Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:53:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch 12 ngày đêm (Linebacker II), tháng 12/72  (Đọc 419271 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #280 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 01:42:03 pm »

Các bài học kinh nghiệm phòng không tên lửa chống không quân Mỹ tại Việt Nam 1972
(tiếp)
....
Trong cả năm 1972, không quân Mỹ tham chiến với các tần suất khác nhau. Vì vậy có thể chia ra thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 bắt đầu từ tháng 3 đến giữa tháng 10, giai đoạn 2 tính từ 18/12 đến 30/12/1972. nêu nghiên cứu các hoạt động của không quân Mỹ và các hoạt động tác chiến của phòng không và không quân Việt Nam, có thể thấy:

Giai đoạn 1: tần suất hoạt động của không quân Mỹ không cao. Hệ thống tên lửa phòng không Việt Nam phóng đạn 55 lần và bắn hạ 23 máy bay không quân hải quân chiến thuật với 4 máy bay không người lái. Bình quân 4 tên lửa cho 1 máy bay, hiệu quả phóng đạn là 0,5. Không quân cường kích sử dụng nhiễu ở cường độ trung bình và cường độ thấp. Tầm cao bay tác chiến là từ 1 đến 5 km.



Phân tích kết quả các đòn tấn công của không quân Mỹ vào trận địa tên lửa

Kết quả những đòn tấn công của không quân Mỹ vào các trận địa của các phân đội phòng không với mức độ cơ động trung bình trong một đợt tác chiến vào năm 1972.

Giai đoạn 2: Giai đoạn triển khai chiến dịch Linebacker II. Với mật độ bay và lực lượng lớn nhất trong lịch sử không quân Mỹ với mục tiêu san phẳng Hà Nội Hải Phòng và các mục tiêu khác

Để chống lại lực lượng phòng không tên lửa, không quân Mỹ đã triển khai kế hoạch tấn công phủ đầu các trận địa tên lửa của các cụm phòng không.

Đợt tấn công thứ 1 của không quân Mỹ trong chiến dịch Linebacker II. Không quân chiến thuật Mỹ đã  tập kích với 12 đòn tấn công vào trận địa phòng không tên lửa bị phát hiện (6 quả bom và 6 quả tên lửa chống radar) Theo kết quả gây tổn thất cho 7 phân đội tên lửa (hai bệ phóng – 1 tên lửa Shrike). Các tiểu đoàn di chuyển 6 lần trong một giai đoạn tác chiến-1 đợt không kích ( khoảng 2 lần trong 1 tháng). Để chống lại tên lửa chống radar điều khiển Shrike, loại tên lửa đã gây nhiều khó khăn cho các khẩu đội tên lửa. Theo tính toán của các cán bộ chiến sỹ trắc thủ điều khiển phóng, khi kíp trắc thủ điều khiển phát hiện tên lửa chống radar Shrike hoặc trên các trạm quan sát phát hiện đối phương phóng tên lửa Shrike. Trắc thủ điều khiển có thể kịp thời quay anten và cắt nguồn phát tín hiệu cao tần. Kỹ thuật này sẽ làm tên lửa Shrike mất sóng dẫn đường, đánh trượt mục tiêu. Đầu nổ nổ cách mục tiêu hàng trăm mét cách xe điều khiển.

Đã có những trường hợp trắc thủ  khẩu đội tên lửa không kịp thời đánh lạc hướng tên lửa Shrike toàn bộ khẩu đội bị tổn thất và mất khả năng chiến đấu. Một khẩu đội tên lửa trong chiến dịch Linebacker II không kịp thời cắt Shrike. Tên lửa phát nổ cách xe điều khiển 6 m, trên cánh radar thu phát bị 70 lỗ đạn bi xuyên qua, tên lửa cắt đứt hơn 10 cuộn cáp vi mạch và cáp cao tần của radar, trên bệ phóng cáp nguồn điện và cáp điều khiển bị cắt đứt. Khẩu đổi bị loại hoàn toàn khỏi trận địa, tổn thất sinh lực không.

Trong chiến tranh, các hoạt động tác chiến đều do các chiến sỹ điều khiển tên lửa Việt Nam đảm nhiệm, các chuyên gia quân sự Xô viết chỉ giới hạn nhiệm vụ hỗ trợ trong các hoạt động chuẩn bị trang bị khí tài, vũ khí, sửa chữa và khai thác sử dụng, thống kế kết quả phóng đạn và đưa ra những đề xuất, kiến nghị về nghệ thuật tác chiến. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng các ban chỉ huy các đơn vị tên lửa Việt Nam rất chú trọng tiết kiệm đạn (không ít lần phóng 1 tên lửa, dẫn đến hiệu quả phóng không cao) Có khoảng 70% lần phóng là 2 quả đạn liên tiêp và 28% lần phóng là 1 đạn. Trong đợt tấn công lần 1 của chiến dịch Linebacker II tỉ lệ tổn thất 3,8. Có nghĩa là cứ một khẩu đội tên lửa bị tổn thất là có 4 đơn vị bay của đối phương bị bắn rơi. Có thể coi tỷ lệ đó là rất cao, nhưng so với những năm trước 1966 – 1968 tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.

Đợt tấn công thứ 2 của chiến dịch Linebacker II, tần suất tấn công của không quân Mỹ tăng gấp nhiều lần, đặc biệt là không quân hải quân và không quân chiến thuật. đồng thời tăng cường gây nhiễu chiến thuật đến mức độ cực đại. Giai đoạn này các khẩu đội phóng 500 tên lửa, bắn rơi 185 máy bay, trong đó có 177 máy bay chiến thuật và không quân hải quân. 8 máy bay B52. Tỷ lệ hiệu quả tác chiến là 5 tên lửa trên 1 máy bay. Tỷ lệ khẩu đội tên lửa với máy bay đối phương là 0,37, với máy bay ném bom B52 là 0,16. Tỷ lệ đạn cho 1 máy bay B52 là 8 tên lửa/1 B52. Mật độ nhiễu xạ bầu trời và độ phức tạp phòng không khi phóng đạn đạt đỉnh cao nhất, gần 90% khó phát hiện mục tiêu.



Sơ đồ tác chiến của bộ đội tên lửa phòng không đợt 1 chiến dịch Điện Biên Phủ trên không

Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến dịch Linebacker II, để phát hiện và đánh dấu các mục tiêu trận địa phòng không và hệ thống phòng không, người Mỹ đã sử dụng cả máy bay trinh sát chiến lược SR-71. Trên tất cả các trận địa tên lửa bị tấn công 111 lần. Bom và tên lửa Shrike đã gây tổn thất cho 32 trong tổng số 37 tiểu đoàn tên lửa phòng không. 3 trong số 10 tiểu đoàn kỹ thuật bị tấn công. Có những phân đội bị tấn công nhiều lần (2 hoặc 4 lần) một nửa là bằng bom, số còn lại là tên lửa. Các phân đội tên lửa bị tổn thất là 54 lần, bị tổn thất do tên lửa Shrike là 10 phân đội, các kíp xe trắc thủ đã nhanh chóng học được phương pháp tránh tên lửa Shrike. Hiệu quả của tên lửa Shrike  giảm xuống chỉ còn 0,16.

Hệ số cơ động của các đơn vị tên lửa tăng cao. Trong giai đoạn tác chiến này, các phân đội thực hiên đến 12 lần cơ động sang vị trí mới (tương đương khoảng 4 lần cơ động trong 1 tháng). Đồng thời hệ số khó khăn trong cung cấp đạn cũng tăng cao. Bộ tư lệnh quân chủng Phòng không Không quân lại quyết định chỉ lệnh tiết kiệm đạn cao nhất khi bắn nhằm mục tiêu chủ yếu là B52.

Chính vì thế khoảng 70% lần phóng là 1 tên lửa. tất nhiên, trong điều kiện quá phức tạp của chiến trường khả năng tiêu diệt mục tiêu rất khó khăn. Chính vì vậy, việc tiết kiệm đạn lại dẫn đến việc tiêu hao đạn cao hơn. Tỷ lệ giữa các khẩu đội tên lửa và máy bay bị bắn hạ là 3,4. Có nghĩa là cứ 1 khẩu đội tên lửa bị đánh trúng chỉ còn 3,4 máy bay bị bắn rơi. Đây là tỷ lệ hiệu quả nhỏ nhất trong toàn bộ những năm chiến đấu của phòng không không quân Việt Nam.

Đợt tấn công thứ 3 của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, các phân đội tên lửa phóng 290 tên lửa, bắn hạ 110 máy bay, trong đó có 104 máy bay chiến thuật và không quân hải quân, 6 máy bay ném bom chiến lược B52. Tỉ lệ bắn hạ máy bay là 4,5 tên lửa / 1 máy bay, hiệu quả bắn là 0,38.

Hiệu quả tiêu diệt máy bay ném bom chiến lược B52 là 0,6, tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ chiến tranh ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, các phân đội tên lửa phòng không quân khu 4 đã tấn công B52 bằng phương pháp phục kích. Khi máy bay B52 chưa kích hoạt máy gây nhiễu tích cực. Từ phương án khác, các chiến sỹ trắc thủ điều khiển tên lửa đã học được phương phát vạch nhiễu để phát hiện máy bay. Khi máy bay bật nhiễu tích cực và gây nhiễu dầy đặc hoặc khi máy bay địch bay lượn vòng, biểu đồ các thông số nhiễu thay đổi và tín hiệu máy bay hiện ra rất rõ trên màn hình radar ngay cả trong trường hợp nhiễu dày đặc nhất.

Trong khu vực có khả năng tiêu diệt mục tiêu của tên lửa, khi phát hiện nhiễu bắt đầu dày đặc, các phân đội tên lửa Việt Nam lập tức phóng đạn vào hướng mục tiêu. Trong rất nhiều trường hợp đạn đánh trúng mục tiêu khi đội hình hành tiến của không quân Mỹ chưa kịp triển khai đội hình chiến đấu. Trong khu vực tác chiến mật độ phức tạp đạt đến 100% do nhiễu thụ động, nhiễu tích cực, tác chiến điện tử và chế áp điện tử, các hoạt động nghi binh của không quân, các đòn tấn công của tên lửa Shrike, bom đánh tọa độ vào khu vực trận địa phòng không…



Biểu đồ số lượt xuất kích của các loại máy bay Mỹ trong năm 1972

Không quân Mỹ đã tấn công vào các trận địa tên lửa 55 lần, 22 lần tấn công bằng bom và 33 lần tấn công bằng tên lửa. 20 phân đội bị tổn thất, trong đó có 8 khẩu đội vị trúng tên lửa Shrike. Trong đợt tấn công này, các đơn vị tên lửa đã thực hiện đến 20 lần cơ động trận địa, khiến hiệu quả đánh trúng các khẩu đội tên lửa xuống thấp  0,36. Hiệu quả giai đoạn 2 của chiến dịch Linebacker II là 0,5.

Trong đợt không kích thứ 3 mặc dù độ phức tạp của chiến trường tăng đến 100%, các phân đội tên lửa Việt Nam đạt hiệu quả tác chiến rất cao, khả năng đánh trúng mục tiêu lên đến 0,4. Tỷ lệ phóng đạn là 70% lần phóng là 2 tên lửa liên tiếp. Tỷ lệ tổn thất của 1 khẩu đội tên lửa với máy bay là 4,0. Mỗi khẩu đội bị đánh trúng, không quân Mỹ mất 4 máy bay chiến đấu. Điều đó đã khẳng định khả năng huấn luyện chiến đấu và chiến đấu rất cao của các phân đội, các trung đoàn tên lửa phòng không Việt Nam, khả năng hợp đồng và phối hợp điêu luyện, trình độ đánh giá điều kiện chiến trường chính xác, ra quyết định chính xác trong phóng đạn tiêu diệt mục tiêu trên không.

....
(còn tiếp)
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2011, 01:55:22 pm gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #281 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 01:47:01 pm »

Các bài học kinh nghiệm phòng không tên lửa chống không quân Mỹ tại Việt Nam 1972
(tiếp)
....

Kết quả


Các đơn vị phòng không tên lửa Việt Nam trong giai đoạn năm 1972 đã phóng tổng số 1025 lần, bắn rơi 376 máy bay, trong đó có 325 máy bay chiến thuật và hải quân. 45 máy bay ném bom B52, 6 máy bay không người lái. Nếu so với năm 1967, năm căng thẳng nhất của của các chiến dịch ném bom ngoài miền Bắc đã bắn rơi 397 máy bay trong đó có 367 máy bay máy bay chiến thuật không quân và hải quân, 24 máy bay không người lái và chỉ có 6 máy bay B52. các máy bay B52 đều do phòng không quân khu 4 tiêu diệt.

Tỉ lệ tiêu hao đạn cho một máy bay trong toàn bộ năm 1972 là 5 tên lửa, hiệu quả bắn cho tất cả các loại máy bay là 0,34 máy bay cho 1 tên lửa. nếu tính toán đến độ phức tạp của chiến trường do mật độ nhiễu lớn nhất, gây nhiễu điện từ và chế áp điện tử cao nhất, mật độ bay tấn công lớn nhất, tính cơ động cao nhất thì tính tổng kết hiệu suất chiến đấu của các đơn vị tên lửa Việt Nam là rất cao.



Đặc điểm sơ đồ tác chiến chiến thuật của không quân Mỹ

Trong giai đoạn năm 1972, các trận địa tên lửa bị tấn công 200 lần, trong đó 96 lần bằng bom và 104 lần bằng tên lửa chống radar Shrike. Các đơn vị tên lửa bị tổn thất phải rút khỏi trận đánh 98 lần, trong đó có 21 lần bằng tên lửa. Hiệu quả tấn công trận địa tên lửa bằng Shrike giảm xuống còn 0,2. Các kíp trắc thủ điều khiển tên lửa đã học được phương pháp tác chiến hiệu quả với tên lửa Shrike. Do đó làm giảm đến tối thiểu hiệu quả của tên lửa Shrike nếu so sánh với năm 1966 – 1967. Tỷ lệ tổn thất giữa máy bay và khẩu đội tên lửa trong năm 1972 là 3,8.

Cũng trong gian đoạn, các đơn vị pháo phòng không bắn rơi 20 máy bay, trong đó có 1 máy bay B52 và 3 máy bay F111A. Lực lượng không quân xuất kích 10 lần, bắn rơi 7 máy bay, trong đó có 2 máy bay B52. Tổn thất 3 máy bay tiêm kích.

Có thể so sánh như sau: Đại chiến thế giới lần thứ 2 trong 1000 lần xuất kích, không quân Mỹ bị mất bình quân 9 máy bay. Trong cuộc chiến tại Triều tiên ( 1950 – 1953) tổn thất là 4 máy bay. Nhưng trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ năm 1964 đến năm 1972. Bình quân cứ 1000 lần xuất kích người Mỹ mất 17 máy bay. Trong chiến dịch Linebacker II từ 18 đến 30 tháng 12 năm 1972, tổn thất trong 1000 lần xuất kích là 27 máy bay.

Tổng kết lại các kết quả của lực lượng phòng không Việt Nam tính từ ngày 24 tháng 6 năm 1965 đến tháng 12 năm 1972. Các đơn vị tên lửa đã phóng 3228 lần và bắn rơi 1293 máy bay, chiếm 31% số lượng máy bay bị bắn rơi trên bầu trời Việt Nam. Trong đó có 1109 máy bay chiến thuật của không quân và hải quân, 54 máy bay B52 (chiếm 95 %  tổng số máy bay B52 bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam) và 130 máy bay không người lái.



Vị trí các sân bay dã chiến và lực lượng không quân Việt Nam

Trong giai đoạn này không quân phòng không và không quân Việt Nam bắn rơi 350 máy bay Mỹ (chiếm khoảng 9% tổng số máy bay bị rơi) trong đó chỉ có 2 chiếc B52. một chiếc bị tiêu diệt bởi đòn tấn công đâm thẳng vào máy bay địch.

Các đơn vị và phân đội pháo phòng không trong các lực lượng phòng không Việt Nam (bao gồm các lực lượng dân quân tự vệ và các đơn vị phòng không độc lập đã bắn rơi 2550 máy bay. Chiếm 60% tổng số máy bay bị bắn rơi trên bầu trời Việt Nam. Tổng số máy bay bị bắn rơi khoảng 4200 máy bay, có thể khác nhau chút ít, do số liệu máy bay do pháo phòng không các loại bắn rơi khó chính xác. Do máy bay có thể bay đến chỗ khác và bị rơi.

Số lượng lớn máy bay bị bắn rơi do các lực lượng pháo phòng không được hiểu chính xác là: lực lượng pháo phòng không nhân dân được thành lập rất sớm, ngay từ ngày đầu chiến tranh và từng ngày phát triển. Đến giữa năm 1967 lực lượng pháo phòng không đã có tới 35 trung đoàn và các phân đội phòng không độc lập. Được biên chế đến 1000 khẩu pháo phòng không các loại như pháo phòng không tầm trung 85 mm, 100mm, tầm thấp 37mm, 57 mm. Chủ yếu các lực lượng phòng không được trang bị pháo phòng không 57mm. Tất  cả các mục tiêu nhỏ ( cầu, phà, ngầm, đường hẹp, và bản thân đường quốc lộ số 1 đường Hồ Chí Minh, các kho xăng dầu, thiết bị và vật chất chiến tranh được bảo vệ bởi các đơn vị pháo phòng không. Nói  chính xác là lực lượng pháo phòng không được trải rộng trên toàn bộ địa bàn đất nước.

Nếu lực lượng phòng không và không quân Việt Nam chiếm khoảng 200.000 cán bộ chiến sỹ thì các đơn vị pháo phòng không có quân số lên tới 160.000 người, chiếm khoảng 80% quân số. Lực lượng tên lửa phòng không chỉ có 14000 cán bộ, chiến sỹ (7% quân số) của lực lượng phòng không, không quân. Các trung đoàn tên lửa phòng không trên toàn bộ đất nước khoảng 11 trung đoàn sẵn sàng chiến đấu. Triển khai trên các trận địa tên lửa khoảng 30 – 35 phân đội trong các giai đoạn của chiến tranh.



Biểu đồ số lần cất cánh của không quân Mỹ

Tháng 2 năm 1973. Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc họp tổng kết kinh nghiệm chiến trang với phái đoàn quân sự Liên bang Xô viết và lãnh đạo đội cố vấn quân sự Xô viết tại Việt nam đã đánh giá chiến công của lực lượng tên lửa phòng không bảo vệ miền Bắc” Nếu như không có chiến thắng của lực lượng bộ đội tên lửa phòng không trên bầu trời Hà Nội, thì Hiệp định Pari sẽ bị kéo dài và có thể không ký được, nói cách khác, chiến công của lực lượng bộ đội tên lửa là chiến công có ý nghĩa chính trị” Sau này, dù có nhiều người muốn bóp méo kết quả của chiến dịch Linebacker II, chiến công của bộ đội tên lửa thực sự là một chiến công anh hùng. Bộ đội tên lửa phòng không và không quân được trao tặng danh hiệu: đơn vị anh hùng.
...
(còn tiếp)
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2011, 01:54:57 pm gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #282 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 01:49:23 pm »

Các bài học kinh nghiệm phòng không tên lửa chống không quân Mỹ tại Việt Nam 1972
(tiếp theo và hết)
....

Kết luận

1. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng lực lượng không quân Mỹ không thể đạt được một chiến thắng có ý nghĩa chính trị cho chính phủ tổng thống Mỹ Richard Nixon.

2. Trong khoảng thời gian 6 tháng, từ 15 tháng 3 đến nửa đầu tháng 10 năm 1972. Không quân Mỹ tấn công vào các trận địa tên lửa 166 lần, 74 lần sử dụng bom và 92 lần sử dụng tên lửa chống radar. Các phân đổi tên lửa bị tổn thất và mất khả năng tác chiến 74 lần (18 khẩu đội bị tổn thất bởi tên lửa, còn lại là bom không điều khiển) Hiệu quả tấn công sử dụng bom thông thường là 0,75. Hiệu quả sử dụng tên lửa chống raddar Shrike là 0,19. Các kíp điều khiển tên lửa đã học được phương pháp vô hiệu hóa tên lửa Shrike.

3. Hiệu quả tấn công vào các trận địa tên lửa giảm xuống rất thấp do khả năng cơ động liên tục của các phân đội tên lửa, trong một tháng, các đơn vị tên lửa thường xuyên di chuyển trận địa, mật độ cơ động là 4-5 lần thay đổi trận địa trong một tháng.

4. Các đơn vị và các phân đội tên lửa thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trong điều kiện vô cùng phức tạp, khó khăn của trến trường. Nhưng hiệu quá tác chiến đối với mọi mục tiêu trên không rất cao. 0,34 máy bay/tên lửa.

5. Nhóm các chuyên gia quân sự Xô viết liên tục có mặt trong các trung đoàn và tiểu đoàn tên lửa. Các tướng lĩnh chuyên gia và các sỹ quan chuyên gia quân sự đã kịp thời hỗ trợ các cán bộ chiến sỹ phòng không tên lửa sự giúp đỡ kịp thời, đưa ra những đề xuất tác chiến trong cuộc chiến đấu, lắp đặt và hiệu chỉnh các phương tiện, trang thiết bị, hỗ trợ tổ chức các đơn vị tên lửa cơ động và cung cấp đạn ở vị trí trận địa mới, sửa chữa khí tài tên lửa khi bị tổn thất hoặc đánh hỏng.

6. Lực lượng chỉ huy phòng không và không quân Việt Nam trong điều kiện phức tạp của đợt không kích đã sử dụng phương án tiết kiệm đạn. Trong 6 tháng có 49% lần phóng đạn sử dụng 1 quả tên lửa, 48% phóng 2 tên lửa liên tiếp. Chỉ có 3% phóng liên tiếp 3 quả đạn do điều kiện tác chiến trở lên vô cùng phức tạp, độ phức tạp đạt đến 100% do không quân Mỹ đã sử dụng hết mọi phương thức gây nhiễu, chế áp điện tử, ngụy trang, nghi binh.v.v…Tổng kết cho thấy, nếu mỗi lần phóng chỉ một quả đạn, lượng tiêu thụ đạn cho một mục tiêu lên đến 6 tên lửa/1 máy bay các loại, nhưng nếu phóng 2 tên lửa liên tiếp, hệ số tiêu diệt là 4 tên lửa/máy bay. Do đó, phương án phóng đạn đơn chỉ thích hợp trong điều kiện tác chiến rất tốt, nếu như tháng 12 năm 1972, phương pháp đó làm số lượng tên lửa tiêu hao tăng lên.

7. Đỉnh cao của tác chiến phòng không và chống phòng không là cuộc đọ sức giữa lực lượng phòng không Việt Nam và không quân Mỹ, lực lượng phòng không Việt Nam đã thành công trong việc bẻ gấy đòn tấn công có quy mô lớn nhất với sự tham gia của pháo đài bay B52 trong chiến dịch không kích tháng 12 năm 1972. Linebacker II trở thành đỉnh điểm của cuộc chiến tranh đường không chống Miền Bắc Việt nam. Chiến dịch Linebacker II đã sử dụng hơn 800 máy bay chiến thuật không quân, hải quân, có tới 190 máy bay B52, 36 máy bay ném bom chiến thuật hiện đại nhất F111A, 54 máy bay cường kích ném bom Hải quân.

Bài học kinh nghiệm


1. Nhiệm vụ chính của lực lượng phòng không Việt Nam trong điều kiện cụ thể, với những cụm mục tiêu cụ thể là bảo vệ chắc chắn các mục tiêu được giao, không để lọt các đòn tấn công từ trên không của đối phương. Nhưng vào tháng 12 năm 1972. Bộ tư lệnh tham mưu phòng không không quân đã có quyết định giao nhiệm vụ khác: trong quá trình đánh phản kích các đòn tấn công ô ạt, có mật độ hỏa lực cao nhất và có sự tham gia với số lượng lớn máy bay tiến công đường không chiến lược, chiến thuật không quân và hải quân vào các mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam, mục tiêu đầu tiên cần phải tiêu diệt là máy bay ném bom chiến lược B52 (ngay cả trong trường hợp trong khu vực phòng thủ của các đơn vị tên lửa có hoạt động tác chiến của máy bay cường kích chiến thuật). Quyết định đó được hình thành bởi nhận định đúng âm mưu của đối phương, tương quan lực lượng giữa ta và địch về khả năng tác chiến của các đơn vị phòng không và tiềm năng quân sự của lực lượng không quân đối phương. Hệ thống phòng không không đủ khả năng tiêu diệt toàn bộ lực lượng không kích trong 1 trận tấn công ồ ạt với mật độ không lực cao như vậy. Do đó trong điều kiện thực tế của chiến trường, quyết định này là chính xác và đã thể hiện sự đúng đắn của nó trong chiến dịch.

2. Các đơn vị tên lửa không được liên kết trong một hệ thống chỉ huy đồng bộ, thống nhất dưới 1 trung tâm chỉ huy tác chiến. Điều khiển hỏa lực được thực hiện bởi các ban chỉ huy cấp trung đoàn, trong một số trường hợp đã xảy ra hiện tượng khai hỏa tự phát, ngay cả trong trường hợp đánh phục kích B52. Do đó, mặc dù đội hình tác chiến của các trung đoàn tên lửa phòng không đã tạo ra một lưới lửa dầy đặc, nhưng không ít trường hợp tiến hành đánh B52 không hợp lý, thậm chí tấn công cả máy bay ném bom chiến thuật của không quân và hải quân Mỹ. Có thể nói, trong thời điểm đó, về thực tế không thể hình thành một trung tâm điều khiển hỏa lực trên toàn tuyến phòng thủ tính trên sự cân đối lực lượng, kinh nghiệm và trình độ tác chiến hiện đại của cán bộ chiến sỹ. Nhưng sẽ tốt hơn rất nhiều nếu có một trung tâm chỉ huy đồng bộ từ cấp cao nhất của lực lượng phòng không không quân và sự năng động, chủ động sáng tạo, phối hợp nhịp nhàng của các khẩu đội tên lửa, sẽ cho hiệu quả cao hơn sự tác chiến độc lập của các trung đoàn tên lửa.

4. Trong đợt tấn công thứ 2 và thứ 3 của chiến dịch. Không quân Mỹ đã tăng cường lực lượng vàn tần suất tấn công các trận địa phòng không và cũng đạt được những kết quả nhất định. Nếu các tiểu đoàn tên lửa không năng đông, cơ động thay đổi trận địa liên tục, thì cụm phòng không Hà Nội sẽ bị tiêu diệt. Từ những kinh nghiệm này, việc chế tạo các tổ hợp phòng không có sức cơ động rất cao, bao gồm cả các dàn phóng tên lửa, các xe chỉ huy, điều khiển và các xe cấp đạn, đồng thời phát triển chiến thuật cơ động của các cụm hỏa lực phòng không tên lửa. Các nhân tố đó quyết định sự sống còn của các cụm hỏa lực phòng không, hiệu quả sử dụng trang thiết bị khí tài phòng không và kết quả tác chiến của các đơn vị lực lượng phòng không. Kinh nghiệm chiến tranh cho thấy, một cụm hỏa lực tác chiến cố định hoàn toàn không có khả năng hoàn thành nhiệm vụ trước một lực lượng không quân hùng mạnh, hiện đại, trong điều kiện ngày nay, khi đối phương sử dụng vũ khí có độ chính xác cao. Các cụm hỏa lực phòng không cố định sẽ bị tiêu diệt ngay trong giờ đầu tiên của trận đánh.

5. Một lần nữa khẳng định, vị trí và ý nghĩa quan trọng bậc nhất của nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, hợp đồng tác chiến và khả năng phối hợp hoạt động nhịp nhàng, chuẩn xác và hiệu quả của từng thành viên cán bộ chiến sỹ trong kíp trắc thủ. Các cán bộ chỉ huy Việt Nam thể hiện khả năng nắm bắt trang thiết bị rất tốt, có năng lực chỉ huy tác chiến cao, phối hợp ăn ý và hiệu quả với các cố vấn, chuyên gia quân sự Xô viết trong hoạt động khai thác vũ khí trang bị khí tài tác chiến. Nhanh chóng nắm bắt được các kinh nghiệm chỉ huy tác chiến hiện đại trong quá trình chiến đấu phức tạp và nguy hiểm. Các chuyên gia quân sự đã đóng một vai trò quan trọng trong vị trí huấn luyện tác chiến cho các trắc thủ, cán bộ kỹ thuật tên lửa của trung đoàn, góp một phần công sức vẻ vang cho chiến công của phòng không Việt nam.

Biên dịch Trịnh Thái Bằng.tech.edu
http://www.vko.ru/


Link: http://quocphonganninh.edu.vn/index.aspx?Menu=1379&Chitiet=1636&Style=1
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2011, 01:54:29 pm gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #283 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2011, 09:37:47 pm »

Bài viết có nhiều số liệu, khá công phu, nhiều thông tin hay, tuy nhiên có rất nhiều điểm không ổn. Thí dụ như ngay ở sơ đồ đầu tiên, họ vẽ có những đường bay của không quân Mỹ bay qua đảo Hải Nam và có cả đường bay vòng qua đất Trung Quốc vào miền Bắc : điều mà Mỹ rất kiêng kỵ. Hoặc như đoạn này : "Đợt tấn công thứ 3 của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, các phân đội tên lửa phóng 290 tên lửa, bắn hạ 110 máy bay, trong đó có 104 máy bay chiến thuật và không quân hải quân, 6 máy bay ném bom chiến lược B52. Tỉ lệ bắn hạ máy bay là 4,5 tên lửa / 1 máy bay, hiệu quả bắn là 0,38" Trong khi Viêt Nam nói cả 3 đợt chỉ đươc 81 cái !
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Mười, 2011, 08:53:53 am gửi bởi Giangtvx » Logged

lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #284 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2012, 04:08:46 pm »


Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không"

KỊP THỜI PHÁT HIỆN MÁY BAY B52

QĐND - Thứ Bẩy, 29/09/2012, 18:12 (GMT+7)

QĐND - Sáng 18-12-1972, cường độ đánh phá của Không quân Mỹ ở Khu 4 giảm hẳn. Một hiện tượng bất thường là tất cả các đài ra-đa mở máy trực đều không phát hiện thấy nhiễu tích cực và không có một dấu hiệu máy bay B-52 xuất hiện trên bầu trời. Sự yên tĩnh lạ thường ấy khiến bộ đội ra-đa nghi ngờ, cần cảnh giác với âm mưu mới của Không quân Mỹ.

Đến 16 giờ 40 phút, trên bản đồ thu mạng tình báo quốc gia xuất hiện hai tốp máy bay tiêm kích F-111 từ Sầm Tớ (Lào) bay về phía Yên Bái. Tình huống đó khiến trắc thủ ra-đa Đại đội 16, đơn vị đang mở máy trực, tập trung quan sát phát hiện mục tiêu, đặc biệt là máy bay B-52.


Bộ đội ra-đa chuẩn bị ăng-ten phục vụ chiến đấu. Ảnh tư liệu.

Đại đội 16 ở Nghệ An thấy trên màn hình xuất hiện một số dải nhiễu mới. Từ kinh nghiệm chiến đấu, Đại đội trưởng Trần An và Chính trị viên Trịnh Đình Nham đã thống nhất ra lệnh các đài ra-đa chống nhiễu, phát hiện máy bay B-52. Chỉ giây lát, các trắc thủ đã khẳng định trong nhiễu có B-52 và báo cáo với đại đội trưởng: “Khả năng B-52 đánh miền Bắc”. Báo cáo đó liền được truyền tới tổng trạm ra-đa ở Hà Nội. Lúc đó là 19 giờ 10 phút.

Tham mưu phó Binh chủng báo cáo với Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri: Máy bay B-52 đã vượt qua vĩ tuyến 20. Khả năng B-52 đánh Hà Nội. Lập tức Tư lệnh Quân chủng ra lệnh cho các lực lượng phòng không - không quân chuẩn bị đánh B-52. Thủ đô Hà Nội và các tỉnh trên miền Bắc được lệnh báo động phòng không để nhân dân kịp thời xuống hầm trú ẩn.

Do cảnh giác cao, Trung đoàn Ra-đa 291 đã phát hiện được máy bay B-52 từ xa, bảo đảm cho Tổ quốc không bị bất ngờ trước chiến dịch tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng. Nên các lực lượng phòng không ở khu vực Hà Nội đã chuyển cấp chiến đấu sớm, bắn rơi tại chỗ máy bay B-52 ngay từ trận đầu, đêm đầu của chiến dịch.

Trần Công

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/406/406/406/208915/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #285 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2012, 04:15:01 pm »


Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không"

10 KÍP CHIẾN ĐẤU TÊN LỬA TIẾP TỤC LÀM RÕ 25 TRẬN BẮN RƠI B52

QĐND - Thứ Hai, 08/10/2012, 12:42 (GMT+7)

QĐND Online – Sáng 8-10, tại Hà Nội, Sư đoàn 361 (Quân chủng Phòng không-Không quân) đã tổ chức Hội nghị thống nhất kỷ yếu 25 trận đánh, bắn rơi B-52 trong 12 ngày đêm tháng 12-1972. Tham gia hội nghị có thành phần của 10 kíp chiến đấu, đã tham gia 25 trận đánh nói trên và lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 361.


Thành phần kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 77, Trung đoàn 257, Sư đoàn 361

Đại tá Đặng Đình Tuấn, Chính ủy Sư đoàn 361 cho biết, việc tổ chức Hội nghị lần này nhằm hoàn thiện Kỷ yếu 25 trận đánh bắn rơi B-52 của Sư đoàn. Đây là một trong những hoạt động của đơn vị hướng tới kỷ niệm 40 năm Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”.


"Siêu pháo đài bay" B-52 của Mỹ đã bị hạ gục bởi những con người và vũ khí này.

Tại Hội nghị, thành phần của 10 kíp chiến đấu đã phát biểu làm rõ những nội dung liên quan đến 25 trận đánh, như: thành phần kíp chiến đấu, trận địa, diễn biến trận đấu…


Quang cảnh Hội nghị

Trong các ngày từ 18 đến 29-12-1972, 9 tiểu đoàn (57, 59, 72, 77, 78, 79, 86, 93, 94) của 3 trung đoàn (261, 257, 274), thuộc Sư đoàn 361, đã bắn rơi 29 máy bay Mỹ, trong đó 25 máy bay B-52 (16 chiếc rơi tại chỗ).

Tin, ảnh: Hà Phong Thủy

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/406/406/406/210053/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #286 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2012, 04:19:59 pm »


Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không"


CHỦ ĐỘNG NGHIÊN CỨU, HOÀN CHỈNH CÁC PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN

QĐND - Thứ Bẩy, 29/09/2012, 18:12 (GMT+7)

QĐND - Sau khi Không quân Mỹ sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-52 trên chiến trường miền Nam (tháng 6-1965), chấp hành sự chỉ đạo của Đảng, Bác Hồ, Quân chủng Phòng không - Không quân (PK-KQ) nghiên cứu cách đánh máy bay B-52, với quyết tâm bắn rơi “siêu pháo đài bay” của giặc.

Để chuẩn bị và đánh thắng máy bay B-52 của Mỹ, một mặt điều động Trung đoàn Tên lửa 238 vào chiến trường Khu 4 nghiên cứu cách đánh, mặt khác Quân ủy Trung ương dự đoán Mỹ có thể dùng máy bay B-52 leo thang đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và giao cho Quân chủng PK-KQ xây dựng kế hoạch tác chiến. Suốt thời gian sau đó, nhiều đoàn cán bộ PK-KQ cùng một số trung đoàn tên lửa và biên đội không quân tiêm kích được cử vào nghiên cứu cách đánh máy bay B-52 trên vùng trời Khu 4.

Tháng 4-1972, Mỹ huy động không quân, hải quân mở Chiến dịch Lai-nơ-bêch-cơ I (Linebacker I) đánh phá trở lại miền Bắc, sử dụng máy bay B-52 đánh phá thành phố Vinh, Hải Phòng, đồng thời thả thủy lôi phong tỏa các cảng ven biển và các cửa sông miền Bắc. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về nâng cao cảnh giác, tiếp tục chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống; chủ động đối phó với khả năng Mỹ sử dụng B-52 đánh phá Thủ đô Hà Nội, ngày 6-7-1972, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị chuyên đề tìm cách đánh máy bay B-52. Hội nghị đã phân tích tình hình, đặc tính kỹ thuật, chiến thuật của máy bay B-52, các phương án tác chiến và kinh nghiệm đánh máy bay B-52 từ thực tế trên chiến trường, trên cơ sở đó thống nhất cao về cách đánh và chuẩn bị chu đáo về con người và vũ khí trang bị kỹ thuật.

Tư lệnh Binh chủng Không quân báo cáo kế hoạch tác chiến chống máy bay B-52 bảo vệ bầu trời miền Bắc. Ảnh tư liệu.

Ngay sau hội nghị, Bộ Tổng tham mưu (BTTM) chỉ thị cho các cơ quan, đơn vị thực hiện gấp việc nghiên cứu và triển khai kế hoạch đánh B-52. Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ chủ trì biên soạn lý luận chiến thuật đánh B-52; nhanh chóng bổ sung ý kiến chỉ đạo của Bộ để hoàn chỉnh kế hoạch và phương án tác chiến, kết hợp một cách hợp lý việc điều chỉnh bố trí lực lượng đánh B-52, biên soạn tài liệu huấn luyện và tiến hành tập huấn đánh B-52 trong các tình huống phức tạp. Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ chỉ thị cho cơ quan tham mưu cùng các binh chủng khẩn trương hoàn chỉnh phương án đánh B-52 bảo vệ miền Bắc, chủ yếu là Hà Nội và Hải Phòng. Tổ nghiên cứu, biên soạn tài liệu “Cách đánh B-52" được gấp rút thành lập và làm việc không kể ngày đêm để sớm có tài liệu huấn luyện. Phương án đánh B-52 được nhanh chóng hoàn thành theo đúng kế hoạch gọi là “Phương án tháng bảy”. Các đơn vị tên lửa, ra-đa, pháo 100mm mở đợt huấn luyện đột kích với nội dung và mục tiêu chủ yếu là đánh B-52. Bộ đội Không quân tích cực luyện tập theo phương án đánh B-52 trên năm hướng xung quanh Hà Nội, gọi là “Phương án năm cánh sao”. Phương án này được kết hợp chặt chẽ với hỏa lực của các binh chủng bạn, cả vòng trong và vòng ngoài, kết hợp cơ động và yếu địa, tuyến trước và tuyến sau, trên không và mặt đất.

Toàn quân tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp quy luật hoạt động của không quân địch, xác minh tính năng kỹ thuật, chiến thuật của B-52 đối với các loại vũ khí của ta, Bộ Tổng tham mưu giao cho Cục Tình báo chủ trì cùng với Quân chủng PK-KQ, Viện Kỹ thuật Quân sự khai thác thông tin từ giặc lái Mỹ. Cục Tình báo cung cấp kịp thời những tin tức, tư liệu liên quan đến B-52 địch, phục vụ cho yêu cầu tác chiến của lực lượng PK-KQ. Quân chủng PK-KQ tiến hành nghiên cứu cải tiến VKTBKT, sử dụng cả ra-đa cũ kết hợp khí tài quang học với khí tài điện tử, điều chỉnh độ nhạy của đầu đạn tên lửa để có thể bắn rơi tại chỗ B-52. Cục Tình báo, Cục Quân lực, Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc cùng Quân chủng PK-KQ giải quyết các vấn đề bảo đảm trinh sát kỹ thuật, bảo đảm sức kéo, thông tin, quân số để lập đài quan sát. Quân chủng PK-KQ hiệp đồng với Bộ tư lệnh Hải quân tổ chức quan sát, cung cấp tin tức về địch và kế hoạch cứu phi công của ta ngoài biển...

Việc nghiên cứu chuẩn bị kế hoạch đánh máy bay B-52 được triển khai gấp rút và đã căn bản hoàn thành vào đầu tháng 9-1972. Dựa vào kinh nghiệm đã rút ra từ thực tiễn chiến đấu và những hiểu biết ngày càng nhiều về vũ khí, khí tài và thủ đoạn hoạt động của địch, tài liệu "Cách đánh B-52" sau nhiều lần bổ sung hoàn chỉnh đã góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, chiến đấu của bộ đội. Tháng 9-1972, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo Quân chủng PK-KQ bổ sung và hoàn thiện phương án mới đánh B-52, được gọi là “Phương án tháng 9”; xác định những vấn đề cơ bản của nghệ thuật chiến dịch phòng không như phán đoán âm mưu, thủ đoạn, hướng và mục tiêu tiến công của địch, quyết định sử dụng lực lượng và cách đánh của ta; đồng thời chỉ đạo Quân chủng khẩn trương xây dựng thế trận, điều chỉnh lực lượng, nhanh chóng hoàn thành mạng lưới phòng không ba thứ quân nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hướng, có trọng điểm vào hai khu vực Hà Nội và Hải Phòng.

Nhờ nắm vững thực tế chiến trường, nghiên cứu đề ra phương án tác chiến đúng, điều chỉnh kịp thời, ta đã chủ động trong chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng tháng 12-1972 và giành thắng lợi quyết định, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam tháng 1-1973, rút hết quân Mỹ về nước.

Đại tá, TS Nguyễn Thành Hữu

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/406/406/406/208907/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #287 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2012, 04:36:41 pm »


BA TRẬN THEN CHỐT TRONG CHIẾN DỊCH PHÒNG KHÔNG

QĐND - Thứ Bẩy, 15/09/2012, 18:40 (GMT+7)

QĐND - Trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" tháng 12-1972 trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh phụ cận, lực lượng phòng không chủ lực đã hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng phòng không nhân dân tổ chức nhiều trận đánh máy bay địch, trong đó có 3 trận đánh then chốt.

Trận thứ nhất vào đêm 18 rạng sáng 19-12-1972. Tuy thời tiết xấu, trời nhiều mây, mưa nhỏ, nhưng đế quốc Mỹ đã huy động 90 lần chiếc B52 và 143 lần chiếc máy bay chiến thuật chia làm 3 đợt đánh vào các sân bay Nội Bài, Hòa Lạc, Gia Lâm và một số mục tiêu ở thủ đô Hà Nội. Bộ đội Tên lửa ta đã đánh trả máy bay địch, bắn rơi 3 chiếc B52, trong đó 2 chiếc rơi tại chỗ, bắt sống nhiều giặc lái. Đây là thắng lợi mở đầu chiến dịch, có ý nghĩa quan trọng về chính trị, quân sự và nghệ thuật tác chiến.


Chuẩn bị tên lửa cho chiến dịch phòng không tháng 12-1972. Ảnh tư liệu.

Trận thứ hai vào đêm 20-12-1972. Trong trận này, đế quốc Mỹ đã huy động 93 lần chiếc B52 và 151 lần chiếc máy bay chiến thuật, tổ chức 3 đợt đánh vào các mục tiêu ở Hà Nội, Thái Nguyên và Hải Phòng. Do phán đoán đúng về địch và nắm chắc thời cơ nên Bộ tư lệnh Phòng không-Không quân chủ động cho không quân ta xuất kích. Tuy chưa đánh được máy bay B52 nhưng không quân ta đã buộc máy bay tiêm kích và máy bay chiến thuật hộ tống B52 phải quay ra đối phó, lộ rõ đội hình B52, hạn chế nhiễu giảm, tạo điều kiện cho tên lửa ta phát hiện và tiêu diệt mục tiêu. Trận đánh đêm 20-12 khẳng định tính đúng đắn trong chỉ đạo cách đánh của chiến dịch phòng không là cách đánh hiệp đồng binh chủng. Thắng lợi của trận đánh này càng cổ vũ thêm tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, thúc đẩy sự phát triển của chiến dịch trong thế thuận lợi.

Trận thứ ba vào đêm 26-12-1972, Mỹ huy động một lực lượng lớn gồm 105 lần chiếc B52 và 130 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá vào 3 khu vực: Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên. Bộ đội ta, trong thời gian địch ngừng bắn phá đã nỗ lực chuẩn bị tốt về mọi mặt, nhất là phổ biến kinh nghiệm đánh B52 để bước vào chiến đấu. Trận này ta đã bắn rơi 8 chiếc B52, có 4 chiếc rơi tại chỗ, bắt sống 8 giặc lái. Đây là một trận thắng lớn, mở màn cho đợt hai của chiến dịch và thúc đẩy chiến dịch sớm kết thúc.

Dương Hà

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/206926/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #288 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2012, 05:29:19 pm »

Trong các ngày từ 18 đến 29-12-1972, 9 tiểu đoàn (57, 59, 72, 77, 78, 79, 86, 93, 94) của 3 trung đoàn (261, 257, 274), thuộc Sư đoàn 361, đã bắn rơi 29 máy bay Mỹ, trong đó 25 máy bay B-52 (16 chiếc rơi tại chỗ).

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/406/406/406/210053/Default.aspx


Như vậy có lẽ con số B-52 bắn rơi đợt 12/1972 chính thức của ta bây giờ là 25 (tên lửa) + 02 (không quân) + 01 (cao xạ 100mm) = 28 B-52 chứ không còn là 34 như trước?
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #289 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2012, 08:16:40 pm »

Trong các ngày từ 18 đến 29-12-1972, 9 tiểu đoàn (57, 59, 72, 77, 78, 79, 86, 93, 94) của 3 trung đoàn (261, 257, 274), thuộc Sư đoàn 361, đã bắn rơi 29 máy bay Mỹ, trong đó 25 máy bay B-52 (16 chiếc rơi tại chỗ).

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/406/406/406/210053/Default.aspx


Như vậy có lẽ con số B-52 bắn rơi đợt 12/1972 chính thức của ta bây giờ là 25 (tên lửa) + 02 (không quân) + 01 (cao xạ 100mm) = 28 B-52 chứ không còn là 34 như trước?
Bài báo chỉ nói đến sư 361 thôi bác altus ơi, còn 1 chiếc B-52 nữa tài liệu ta kê thuộc công của tiểu đoàn tên lửa 81 sư 363 bảo vệ Hải Phòng (ngày 26 tháng 12).
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM