nhào xuống đó', Đại tá Trần Cung nhớ lại:

"...Sở chỉ huy tiếp tục ra lệnh đưa máy bay về sân bay Kép, đến nơi sân bay cũng bị địch đánh phá nên cũng không thể liên lạc được với mặt đất. Tôi tiếp tục nhận lệnh bay về sân bay Gia Lâm thì đèn hàng hành sân bay không chuẩn bị kịp nên tôi lại tiếp tục cho máy bay trở lại sân bay Nội Bài. Ác một nỗi, tôi cứ bay đến khu vực sân bay nào thì đều bị hỏa lực của ta bắn dữ dội, bởi đêm tối nên họ tưởng máy bay địch...".

"...Đêm cuối tháng, trời tối đen như mực, khoảng mươi phút sau, Cung phát hiện loang loáng phía sau chừng 50m có một máy bay vừa hạ cánh đang nằm chềnh ềnh ở trạng thái nghiêng lớn. Do bị chấn động mạnh nên buồng lái của nó bị biến dạng, phi công đang cố đạp nắp buồng lái để chui ra.
"Đoán là máy bay của ta, tôi liền hô to:

- Ai đấy?

- Tôi - Tuân đây! Phi công Phạm Tuân đây!

Đúng là đồng đội mình rồi. Tôi nhanh chóng chạy lại kéo Phạm Tuân cùng đến cạnh hố bom lớn. Chờ cho địch ngưng bắn phá, chúng tôi quyết định chạy bộ vượt qua bãi đất về khu vực đài K5 và trở về Sở chỉ huy Trung đoàn rút kinh nghiệm sơ bộ...", ông nhớ lại cảnh 2 phi công dắt nhau chạy tránh bom đêm nào...."
Logged
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #431 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 04:10:44 am »

Cám ơn qtdc! Mặc dù không chi tiết như mong muốn nhưng cũng cho ta có khái quát về vai trò tin tức từ các tàu của Liên Xô với công cuộc chống lại không quân Mỹ nói chung và với Chiến dịch 12 ngày đêm (Linebacker II) nói riêng. Tháng 12/1980 nhân kỷ niệm 8 năm Điện Biên Phủ trên không, khi thuyết trình về sự vững mạnh của phe Xã hội chủ nghĩa (lúc đó Liên Xô là thành trì) Đại tá Mai Hiền, phó hiệu trưởng trường Sĩ Quan Chính trị Bắc Ninh có nói tới 1 loại ra đa do Liên Xô viện trợ cho ta quan sát được năm sáu ngàn cây số, Mỹ cất cánh ở Guam là ta đã biết  Grin (khuất cả dưới đường chân trời  Grin ). Lại được biết ở Trường Sơn bộ đội ta thường được báo động B52 trước cả tiếng đồng hồ (khi B52 còn cách cả ngàn cây số) nên tin sái cổ. Hỏi cụ ra đa gì thế? Cụ cười: bí mật  Grin . Sau này người Nga đưa ra sơ đồ bố trí ra đa của ta thấy chằng có loại ra đa nào như thế cả! Bây giờ mới rõ cái loại "ra đa bí mật" của cụ Mai Hiền: Tàu "đánh cá" Liên Xô.

Việc đưa hàng loạt lực lượng và trang thiết bị ở phía bắc vào khu 4, cho một nửa quân của trung đoàn SAM 2 ở Hà Nội đi phép ngay sát trước khi chiến dịch Chiến dịch 12 ngày đêm (Linebacker II) xảy ra có phải là ta mắc sai lầm chiến lược (hay bị bất ngờ chiến lược) không?
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 04:39:02 am gửi bởi Giangtvx » Logged

altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #432 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 04:55:57 am »

Việc đưa hàng loạt lực lượng và trang thiết bị ở phía bắc vào khu 4, cho một nửa quân của trung đoàn SAM 2 ở Hà Nội đi phép ngay sát trước khi chiến dịch Chiến dịch 12 ngày đêm (Linebacker II) xảy ra có phải là ta mắc sai lầm chiến lược (hay bị bất ngờ chiến lược) không?

Xin nói ngay là không. Không có khả năng này. Không thể. Chỉ có (vô nhân xưng) "quán triệt quyết tâm chưa tốt" ở một vài khâu, vài thời điểm thôi bác.
Logged
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #433 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 05:47:26 am »

Nhưng chỉ phủ nhận chung chung như bác thì chả có tính thuyết phục tẹo nào cả!
Logged

huyphongssi
Thành viên
*
Bài viết: 1515



« Trả lời #434 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 06:20:57 am »

Nhưng chỉ phủ nhận chung chung như bác thì chả có tính thuyết phục tẹo nào cả!
Không có câu trả lời hoặc đánh giá nào đều đúng hay đều sai trong mọi trường hợp, thưa anh Giangtvx.

Vấn đề là anh đang đứng ở vị trí và thời điểm nào để đánh giá về sự kiện này. Nói như mấy sĩ quan đi học chuyển loại sĩ quan chính trị ở Bắc Ninh về là lập trường quan điểm trong đánh giá vấn đề của anh đương đại diện cho giai cấp, tầng lớp nào và có tuân thủ phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử hay không thôi Cool
Logged

Nhằm thẳng quân thù, Bắn!
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #435 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 10:24:49 am »

"VÍT CỔ" SIÊU PHÁO ĐÀI BAY

Hỏng băng sóng 3cm, Quân chủng Phòng không - Không quân đã mời các chuyên gia Trung Quốc sang tìm cách sửa chữa, nhưng không có kết quả.

"Trước đây, tôi cũng tin rằng những thiết bị điện tử có thể bảo vệ được B.52. Nhưng từ khi có chiếc B.52 đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Bắc Việt Nam, thì tôi không thể nào còn tin được rằng B.52 thuộc loại bất khả xâm phạm được nữa. Ngược lại, đến nay tôi cho rằng những lời người ta nói về B.52 chỉ là những lời quảng cáo có tính chất rao hàng.

Bởi vì, bản thân tôi đã 7 năm liên tục làm sỹ quan điện tử, lại bay trên chiếc B.52 có những thiết bị điện tử tối tân nhất, thế mà vẫn bị tên lửa bắn rơi. Hơn thế nữa, tôi còn bị một mảnh tên lửa quật vào cằm, để lại một vết sẹo dài...", trung tá William Conli, sỹ quan điều khiển thiết bị điện tử máy bay B.52 khai nhận khi bị bắt ở Hà Nội.

Người tạo đột biến cho tên lửa Bắc Việt


Người đàn ông có dáng người nhỏ nhắn, nhưng cặp mắt rất đỗi tinh anh ngồi tiếp chuyện chúng tôi trong một căn hộ tập thể cũ, nhỏ ở Khu tập thể Nam Đồng (Quận Đống Đa, Hà Nội) tên là Nguyễn Ngọc Lạc, Đại tá, nguyên là Trưởng phòng Tên lửa (Cục Quân khí, Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng).

Thời điểm khi tiến hành việc khôi phục băng sóng 3cm, cải tiến ra-đa K-860 vốn được biên chế đồng bộ cho pháo 57mm, tạo đột biến cho hiệu suất bắn chuẩn của tên lửa SAM 2, ông là Thượng úy, Kỹ sư của Cục Quân khí.

Từ tháng 3/1971, ra đa K-860 của lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam đã có băng sóng 3cm, nhưng thực chất băng sóng đó bị hỏng không thể sử dụng được, nên ra-đa của pháo phòng không, khí tài tên lửa SAM-2; ra-đa cảnh giới tầm xa, ra-đa đo cao của phòng không; ra-đa bờ biển... chỉ còn dùng băng sóng 10 cm.

Chính vì vậy, khi Mỹ nắm được bước sóng đó, đối phương đã chế tạo tên lửa Sơ-rai đánh vào các trận địa, khí tài. Ngoài ra, để làm "mù" hệ thống phòng không Bắc Việt, quân đội Mỹ còn chế tạo máy phát nhiễu phá bước sóng 10 cm, gây khó khăn cho lực lượng phòng không, kể cả cao xạ và tên lửa, khiến hiệu suất chiến đấu không cao.

Cuối tháng 12/1972, khi B.52 tập trung đánh phá Hà Nội, Hải Phòng thì lúc này cũng là lúc ta đã khôi phục được băng sóng 3cm của ra-đa K-860. Đây chính là "yếu tố bất ngờ" với đối phương, vì Mỹ đã không kịp chế tạo loại tên lửa gây nhiễu cho bước sóng 3cm.

"Tôi còn nhớ, 3 ngày sau khi đã sửa được băng sóng 3cm, bộ đội cao xạ đã bắn rơi máy bay tiêm kích, bắt sống giặc lái. Một đồng chí cán bộ PK-KQ kể lại: "Khi khai thác viên phi công Mỹ, hắn cho biết là đã phát hiện loại bước sóng 3cm, nhưng cứ tưởng là sóng ra-đa trên máy bay MIG của Bắc Việt Nam, chứ không ngờ là ra-đa phòng không.

Đại tá Lạc cho hay: Trước đây, ông từng được giao quản lý khí tài tên lửa SAM-2, nên nghiên cứu và biết rõ tính năng, kỹ chiến thuật của loại tên lửa này và có thể vận dụng ra đa K-860 để hỗ trợ xác định mục tiêu B.52.

Tuy nhiên, lúc bấy giờ do sự phân cấp nên Cục Quân khí có nhiệm vụ chỉ tiếp nhận vũ khí, đạn dược để cất giữ, cấp phát và hướng dẫn cho các đơn vị sử dụng, khai thác, nên ông cũng không biết tình trạng khí tài như thế nào. Tình cờ, có một đồng chí cán bộ quân khí của Quân chủng PK-KQ cho biết: "Đơn vị vừa đưa ra-đa K-860 về xưởng để sửa chữa do cả hai băng sóng 1 và 2 đều hỏng. Đây là tình trạng chung của đơn vị".

Thấy vậy, thượng úy Lạc đã báo cáo với cấp trên, đề nghị được trực tiếp đến đơn vị xem tình hình hư hỏng như thế nào. Trước đó, việc ra-đa K-860 hỏng băng sóng 3cm Quân chủng PK-KQ đã mời các chuyên gia Trung Quốc sang tìm cách sửa chữa, nhưng đều không có kết quả.


Ảnh tư liệu

Ngay từ khi bàn giao khí tài ra-đa K-860, do phát hiện không có tài liệu về nguyên lý, cấu tạo của băng sóng 3cm, nên chàng thượng úy trẻ Ngyễn Ngọc Lạc đã lo lắng: nếu không hiểu rõ nguyên lý, cấu tạo thì khi hư hỏng sẽ không thể tìm được nguyên nhân và cách khắc phục. Chính từ những trăn trở đó, ông đã chủ động tìm mọi cách kiếm tài liệu kỹ thuật về ra-đa để nghiên cứu.

"Ngày đó, khi ghé qua hiệu sách Tràng Tiền, rất may tôi đã tìm mua được 3 cuốn tài liệu tiếng Nga và tiếng Trung Quốc có liên quan đến kỹ thuật ra-đa. Về nhà tôi đã nghiền ngẫm mất gần 2 năm trời để đối chiếu với các chi tiết cao tần của ra-đa K-860 và cuối cùng cũng đã hiểu được nguyên lý hoạt động của băng sóng 3cm.

Khi đó, lại trùng với thời điểm tôi vừa biết ra-đa K-860 bị hỏng băng sóng 3cm. Qua nghiên cứu, chúng tôi đã bắt được bệnh và nguyên nhân hư hỏng và cùng nhau quyết tâm sửa cho bằng được", đại tác Lạc cười hiền từ.

Trước tình hình đó, Tổng Cục Hậu cần do Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (Chủ nhiệm Tổng cục) chủ trì đã tổ chức Hội nghị cán bộ để bàn và phân công giải quyết những vấn đề về kỹ thuật. Thượng úy, Kỹ sư Nguyễn Ngọc Lạc đã đề xuất được trực tiếp tổ chức thí điểm ra-đa K-860 với 2 băng sóng của một tiểu đoàn tên lửa thuộc Sư đoàn 361 đóng quân ở Hà Nội.

Kết quả thử nghiệm thành công, ra-đa có băng sóng 3cm đã hỗ trợ được cho khí tài tên lửa xác định mục tiêu tốt, sau đó bàn giao cho Quân chủng PK-KQ tiếp tục ứng dụng chiến đấu trong đợt Mỹ đánh phá 12 ngày đêm cuối năm 1972 trong chiến dịch Linerbacker 2. Ra-đa K-860 cải tiến đã vận dụng cho tên lửa SAM-2 xác định B.52 ở cự ly 30km, giúp người chỉ huy và các trắc thủ quyết định phóng tên lửa tiêu diệt mục tiêu chính xác.

"Đôi mắt" của những con Én bạc

Để có những chuyến xuất kích kịp thời, đến đúng vị trí, đánh trúng mục tiêu, hạ gục nhanh, tiêu diệt gọn, đánh chắc thắng của những "con én bạc" MIG 21 đối đầu với lực lượng hùng hậu bảo vệ các pháo đài bay B.52, phải có những đôi mắt nhìn xuyên đêm lẫn ngày qua màn hình ra-đa: các sỹ quan dẫn đường bay của MIG.

Đại tá Nguyễn Văn Chuyên nhớ lại: Để đánh được B.52, lực lượng PK-KQ phải mất 3 năm, 3 tháng nghiên cứu cách đánh ở Quảng Bình. 3 tháng tập trung cao điểm nhất là tháng 8,9,10 với những sỹ quan dẫn đường gạo cội có kinh nghiệm dẫn bay, có độ nhạy cảm và tinh thần dám chịu trách nhiệm.

Hàng loạt cái tên sỹ quan dẫn đường ở Sở chỉ huy đã trở thành quen thuộc với các phi công lái máy bay MIG 21 trong những ngày đối đầu với không quân Mỹ tháng 12/1972: Lê Thành Chơn, Tạ Quốc Hưng, Lê Thiết Hùng, Hoàng Kế Thiện, Phạm Văn Khả, Hà Đăng Khoa, Trần Quang Kính, Đào Ngọc Ngư, Phạm Minh Cậy...

Trong một ngôi nhà nhỏ nằm trên phố Tân Mai (Hà Nội), Đại tá Tạ Quốc Hưng nhớ lại: Đến thời điểm bước vào chiến dịch 12 ngày đêm năm 1972, bộ đội PK-KQ đã có 8 năm kinh nghiệm chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Thế nhưng, khi vào cuộc chúng ta cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Ở chiến trường phía Bắc, chúng ta luôn có ưu thế về dẫn đường trực tiếp cho phi công. Khi vào chiến trường khu 4, chúng ta mới gặp dẫn đường đối kháng. Lúc này Mỹ đã đưa các tàu dẫn đường vào vùng biển Đông nên đã gây cho ta rất nhiều khó khăn. Từ đó những trận không chiến trở nên vô cùng ác liệt.

Mọi hoạt động của không quân ta ở vùng này đều bị Mỹ theo dõi giám sát chặt chẽ. Chỉ cần máy bay của ta bay lên độ cao 2000m - 3000m là tiêm kích đối phương từ các khu vực được dẫn đến vây chặt. Mà MIG thường hoạt động chiến đấu ban đêm là chủ yếu. Đánh đêm, phi công thiếu sự chỉ huy, dẫn đường trực tiếp từ mặt đất là đã mất đi những yếu tố chiến thuật có lợi ban đầu. Thêm vào đó, phi công ta thường phải hoạt động đơn lẻ nên dễ bị địch tập trung lực lượng tiêm kích đánh chặn không cho tiếp cận B.52.

Mặt khác, mục tiêu trọng yếu của chiến dịch là thành phố Hà Nội và Hải Phòng... trong khi đó hầu hết các Sở chỉ huy cơ bản của các Trung đoàn bay lại nằm ở phía trong nên bị nhiễu rất nặng. Do đó không thể chỉ huy kịp thời và liên tục cho phi công được vì thiếu các dữ liệu về máy bay đối phương. Chúng ta chỉ có duy nhất một Sở chỉ huy vòng ngoài ở phía tây nam Hà Nội hơn 100 km, song do bị đánh phá thường xuyên nên cũng ảnh hưởng rất nhiều.

Học sinh trường THCS Nghĩa Dân, Kim Động, Hưng Yên ngắm nhìn những mảnh xác máy bay tại Bảo tàng. Ảnh: Đất Việt

Để bảo đảm dẫn đường cho không quân đánh chặn đúng B.52 thì vấn đề bảo đảm tình báo đủ và liên tục của ra-đa là quan trọng nhất. Thông thường trên mỗi sân bay cơ bản có 1 đơn vị ra-đa bảo đảm dẫn đường cho không quân chiến đấu và huấn luyện, Nhưng khi chiến dịch tập kích đường không diễn ra, tất cả các sân bay đều bị đánh phá và không chỉ một lần. Vì vậy ta phải trực chiến ở những sân bay cơ động, không có ra-đa bảo đảm cho dẫn đường.

Mặt khác, các đơn vị ra-đa ở phía trong, gần các mục tiêu đánh phá thường bị nhiễu rất nặng nên không thể cung cấp tin tức tình báo đủ và liên tục cho dẫn đường. Cất cánh chiến đấu ban đêm, phi công phụ thuộc rất nhiều vào các thông báo của dẫn đường, nhất là các số liệu về địch. Thiếu các thông tin này, phi công sẽ rơi vào thế bị động. Trong không chiến, bị động thì khó mà giành được thắng lợi.

Dẫn đường cho phi công đánh chặn địch trong màn nhiễu ban ngày đã khó, dẫn đường đánh B.52 trong màn nhiễu ban đêm còn khó hơn nhiều. Bởi lẽ phi công chỉ có thể phát hiện máy bay đối phương khi chúng bật đèn bay hoặc ra-đa trên máy bay. Trong thực tế, những tín hiệu của B.52 thật và của các tốp tiêm kích giả dạng B.52 bay trong màn nhiễu, dẫn đường rất khó phân biệt chính xác. Vì chúng có cùng tốc độ và độ cao như nhau.

Do vậy, để có được những trận không chiến thắng lợi, đội ngũ sỹ quan dẫn đường đã phải rút kinh nghiệm từ chính những lần dẫn đường cho phi công đánh chặn vào các tốp B.52 giả.

Ngay sau chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không", rõ ràng từ cuộc tập kích đường không tháng 12/1972, các loại trang bị, vũ khí kỹ thuật cao đã được sử dụng phổ biến hơn nhiều. Một số trang bị, vũ khí mới xuất hiện như máy bay tàng hình, hệ thống cảnh giới báo động sớm (AWACS), tên lửa hành trình, các thiết bị tác chiến điện tử... có thể sẽ làm thay đổi cơ bản nghệ thuật tác chiến của không quân trong tương lai.

(Còn tiếp)

Trường Minh
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/100366/-vit-co--sieu-phao-dai-bay.html
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #436 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 03:59:47 pm »

Tọa đàm ngày 10/12/2012 về 12 ngày đêm (từ trái sang: radar, tên lửa, không quân và chính ủy):
http://infonet.vn/Quan-su/Viet-Nam/Dien-Bien-Phu-tren-khong-Cac-anh-hung-khong-quan-giai-nghia-chien-thang/41278.info



Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 77:
http://infonet.vn/Quan-su/Viet-Nam/Dai-ta-Dinh-The-Van-Chung-toi-binh-tinh-cho-danh-B-52/38602.info



Chuyện của anh Thiều qua lời kể của trung tướng Trần Hanh, người trực tiếp chỉ huy các trận đánh của không quân ta với B-52 đêm 27 và 28 tháng 12 năm 1972:
http://infonet.vn/Quan-su/Viet-Nam/Tuong-Tran-Hanh-noi-ve-Anh-hung-phi-cong-Vu-Xuan-Thieu-Qua-ten-lua-thu-ba/41259.info

Logged
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #437 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 08:07:08 pm »


"ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG": CHUYỆN TỪ PHÍA BÊN KIA

"Ngày 2/11/1972, Nixon đã ra lệnh B.52 tiến công nặng nề miền Bắc... Đây là lần thứ 3 trong 8 năm, nhân dân Mỹ đã bị lừa bịp", Joseph Amter phân tích.

LTS: 40 năm, một hành trình thời gian đủ dài để các tài liệu từng được liệt vào dạng "Tuyệt mật" (Top Secret) có thể được mang ra ánh sáng, công khai những âm mưu và tội ác được ẩn tàng dưới dấu mộc đỏ chót với lý do "bí mật quân sự". Linerbacker 2, kế hoạch ném bom miền Bắc Việt Nam 40 năm trước (1972-2012) của chính quyền Richard Nixon (Mỹ), với tuyên bố "đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá", vẫn được gọi là trận "Điện Biên Phủ trên không" 12 ngày đêm lịch sử, đã đến lúc có thể nhìn lại, với những dữ liệu nhìn từ 2 phía. VietNamNet lần đầu tiên công bố thêm một phần dữ liệu này.

Kỳ 1: Đưa VN trở lại thời đồ đá

Paris, dự kiến ngày 30/10/1972, sẽ là một ngày đi vào lịch sử khi biên bản hiệp định sơ bộ về chấm dứt chiến tranh và sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đã được các bên đồng ý. Tuy nhiên, một diễn biến bất thường đã khiến nước Mỹ tiếp tục lún sâu vào cuộc chiến tranh này bằng việc chính phủ Mỹ leo thang tấn công miền Bắc Việt Nam bằng pháo đài bay B.52 trong khoảng thời gian 12 ngày đêm (18-29/12/1972), và cũng đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của Richard Nixon, trở thành tổng thống Mỹ bị coi là kẻ nói dối nhân dân Mỹ.

Ở nước Mỹ, một Tổng thống không được phép nói dối nhân dân, đó là yêu cầu đầu tiên khi ông ta đặt tay lên bản Hiến pháp tuyên thệ khi nhậm chức.

"Quyết định khó khăn"!


Cựu tổng thống Mỹ Nixon, người ra lệnh ném bom Hà Nội, Hải Phòng và leo thang đánh phá toàn diện miền Bắc trong tháng 12/1972, về sau, trong hồi ký của chính ông ta, thừa nhận: "Tôi ra lệnh tấn công bằng B.52 vào Hà Nội - Hải Phòng".

Ông viết, "sau 3 năm bế tắc, khả năng về mối liên lạc riêng Mỹ - Bắc Việt Nam đột nhiên lại hoạt động vào tháng 8/1972. Cộng sản tỏ ra quan tâm đến việc đạt được một giải pháp.

Ngày 16 và 17/9 (năm 1972 - người viết), Bắc Việt Nam đưa ra một chương trình mới gồm 10 điểm. Tôi thấy phải chuẩn bị cho Thiệu khả năng đi tới một giải pháp. Hayer đáp máy bay đi Sài Gòn, làm cho Thiệu tin rằng chúng tôi không hấp tấp đi tới một hiệp định. Thiệu bị choáng váng và tỏ ra nghi ngờ... Thiệu chửi bới Kissinger không "đoái hoài" đến quan điểm của Sài Gòn trong các cuộc thương lượng với Hà Nội.


Hà Nội hoang tàn vì B52. Ảnh tư liệu

... Tôi gửi một bức điện cho ông Phạm Văn Đồng, sau cuộc gặp 2 bên ngày 17 tháng 10, nói rằng hiệp định hiện nay coi như đã hoàn chỉnh. Có thể tin ở chúng tôi và sẽ ký kết được vào ngày 30 tháng 10.

Ngày 18 tháng 10, Kissinger đến Sài Gòn, mang thư mà tôi giới thiệu: "Tôi tin rằng chúng ta không có cách nào khác là chấp nhận hiệp định này!".

Chủ nhật, ngày 22/10, Thiệu mời Kissinger đến gặp. Ngay sau cuộc nói chuyện, Kissinger điện cho tôi: "Chúng ta vừa kết thúc buổi gặp 2 giờ liền với Thiệu. Cuối cùng đã tìm được lối thoát và tôi nghĩ rằng chúng ta có thể giữ nguyên kế hoạch ban đầu, có sự ủng hộ của ông ta".

Sáng hôm sau, vừa tỉnh dậy, lại nhận bức điện khác của Kissinger: "Thiệu phản đối toàn bộ kế hoạch cũng như mọi thay đổi kế hoạch đồng thời từ chối tham gia đàm phán thêm nữa trên cơ sở kế hoạch".

Thứ 3, ngày 26/10, điều chúng tôi lo sợ đã đến. Hà Nội công bố hiệp định hòa bình, các điều khoản chung và lịch ký kết hết ngày 31/10. Họ quả quyết rằng chúng tôi kéo dài thương lượng nhằm "che dấu âm mưu duy trì chế độ bù nhìn Sài Gòn và kéo dài chiến tranh".

Kissinger cũng quyết định họp báo ngày 26/10. Sau đó, Dickler (Thư ký báo chí Nhà trắng lúc bấy giờ-NV) nói rằng các đề tin của báo chí tường thuật đều nói: "Hòa bình ở trong tầm tay". Tôi hiểu rằng lập trường mặc cả của chúng tôi thế là bị xói mòn nghiêm trọng. Kissinger cũng thấy: Đi quá xa đến mức công khai cam kết về một giải pháp là phạm sai lầm.

... Ưu tiên hàng đầu sau ngày được bầu lại vào tháng 11 sẽ là kết thúc chiến tranh. Việc này, tôi biết là không dễ dàng. Chiến lược để tiến hành rõ ràng là khác nhau. Kissinger thấy việc duy nhất là phá vỡ thương lượng, đẩy mạnh ném bom, buộc Bắc Việt Nam đồng ý nhận một giải pháp.

Tôi điện cho Kissinger: "...Cần tránh không làm gì có vẻ như phá vỡ thương lượng... Nếu xảy ra tan vỡ, chỉ do phía bên kia gây ra..".

Tiếp sau phiên họp ngày 13/12, Hà Nội tỏ rõ là không muốn đạt tới một hiệp định, Kissinger bay về. Ông ta đòi ném bom.

Ngày 14/12, tôi ra lệnh tiếp tục thả mìn cảng Hải Phòng và tiến công bằng B.52 vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng. Ba ngày sau, lệnh sẽ có hiệu lực.

Đây là quyết định khó khăn nhất của tôi trong suốt cuộc chiến tranh này".

Bị lừa bịp

Lúc bấy giờ, Mỹ đang tự hào là cường quốc quân sự số 1 thế giới, và lấy giá trị nền văn minh Mỹ làm tiêu chí để bảo vệ. Tên lửa hạt nhân chiến lược, tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân và không quân chiến lược (máy bay ném bom B.52 vẫn là máy bay ném bom chủ lực của lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ) được xem là 3 lá bài chiến lược của cỗ máy quân sự khổng lồ của nước Mỹ. Lực lượng này cũng được nhiều người xem là "con át chủ bài" trong các cuộc chiến tranh thông thường mà quân đội Hoa Kỳ có tham gia.

Luật gia Joseph Amter, trong cuốn "Lời phán quyết về Việt Nam" (Vietnam's Verdict), tường thuật: "Ngày 17/12, ngay tức khắc, Nixon ra lệnh các cuộc tấn công không quân lớn nhất của cuộc chiến tranh vào Hà Nội, Hải Phòng. Alexander nói rõ là: "Con người đó (Nixon) sẽ bất chấp tất cả để nối lại việc ném bom và cho B.52 đến đấy để cho họ thấy rằng chúng ta đã nói là làm".


Xác B52 ở Hà Nội.. Ảnh: pbs.org.

Cũng trong "Lời phán quyết về Việt Nam", Joseph Amter mô tả: "Trong 12 ngày tiếp theo, từ 18/12-30/12, Mỹ ném bom Hà Nội và Hải Phòng với sự tàn bạo hơn bao giờ hết trong lịch sử chiến tranh Việt Nam: thả hơn 35.000 tấn bom vào hai trung tâm đô thị lớn của Bắc Việt Nam.

Lầu Năm Góc dùng 200 B.52, các pháo đài bay này từng nhóm 3 chiếc, mang bom 500 và 700 cân (pound) Anh, mà khi thả xuống đúng là nhấn chìm những khu vực hình chữ nhật, một dặm bề dài, nửa dặm bề ngang của thành phố. Giới quân sự cho rằng các trung tâm dân cư cũng như các mục tiêu quân sự sẽ bị quét sạch và trong phần lớn các trường hợp, khu vực mục tiêu chỉ còn là những đống gạch vụn.

Gạch vụn là mục tiêu thừa nhận của Lầu Năm Góc nhằm "làm tê liệt đời sống hàng ngày của Hà Nội và Hải Phòng, và phá hủy khả năng của Bắc Việt Nam ủng hộ các lực lượng ở Nam Việt Nam".

Cũng Joseph Amter phân tích: "Trên thực tế, Nixon không phải đợi đến sau cuộc bầu cử để âm mưu moi thêm những nhượng bộ của người Bắc Việt Nam. Ngày 2/11/1972, Nixon đã ra lệnh B.52 tiến công nặng nề miền Bắc. Theo lời lẽ của riêng ông ta là gây sức ép ngày càng tăng đói với Hà Nội bằng việc bắt đầu ném bom gần khu phi quân sự, rồi tiến dần ra phía Bắc mỗi ngày một ít... Đây là lần thứ 3 trong 8 năm, nhân dân Mỹ đã bị lừa bịp".

Trong biên niên "Cuộc chiến tranh Việt Nam", những con số thống kê thiệt hại được cập nhật như số đếm: "Ngày 20/12/1972, đài Hà Nội thông báo có 215 người bị chết, 325 người bị thương ở Hà Nội do Mỹ ném bom các ngày 18-19/12/1972. Tại Hải Phòng, riêng ngày 18/12, 45 người chết, 131 người bị thương và hàng nghìn nhà dân bị phá hủy. Song chính quyền Nixon lại rêu rao rằng trận đánh bom này đã gây thiệt hại nặng nề đối với các mục tiêu quân sự"

Và tác giả cuốn "Lời phán quyết về Việt Nam" khẳng định: "Nhiều người đồng ý rằng chỉ một người điên mới có thể ra lệnh cho B.52 tiến hành ném bom kiểu tàn phá như vậy đối với trung tâm dân thường".

Còn thiếu tá Carl H. Jeffcoat, một phi công Mỹ bị bắt trong chiến dịch "Linerbacker 2" ngay tại Hà Nội đã không ngần ngại cáo buộc ngay chính Tổng thổng Nixon: "Ở Mỹ, tất nhiên có người nói không đúng sự thật. Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) đôi lúc cũng có thể nói sai. Cũng có thể có nghị sỹ này, bộ trưởng kia nói không thật đúng. Còn tổng thống chúng tôi thì tôi nghĩ rằng ông ta đã nói là có cơ sở, có đầy đủ cơ sở để nói Tuyệt đối đúng. Thật thà và Trung thực là yêu cầu số một của người dân Mỹ đối với tổng thống của họ...

Không thể khác được. Nếu tổng thống mà nói không đúng sự thật thì mất lòng tin của người dân Mỹ. Đông đảo dân Mỹ mà mất lòng tin ở người cần được tin nhất là tổng thống, thì chế độ Mỹ sụp đổ! Từ lúc đi học, chúng tôi đã nhiều lần nghe nói: ở Mỹ lòng tin vào tổng thống cũng ngang như, thậm chí còn quan trọng hơn lòng tin ở Chúa!".

Trường Minh
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/98976/-dien-bien-phu-tren-khong---chuyen-tu-phia-ben-kia.html

Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #438 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 08:15:21 pm »


LẦU NĂM GÓC: LẨN TRÁNH VÀ GIẤU DIẾM

"Tôi đích thân ra lệnh mở một trong những cuộc ném bom lớn nhất vào ngày 26/12: 116 lần xuất kích của B.52 nhằm vào những mục tiêu ở Hà Nội, Hải Phòng", cựu Tổng thống Nixon viết.

Cựu Tổng thống Nixon, trong cuốn hồi ký của mình, thừa nhận "Ngày 14/12/1972, tôi ra lệnh tiếp tục thả mìn cảng Hải Phòng và tiến công bằng B.52 vào khu liên hiệp Hà Nội, Hải Phòng... Tôi đích thân ra lệnh mở một trong những cuộc ném bom lớn nhất vào ngày 26/12: 116 lần xuất kích của B.52 nhằm vào những mục tiêu ở Hà Nội, Hải Phòng".

Thảm sát


Báo Hà Nội mới, số ra ngày 31/12/1992, tường thuật: một ngày trước đó, một tờ báo của Nhật đăng tin cho biết nữ danh ca Mỹ Joan Baez khi đi thăm phố Khâm Thiên "đã phải lấy khăn che mặt và toàn thân rung lên vì tiếng nấc. Trước mắt cô, mức độ khủng khiếp của sự hủy diệt đã tự nó nói lên rất rõ".

Trận bom rải thảm phố Khâm Thiên, Hà Nội đêm 26/12/1972 đã làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em; làm cho 178 cháu mồ côi, trong đó có 66 cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ; 290 người bị thương, 2.000 ngôi nhà, trường học, đền chùa, rạp hát, trạm xá bị sập, trong đó có 534 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn.

Người cựu chiến binh Nguyễn Văn Cầu, 75 tuổi, hiện là Bí thư Chi bộ phường Khâm Thiên, vẫn xúc động khi nhắc lại sự kiện đau thương, bi tráng này. Cứ đến sáng 26/12 hàng năm, ông cùng những gia đình có người thân thiệt mạng do bom B52 lại đến tượng đài tưởng nhớ những người đã ngã xuống trong 12 ngày đêm lịch sử, để thắp nén hương cho người đã khuất.

Người đàn ông năm nay đã vào tuổi lên lão, nhưng mỗi lần nhắc về trận bom hủy diệt phố Khâm Thiên 40 năm trước, nước mắt lại chảy dài. Ông Cầu kể lại: Khi đó ông là nhân viên Xưởng in báo Hà Nội mới, vừa sản xuất, vừa tham gia chiến đấu. Ngày 22/12/1972, ông cho vợ con về sơ tán về nhà ngoại bên Bát Tràng. Chiều 26/12, ông đón vợ con về nhà ở phố Khâm Thiên để đi làm. Cùng ngày, đơn vị nhận lệnh "Đêm nay, Mỹ có thể đánh phá ác liệt Thủ đô, 9h tối phải có mặt tại đơn vị để sẵn sàng chiến đấu".

Nhận lệnh, ông Cầu chỉ kịp xin nghỉ sớm, về nhà dặn vợ con, em và cháu là đêm phải nhanh chóng xuống hầm. Nhưng ông không ngờ đó là giây phút cuối cùng ông được ở bên vợ con.

21h ông có mặt tại đơn vị. Khoảng 23h45', bom B52 của Mỹ bắt đầu trút xuống Thủ đô. Ông cùng đồng đội chiến đấu trên tầng 4 của Xưởng in. Rồi lòng ông như có lửa đốt khi hay tin khu vực đầu đầu phố Khâm Thiên, nơi có những người ruột thịt của ông, bị trúng bom và đang bốc cháy dữ dội.

Đến gần sáng, ông xin phép đơn vị về nhà. Trước mặt ông, cảnh tượng tan hoang, nhà ông và cả dãy phố đã bị bom cày nát, xác người la liệt khắp nơi. Ông Cầu chết lặng khi thấy người vợ của mình bị mất 1/2 cơ thể, đứa con vị vùi lấp chỉ còn lại một bên chân, 2 người cháu ruột của ông cũng chịu chung số phận. Người em ruột ông thì mãi gần 2 tháng sau mới tìm thấy xác...

Khu phố Khâm Thiên lúc bấy giờ phần lớn là nhà ở của bà con lao động nghèo đã bị loạt bom B52 biến thành bình địa. Hố bom chi chít cùng với gỗ, đá, gạch ngói vụn nát ngổn ngang. Căn nhà số 22 của chị em Lan và Phượng. Cả 2 đều là sinh viên. Bố mẹ và gia đình các em đều đã đi sơ tán. Một trái bom Mỹ đã biến căn nhà ấy thành một hố sâu. Không còn gì ngoài một tập sách cháy dở và một vài mảnh áo bông thấm máu hai em.

Bà Nguyễn Thị Lân, hiện sống ở phố Minh Khai, cũng không thể quên cảnh tượng vợ chồng người em ruột của bà cùng hai con nhỏ bị chết thảm trong đêm 26/12 tàn khốc ấy. "Mặc dù cả nhà em tôi cùng nhiều gia đình đã xuống hầm, nhưng không may bị trúng bom nên mấy chục người chết hết. Một người em của tôi may mắn thoát chết, nhưng bị cháy xém cơ thể, sau đó được đi cấp cứu tại Bệnh viện Sait Paul, giờ trên người chi chít vết thương", bà Lân kể lại.


Phố Khâm Thiên tan hoang vì B52. Ảnh tư liệu

Bà Lân cho biết, đêm 26/12, bà tham gia chiến đấu tại khu vực Nhà máy nước Yên Phụ. Sáng hôm sau bà đi bộ về nhà, qua phố Hàng Bồ, Quán Sứ, Yết Kiêu... thấy phố phường tan hoang, nhà cửa đổ nát, những đám cháy vẫn bốc lên xen lẫn mùi khét lẹt... Về lo hậu sự cho những người thân và hàng xóm xong, bà cùng người dân đi gom xác người chết.

"Ban đầu còn có quan tài để nhập, sau đó chẳng có quan, chỉ có manh chiếu, tấm vải vể khâm liệm. Cơ thể người chết cũng không còn nguyên vẹn nên chúng tôi chỉ biết gom lại và cùng chính quyền chôn cất cho bà con. Thật đau thương. Lúc đó, chúng tôi không thể khóc được, mà phải tự nhủ thật gan dạ để cùng nhau chiến đấu bảo vệ thủ đô. Đã gần 40 năm trôi qua, cứ đến ngày giỗ chung của bà con, tôi lại bật khóc", bà Lân ngậm ngùi.

Dối trá

"Lòng tin vào lẽ phải và nền văn minh đã là một trong những nạn nhân tinh thần của cuộc tiến công bằng không quân vào dịp Noel của Richard Nixon chống miền Bắc Việt Nam. Nếu lãnh tụ dân cử của nền dân chủ lớn nhất hành động như một tên bạo chúa điên rồ, và không một người nào trong chính phủ ông ta nói lên lời phản kháng nhỏ nhẹ nhất thì khó mà có thể cãi lại quan điểm cho rằng xã hội chúng ta là một xã hội hóa điên được.

Một thí dụ là phản ứng chính thức của Mỹ đối với tin tức nói rằng bệnh viện Bạch Mai 1.000 giường ở Hà Nội đã bị ném bom. Người phát ngôn chính thức của Bộ Quốc phòng Jerry W. Friedheim nói ngay rằng tin trên là "tuyên truyền", rồi ông ta nói tiếp: "Chúng ta đã không đánh vào một bệnh viện lớn gần 1.000 giường. Tôi không có tin gì ủng hộ tin đó cả".

Từ "nói dối" không mô tả được một cách thích đáng tuyên bố trên. Bởi tuyên bố này khi thường sự thật quá vì tờ Thời báo New York (The NewYork Times) vừa đăng một bài tường thuật về thiệt hại ghê gớm do bom Mỹ gây ra cho bệnh viện Bạch Mai", đó là những lời chỉ trích gay gắt của Antoni Luis đăng trên tờ "Diễn đàn thông tin quốc tế" ngày 30/12/1972.

Trước đó 1 ngày, ngày 29/12/1972, cũng tờ báo này bình luận về bản thông cáo ngày 27/12 của chính quyền Nixon: "Hơn 1.400 phi vụ oanh kích của B.52 và các máy bay ném bom khác trong một tuần chống những mục tiêu "quân sự" trong vùng rất đông dân ở Hà Nội và Hải Phòng. Nhưng thậm chí trong việc mới hé một chút bức màn bí mật này, vẫn hãy còn lởn vởn chính sách cũ do Nhà Trắng áp dụng là lẩn tránh và giấu diếm (...)

Người phát ngôn Bộ chỉ huy Mỹ đã từ chối không bình luận những câu hỏi về thương vong của dân thường. Có ai tin rằng ném bom rải thảm với cường độ như thế mà lại không gây ra một số thương vong rất lớn cho dân thường trong một vùng mật độ dân số cao như vậy?

(...) Nhân dân Mỹ có quyền nghe một báo cáo đầy đủ và nhanh chóng từ những người có trách nhiệm về những hành động đó, những hành động phạm phải nhân danh nhân dân Mỹ. Điều đáng bực mình nhất là sự im lặng kéo dài của viên tổng tư lệnh về lý do khiến ông ta ra lệnh ném bom trở lại và việc oanh tạc này sẽ làm cho hòa bình tiến bộ như thế nào?".

Trong khi đó, tại Hà Nội, "ở thôn Gia Thuỵ, Gia Lâm có gia đình bác Hiển, chỉ trong một trận bom, cả nhà có 10 người chết hết 9. Gia đình bác Quốc bị một quả bom cướp đi sinh mạng của bà mẹ già cùng đàn cháu thơ. Tại thị trấn Yên Viên, có một chiếc xe ca đang chở khách, bị bom biến thành đống sắt bẹp dúm. Rất nhiều đã chết và số còn lại đều bị thương.

Trước đó 4 hôm, vào lúc 2h38' ngày 22/12, Bệnh viện Bạch Mai, một cơ sở y tế dân sự vào loại lớn nhất miền Bắc hồi ấy cũng bị B.52 Mỹ dội bom. Toà nhà chính của bệnh viện đã đổ sập, đè lên những căn hầm, trong đó có rất nhiều bệnh nhân và nhân viên y tế đang ẩn nấp. Ban lãnh đạo bệnh viện đã là đủ mọi cách mà đành bất lực.

Không có chiếc xe cẩu nào đủ sức nâng khối bê tông và gạch đá khổng lồ ấy. Tiếng kêu khóc từ trong lòng đất vang kên yếu ớt, nghe như từ cõi xa xăm vọng về. Các bác sĩ y tá phải dùng những ống cao su nhỏ, luồn qua những khe nứt để bơm sữa xuống cho những người bị nạn. Sau đó nhiều người đã chết vì ngạt, vì đói hoặc vì chấn thương.

Có một câu chuyện đau lòng mà báo chí hồi đó đã đưa tin. Một đôi trai gái, đều là bác sĩ của bệnh viện Bạch Mai, đã chuẩn bị ngày hôn lễ. Thiếp mời dự tiệc cưới đã gửi tới tất cả bạn bè. Vậy mà, đêm nay, những quả bom độc ác của Nixon đã cướp đi mạng sống và hạnh phúc của hai người" (trích từ "Điện Biên Phủ trên không, chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam", tác giả Lưu Trọng Lân).

"Bách khoa thư về cuộc chiến tranh Việt Nam" (Encyclopedia of the Vietnam War, NewYork, Simon&Schutster, 1996) thống kê: Năm 1972, bom Mỹ ném xuống miền Bắc với số lượng lớn hơn nhiều so với tời gian từ năm 1965-1968. Chỉ tính đến hậu quả trong trận ném bom tháng 12 đã có tới 40.000 tấn bom xuống Hà Nội và 15.000 tấn bom xuống Hải Phòng. Do có sự chuẩn bị trước và tài mưu lược của các vị lãnh đạo nên chỉ khoảng 1.600 người chết và vài ngàn người bị thương".

Riêng B.52, từ 18-29/12/1972, "đã ném 17.000 tấn bom xuống Hải Phòng và Hà Nội làm 1.300 người bị chết".

Thống kê từ Hà Nội đưa ra cho biết, trong 12 ngày đêm tháng 12/1972, "Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B.52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật dội xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi khác trên miền Bắc Việt Nam hơn 100 ngàn tấn bom, đã huỷ diệt nhiều khu phố, làng mạc, phá sập 5.480 ngôi nhà, gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga... Giết chết 2.368 dân thường và làm bị thương 1.355 người khác".

Ngôi nhà số 51 phố Khâm Thiên chỉ còn là một hố bom, 7 người trong ngôi nhà này không còn ai sống sót. Mảnh đất này được xây Đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ "Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ" và một bức tượng bằng đồng, tạc hình một phụ nữ bế trên tay một đứa trẻ đã chết vì bom Mỹ. Tượng được lấy nguyên mẫu từ chính chủ nhân của ngôi nhà bị hủy diệt này.

Tờ NewYork Times chỉ trích Tổng thống Mỹ ngày 20/12/1972: "Tổng thống Nixon hy vọng buộc các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam từ bỏ cuộc chiến đấu gần 30 năm và chấp nhận những điều kiện của ông ta. Tất cả kinh nghiệm đã qua cho thấy thái độ đó nhất định thất bại. Mỹ có nguy cơ trở lại một kiểu dã man của thời kỳ đồ đá, có thể phá hoại một phần những gì tốt đẹp nhất trong nền văn minh Mỹ".

Trường Minh
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/99092/lau-nam-goc--lan-tranh-va-giau-diem.html
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #439 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 08:20:55 pm »


ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG: NGÀY PHÁN XÉT

“Chiến dịch Linebacker 2 không thể vắt ra được những nhượng bộ quyết định nào của Bắc Việt Nam”, G.S Guenter Lewy viết trong cuốn “Mỹ ở Việt Nam” (xuất bản năm 1978).



Siêu pháo đài bay bất khả xâm phạm?


Một cuộc xuất kích của bất kỳ chiếc B.52 nào cũng được tổ chức đặc biệt chặt chẽ. Là một trong 3 thứ vũ khí chiến lược của quân đội Mỹ, mỗi chiếc trị giá 8 triệu USD lúc bấy giờ, siêu pháo đài bay B.52 liên tục được nâng cấp các phiên bản B.52D, B.52G… mỗi tốp bay thường gồm 3 chiếc.

B.52 một thời được xem là niềm tự hào của các nhân viên công ty Boeing cũng như các chuyên viên kỹ thuật quân sự Mỹ.

Tuy nhiên đối với những người có thân nhân bị nạn trong các vụ ném bom rải thảm ở Việt Nam thì B.52 là một biểu tượng của tội ác.

Một chiếc B.52 có sải cánh 56,39m, dài 40,05m, cao 12,4m, trang bị 8 động cơ, khối lượng cất cánh tối đa 221,35 tấn, tầm bay của B.52G tới 12.000m, B.52H tới 16.000m so với mặt đất, trần bay ở độ cao 15 km so với mặt biển, một kíp bay gồm có 6 người, có thể mang tới 30 tấn bom.

Đại úy không quân Mỹ Robert E. Wolff, trong một bài đăng trên tạp chí “Không quân Mỹ” (Air Force Magazine) tháng 9/1979 tiết lộ về quy luật hành quân ném bom của một phi đội B.52 trong chiến dịch Linebacker 2 tại Bắc Việt Nam năm 1972: “Cuộc tập kích bằng B.52 kéo dài 11 ngày vào tháng 12/1972 đánh phá miền Bắc Việt Nam đã từng gây ra nhiều tranh luận là một trong những trường hợp sử dụng tập trung hỏa lực không quân ở mức độ cao nhất trong lịch sử chiến tranh, chống lại một hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới…

Thoạt tiên, nó (chiến dịch Linebacker 2-NV) được hoạch định dưới hình thức một cuộc tập kích bằng B.52 kéo dài 3 ngày vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng, nhưng sau đó được mở rộng thành cuộc chiến tranh 11 ngày…

Dẫn đầu lực lượng không quân chiến thuật là các máy bay EB66 được sử dụng như một dàn máy gây nhiễu, áp dụng các biện pháp điện tử chống điện tử tầm xa. Trong cuộc hành quân này, các máy bay EB66 bay lượn ở phía Nam khu vực mục tiêu, gây nhiễu hệ thống phòng không của Hà Nội.

Các máy bay F111 dẫn đầu lực lượng tấn công thực sự và lãnh đạo một nhiệm vụ có mức độ ưu tiên cao nhất. Máy bay F111 bay rất thấp với tốc độ nhanh bám sát địa hình để đánh sân bay và các vị trí SAM của đối phương.

“Lần đầu tiên trong một cuộc chiến tranh, chúng ta – Mỹ thực hiện một nỗ lực quyết định nhằm triệt hạ các hệ thống phòng không tuyệt hảo của Hà Nội”, Robert E. Wolff viết.

Viên đại úy không quân mô tả, theo sau các F111 là các máy bay F4 rải một hành lang gồm những mảnh kim loại nhiễu xạ làm mờ các màn hiện sóng ra-đa của đối phương. Bức màn nhiễu xạ này sẽ khiến những nhân viên điều khiển ra-đa đối phương rất khó khăn phân biệt được một B.52 với nhiều tín hiệu giả tạo thu nhận trên màn hiện sóng.
 Nhiệm vụ nữa của F4 là cùng với máy bay F105 hộ tống các máy bay ném bom B.52 khổng lồ. Các máy bay chiến đấu càn quét khu vực mục tiêu trước khi lực lượng máy bay chiến lực B.52 đến nơi…

Các máy bay F105 “bàn tay sắt” trang bị tên lửa chống ra-đa chặm chùm tín hiệu hướng dẫn của tên lửa SAM-2 (loại tên lửa chống máy bay phổ biến của Việt Nam lúc ấy), ra-đa.

“Nhờ phối hợp hoạt dộng của các vị trí ra-đa với nhau, đối phương có thể làm giảm bớt hiệu năng của các tên lửa chống ra-đa của chúng ta – Mỹ. Tuy nhiên, sự có mặt của các máy bay F105 này đã làm giảm bớt mức độ chính xác của tên lửa đối phương rất nhiều’, Robert E. Wolff viết.

Dù sao đi nữa, bộ phận chủ công của các cuộc hành quân Linebacker 2 vẫn là các máy bay B.52. Sự hỗ trợ của các loại máy bay khác là rất quan trọng, nhưng các B.52 tự chúng cũng có mang rất nhiều trang bị có thể giúp chúng thâm nhập vào mục tiêu. Các thiết bị điện tử chống điện tử được đánh giá cao nhất vì chúng có thể làm vô hiệu hóa mối đe dọa của các tên lửa SAM. Nó còn được trang bị 4 súng máy bắn về phía sau để chống các máy bay MIG.

“Ngày đầu tiên chúng tôi biết được có một chiến dịch quan trọng đã được hoạch định là ngày 17/12/1972. Chúng tôi sẽ tiến công những mục tiêu ở những vùng được phòng thủ chặt chẽ nhất thế giới”, viên đại úy không quân nhớ lại trong hồi kí.

Với những trang thiết bị điện tử và lực lượng bảo vệ, gây nhiễu… được tổ chức chặt chẽ khi hành quân như thế, quân đội Mỹ tự hào đây là thứ vũ khí chiến lược bất khả xâm phạm.

Nhưng rốt cuộc, B.52 lần lượt rụng như sung trên bầu trời Hà Nội, còn Robert E. Wolff trở thành một trong những phi công tham chiến bị bắt tại miền Bắc Việt Nam khi siêu pháo đài bay B.52 do anh ta lái bị bắn rơi.



Hạ gục pháo đài bay

20h13’ ngày 18/12, cả vùng trời đêm phía Bắc Hà Nội bừng sáng vì một quả cầu lửa trên không vụt cháy. Tiểu đoàn tên lửa 59, Trung đoàn 261, Sư đoàn phòng không Hà Nội, với 3 quả tên lửa SAM 2, tại góc tà 340, bắn rơi tại chỗ một chiếc B.52G đang xâm nhập đánh phá Hà Nội mà chưa kịp cắt bom.

Chiếc B.52 đầu tiên bị tên lửa SAM bắn trúng trên bầu trời Hà Nội rơi xuống cánh đồng Chuôm, thuộc xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc, cách trận địa bố trí tiểu đoàn tên lửa 59 vẻn vẹn có… 10km.

“Ngày 19/12/1972, giới quân sự Mỹ ở Sài Gòn báo cáo lại, có 3 B.52 và 2 máy bay ném bom bị rơi ngoài vĩ tuyến 20, 15 phi công bị mất tích. Hơn 100 máy bay B.52 và nhiều loại máy bay ném bom khác đã tham gia trong trận này”, thông tin từ cuốn Chiến tranh Việt Nam (Vietnam War, USA, Mallard, 1989).

“Ngày 21/12/1972, theo thông báo trong trận ngày 18/12/1972 có 8 máy bay B.52 bị thất lạc cùng với 43 phi công bị mất tích. Ngày 22/12, lại có 10 máy bay B.52, mỗi chiếc trị giá 8 triệu đô la bị mất tích từ 18/12, cùng với 55 phi công. Một con số tương đương với 13% số tù binh Mỹ được giữ tại Hà Nội trước khi ném bom”, cũng trong cuốn Chiến tranh Việt Nam ghi.

“Ngày 26/12/1972, máy bay Mỹ đã dội bom xuống Hà Nội trong suốt 40 phút và có ít nhất là 5 chiếc B.52 đã bị bắn rơi”, lại là cuốn sách Chiến tranh Việt Nam thống kê.

“Ngày 31/12/1972, chiến dịch ném bom căng thẳng nhất của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Bắc Việt cho dùng toàn bộ lực lượng tên lửa đất đối không gồm 1.200 quả để bắn trả máy bay B.52. 15 chiếc B.52 bị bắn rơi cùng với 93 phi công đã bị chết, mất tích hoặc bị bắt”, sách này tổng kết.

Còn hãng tin Mỹ UPI, ngày 31/12/1972 đưa bản tin ngắn gọn: “12 ngày ném bom trở lại vùng Hà Nội, Hải Phòng được coi là cuộc ném bom dữ dội nhất trong lịch sử chiến tranh, đã làm cho Mỹ bị thiệt hại nặng nề nhất về người và trang bị. Từ 18-30/12, 76 phi công Mỹ đã bị mất ở Bắc Việt, có lẽ là bị bắt. Nhiều người chết và bị thương”.

Đại úy không quân Mỹ Robert E. Wolff mà chúng tôi nhắc tới ở trên đã là một không nhiều các phi công Mỹ may mắn “bị bắn rơi” nhưng còn có thể trở về. Trong những ngày bị giam giữ tại Hilton Hỏa Lò, Robert có dịp nhớ lại các thông số đã được cập nhật trước khi bước lên chiếc pháo đài bay định mệnh: “Vùng Hà Nội, Hải Phòng được phòng thủ bằng 30 vị trí tên lửa SAM-2, với trên 200 bệ phóng. Tên lửa SAM-2 được thiết kế đặc biệt để bắn hạ máy bay ở độ cao mà chúng tôi dự định bay.

Ngoài hệ thống SAM nói trên còn có 145 máy bay chiến đấu, phần lớn là MIG-19 và MIG-21, là những máy bay có thừa khả năng gây trở ngại cho lực lượng máy bay B.52. Trong hệ thống phòng thủ này còn có pháo phòng không đủ loại, trong đó có một vài loại đáng ngại. Chúng tôi rời phòng thuyết trình với tâm trạng băn khoăn…”.

Thực ra thông tin tình báo của Mỹ về lực lượng không quân của Hà Nội khá chính xác (dù không tuyệt đối).

Trung tướng Nguyễn Đức Soát (Anh hùng LLVTND, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam) xác nhận: “Năm 1972, khi bước vào cuộc đọ sức giai đoạn này, chúng ta có 4 trung đoàn không quân chiến đấu”.

Tổng số máy bay phía Hà Nội có lúc bấy giờ khoảng hơn 150 chiếc, nếu so với phía Mỹ có hơn 1.000 máy bay ở miền Nam Thái Lan, chưa kể thường xuyên có 3 tàu sân bay, cao điểm có lúc đến 4 tàu sân bay được bố trí ở vịnh Bắc Bộ và biển Đông, mỗi tàu sân bay chở theo 80-90 chiếc máy bay nữa, thì sự chênh lệch lực lượng là quá lớn.

Siêu pháo đài bay xuất trận trên bầu trời Hà Nội, với tỷ lệ rơi rụng ngày càng lớn. John T. Greenwood, khi viết “Máy bay B.52 trong vai trò chiến thuật” (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 24, tháng 12/1972), thống kê:  “Có 15 chiếc B.52 bị tên lửa đất đối không bắn rơi: 9 chiếc B.52H và 6 chiếc B.52G; 9 chiếc khác bị thương, 29 phi công và nhân viên phi hành đoàn tử trận. 33 bị bắt sống, về sau được trao trả và 26 được cứu thoát sau trận đánh. Cá pháo đài bay đã oanh tạc 34 mục tiêu, trút gần 49.000 trái bom, tổng cộng 15.000 tấn (13.606.000kg)”.

Tuy nhiên, Joseph Amter, trong “Lời phán quyết về Việt Nam” đưa ra một thống kê khác: ‘Khoảng 33-35 B.52, chở gần 100 phi công Mỹ đã bị bắn rơi trong 12 ngày. Con số chính thức được thừa nhận chỉ 15 máy bay bị mất tích hầu như chắc chắn là sai. Tài bắn chính xác mới phát hiện ra ở các tay súng Bắc Việt Nam làm cho Lầu Năm góc ngạc nhiên đến mức cuối tháng 12 Bộ tham mưu liên quân đòi chấm dứt ném bom”.

Thống kê từ phía Hà Nội đưa ra ủng hộ con số tính toán của Joseph Amter: Trong 12 ngày đêm chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, miền Bắc Việt Nam bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 pháo đài B.52.

Còn tờ Dailly Mirro (Tấm gương Chủ nhật, ngày 24/12/1972) thì mỉa mai: “Nixon ra lệnh cho Kissinger nói dối quanh nhằm thắng cử trong khi đó Nixon chuẩn bị B.52 để ném bom. Nhưng với mức độ B.52 bị rơi như hiện này thì hơn 200 ngày nữa là miền Bắc Việt Nam sẽ bắn rơi hết. Nixon đã nói dối và lừa gạt ngay cả chính nhân dân của ông ta”.

Trường Minh
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/suyngam/99269/dien-bien-phu-tren-khong--ngay-phan-xet.html
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM