Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:59:27 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bê trọc  (Đọc 99781 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #40 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 09:08:53 pm »

Lại một đợt pháo nữa dội tới. Chúng tôi nhổm lên nhìn lại phía cánh đồng. Trong bóng tối, những chớp sáng loé lên liên tục. Tiếng nổ chát chúa. Căn hầm rung lên. Trái tim tôi như có ai bóp thắt lại.
Tôi lo cho Ba. Tôi bỗng thấy thương em vô hạn. Ở em, sao cái ngây thơ, hồn nhiên lại kết hợp hài hòa với cái cứng rắn đến thế. Tôi bỗng nhớ đến những mầm non ở những cánh rừng bị chất độc hóa học. Những thử thách với chúng thật lớn. Song, chúng vẫn bật dậy mạnh mẽ và xanh tươi mơn mởn.

Mỗi khi nhắc lại những ngày qua, Ba hay nói: “Hồi đó em còn bé”... Đúng là giờ đây em đã lớn, lớn vụt lên rồi.. Nhưng những gì ngây thơ của con trẻ, em vẫn còn nguyên.

Những chớp lửa ma quái, những tiếng nổ độc địa cứ chụp lên con đường kia. Những con đường đã biết bao lần in dấu chân em...

Ngoài đồng, tiếng pháo vẫn nổ. Còn trong hầm thì im lặng. Chỉ có những đốm lửa thuốc lá loé lên và di động. Anh cán bộ già lại thở dài. Tiếng muỗi vo ve, vo ve thật khó chịu. Đột nhiên pháo im bặt.
Sự chờ đợi như bình khí khổng lồ bị nén lại. Rồi, pháo lại gầm lên.
Lần này, tiếng pháo nặng lắm và dồn dập hơn. Người có kinh nghiệm nhận ra ngay đó là đợt pháo bầy mà bọn địch thỉnh thoảng vẫn dùng nhằm hủy diệt mục tiêu. Tiếng nổ trầm đục là tiếng pháo biển, xuyên sâu xuống lòng đất mới phát nổ nhằm phá hầm hố. Còn tiếng nổ chát chúa là tiếng pháo chụp nổ ngay trên không, toá mảnh xuống giết những người ở trên mặt đất. Pháo từ biển, từ mấy trận địa tập trung dội vào cánh đồng này, mỗi lúc một dồn dập hơn.
Ba, em đang ở đâu?

May thay, Ba đã trở về. Em như một làn gió mát rượi của vùng biển quê em đột nhiên tràn tới. Em nói như reo lên:
- Cái xắc đây anh!

Anh cán bộ già nhào ra phía cửa hầm ôm lấy Ba. Nhưng Ba đã nói to:
- Đi, mấy anh! Đi mau về còn nghỉ!

* Buổi sáng ở đồng bằng thường đến sớm hơn ở miền núi. Mới khoảng bốn giờ, bầu trời đã chuyển sang mầu trắng đục. Chúng tôi dậy nấu cơm. Phải nấu cả cơm sáng, cơm trưa. Ở những vùng gần địch, người ta quen làm như vậy.

Ba ăn cơm xong từ lúc nào, đang ngồi băm vụn mấy củ sắn.
Bên cạnh em là mấy cái lồng gà. Con gà mẹ xù lông, cục cục. Ba con gà đen thui kêu chíu chít, rúc mỏ qua những kẽ nan. Tôi hỏi:
- Sao có ba con thôi em?

Ba ngẩng lên:
- Bữa địch càn, phải làm thịt con gà cồ. Sợ nó gáy, địch nghe thấy. Gà mái không có cồ, đẻ trứng ra không ấp được. Ba con gà ni, trứng gà rừng nở ra, mà em nói với anh đó.
Ba nhoẻn miệng cười rồi chúm môi “huýt huýt”... Bầy gà con kêu chiêm chiếp... Ba nghiêng đầu, một tay mở cửa lồng, một tay vốc sắn đưa vào trong. Bầy gà tranh nhau mổ sắn trên tay Ba.

Ăn cơm xong, chúng tôi xếp đồ đạc gọn ghẽ, ba lô sẵn sàng. Anh em trong trạm mang những đồ dùng lặt vặt trong nhà như con rựa, thùng nước... giấu vào những bờ bụi quanh trạm. Bầy gà được nhốt vào hai cái lồng lớn. Con heo độc nhất còn sót lại sau đợt càn vừa qua, cũng được cột chân lại, cho vào một cái rọ lớn. Đó là cách nghe ngóng xem địch có càn không. Nếu có thì có thể lánh kịp, không để cho địch phá.

Mặt trời vừa dậy đã nhăn nhó phóng những tia nắng chói chang xuống. Bầu trời cao hẳn lên, vời vợi. Tiếng động cơ xe tăng rú phía xa. Nơi ấy là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay lại nặng nề. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa lại có tiếng súng máy nổ liên thanh. Và bầy bồ chao ngủ muộn giật mình choàng dậy, hỏi nhau rối rít, tranh cãi nhau loạn xạ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Chừng chín, mười giờ có thể đi làm những việc cần thiết.
Anh em trong trạm lục tục mang gùi, rựa, kéo nhau đi. Chỉ còn cô trạm trưởng ở nhà với khách.

Chúng tôi lấy võng ra, cột nằm một chút. Căn nhà của trạm đơn sơ, giống như mọi căn nhà của đồng bào vùng ranh này. Nói nhà thì hơi quá, bởi vì nó không phên, vách, không bàn, ghế, giường. Chỉ có mấy hàng cột với hai mái tranh sơ sài. Tuy nhiên, căn hầm lại rất chắc chắn. Nó được đào rộng bằng cả nền nhà, trên lát một lớp cây lớn, lấp một lớp đất dầy. Căn hầm đủ chỗ cho chín mười người cột võng nằm được. Tôi nhìn khắp gian nhà, suy nghĩ mung lung... Cuộc sống của người giao liên vùng ranh này giản đơn vậy đó. Với căn nhà xuyềnh xoàng, với những đồ dùng gọn, anh chị em trụ bám ở một vùng ác liệt, thầm lặng đưa bộ đội, cán bộ qua lại. Họ nối liền căn cứ với đồng bằng. Con đường của ta thành mũi dao thọc vào tim kẻ thù, Hằng ngày, chịu biết bao gian khổ ác liệt, nhưng họ vẫn sống lạc quan, vui vẻ, yêu đời.

Cô San, trạm trưởng, mang sổ ra hí hoáy ghi chép số khách.
Xong, cô mở một quyền vở học sinh, lẩm nhẩm đọc:

Em là mạch chứa dòng máu nóng
Em nối liền căn cứ với tiền phương
Con đường em cháy bỏng yêu thương...


Đọc tới đó, San cười rúc rích và hỏi tôi:
- Anh, có phải bài thơ ni nói về giao liên chúng em không?

Tôi gật đầu:
- Ừ, bài thơ ca ngợi các đồng chí đấy!

San lắc đầu quầy quậy:
- Không, chúng em có gì đâu mà ca ngợi!

Tôi cười:
- Nói lạ chưa! Đó, như Ba chẳng hạn, thật là một cậu bé thông minh, dũng cảm!
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #41 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 09:14:22 pm »

Nghe nói tới Ba, San kể:
- Gia đình Ba tội lắm anh à! Cha hắn làm biển bị bo bo bắn chết cùng hơn chục bà con khác. Nhà chỉ còn hai má con hắn, lại bị bọn địch bắt vào khu đồn.

Xếp chồng công văn lại, cô trạm trưởng hào hứng kể tiếp:
- Rồi đồng bào cũng nổi dậy phá banh khu đồn. Bữa ấy có đội công tác về. Ba bám riết anh đội trưởng nằn nì xin đi. Bị từ chối, hắn khóc dẫy lên rồi kéo tay anh đội trưởng tới chỗ má hắn. Ba vừa nói, vừa nấc, tấm tức: “Má, má nói giùm con... Con đi trả thù cho cha...”. Anh đội trưởng không nỡ từ chối. Rứa là hắn theo về huyện.
Các anh ở huyện lại chuyển cho trạm chúng em...

Mải nói chuyện, xế chiều rồi mà chúng tôi không hay. Anh em trong trạm đã trở về, mang theo mấy gùi bắp. Những trái bắp nếp bao còn xanh, phốp pháp.
Lại nhen lửa nấu ăn. Trạm bắc một nồi lớn, nấu đầy bắp trái.

Cô trạm trưởng tươi cười:
- Hôm nay liên hoan nghe mấy anh!

Thế là cả trạm nhộn nhạo cả lên:
- Hoan hô trạm!
- Trạm sang dữ hè!
- Mà sao lại ăn bắp non, uổng chết!
- Không, trạm em không lãng phí mô! Những đám bắp trước thu hết rồi, trái nào trái nấy khô cứng, hạt rắn đanh. Đám bắp ni bọn em trỉa muộn, nắng quá, héo cả cây, cả trái, để cũng uổng.

Chúng tôi, cả khách và giao liên, quây quần bên rổ bắp bốc hơi nghi ngút. Những trái bắp nếp ngắn ngày trông mỡ màng, ăn dẻo như xôi và ngọt lừ. Ba gặm hết một trái, quẳng cùi vào cái sọt, vui vẻ:
- Các anh xem, trạm em nghèo rứa đó, ăn sắn, ăn bắp thôi!

Một anh đế vào:
- Khoai bắp, tình quê rất thiệt thà. Nghèo mà được như ri là quý rồi.

Tất cả cười vang. Sau nhịp cười sôi nổi đó, San đứng dậy dặn dò:
- Các anh ăn xong thu dọn đồ đạc cho gọn nghe! Dây mang cột cho chặt. Đai dép rút sít vô cho dễ chạy. Ba và anh Phước, trạm trưởng trạm hai mươi sáu, sẽ dẫn các anh đi.

Chúng tôi vượt mấy cánh đồng trống, vượt một con sông thì trời đã nhá nhem tối. Lại vượt qua một bãi tranh lớn. Bãi tranh này bị bọn địch rải xăng đốt trụi, rộng thênh thang như một sân bay. Ba đi đầu. Phước đi cuối hàng. Khi qua khỏi bãi tranh, bước lên một đồi sim thì Phước vượt lên, khẽ gọi:
- Ba, dừng lại đã!

Chúng tôi cũng dừng lại, đặt ba lô xuống nghỉ. Ba và Phước ngồi chồm hổm bên một bụi sim. Tôi nghe hai người rầm rì:
- Em ở chờ đoàn khách, anh bám đường nghe!
- Không, em bám đường, anh ở chờ!
- Không được, anh quen đoạn đường này hung rồi!
- Không, anh đi họp về, anh cũng là khách thôi. Em là giao liên, em phải bám đường!
- Thằng nhỏ này ngang dữ. Đoạn đường này thuộc về trạm anh.

Anh là trạm trưởng, mi phải nghe lời!
Hai anh em vẫn tiếp tục tranh cãi, mỗi lúc một gay gắt hơn. Tôi ngồi nghe, lòng đầy xúc động. Ai đã từng đi qua vùng ranh những ngày ác liệt mới thấy hết ý nghĩa cao quý của sự tranh giành đó.
Phía trước kia là con đường xe chạy. Bọn địch thường ra phục kích.
Cái chết rình mò trong từng bụi sim, trên từng bước đường.

Cuộc tranh cãi chấm dứt. Có lẽ là Ba thua. Phước đã ôm súng lẹ bước ra phía lộ. Ba hậm hực quay lại chỗ chúng tôi:
- Anh Phước giành đi trước rồi! Các anh ngồi chờ một chút! Nếu nghe anh Phước ra hiệu thì khẩn trương theo em. Còn nếu nghe tiếng súng thì các anh chạy quay lại nhà ông Phấn.
... Bầu trời đen xẫm. Tĩnh mịch. Không một tiếng máy bay.
Không một tiếng pháo. Ba ngồi nhấp nhổm không yên. Bỗng một tiếng súng vang lên. Ba bật dậy, lao vút đi. Tiếng súng AR15 nổ loạn xạ như mè rang. Tiếng AK đáp lại, nhịp ba viên một, chắc chắn. Rồi một tiếng lựu đạn M.26 nổ “ầm”. Và im lặng...

Chúng tôi ngồi trong nhà ông Phấn, bồn chồn ngóng đợi. Ba đã về kia, tay xách một khẩu AK. Chiếc mũ của em đã văng đâu mất.

Mái tóc tơ đẫm mồ hôi, dính bết trước trán. Trong ánh đèn dầu, gương mặt em trông vàng võ lạ. Chúng tôi hỏi dồn dập:
- Phước đâu?
- Phước về chưa?
Ba chỉ ra sân, giọng lạc hẳn đi:
- Anh Phước ngoài đó...!

Chúng tôi xách đèn, đổ xô ra. ánh đèn dầu tỏa ra sân cỏ một vùng sáng vàng yếu ớt. Hai anh du kích đứng ở đó từ lúc nào, lặng im. Còn Phước thì nằm trên nệm cỏ. Tôi cúi xuống nhìn Phước, xót xa. Phước nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, cánh tay phải bị gẫy nát, cánh tay trái nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng bắn. Máu thấm ra ướt cả tấm dù bọc thi thể anh. Chúng tôi đều im lặng. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tôi thấy hình ảnh Phước cứ hiện rõ trước mặt, vui tươi, cởi mở. Phước trạc ngoài hai mươi, cao gầy, có nụ cười rất đôn hậu, khiến người ta vừa nhìn thấy là mến, tin ngay...

Hai anh du kích dậm chân, thỉnh thoảng lại chép miệng. Tiếng một anh trầm trầm chìm trong màn đêm: “Lũ chúng mình chậm quá! Nếu đi sớm một chút, đặt kịp mìn ở đoạn trên thì chúng “xoang” rồi, mà anh Phước khỏi hy sinh”. Anh kia ngậm ngùi:
“Chúng mình có lỗi, đi phục kích lại bị trễ hơn chúng”.

Ba từ trong nhà bước ra, giọng thảng thốt:
- Anh Phước, anh Phước ơi!
Các anh du kích lại bên Ba, dỗ dành:
- Thôi đừng khóc nữa em! Nhớ trả thù cho anh Phước! Em đi làm nhiệm vụ đi! Dẫn khách đi vào lúc này là tốt hơn cả.

Hình như nghe nói đến nhiệm vụ, Ba tỉnh táo lại. Em lặng lẽ đứng dậy, xách cái bao bột mì loang lổ máu của Phước, mở ra lấy cái võng, tấm đi mưa, đưa cho anh du kích, giọng bùi ngùi:
- Các anh đưa anh Phước đi dùm em!...

Em chỉ cái bao:
- Trong nớ còn một ít hom sắn, anh Phước xin ở trạm em, trù xuống đó trồng. Các anh lấy trồng quanh nơi anh Phước nằm. Anh Phước siêng lắm, cứ rảnh việc là lại cầm cuốc tăng gia.
Quay sang chúng tôi, Ba giục:
- Các anh lên đường nghe!

Giọng em rắn đanh lại. Trong đôi con ngươi còn lóng lánh nước mắt của em, ánh đèn dầu sáng lung linh như hai ngọn lửa. Không hiểu sao, tôi bỗng nghĩ rằng, từ đôi mắt ấy sẽ phát ra những tia sáng diệu kỳ, soi tỏ màn đêm, rạch ròi từng bờ cây, bụi cỏ, rõ lối cho chúng tôi đi...
(Kỷ niệm chuyến công tác vùng ranh Quảng Nam)
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #42 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 09:21:34 pm »

Thứ sáu, ngày 9/10/1970

Sáng nay đánh dấu một bước tiến quan trọng của đời tôi. Tôi được kết nạp vào Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam - cũng là Đảng Lao động Việt Nam. Đó là điều tôi ấp ủ từ lâu và cũng là niềm mong đợi của gia đình tôi, nhất là cha tôi.

Buổi lễ kết nạp được tổ chức đơn giản, đúng với nếp đơn giản thường có ở chiến trường. Giữa rừng già kín đáo, trong căn nhà tranh tối tranh sáng, anh em căng một cái tăng rồi treo cờ Đảng, chân dung Hồ Chủ Tịch, khẩu hiệu “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại!”. Tôi đứng trang nghiêm nghe đọc quyết nghị kết nạp của Đảng ủy cơ quan. Rồi tôi đứng lên trước anh em đọc lời tuyên thệ. Xúc động nhiều, tôi nói được ít. Tuy nhiên, đó là những lời nói xuất phát từ trái tim cháy bỏng nhiệt tình của tôi. Từ nay tôi đã là đảng viên dự bị của Đảng. Tôi phải phấn đấu hơn nữa để sau 9 tháng thử thách trở thành đảng viên chính thức. Sự tiến bộ này của tôi, có công lao của anh Lý, anh Vượng. Nhớ có một lần, sau khi vào chiến trường được khoảng một năm, nhân chuyến đi cõng gạo, tôi có hỏi anh Bí thư Chi bộ xem Chi bộ có ý kiến gì về ưu, khuyết điểm của tôi, anh trả lời là chưa ai bàn đến. Lúc ấy, tôi buồn quá. Sự ghẻ lạnh mới đáng sợ làm sao! Nhưng từ khi có anh Lý, tôi đã được quan tâm, dìu dắt. Anh Vượng luôn sát cánh bên tôi, thông báo ý kiến của Chi bộ để tôi biết mà phấn đấu. Cách đây ít hôm, Vượng viết thư cho tôi, báo tin Đảng ủy đã duyệt trường hợp của tôi, viết rằng khi có ý kiến nhận xét khuyết điểm lớn nhất của tôi là luộm thuộm, anh Sâm (Khu Ủy viên, Trưởng Ban Tuyên huấn của chúng tôi) cười rất to.

Trưa, tôi và 4 đồng chí khác lên đường đi cõng muối, mua hàng.
Trời mưa suốt. Qua Trà Niêu, thấy lúa ở đây bị chết rụi vì chất độc của Mỹ. Máy bay HUIA cũng mới bắn chết 2 con trâu của đồng bào.
Họ xẻ hết thịt nhưng còn để lại đó một cái đầu to tướng.

Tới ngày thứ ba, chúng tôi đi qua nơi anh Lê, Bình và Nghị hy sinh. Đây là một đoạn đường trong rừng non, lẫn lau lách, khá bằng - nằm ở đỉnh dốc. Mộ của Lê và Nghị nằm gần nhau, cách nhau một con đường mòn, Nghị nằm chếch phía dưới một chút. Nấm mộ của Lê đắp không cao lắm, hình hơi vuông - có lẽ Lê chết trong tư thế nằm co. con đường đi hơi lấn xuống nấm mộ của Nghị. Bọn tôi dừng lại lấy rựa phát quang những cây lách, dọn sạch phía trên cho mọi người đi tránh mộ Nghị, rồi lấy cây rào quanh nấm mộ. Tôi lặng lẽ làm, suy nghĩ mông lung. Nhớ thương lắm! Mộ của bình nằm dưới đó vài chục mét, được rào cẩn thận, song đất đắp hơi ít nên rất nhỏ bé. Ở giữa rừng này, cuốc xẻng không có, làm sao có thể đắp to hơn được Bình ơi!

Về, cõng muối đi trong mưa dầm dề. Người ướt rượt. Bao muối trên lưng ướt mèm, nước nhỏ giọt, nhỏ giọt vào lưng áo, rát vô cùng.

Tới bờ sông Tang, bọn tôi phải dừng lại - nước lũ đã chắn đường chúng tôi. Sông không rộng lắm, song nhiều đá. Ngày thường, nước chỉ tới bắp chân, chảy khá mạnh, song vẫn lội qua được. Mưa nhiều, nước trở nên lớn và hung dữ tợn. Dòng nước đục ngầu, nhấn chìm rất nhiều những mỏm đá trước đây vẫn nằm khô. Nước xoáy vào đá, tung bọt trắng xóa. Chúng tôi cứ ngồi đó nhìn mức nước đang xuống một cách chậm chạp, hy vọng có thể qua được vào buổi trưa. Song, trời đã sầm mặt lại, chuẩn bị một cơn mưa khác. Đành căng tăng ở lại.

Cũng may, đêm không mưa. Trời trong và trăng sáng lạnh lùng. Sáng, nước đã rút bớt, trong lại, song còn chảy rất xiết. Dù sao cũng phải vượt qua. Hàng chục người bị ứ ở hai bên bờ sông đều kéo ra xem xét, la ó. Tạo cởi trần lội dò nước. Cậu ta to, khỏe nên đã băng được qua dòng sông, dò ra lối lội. Những người đi không theo đó lội qua. Có anh lội qua được một khúc thì bị trôi, nhưng lại dạt được vào mỏm đá gần giữa sông. Có mấy anh nắm chặt tay nhau, cứ thậm thà thậm thụt ở bờ nước, không dám nhào ra. Mấy anh dân tộc lội ào ào, dùng gậy chống đỡ với dòng nước, cứ băng qua và miệng thì la lối, cười nói liên hồi. Những tốp đã qua được bên kia bờ nối nhau thành một cái dây để kéo người đi sau vượt qua đoạn cuối.

Họ la: “cố lên, nhanh lên!”. có cô gái dân tộc đíu chặt trên lưng một anh - anh ta khoẻ, lội băng sang. Một anh dân tộc nắm tay một cô gái Kinh dìu qua sông. Song khi vừa nhớm chân xuống nước, cô ta liền thụt lại và kêu lên mấy tiếng “choé, choé!” như tiếng vượn vậy.

Anh thanh niên đã lội xuống nước, cứ lội tới và kéo tay cô gái. Cô ta vẫn kêu choe choé, vùng vẫy. Khi qua được bờ rồi, để mặc quần áo ướt sũng dính bết vào người, cô ta đứng cười ngặt ngẽo và kêu lên:
“Khỏi chết, khỏi chết rồi!”. Nhộn nhà nhộn nhạo khắp khúc sông.

Tạo vác bao muối của tôi lội qua trước. Có lúc cậu ta bị trượt chân, lao đao dưới nước làm tôi lo thót tim. Song cậu ta vẫn gượng được, lướt sang bờ bên kia. Cứ thế, Tạo vác 3 bao muối sang. Tôi bị sốt nên chỉ lội người không cũng đủ mệt.

Ngày 15, tôi về đến nhà. Vò đang sốt nặng. Cậu ta nằm ở sạp, thở khò khè. Tôi ngồi bên cậu, cầm tay và gọi: “Vò ơi, Vò ơi!” song cậu chẳng biết gì cả. Người Vò lạnh ngắt, chân tay co lại, chẳng cử động gì. Đôi mắt Vò mở, song chẳng nhìn vào đâu cả. Tôi nắm tay Vò giật giật và gọi: “Vò ơi, có lạnh không?”. Cậu hơi cựa quậy một chút, nhưng không nói được mà chỉ: “ự, ự” trong họng. Kiểu này gay đây.

Anh em cho biết Vò đau từ ngày tôi đi tới nay. Cũng sốt rét thôi, nhưng kèm cả đi lỏng. Không có thuốc. Cũng chẳng đủ người để chuyển Vò vào viện. Đến sáng nay thì Vò không dậy được nữa.
Chúng tôi thu xếp cáng Vò đi bệnh viện. Khi được đưa vào cáng, Vò cũng chẳng biết gì. Thật đau xót, buổi chiều 15, khi đưa Vò tới viện thì cậu ta đã tắt thở.

Vò quê ở Ninh Giang Hải Dương. Mới 19 tuổi, Vò đã được kết nạp vào Đảng - kết nạp ngay trên đường vào Nam. Khi chuyển sang cơ quan chúng tôi, Vò bị sốt rét nhiều, người xanh xao, cơ teo lại.

Song cậu ta rất cố gắng. Nhiều buổi trời mưa lạnh, Vò vẫn đi chăn trâu, về còn hái rau cho nhà bếp. Vò rất chịu khó khâu vá, tuy đường kim của cậu ta rất vụng về, chỉ như đường may lược của các cô gái. Giờ đây chiếc mũ Vò may còn đó, chiếc quần cậu ta may bằng vải xé từ ruột nghé ra đang còn dở dang... Bệnh tật cướp Vò đi một cách dễ dàng quá. Trước đó ít ngày mà đưa Vò đi bệnh viện hoặc chỉ cần có ít kí ninh ống, ít Cacofe, B12 tiêm cho Vò là có thể giữ cậu ta lại được. Đơn giản vậy đó, song thật đau xót, không thể làm như vậy được. Thuốc quá thiếu thốn, không có một ống, mà thuốc viên cũng hết nhẵn. Chúng tôi đi vắng, ở nhà chỉ còn mấy phụ nữ và mấy cậu đau ốm khật khừ, lấy ai khiêng Vò đi được?

Cách đây ít lâu, nhìn da Vò xanh dợt, bủng beo, nhìn thân hình Vò gầy nhom, khật khưỡng, tôi nghĩ rằng cậu ta khó mà trụ được với cuộc sống khắc nghiệt này. Có ít viên sâm Triều Tiên, tôi đưa cho cậu ta dùng. Song ăn thua gì kia chứ? Còn đau xót nào hơn nỗi đau xót khi biết trước rằng đồng chí mình có thể chết, lại biết cách để cứu đồng chí mình, nhưng không có điều kiện để cứu, đành chịu thua thần chết?
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #43 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 09:22:32 pm »

 
Từ ngày 20/11/1970

Tôi trở về Ban công tác. Thế là đã qua một mùa rẫy rồi. Phút nào còn bỡ ngỡ với nhát rựa đầu tiên trên rẫy mà bây giờ đã cùng anh em làm nên cả một mùa lúa vàng, mang mùa vàng no ấm chất đầy kho! Ra về, lòng không khỏi lưu luyến. Vì nơi đó đã thấm mồ hôi của mình trên từng khóm lúa, nương ngô, gốc sắn. Vì ở đó, mình đã rèn luyện trong lao động nặng nhọc và đã trưởng thành.

Lên đến đỉnh dốc cao rồi, tôi quay nhìn lại nơi ở. Nổi lên giữa màu xanh bạt ngàn của rừng núi là một bãi xanh bằng bặn của rẫy sắn lớn của chúng tôi. Tôi rất nhớ những ngày đổ mồ hôi, phát, ráng sức cõng hom để trồng nên 14.000 gốc sắn xanh tốt đó.

Đồng bào nóc ông Chanh bùi ngùi tiễn tôi đi. Tối đó, tôi ngủ lại nóc, dạy bọn trẻ hát và cùng ngủ sạp với chúng. Bà con cho tôi nào nếp, gạo, nào mè, chuối để đi đường ăn.
Ban làm nhà ở gần nóc đồng bào Kà Đong thuộc thôn 4 xã íp.
Lại bắt tay vào chuyên môn. Tôi được phân công đi các ngành lấy tài liệu viết một số tin tổng hợp nhân dịp 20-12. Quả thật, lâu ngày mới cầm bút viết, cũng chật vật.

Tôi cùng các anh Lý, Vượng, Ca ở một nhà, rất thú vị vì hợp “gu” nhau. Bọn tôi quen nhà ông Xây và quan hệ rất mật thiết. Mấy đứa nhỏ con ông Xây rất dễ thương. Chúng tôi kiếm vải may áo cho chúng. Ông Xây rất quý chúng tôi, nhà có gì ngon lại gọi ra cho ăn, thỉnh thoảng lại bảo con đem vào cho bọn tôi ít gạo, sắn hoặc chuối... Bởi vậy, bọn tôi tối nào cũng có thứ để xì xụp với nhau.

Lương thực hồi này khá hơn. Ngoài số chúng tôi tự sản xuất ra, còn được cấp gạo “Xã hội chủ nghĩa”. Ở bến xe, chúng tôi còn 2 tấn gạo, song không có người chuyển về. Cứ chuyển lần hồi vài cõng một.
Trời mưa tầm tã hoài. U ám và mọng nước mãi. Mưa kéo dài cả chục ngày. Tạnh một chút, tưởng đã nắng, lại mưa. Bọn tôi ở cao, trời quánh đặc một thứ mù ẩm ướt. Giá lạnh vô cùng. Đêm nào cũng chất cả một đống lửa to tướng giữa nhà.

Theo chủ trương của Ban, đông đảo cán bộ, nhân viên sẽ đi nước Ta sản xuất lang, rau đông xuân và đi nóc ông Thiên vỡ đất làm ruộng, đến tết sẽ về.
Ngày 26/12, tôi lên đường đi nóc ông Thiên. Trời vẫn mưa dai dẳng.
 
THƯ GỬI GIA ĐÌNH


Miền Trung Trung Bộ. 1/12/1970.

Bố mẹ và các em yêu quý!

Hôm nay có anh Thành và anh Dân ra Bắc, con tranh thủ viết thư thăm gia đình.
Hồi này con vẫn khoẻ. Qua gần 3 năm công tác ở chiến trường, con đã già dặn, cứng cáp lên nhiều và cũng đã có những bước tiến đáng mừng. Ngày 9-10-1970 con đã được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam. Bố mẹ ạ, để có ngày vinh quang đó, con đã phải cố gắng rất nhiều. Như bố mẹ biết đó, hồi con đi do không có thì giờ, không lấy kịp giấy sinh hoạt đối tượng nên vẫn là quần chúng trơn. Khi đi trên đường, sinh hoạt của Đoàn cũng lỏng lẻo nên mặc dù con rất cố gắng vẫn không được chú ý tới và khi vào cơ quan, con vẫn chỉ là một đoàn viên thường.

Tuy nhiên, con luôn xác định cho mình là phải kiên trì phấn đấu nên trong công tác, sinh hoạt con vẫn luôn hăng hái, phấn khởi, không tỏ ra sốt ruột, thắc mắc. Ở đây, khó khăn, gian khổ đã thử thách con và tạo điều kiện cho con phấn đấu, thể hiện bản chất của mình. Các đồng chí Đảng viên và các đồng chí lãnh đạo cũng luôn giúp đỡ con. Đặc biệt có anh Huỳnh Ngọc Lý (có vợ người miền Bắc, ở Hải Phòng) rất tận tình giúp đỡ con từng ly từng tý và rất tích cực nêu vấn đề của con ra trước chi bộ. Tới tháng 10/1969, đáng lẽ con được chuyển lên đối tượng, song thời gian đó, trong dịp di chuyển cơ quan, con lại sơ ý để mất của cơ quan một cái đài bán dẫn nên bị để lại. Sau đó con được phân công đi sản xuất, tự túc lương thực cho cơ quan. Khi gác bút, cầm rựa, con phải vượt qua bao bỡ ngỡ, mệt nhọc để làm quen với công việc. Tạị đây con được anh Bá (cũng là chi ủy viên như anh Lý) hết sức gíup đỡ.

Con đã thắng mọi mệt nhọc, khó khăn, luôn là cá nhân xuất sắc của đơn vị, là đoàn viên 4 tốt nên chỉ sau 3 tháng sản xuất (tháng 5/1970) con đã được chuyển lên đối tượng và tới tháng 7 thì được chi bộ kết nạp. Toàn chi bộ nhất trí 100% về việc kết nạp con và cho con hưởng thời gian dự bị là 9 tháng (lẽ ra đối với một tiểu tư sản học sinh là phải 12 tháng). Do giao thông liên lạc khó khăn, việc chuyển hồ sơ của con lên Đảng ủy và nhận Quyết nghị của của Đảng ủy về bị chậm trễ nên hơn 2 tháng sau con mới được kết nạp. Hiện nay, con đã trở về cơ quan làm công tác chuyên môn và tiếp tục phấn đấu để trở thành Đảng viên chính thức. Trong dịp bình bầu khen thưởng cuối năm, con được bầu là Chiến sĩ quyết thắng (thấp hơn chiến sĩ thi đua một bậc). Hiện nay con được cử làm Bí thư chi đoàn thanh niên của cơ quan. Con luôn tự nhủ phải cố gắng hết sức và khiêm tốn học hỏi các đồng chí lớn tuổi để làm thật tốt nhiệm vụ của mình, trở thành người cán bộ thật tốt của Đảng.

Bố mẹ kính yêu! Sống xa gia đình con luôn nhớ đến bố mẹ và các em. Tuy nhiên, gần một năm nay con không nhận được lá thư nào của gia đình cả. Bố mẹ cố gắng hỏi chị Tú ở VNTTX cách gửi thư cho con sao cho nhanh nhé. Hiện anh Đức đã về chưa và công tác ở đâu? Việt, Ngọc có hay về thăm nhà không? Diệp, Lan, Thủy học có giỏi không? và lớn nhiều chưa? Con rất mong gia đình gửi ảnh cho con.

Con có mời anh Thành, anh Dân đến thăm gia đình. Hai anh này sẽ trở vào chỗ con sau khi nhận máy móc. Bố mẹ nhớ gửi thư để 2 anh ấy cầm vào giúp. Nếu anh Đức có đồng hồ thì mẹ gửi cho con một cái, con rất cần vì đi rừng núi không có đồng hồ khổ lắm. Con cũng cần một ít tiền để mua sắm đồ dùng và bồi dưỡng, bố mẹ gửi cho con với (gửi tiền 10đ của miền Bắc, vào đây con sẽ đổi ra tiền miền Nam). Anh Thành là bạn thân của con nên nếu gửi anh ấy mang được là rất chắc chắn, hoặc nhờ anh ấy nhờ người mang hộ cũng tốt.

Cuộc sống của chúng con vẫn rất gian khổ, giá sinh hoạt đắt đỏ, nên khó có điều kiện cải thiện đời sống. Ăn uống chủ yếu vẫn là sắn, bắp và rau rừng. Bắp được coi là gạo chứ không phải là thức ghế. Chúng con đang cố gắng sản xuất, đánh cá, săn bắn để nâng cao mức sống của mình. Sang năm, chúng con có thể được phát tiền ăn gấp đôi mức hiện nay. Nếu vậy thì mức ăn uống có thể khá hơn.
Bố mẹ ạ, điều đáng mừng là con đã gắn bó được với đồng bào Thượng ở căn cứ như hồi ở Sơn La con gắn bó với đồng bào Thái.

Con đã nói được tiếng Kà Dong và được đồng bào rất thương yêu.
Nói chung, cuộc sống của bà con ở đây còn khổ lắm, còn thiếu mặc và lạt muối. Đồng bào đã tổ chức được những tổ vòng công, hợp tác để đẩy mạnh sản xuất.

Con rất nhớ cụ, bà ngoại, ông bà trẻ, cô Chung, cậu Hiếu và các em. Con rất mong nhận được thư của những người thân thích trong gia đình.

Bố mẹ không nên quá lo lắng cho con, vừa qua chị Sáu ở cơ quan con có viết thư nói gia đình hay đến hỏi tin con và nói con ít viết thư về nhà. Thực tế, con cũng rất tranh thủ viết, song việc gửi rất khó nên thư ít tới tay gia đình. Do vậy việc bặt thư con dăm bảy tháng là chuyện thường, bố mẹ chớ lo.

Con gửi lời thăm các cô chú trong cơ quan bố.
Con của gia đình.
Việt Long
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Mười Một, 2007, 07:16:20 pm gửi bởi hoacuc » Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #44 vào lúc: 14 Tháng Mười Một, 2007, 07:25:36 pm »

Năm 1971
 
Ngày 1/1/1971

Năm mới đến trong cái mưa dầm dề dai dẳng. Trời mù suốt và cứ mưa rả rích. Tôi đón năm mới trên đường đi nóc Ông Thiên. Một mình cắm cúi bước trên đường trong cái lạnh ướt. Một mình ngủ giữa rừng thấy buồn tẻ vô cùng. Đêm đầu, cột võng ngay bên đường mòn, súng ngắn để trên bụng và ngủ yên lành tới sáng. Đêm thứ hai vào một khu cơ quan bỏ hoang bên sông, thấy ấm áp hơn.

Đến cơ sở sản xuất lúc anh em đang cuốc ruộng. Ở đây đang vỡ hóa lại cánh đồng bị bỏ hóa từ mấy năm trước đây. Những thửa ruộng cao bị cỏ tranh bao dày. Những thửa ruộng cũ bị sình lầy và cũng dầy đặc cỏ.
Chúng tôi dùng cuốc vỡ ruộng. Sình lầy quá đỗi. Dẫm thụt đến quá đầu gối. Cuốc, ra sức cuốc. Cỏ kết bè lại, nhùng nhằng. Nước bùn thấm vào da thịt lạnh ngắt và rất ngứa. Da thịt Ửng đỏ lên, ngứa muốn điên lên. dầm trong nước lạnh và bùn lầy, bọn tôi vẫn vỡ từng đám ruộng một. Chúng tôi còn có cái thú là bắt chim cuốc - Tô biết làm loại bẫy bằng tre thít cổ chúng.

Chẳng bao lâu ruộng đã bờ liền bờ, phẳng phiu, đủ cho chúng tôi cấy 6 ang giống. Mạ cũng đã được gieo.
 
Ngày 16/1/1971

Mấy hôm nay trời đã hửng nắng. Bầu trời cao, xanh, xen những đám mây trắng xốp. Những tia nắng le lói chiếu trên khắp núi rừng, xua tan dần cái ẩm ướt, lạnh lẽo. Bọn địch lợi dụng trời nắng hoạt động dữ. Moranh quần lượn suốt. “Rọ”, “gáo”, HU.1A (các loại máy bay trực thăng trinh sát và chiến đấu) luôn luôn chúi vào các hẻm núi dòm ngó. Có khi “rọ” còn lách theo bờ sông dùng cánh quạt ở đuôi quạt tung từng bụi cây để tìm người, nhà cửa. Cái thứ tầu “rọ” này đáng ghét lắm: chúng nhỏ bé nên luồn lách khắp nơi, sà xuống thấp dễ dàng. Đã thế, chúng chỉ có bộ khung bằng kim loại, còn lại bọc bằng nhựa trong suốt nên quan sát rất dễ. Rất nhiều đồng chí của tôi đã bị “rọ” kít xuống bắn chết hay bắt sống.

Chúng phát hiện ra xóm nhà của nóc ông Điền. Thế là lũ HU.1A và tầu rọ bu đến bắn đại liên, phóng rốc két, cối... Một chiếc máy bay cánh dơi quần lượn suốt, thả hết tràng bom này tới tràng bom khác. Chúng đánh phá như vậy suốt 3 ngày liền. Đêm, chúng còn bắn pháo cấp tập đến nữa. Không hiểu đồng bào bị thiệt hại ra sao?
 
Ngày 22/1/1971

Tôi cùng Tô, Tùng mang nếp, gà về cơ quan ăn tết.
Ráng tới bờ sông Tranh khi trời đã nhòa tối. Gọi đò hoài mà không ai đáp. Trời lại rắc xuống một trận mưa, lạnh vô cùng.

Chúng tôi lội ngược suối, định lên đơn vị sản xuất gần đó ngủ nhờ.
Nhưng khi vừa bước vào nhà, đã nghe giọng nói chẳng lấy gì làm thân thiện lắm: “Các anh định ngủ nhờ hả, không được đâu!”. Tính tôi không thích kèo nèo. Tô, Tùng cũng vậy. Thế là lại quay ra bờ sông mưa lạnh.
Dăng tạm tăng ở lại bờ sông mà ngủ. Tô bỗng kêu thét lên. hóa ra cậu ta vịn vào cây, vớ trúng con rắn lục. Loại rắn này mầu xanh lá cây, sống trên cây nhưng chỉ hoạt động vào ban đêm. Nọc chúng rất độc, có thể giết chết người như không. May mà lúc này còn ánh mặt trời, con rắn đang ngủ, chỉ phản ứng một cách chậm chạm. Tô dùng rựa chém chết con rắn. Chỗ này dốc, nhiều đá nên chúng tôi cột võng không thoải mái chút nào, đầu cứ chúi xuống phía sông.

Ăn chút cơm nguội. Rồi leo lên võng nằm. Gần sáng, cái tăng bị đọng nước, đổ một vũng xuống võng Tô làm cậu ta ướt mèm. Tô làu bàu: “Ngồi vậy thôi”. Tuy nhiên, vẫn cột võng tránh chỗ nước và lại ngủ thiếp đi - mệt quá mà. Nghe mấy quả pháo nổ gần gần.

Từ 24 đến 30/1/1971 - Xuân Tân Hợi


Chúng tôi đón xuân mới tại cơ quan. Trời chẳng có gì là xuân cả vì cứ u ám suốt và lạnh vô cùng.
Thật là tai hại, cái con heo to lớn mập mạp của cơ quan lại bị bệnh gạo - phải chôn. Do vậy quá nghèo thịt. Anh em kháo nhau rằng đó là điều may, năm mới sẽ tha hồ gạo mà ăn.

Tuy nhiên, về tinh thần thì khá thoải mái. Chúng tôi họp tiểu ban, đại hội chi bộ trước tết, còn đến giao thừa và ngày 1, 2 đều được nghỉ. Tôi và Vượng thức suốt đêm nghe đài, tán chuyện tào lao.
Đồng bào cũng vào ăn tết với chúng tôi. Cơ quan đãi bà con một bữa khá thịnh soạn. Bọn tôi cũng dành kẹo bánh đem biếu nhà ông Xây - cơ sở của chúng tôi.
 
Ngày 4/2/1971

Nhà ông Xây cho chúng tôi một con heo nhỏ. Bọn tôi mổ thịt và mang về nấu. Nhà chỉ có 3 anh em. Xì xụp lúc cúc nấu nướng suốt buổi tối. Kể ra đây cũng là một việc hiếm có.
Trời vẫn mù, mưa nhỏ hạt. Lạnh vô cùng. Chúng tôi chất lửa suốt đêm ngày.
 
Ngày 8 - 16/2/1971

Tôi đi cõng gạo “Xã hội chủ nghĩa”. Đây là loại gạo được chuyển từ miền Bắc vào chứ không phải loại gạo mua từ đồng bằng miền Nam lên. Nói chung, những gì liên quan đến miền Bắc, chúng tôi đều gắn với 4 từ Xã hội chủ nghĩa: “gạo Xã hội chủ nghĩa”, “đường Xã hội chủ nghĩa”, “thuốc Xã hội chủ nghĩa”...

Chúng tôi đi về phương Bắc. Ngoài tết rồi mà trời vẫn mưa lai rai. Đường nhão nhầy, trơn truội. Đi qua con đường mà cách đây gần 3 năm tôi đã đi qua khi hành quân từ Bắc vào. Đến nước Kiết - trạm Dân cũ - Tôi ngồi ngắm nhìn cảnh vật, lòng đầy suy nghĩ.

Dòng suối này tôi thường ra câu cá và mỗi khi đi mót sắn về lại cõng gùi sắn qua để vào bãi khách phía trong kia. Ôi! những ngày đói kém, gian khổ đầu tiên đến thử sức bọn tôi có lẽ là ở đây đây.

Lại đi qua con sông Nước Mỹ. Dòng sông đầy những tảng đá khổng lồ. Người ta lấy gỗ bắc qua những tảng đá đó để làm cầu đi qua sông. Hồi vào, bọn tôi đi qua đoạn sông này. Phía bãi cát có những bụi rù rì duyên dáng, tôi và San từng ra đó chụp ảnh - bao năm trôi qua rồi, song cảnh vật không khác chi mấy.

Trời lạnh vô cùng. Đêm ngủ, thấy võng giá ngắt như ướt sũng nước. Sơn và Khoa cột sát võng, nằm chung bọc võng cho ấm. Tôi mang đủ màn, áo ấm mà vẫn lạnh không sao ngủ được. Trời nắng được 3, 4 bữa. Đường ráo một chút, song có những quãng lầy, bùn lại đặc quánh lại, dính dép nhằng nhẵng. Rồi lại rắc mưa xuống, nhớp nháp.

Đường dốc vô kể. Những cái dốc đứng sựng trơn truội. Xuống dốc, thần kinh căng như dây Mi của đàn Măng đô lin. Có một anh đã sảy chân ngã, bị sứt 2 cái răng. Tôi phải dùng gậy chống, dò từng bước đi xuống. Lạnh mà mồ hôi vẫn tuôn ra. Ngồi nghỉ một chút, mồ hôi rao ráo lại lạnh vô cùng, phải đi ngay. Ngán nhất là lúc ăn cơm trưa. Ăn vào rồi, thấy run lên vì lạnh. Không muốn ngồi lại chút nào, tuy biết rằng ăn xong mà đi ngay là rất hại, rất ác với cái dạ dày.
 
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Mười Một, 2007, 07:27:40 pm gửi bởi hoacuc » Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #45 vào lúc: 14 Tháng Mười Một, 2007, 07:29:51 pm »

THƯ GỬI GIA ĐÌNH


Ngày 19/3/1971

Bố mẹ kính mến!

Có anh Phò ra Bắc chữa bệnh, con gửi thư nhờ anh ấy mang ra và mời anh ấy đến chơi nhà. Anh ấy cùng ở tiểu ban, cùng tổ đảng với con. Anh ấy sẽ kể nhiều chuyện về con cho gia đình nghe.

Bố mẹ ạ, hoàn cảnh gia đình anh Phò cũng tội, vợ, con anh ấy đều ở đồng bằng, lâu nay không liên lạc gì được. Nay anh ấy bị bệnh, không có đủ sức khoẻ, phải ra Bắc, anh ấy cũng buồn. Mong gia đình đối xử với anh ấy thân mật, đầm ấm như người nhà để anh ấy vui.

Bố mẹ muốn gửi gì cho con thì nhờ anh Phò gửi cho nhanh và bảo đảm.
Gần một năm không nhận được tin tức gia đình, con buồn quá.
Thôi, chúc bố mẹ khoẻ, các em ngoan, học giỏi. Anh Phò sẽ nói chuyện nhiều cho bố mẹ nghe.

Con đã dặn anh Phò nếu có điều kiện thì chụp ảnh gia đình để gửi cho con. Con mong ảnh gia đình lắm,
Con của gia đình.
Việt Long
 
Ngày 22/3/1971

Lý rủ tôi xuống ngọn nước Ta để kiếm cá. Dụng cụ mang theo là hai cái cần câu và một cái lưới rách nát, đứt xiên và chỉ có vài cái phao.
Chúng tôi mang gùi đi - cả võng, ăng gô, gạo, rựa, súng... Ở núi rừng này phiền phức thế đấy, đi khỏi nhà một đêm là phải mang đủ thứ lích kích.

Đến nơi, đã xế chiều. Tôi kiếm chỗ dăng tăng, kiếm củi nấu cơm. Lý đi thăm chỗ câu và rải lưới. Tối xuống nhanh quá, hai anh em ăn vội mấy miếng cơm rồi vác cần câu đi. Đầu tiên, chúng tôi ngồi câu cá ở gần một thác nước. Thác nhỏ thôi nhưng dựng đứng.

Nước đổ xuống trông như bức tường đá, bắn bọt khắp một vùng.
Dòng nước chảy mạnh, xô khối không khí quanh đó chạy dạt về phía trước, tạo thành một luồng gió mạnh. Thành thử ngồi đó luôn có cảm giác trời mưa gió lạnh lùng. Cá chẳng cắn câu gì cả. Chúng tôi vượt lên thác. Đá trơn, không có bậc, nên vượt thật vất vả. Phải bám vào rễ cây, dây rừng mà đu người lên. Trời tối thui. Lội qua suối, tôi bị hẫng chân vào một hũng sâu, ướt cả hai ống quần.

Câu chán ở trên không được, bọn tôi lại lần xuống dưới thác.
Phải dò từng bước xuống. Trời dậm dọa mưa. Vội về dăng tăng.
Bấm đèn, dứt dây rừng để dăng tăng. Tới nửa tiếng đồng hồ mới xong. Lý đi thăm lưới. Cá cũng mắc. Cả câu, cả lưới được 9 con, mỗi con to bằng 2 ngón tay!

Ăn tiếp chút cơm còn lại. Mưa. Rải vội lưới, thả lưỡi câu Chình rồi về nằm.
Mưa rả rích. Rồi mưa lớn dần. Hai anh em nằm chung một tăng. Nước mưa hắt làm ướt cả bọc võng. Song không lạnh lắm.

Bốn rưỡi sáng, Lý thức tôi dậy. Mưa nặng hạt hơn. Sông réo ầm ầm. Chắc nước đang lên. Lý lo lưới bị cuốn mất. Anh nhấp nhổm muốn dậy. Tôi viện lý là ở đó nước quẩn, không trôi lưới được, khuyên anh nằm lại đợi sáng đã. Nhưng rồi anh vẫn dậy, bấm đèn ra gỡ lưới. Anh mang về một gói lưới. Lá dính đầy lưới. Cũng có 5, 6 con cá. Lại cả một chú cua, một chú ếch nữa. Chúng tôi gỡ ra, cho vào ăng gô. Cả thảy có 14, 15 con cá, một con ếch, một con cua - đó là chiến công của chúng tôi sau gần 2 tiếng vượt dốc, lội suối và một đêm hì hục lần mò, dầm mưa kiếm chác.
Nước sông lên to. Bọn tôi bàn nhau phải xuyên sơn về. Chẳng thèm nấu cơm sáng nữa. Thu dọn đồ rồi lội thử qua sông. May quá, cũng được. Tiếp tục lội ngược sông, vượt hai thác, leo dốc về cơ quan. Tôi cho rằng đó là một thất bại. Lý nói rằng không thất bại, vẫn là thắng lợi. Tôi nói rằng phải trả giá mấy con cá đắt quá. Lý nói rằng không đắt, vì nước lớn, lẽ ra phải mất lưới cơ.

Về nhà nấu cơm ăn. Anh em để phần thịt mang xào, thịt mang nấu mì chay. Và trưa đó mỗi người được một nửa con cá do chúng tôi kiếm. Kiếm ăn đâu phải chuyện dễ!

Hồi này địch tập trung xâm lược Nam Lào nên chỗ chúng tôi khá yên. Ngày, đêm có những chuyến máy bay phản lực vội vã bay qua đầu chúng tôi, lướt về hướng Bắc. Cứ hôm nào có máy bay bay nhiều, y như là hôm đó ngoài ta đánh mạnh, thắng lớn.
 
Ngày 19/3/1971

Nghe tin ta đánh thắng Bản Đông. Thật lý thú khi nghe những tin, bài phản ánh sự thắng lợi đó. Ngày 23, quân ta làm chủ hoàn toàn Nam Lào. Chúng tôi say sưa ghi chép tin tức chiến thắng. Anh Phi chỉ thị phải có kế hoạch tuyên truyền tập trung cho chiến thắng này. Tập thể bàn bạc, sau nửa tiếng vạch xong kế hoạch cụ thể. Bài vở soạn kịp thời, vẽ cả bản đồ nữa. Đem in kịp thời tập tài liệu về chiến thắng đó để chuyển về các tỉnh cung cấp xuống cơ sở.

Anh em tổ chức liên hoan mừng thắng lợi. Trong 2 ngày liền đổi được 2 con lợn - thế là rôm rả.
Phong trào cải thiện lên khá. Tổ đánh cá thỉnh thoảng lại gửi về một thùng cá muối. Đó là thành quả của việc cả tổ lặn lội suốt ngày đêm ở Nước Ta.

Đêm 27 rạng ngày 28/3, quân ta tập kích cứ điểm Xã Đốc. Suốt đêm, ở xã đó vang lên tiếng súng, tiếng máy bay. Nghe tin diệt gọn một tiểu đoàn Mỹ ở đây. Địch phản ứng yếu ớt. Chúng bắn pháo vu vơ vào các vùng xung quanh. Máy bay trinh sát cứ bay rít nhặng xị trên bầu trời nơi chúng tôi ở suốt ngày, đêm. Pháo chúng câu tới vùng này, song còn cách chúng tôi vài chục phút đi bộ.

Suốt 3 ngày 27, 28 và 29/3, quân và dân Trung Trung Bộ tiến công dồn dập hàng trăm vị trí địch, diệt hàng ngàn tên Mỹ, nguỵ.
Tình hình chung toàn chiến trường rất tốt.
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #46 vào lúc: 14 Tháng Mười Một, 2007, 07:35:44 pm »

THƯ GIA ĐÌNH


Hà Nội, ngày 6-4-1971

Long thân yêu của mẹ!

Thấm thoát con xa gia đình đã gần 3 năm rồi, gia đình nhớ con nhiều lắm, mẹ cứ thấy người ta ra ngoài này bồi dưỡng sức khỏe hoặc được ra hẳn, mẹ mong con cũng được ra quá mà chả biết bao giờ con mới được ra. Kỳ này có đoàn vào để thay thế cho một số trong ấy ra, chả biết con có được ra không?

Hôm mẹ vào thăm anh Thành, mẹ cũng mua thuốc lá và đem kẹo vào biếu anh ấy và mẹ có dặn khi nào anh Thành ra viện thì thế nào cũng đến nhà chơi một ngày và anh Thành cũng chưa thể vì còn nhiều chuyện nhưng đến bệnh viện không tiện nói nhiều.

Vì bố được tin tổ chức đến báo là có đoàn vào, có gửi gì cho con thì gửi cho nên mẹ tạm gửi 50đ và 20v thuốc tetracylin thay Biomycin. Khi nào con sốt hay viêm họng thì con dùng và còn một số thuốc viên trắng là nhung viên, anh mua cho mẹ dùng nhưng còn 70 viên mẹ gửi cho con dùng, một ngày uống 3 viên thôi, mẹ rất muốn gửi nhiều thứ cho con nhưng sợ họ không nhận. Đây là mẹ cứ chuẩn bị sẵn còn mai đem lên xem chị Sáu có nhận cho không? Mẹ đổi 5 tờ giấy 10 đ mới tinh để gửi cho con đấy, còn bao giờ anh Thành vào, mẹ có điều kiện lại gửi thêm tiền cho con, con chỉ để bồi dưỡng thôi không cần mua bán gì cả, mẹ chỉ cốt con còn khỏe mạnh, về với gia đình là tốt rồi. Hồi này các em bận học thi cả, chưa viết thư cho con được, thi xong các em sẽ viết cho con. Em Phúc còn một năm nữa là về rồi.

Nếu mẹ gửi được các thứ vào mà con nhận được thì con trả lời mẹ để mẹ còn gửi kỳ sau, con cứ viết sẵn thư khi gặp ai ra là con gửi thì tiện hơn, ở nhà mỗi khi ăn gì mà món ăn con thích thì mẹ lại nhắc đến con luôn, con cố gắng phấn đấu cho tốt và giữ gìn sức khoẻ, đừng chủ quan, khinh địch, gia đình rất mong con được về đoàn tụ cùng gia đình ngày gần nhất.
Thôi thư đã nặng rồi, mẹ chỉ viết được thế thôi, chả sao mà nói hết lời mấy con được.

Bố mẹ và gia đình chúc con khỏe mạnh.
Mẹ chụp ảnh gửi gấp cho con để con mừng.
Mẹ.
 
Ngày 9 tháng 4

Tôi và Vượng được cử đi công tác thực tế. Đó là ao ước suốt 3 năm nay của chúng tôi. Tôi sẽ đi Quảng Nam, Vượng đi Quảng Ngãi. Chúng tôi mau chóng chuẩn bị vài thứ cần thiết để đi sớm.

Anh Phi (Phương) căn dặn chúng tôi nhiều. Nói chung anh tỏ ra khá lo ngại cho chúng tôi vì chuyến đi này là chuyến đi đầu tiên, chiến trường lại ác liệt. Anh bảo: Xuống địa phương, ở làm việc với Tuyên huấn và Văn phòng Tỉnh ủy - kết cho chặt, cùng làm việc khoảng 15 ngày. Xuống huyện 15 ngày rồi đi huyện khác. Những tin có thể điện về Khu: Phá khu dồn, mở mảng vùng giải phóng, phá rã phòng vệ dân sự, binh biến, khởi nghĩa trong quân ngụy, đấu tranh chính trị lớn - nên viết gọn, rõ. Những tin tổng hợp về phong trào, về huyện. Làm ngay tin chống bình định, giành dân của tỉnh: đánh bọn kìm kẹp, diệt ác ôn, làm rã địch, phá khu dồn, xây dựng vùng giải phóng như thế nào? Phong trào du kích chiến tranh - của tỉnh, huyện. Phong trào đấu tranh chính trị - có thể viết tổng hợp hoặc gắn với tin về nổi dậy. Những mẩu chuyện về du kích, đấu tranh chính trị, sản xuất, người tốt việc tốt - nêu rõ hành động, suy nghĩ, nhưng viết ngắn gọn. Có thể xuống một xã nhưng không ở lâu.
 
Ngày 10 /4/1971

Chúng tôi phấn khởi lên đường xuống Nước Ta.
Ở đây tổ Đảng tuyên truyền họp. Cuộc họp không thú vị gì, vì là buổi kiểm điểm một số khuyết điểm. Vấn đề đặt ra: tại sao Tuyên truyền có quỹ riêng 5.000đ? Có phải là tham ô tập thể không? Câu chuyện này đáng lẽ lùi vào dĩ vãng rồi. Số là hồi năm 1969, các bộ phận đều có cơ sở sản xuất tự túc riêng. Tới cuối năm này, qua đầu năm 1970 thì các chi bộ giải thể, trở thành tổ đảng, cả cơ quan thành một chi bộ, và các bộ phận sản xuất nhập chung lại. Qua việc thanh toán với quản trị, anh Tần Phồ (phụ trách sản xuất của Tuyên truyền) báo cáo còn thừa 5.000đ, nhưng anh em thắc mắc: số tiền đó còn nhiều hơn. Anh Nặng (phó tiểu ban) lúc này làm rất hăng. Anh nói: “Tôi phát hiện ra còn 27.000 đ cơ! Song để anh Phồ đi công tác, xong hãy hay”. Sau tết, anh Phồ về mua một số hàng. Rồi lại có chuyến anh Phồ đi Quảng Ngãi mua một số hàng nữa. Rồi thấy anh Nặng im, không nói đến chuyện tiền nong nữa. Mãi đến cuối tháng 3/1971, khi 2 anh này yếu sức khỏe, phải ra Bắc và bàn giao 5.000 đ lại, cơ quan mới biết. Nhưng 2 anh đã đi rồi. Chuyện xấu để lại nơi này.

Anh em phát biểu rất công phẫn. Phải nói, nơi sản xuất của Tuyên truyền khá tách biệt với cơ quan. Tần Phồ lúc đó là phó bí thư chi bộ, phụ trách tổ sản xuất. Lối lãnh đạo của anh ta độc đoán.
Nhất là về kinh tế, anh ta khắc làm, khắc thanh toán với quản trị và có nhiều lúc rất sai nguyên tắc. Ví dụ: trả công cho đồng bào bằng hiện vật đều tính cao hơn giá thực mua để lấy lãi, bán 20 ang bắp để lấy tiền liên hoan v.v. Nói chung số tiền thu là bất hợp pháp, phải trả cơ quan. Chỉ có số tiền bán chất độn (ngô khoai) là chính đáng và lẽ ra phải chia cho số anh em sản xuất ở đó. Nhưng bằng thủ pháp dối trá, Phồ đã hợp pháp hóa số tiền đó và nhập cục lại thành một quĩ. Rồi anh ta làm một bản danh sách dài dặc về những buổi liên hoan, bồi dưỡng để trừ số quĩ đó đi. Nhưng thực ra, những món chi đó, anh em đã trả rồi. Tức là Phồ thu tiền hai lần. Rõ là có tham ô trong đó.

Còn Nặng, anh em nghi là có liên quan đến vụ này - có thể chấm mút gì ở số tiền đó chăng? Tại sao lúc đầu anh ta làm hăng thế, sau hai chuyến anh Phồ mua hàng về lại im đi? Anh em thắc mắc, anh ta bảo: cứ bình tĩnh, nôn nóng hỏng việc. Anh ta báo cáo lên trên là ổn thỏa cả rồi.

Những nghi vấn của anh em đều bị ứ lại ở anh - anh đóng vai trò cái cửa cống xập xuống làm nghẹn lại những rác rưởi ở bên kia. Lãnh đạo không rõ chuyện này. Anh ta dùng mọi thủ đoạn để bịt mọi chuyện. Chi, Tân, Tứ... đều bị phân công đi sản xuất, không được sinh hoạt với Tiểu ban, không nêu được thắc mắc.

Những anh em khác ở nhà thì không biết, hoặc biết lờ mờ. Thế là anh ta đi thoát ra miền Bắc.
Rất tiếc là sự phát hiện quá chậm, như người ta bắn vuốt đuôi máy bay vậy, chẳng ăn thua gì, còn người bắn thì chịu tiếng nổ và khói của chính mình bắn ra!

Nặng người trong này. Ngay từ lúc mới gặp, nhìn đôi mắt anh ta đã thấy khó tin. Đôi mắt sâu song con ngươi lại hơi lồi, nhiều lòng trắng. Con mắt hay nhìn trộm và nhìn cái gì cũng rất nhanh. Ở bắp đùi anh ta có một cái bướu thịt rất lớn, phải to bằng bầu vú của phụ nữ. Có lần ngồi nghỉ ở một nhà đồng bào, thấy mấy cô gái dân tộc nhìn cái bướu vẻ tò mò, Nặng đưa tay xoa xoa, nắn nắn cái bướu như kiểu người ta xoa nắn bầu vú phụ nữ, thế là mấy cô gái đỏ mặt, lảng đi hết. Lúc gần đi, Nặng phong tỏa anh Huỳnh Ngọc Lý - chi ủy viên - dữ. Anh ta dựng đủ chuyện nói xấu sau lưng anh Lý hoặc báo cáo với lãnh đạo: nào là lấy cốc đổi chuối, nào là đổi rựa, nào là kèn cựa, địa vị. Phải nói, anh Lý cũng phải lao đao vì cú đánh nham hiểm đó.

Trong buổi họp, có lẽ quá xúc động, Lý nói rằng tổ chức Đảng bị lừa, tập trung đánh vào anh! Nói vậy là thái quá.

Anh Châu Hoàn - Bí thư chi bộ - nói rằng anh Nặng đến nỗi nào nham hiểm dữ vậy? Anh em tập trung vạch cái nham hiểm của Nặng. Tôi còn nhớ, anh ta từng lấy làm hãnh diện kể với chúng tôi câu chuyện: hồi ở Bắc, một hôm anh ta và một số bạn bè rủ nhau đi ăn hàng, ăn rất nhiều, song ai cũng nói quên tiền ở nhà. Nặng bảo để anh ta về lấy tiền. Thế là xách xe đạp đi thẳng một hơi. Các ông bạn tha hồ chờ!...

Châu Hoàn rất hiền lành, thật thà, cần mẫn, đáng mến. Anh không tin chuyện ấy cũng phải thôi. Anh là Họa sĩ, song tham gia sản xuất nhiều hơn là vẽ. Anh mặc bộ bà ba xám thùng thình, đội cái nón rách, vai khoác một cái xắc cốt to quá khổ, tay cầm con rựa lúi húi với công việc suốt ngày. Thường, anh đi sớm, về muộn, ít có bữa cơm ăn cùng với anh em. Song có lúc anh khắc khổ một cách thái quá. Có khi anh tự soi gương và cắt tóc mất cả tiếng đồng hồ.

Trong khi đó rất nhiều anh em sẵn sàng cắt giúp anh chỉ mất 20 phút đồng hồ! Con người cù mì ấy lại nổi tiếng cả Khu bộ về chuyện chặt nai. Bữa ấy anh xách rựa đi làm rẫy. Chẳng dè gặp một con nai - nó bị thương từ lúc nào, ốm nhom. Con nai chạy qua bãi đá. Anh nhào theo, vấp một tảng đá, ngã trầy cả đầu gối, nhưng đã chém được một nhát vào chân nó. Con nai quỵ xuống, anh chém cho gẫy cả 4 chân rồi cõng về. Gần tới nhà, mệt quá, anh để đó, lẳng lặng về rỉ tai Tuấn và Tám Tuyên. Cả 3 lặng lẽ kéo đi trước sự ngỡ ngàng của anh em. Lát sau, họ quăng con nai giữa sân. Con nai mở tròn mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Các tay thày dùi chuyến này mới nổi lên đả kích. Họ chế riễu những xạ thủ cứ xách súng suốt đêm này đến đêm khác, tốn kém biết bao nhiêu pin mà thua một anh chàng chỉ có con rựa trong tay.

Thật xúi quẩy, tôi nhận được thư anh Phi: tình hình Quảng Nam khó khăn, khoan đi, chờ anh Huấn về bàn cụ thể! Thế là phải khoác ba lô về. Chia tay Vượng, bịn rịn vô cùng. Mong anh đi được đằm mình trong thực tế mà làm tin, mong anh bình yên.

Bị một cơn sốt cao - trên 40. Mệt rã rời. Song không đến nỗi kéo dài lắm. Nằm bết mất 2 ngày. Hai ngày gắng đi lại cho khuây khoả.
Rồi lại bình thường.

Ở rừng núi có những đêm trăng thật đẹp. Trăng ngạt ngào tràn ngập cả núi rừng. Những tán lá hầu như đều mọng lên, trong xanh, ướt át ánh trăng.

Mùa hè, rừng núi thường dậy sớm hơn mùa đông. Đàn ve đồng ca một điệu chỉ có độc một âm, râm ran khắp khu rừng. Con chim “khó khăn khắc phục” cần mẫn hót từ lúc chưa rạng đông. Những tiếng “cúc cu” thỉnh thoảng điểm vào thờ ơ và xa vắng. Khi ánh nắng bắt đầu loé lên, bầy bồ chao lắm điều lại xúm xít nhau tranh cãi loạn xạ, chẳng con nào nghe con nào. Rồi ánh nắng xuyên thủng tán lá, trải mầu vàng nhạt trên mặt đất ẩm ướt.

Trong những lúc rảnh rang, tôi ngồi xem lại cuốn “thép đã tôi thế đấy”. Trong những ngày gian khổ này, đọc càng thấy cái hay, cái đẹp của cuốn sách, thấy nó càng gần gũi với mình. Cuộc đời của Pa-ven trong sáng, cao đẹp quá.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #47 vào lúc: 14 Tháng Mười Một, 2007, 08:28:51 pm »

Bê Trọc
Chương 3
Về đồng bằng

Từ 22/4/1971

Lên đường đi công tác Bình Định. Chiều, xuống Nước Ta. Anh em đang dọn rẫy để chuẩn bị trỉa. Trời nắng trắng cả đất. Đang mong có mưa để trỉa và để bắp khỏi nghẹn.

Chiều và tối, nói chuyện nhiều với Ngọc, nghe Ngọc kể chuyện về gia đình, về những ngày đầu tham gia cách mạng. Ngọc chỉ còn mẹ già, một chị và 2 em gái nhỏ. Ngọc lam lũ từ nhỏ, biết cày từ nhỏ, không được đi học, 15 tuổi đã đi theo mấy chú đi thoát ly. Ngọc nói chuyện thật tình cảm, thật khác với nhận xét của tôi trước đây, cho rằng cô ấy khô khan, cộc cằn. Có lẽ, sự nhìn nhận đánh giá về các cô gái khu 5 trước đây có lệch lạc chăng? Tôi phục các cô ấy cần cù, vượt gian khổ giỏi, nhưng tôi cho rằng các cô ấy khô khan, cộc cằn. Nhưng quả thật, tôi chưa tìm hiểu sâu sắc tâm hồn phong phú của các cô ấy. Cũng như Ngọc, các cô gái ở chiến khu này đều là con nhà nghèo, đều có thù sâu với địch. Nên nhớ rằng những người như vậy sẽ một lòng, một dạ đi theo cách mạng, cống hiến cho cách mạng. Mà tình cảm đối với cách mạng là tình cảm đẹp nhất, lớn nhất. Vậy thì sao có thể coi là khô khan được? Thực ra, thì trong lời ăn tiếng nói, trong cách đối xử nhiều khi thiếu tế nhị, mềm dẻo.

Nhưng lỗi chính lại không phải ở các cô ấy. Sống trong hoàn cảnh xã hội phức tạp, nghẹt thở, sống lam lũ, đầu tắt mặt tối, ít tiếp xúc với những sản phẩm văn hóa thì nhất định sẽ dẫn đến sự nhẫn nhục cứng rắn trong tình cảm, sự dứt khoát, bộc trực trong cách đối xử - đôi khi dẫn đến thô thiển và cục cằn.
 
Ngày 23/4/1971

Cùng với Chi đi đánh cá. Chi là phóng viên ảnh, đánh cá rất giỏi. Anh lựa những chỗ nước chảy mạnh, tung bọt trắng xóa mà giăng lưới rồi dùng đá chặn chân lưới. Có chỗ sâu, anh lặn xuống, trườn lên trên thác mà chèn lưới, đuổi cá. Rồi xuống dưới nước ném đá ầm ầm, xua cá lên. Đánh một lúc đã được khoảng một cân cá.

Nhiều nơi đốt rẫy, lửa bốc lên hừng hừng, nóng bỏng. Khói xanh, khói trắng, khói đen, khói vàng quện nhau cuộn lên mù trời.
 
Ngày 24/4/1971

Trời ầm ì làm cơn mãi mà không mưa nổi. Chiều, trời xám lại, mây đen kéo đến dầy đặc. Rồi gió mát kéo về. Tưởng mưa to mà cũng chỉ rắc cho vài hạt li ti.

Mọi người mong mưa, ngoài lý do cho tốt bắp, còn lý do nữa là để săn bắn. Rẫy mới đốt, gặp mưa là nai, mang và chồn... ra kiếm ăn đông lắm. Mấy tay thiện xạ sôi nổi chuẩn bị đèn bắn. Hương - một xạ thủ của cơ quan - cùng Chi, Nguyễn Mỹ rì rầm bàn tán về các rẫy, các dấu thú... Nguyễn Mỹ ghé sát vào tai tôi, thì thào:

“Đêm nay sẽ ăn mang!” và liếc mắt đầy ý nghĩa, sau đó đưa ngón tay trỏ lên miệng “suỵt” một tiếng đầy vẻ quan Trọng. Nhà thơ với bài thơ tình nổi tiếng “Cuộc chia li mầy đỏ” này cũng có máu trinh thám ra phết.

Mưa nhỏ quá, chắc chỉ làm đủ ướt lá cây. Khoảng 8 giờ tối, nghe một loạt AK nổ ròn rã. Ai nấy nhao nhao: “Hương rồi! Chắc là nai!”. Chi nhấp nhổm. Mỹ phớt tỉnh. Rồi 2 anh sách súng, soi đèn đi. Song... màn đêm vẫn lặng lờ buông.
 
Sáng 25/4/1971

Sáng gặp Hương. Anh người thấp, nhỏ, đôi mắt trông hơi kèm nhèm. Vậy mà anh đã bắn được hàng chục nai, mang và hàng trăm chim, thú nhỏ khác. Nói tới chuyện săn thì anh say mê lắm. Anh tuyên bố: “Mê săn hơn mê gái”. Quả vậy, anh mê săn một cách kỳ lạ. Ít có đêm nào anh ngủ trọn giấc. Có thời kỳ chi bộ phải ra quyết nghị cấm anh đi săn đêm để bảo đảm sức khoẻ, rồi giữ súng, đèn của anh. Vậy mà anh lén đi mượn súng, đèn, bắn bằng được thú mới thôi.

Nguyễn Mỹ bắn cũng vào loại khá. Vào đây, anh đã hạ 2 nai, một số mang. Một hôm anh đi từ Ban xuống Nước Ta. Lẽ ra đi một ngày thôi, nhưng trời mưa to, nước lũ tràn về làm anh không qua suối được. Thế là phải ngồi co ro bên bờ suối. Đi dạo soi thú mà không có, đành quay lại tảng đá ngồi. Tấm đi mưa nhỏ không đủ che người và gùi nên ướt lướt thướt. Sáng sớm, đi ra rẫy và gặp một chú mang nhỏ đang ăn lá sắn. Mỹ nổ một phát, nó bật ngửa, ngáp ngáp. Anh bổ đi tìm con mẹ song không có nên mới vác xác con mang con đi. Đến bờ sông, không sao qua được. Nước chẩy ầm ầm, xô đá chạy lục cục. Mỹ ngồi bó gối trên một tảng đá, còn con mang thì đặt nằm dưới chân. Ngồi miết, không có cách nào qua. Con mang chướng hơi, phình căng bụng. Còn Mỹ thì ngồi gà gật, bụng thót lại vì đói và thèm thịt. Mãi sau, có anh em bên kia đi hái rau, thấy anh, mới quăng dây dù kéo Mỹ và con mang qua.

Lứa bắp đầu tiên đã thu về, trái không to lắm nhưng mỡ màng.
Trời vẫn nắng như đổ lửa. Chiều, tôi và Chi ra trạm Tuyển để đi theo đường dây huớng về Bình Định.

Mưa nhỏ vậy mà nước sông Tranh cũng đục ngầu. Lội không sâu lắm song không thấy đường, vấp vào đá mấy cái suýt ngã. Vào trạm khi còn sớm. Anh em trong trạm đi sản xuất gần hết, tối mịt mới về.

Ngày 26/4/1971

Ra CK5 để đi. Đơn vị này ở một nơi bằng bặn, khá sáng sủa, có những căn nhà lợp lá kè khá chững chạc.

Cứ ngược sông Tranh mà đi miết. Hai bên bờ sông, các đơn vị phát rẫy rất nhiều. Gặp chỗ trực mấy cô gái miền Bắc mới vào - người Vĩnh Phú.

Quả thật chỉ nghe giọng nói thôi đã thấy mến rồi. Giọng nói nhẹ nhàng, thanh thoát chỉ có con gái quê hương tôi mới có. Một cô gái hồn nhiên trò chuyện với chúng tôi. Cô không đẹp lắm nhưng khuôn mặt có những nét thanh tú, thông minh dễ mến. Cái áo màu mận chín hơi phai làm nổi bật nước da trắng của cô. Cô bảo rằng cô đi ở ngoài Bắc hồi tháng một, ăn tết bên Lào và qua khỏi đường 9 trước khi nơi này trở thành mặt trận lớn. Chúng tôi chê rằng các cô đi quá chậm. Các chiến sĩ đánh ở đường 9 Nam Lào đã vào lâu rồi, mặc dầu họ đi sau các cô. Cô cười: “Em bị sốt nên mới đi chậm.

Nhưng cách mạng miền Nam còn lâu dài, lo gì. Nhưng em cũng phải cố vào nhanh mà phát rẫy phát nương chứ”. “Đồng chí giác ngộ điều đó sớm là tốt. Nhưng tay đã có chai chưa? Cầm được rựa chưa?”. Cô cười. Lâu rồi mới được nghe cái giọng nói, điệu cười nhẹ nhàng đáng yêu của những cô gái miền Bắc, lòng thấy vui vui.

Trạm Thủy nằm liền bên đường, nhà cửa sạch sẽ, sáng sủa. Chỉ có 2 giao liên đi trực 2 cánh, còn thì đi sản xuất hết.
Chi xách cần câu ra sông câu cá. Tôi đi bẻ ít cành cây làm củi.
Giao liên nói: “Anh bẻ làm gì đấy? Đến đây thì chẳng phải củi đóm, nấu nướng gì đâu”.

Tôi đưa cho Mệnh - giao liên người Hà Tây - một tờ báo Quân đội và một tờ tranh. Cậu ta vồ lấy, vẻ mừng rỡ và đọc to lên, hết bài này sang bài khác.

Gặp một cán bộ ở Phú Yên ra Khu họp hội nghị nổi dậy. Anh đã khoảng ngoài 40 tuổi, nhưng chuyện trò rất sôi nổi. Anh được phân công ở lại miền Nam, không tập kết. Sau bị lộ, cuối năm 1964 mới gánh bông ra Bình Định giả dân buôn. Kẻ địch phát hiện, bắt giam anh 3 năm. Được thả, anh lại hoạt động và lại bị bắt, bị đầy ra Côn Đảo 3 năm. Khi thả anh, tên Chi trưởng cảnh sát nói: “Hiện nay chưa biết tư tưởng anh ra sao, nhưng chúng tôi cứ thả. Báo cho anh biết, thân nhân anh nhảy núi hết rồi, chỉ còn vợ anh ở nhà. Anh thực sự hối cải thì phải có hành động chứng minh cho tư tưởng của mình đã qui thuận Quốc gia, tức là phải bắt được Cộng sản nộp Quốc gia. Cái đó khó đấy. Chứ nếu cứ cầu an cũng không được đâu. Còn không, cứ lên núi mà hoạt động. Đừng ở lại phá bọn tôi, bọn tôi cực, mà anh sẽ bị giết - nếu bị bắt trở lại. Lên núi, mang mụ vợ theo. Mà không mang cũng được, đàn bà bọn tôi không khủng bố đâu”.

Anh tức cười quá mà vẫn hoạt động cách mạng. Con anh đi thoát ly cả, có đứa đi từ 15 tuổi. Hiện nay, một người làm quân y sĩ.
Anh nói, như vậy là cũng đáng mừng. Anh tính trong gia đình anh, tới nay đã có 22 người hy sinh.

Đêm, chuột phá như quỉ. Ba lô đã treo bằng một sợi dây mà chúng còn leo vào cắn bằng được.
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #48 vào lúc: 14 Tháng Mười Một, 2007, 08:31:07 pm »

Ngày 27/4/1971

Vì không muốn mất thời gian, chúng tôi đi vượt trạm đến thẳng trạm 8- trạm Rộng. Vẫn ngược sông Tranh. Đến bến, chúng tôi rẽ về phía tay trái. Dọc sông, người ta phát rẫy tràn lan, nạo trọc hàng dẫy đồi, mỗi rẫy phải trỉa được 10-12 ang giống. Có nnhững thửa ruộng nhỏ, bông lúa đã vào mẩy, cúi xuống.
Trời không nắng nhưng không gió, oi ong ong. Leo dốc mệt muốn đứt hơi.
Tới trạm thấy nhiều thay đổi. Nơi này, cách đây hơn một năm, tôi đã đi qua, không được tấp nập như thế này. Trạm đã được chuyển vào bãi khách gần suối lớn. 5 ngôi nhà xinh xắn được dựng dưới rừng già thoáng sáng, trên nền rộng rãi, sạch sẽ.

Người của trạm toàn miền Bắc, rất vồn vã với khách. Đây là trạm của nhiều mối đường: Bình Định, Công Tum, Quảng Nam, miền Bắc, nên đủ loaị khách. Khách nộp gạo, rau, trạm nấu giúp.
Đủ loại gạo: gạo trắng Xã hội chủ nghĩa, gạo trắng đồng bằng, gạo trắng rẫy, gạo đỏ rẫy.. đủ loại rau: lá lốt, lá chua, nấm.. tất cả nấu chung một nồi rồi chia ra theo đoàn. Canh chỉ nấu không, của ai nấy nêm mắm muối. Nồi cơm nấu ra có mấy mầu sắc, đẹp tựa một chậu hoa. Anh nuôi là một người rất vồn vã và tháo vát.
 
Ngày 28/4/1971

Đến trạm Nhạ. Đường có đoạn tôi đã đi qua hồi 1969, tháng 11.
Trạm ở một khu rừng mát mẻ. Nhiều lúc gió thốc về làm lá nứa cọ vào nhau kêu xào xào như mưa rào vậy.
Cuộc sống của anh em ở trạm thiếu thốn. Ăn toàn sắn với muối, mì chính. Trạm ít người mà công việc lại nhiều. Đất quá xấu. Được ít bắp, chồn lại ăn la liệt. Anh trạm trưởng nói rằng từ khi vào đây, chưa bao giờ anh được hưởng một mình một lon sữa cả. Giao liên trên căn cứ không phải chịu đựng ác liệt như ở đồng bằng, song cuộc sống lại kham khổ gấp nhiều lần.

Chuột đói phá phách một cách kinh khủng. Chúng chạy dọc, chạy ngang trên sàn nhà, dưới đất, cắn nhau chí choé, tranh nhau gặm nhấm ba lô, ruột nghé gạo. trình độ phá phách của chúng điêu luyện như xiếc. Ba lô, gạo, mặc dù đã được treo lên một sợi dây nhỏ, chúng vẫn tụt xuống được mà cắn. Chúng dạn đến nỗi có anh giơ tay túm đuôi, chúng mới chịu chạy.

Ngày 29/4/1971

Đường đi qua một vài rừng nứa rồi qua toàn những đồi lau, lách, tranh. Nóng đến lả người. Lá tranh úa vàng hoặc quăn tóp laị như vỏ đỗ khô.
Trạm Bửu nằm ở một khu rừng nứa dốc.
Anh Sơn mới ở miền Bắc vào nói rằng giờ đây có nhiều khái niệm đã thay đổi. Khái niệm “sướng” trở nên giản dị quá.

Đi một quãng đường bằng, mát là sướng rồi. Ăn một bữa cơm không ghế sắn cũng sướng. Có những việc tưởng chừng không làm nổi, vậy mà đã làm được. Hồi ở Bắc, cứ nghe đi bộ một ngày là phát ớn. Lúc mới đi, vận dụng đủ mọi biện pháp khoa học: xuống dốc đi nhanh, bằng đi vừa, lên dốc đi chậm, thở đúng nhịp, vậy mà vẫn mệt. Thế mà giờ đã quen cả, đi hàng bao nhiên ngày đường, mang nặng vẫn thấy như không.
Con heo nái của trạm quả là điển hình về sự hy sinh cho con cái của những bậc làm cha làm mẹ. Nó gầy nhom, xương sống và xương sườn gồ lên, đầu và đuôi đều nhọn hoắt, chỉ có hàng vú là căng sữa. 9 đứa con kêu nhặng xị, đuổi theo mẹ, hất mẹ ngã nhào xuống, thi nhau thục mõm vào bụng mà bú.
Cùng đi với chúng tôi có đoàn cán bộ của làng Sản (mật danh của ban Sản xuất khu), trong đó có mấy kỹ sư thủy lợi, trồng trọt.

Anh em lên tận Gia Lai xây dựng cơ sở mới cho trường Nông nghiệp, việc đầu tiên là phải sản xuất. Họ cõng theo cả gà trống, gà mái, gà mẹ, gà con. Tối, nghe họ bàn bạc:
- Đến, làm sao phải phát ngay được một rẫy, trỉa bắp mà ăn.
- Căng tăng ở tạm, đừng làm nhà vội.
- Cũng phải dựng cái nhà, lấy chỗ chui ra chui vào chứ.
- Đến, phải liên hệ chỗ ở, đổi gạo. Anh ở nhà kiếm cho một ít cán rựa để tra vào làm.
- Không hiểu còn gạo không. 300 kg mà chuyển thành bắp thì đuối.

Những người đầu tiên đặt nền móng cho cơ ngơi của cả tập thể bao giờ cũng vậy, có biết bao mối lo, bao nhiêu mớ bòng bong cùng phải gỡ một lúc.
Trạm này phát gạo.
 
Thứ sáu, 30/4/1971

Mở mắt đã leo lên một cái dốc thoai thoải dài hơn một giờ đồng hồ. Toàn qua rừng non, lau lách. Cứ khoảng một giờ lại có hàng ghế trạm làm cho khách nghỉ. Sáng, nóng và nắng. Tấm đi mưa cột ở thắt lưng bị nung mềm nhũn như bánh cuốn mới ra khuôn.
Từ trên nhìn xuống, sông Rin như một con trăn khổng lồ có những vẩy bạc sáng lấp lánh xen lẫn những vẩy xám đen quằn quại trườn xuống thung lũng.

Vùng tây Sơn Hà này có nhiều nơi làm ruộng. Có những thửa chỉ to bằng cái chiếu cá nhân. Có chỗ, cả thung lũng là một cánh đồng, không vuông vức như ở ngoài Bắc, mà vọ vẹo, bờ xanh um cỏ.
Có những đám đã thu hoạch xong, trơ lại những gốc rạ. Có đám bị hạn khô nẻ, lúa nghẹn lại loe hoe như mạ mới cấy vậy. Có những con mương nhỏ chỉ bằng những rãnh nước quanh nhà, len lỏi quanh những sườn núi. Qua sông Rin bằng cầu, phải vượt qua một bãi đá rộng. Từng tảng đá to như cái sân nối liền nhau, nóng hừng hực, phải chạy qua cho nhanh kẻo tầu rọ đến. Mới hôm qua, nó bắn ở đoạn trên. Cầu bắc bằng mấy thân cây cau qua 2 tảng đá lớn.

Qua khỏi sông rồi leo lên một cái dốc thoai thoải, nóng rực. Gặp một anh người Thượng. Anh mời bọn tôi uống nước. Chúng tôi chưa uống mà ngồi cho ráo mồ hôi. Một hồi sau, anh mời lại bọn tôi. Anh nói:
- Tôi sợ các anh nghi tôi như người Re dưới kia bỏ thuốc độc vô, không dám uống nên tôi không dám mời nữa.

Anh nói có cái máy lửa bị rơi mất nên phải cọ nứa vào nhau mà lấy lửa. Anh đưa bọn tôi xem cái máy lửa nguyên thủy ấy: nó chỉ là một thanh tre có xẻ một đường rãnh ở giữa. Dùng một thanh tre khác cọ ngang, ma sát sinh ra lửa. Tôi đưa cho anh chiếc máy lửa của tôi.
Chiều, trời hơi chuyển qua mầu xám đen. Gió mát thốc về từng hồi. Sau đó là mưa. Đến xế chiều thì mưa xối xả.
Trạm Điểm là một trạm nữ, nhà xộc xệch và ở xa nhau.
Hôm nay, kỷ niệm 3 năm ngày tôi rời miền Bắc.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Mười Một, 2007, 08:42:18 pm gửi bởi hoacuc » Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #49 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2007, 07:10:44 pm »

Ngày 1 /5/1971

Đến trạm Hương cũ, tức trạm 12. Trời mưa dầm dề, ào ạt như giữa tháng 10. Mặc dầu có áo mưa, người vẫn ướt sũng. Những con vắt ngày nắng ẩn dưới các lớp lá rừng, nay được dịp ngóc đầu dậy, bu vào cắn cẳng chân. Ăn cơm mà lạnh run. Chi cuốn thuốc lá, bật máy lửa hoài mà không cháy. Phải che vải mưa tùm hum lên mới bật nổi. Anh bập vội hơi thuốc, sợ điếu thuốc chưa kịp cháy đã tắt ngấm mất.
 
Ngày 2/5/1971

Mưa ào ào suốt đêm đến sáng. Trưa mới hửng lên một chút. Nghỉ lại trạm này. Chi xách cần đi câu, một lúc được 5 con cá. Mấy anh bên làng Sản thấy vậy bèn nhộn nhạo đi chặt cần, rủ nhau đi câu.
Bảo, đoàn làng Sản, bị sơn ăn sưng rộp cả người. Anh xoay đủ mọi cách chữa: xoa dầu, rửa xà phòng... kết quả chỉ làm da đỏ tấy và ngứa ran lên. Cánh tay trái anh sưng húp. Tôi bảo anh xông mắm cái. Thế là anh cậy cục xin được ít mắm cái, lột hết quần áo, chùm chăn đốt mắm cái xông. Anh nói hôi hám quá và mồ hôi vã ra như tắm. Có lẽ ai bầy cho anh cách gì bẩn thỉu nhất mà chữa khỏi thì anh cũng làm.

Gần tối, đoàn khách ở trong mới ra, vì phải qua đò. Họ vơ củi bắc bếp trong nhà mà nấu. Anh trạm trưởng nói: “Đề nghị các đồng chí dụi lửa. Có gì cần nấu thì mang xuống bếp” rồi tới vơ củi vứt ra ngoài. Tuy nhiên, anh vẫn để bếp lửa cháy. Mấy anh khách phân bua: “Vì bọn tôi đến muộn quá nên mới phải làm thế.” - Vâng, các anh đến muộn. Nhưng chúng tôi chỉ yêu cầu các anh đi đến nơi về đến chốn. Tới trạm, mời các anh cột võng nghỉ.

Chúng tôi xin phục vụ các anh đầy đủ.
Câu nói thật chí tình. Vậy mà có anh vẫn nói rất bửa:
- Thôi, anh về đi, đừng đứng canh nữa. Chín cơm là chúng tôi dụi lửa thôi. Không mổ gà đâu mà sợ khuya.
Anh trạm trưởng quá hiền, chẳng nói gì cả.

Tiếp tục đi. Buổi sáng, trời mưa một chút rồi tạnh. Giao liên biến mất khi chúng tôi mới kịp khoác ba lô lên vai. Vậy là phải mò đường mà đi. Ai cũng ca cẩm anh giao liên bị ma bắt.

Qua một cầu bắc trên một suối lớn. Thấy mảnh đạn xuyên vào thân cầu. Đi lên một bãi trống, thấy cây cối tơi tả, cháy xém. Cạnh đó là một cái mả lớn, có 3 ụ. Biết rằng cách đây ít bữa tàu rọ lên bắn ở đây, 3 người chết tại chỗ, 4 người bị thương.

Qua sông Sà Lò bằng thuyền. Dòng sông hẹp, sâu, dưới có một thác đá lớn. Nước đục lờ lờ.

Rồi leo lên một cái dốc cao vợi. Chỗ giao trực nằm trên một đỉnh núi. Người vào ngồi đó tới hàng chục, nói cười nhộn nhạo.
Không biết ở đây thuộc địa phận nào. Có anh bảo đây là đất Công Tum. Có anh cãi đây là huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

Cô giao liên đón chúng tôi tên là Việt, dong dỏng cao, không đẹp, song có nét hiền hậu, ưa nhìn. Cô người Quảng Ngãi, nói năng cũng nghe dễ thương. Anh em leo dốc mệt quá, la:
- Trạm mấy cô này ở ác dữ, bắt anh em leo hoài.
Cô phân bua:
- Chúng em cũng muốn trạm gần, đường bằng, nhưng đường đất nó như vậy, biết làm sao.

Lúc giao trực, có anh khách nói đùa:
- Nếu không bàn giao tôi cho trạm ngoài, tôi quay lại trạm cô đấy.
Mấy chàng thanh niên được dịp tếu:
- Chắc lại nhớ giao liên rồi!

Cô cười, mặt Ửng hồng, đôi mắt nhìn chậm chạp, dịu dàng.
Trạm 13 này cũng toàn nữ, do cô Xuân làm trạm trưởng. Đây là ngọn cờ đầu của ngành Giao liên Quân khu. Trạm ở tại khu rừng già thoáng, sáng, phía dưới có một dòng suối rộng, đẹp. Nhà của trạm lợp tranh, che bằng ván và có giường hẳn hoi. Còn nhà của khách thì hơi tối tăm lụp sụp.

Trạm có một việc đột xuất: một đồng chí khách bị sụn lưng, không đi được, hiện nằm cách trạm một tiếng đồng hồ. Giao liên đi mượn người khiêng, song không có người, vì ai cũng mệt bã, rã rời.

Cô Thuấn - y tá - vừa đi trực về, phải ra căng tăng, mắc võng cho bệnh nhân. Rồi cô lại về trạm bàn với chị em giải quyết ca bệnh đó:
ra rừng cùng ngủ, chăm sóc bệnh nhân. Thế là Thuấn và Vân vội vàng chuẩn bị đi. Thuấn nấu xi lanh, sắp xếp đồ đạc, tăng, võng, ăng gô, lương khô. Họ vừa tíu tít chuẩn bị, vừa dặn nhau:
- Mang lương khô cho ảnh ăn, kẻo tội.
- Mang nước nữa, chắc ảnh khát lắm.
- Mang chén cho ảnh ăn. Mà thôi, ăn bằng nắp ăng gô cũng được.
- Nhớ cất ruột nghé gạo cho ảnh, không chuột cắn nát mất.

Trời nhá nhem, tối rồi song không hề thấy họ lộ vẻ gì là ngại ngần cả, họ chỉ lo cho bệnh nhân.
Việt mới đi trực về cũng nhào vào bếp sửa soạn cơm, nước cho khách.
 
Ngày 4/5/1971

Nhà chỉ còn 2 giao liên, một người lại phải dẫn khách ra. Việt chờ Vân, Thuấn về mới đưa khách vào. Chúng tôi đi trước, gặp Thuấn cùng một đồng chí bộ đội khiêng bệnh nhân về, Vân cõng ba lô. Hai cô ríu rít:
- Sao các anh không nghỉ lại trạm chúng em một bữa?

Đường đi qua những khu rừng bằng. Tới trực, chúng tôi tạm biệt Việt. Cô nói ít nhưng hay nhìn -nhìn thẳng và chậm rãi.
Đi qua đường 5 - đoạn này thuộc đất Công Tum. Qua mấy vùng ruộng. Ở đây cũng lạ, lúa đủ lứa: lứa đã gặt, lứa vừa cấy, lứa đang là mạ và có những thửa ruộng đang được vỡ.

Trời đang tạnh ráo bỗng nhiên đổ mưa, như người gánh nước trượt ngã làm đổ ào nước xuống vậy. Rồi lại tạnh. Xong lại mưa. Y như người ta tưới rau, hết nước phải đi xách thùng khác tưới tiếp ấy.

Trạm 14 - tức trạm Hộ - làm nhà cửa khá xinh xắn. Nhưng heo lại quá gầy. Trái với trạm Điểm, heo thì béo mà nhà lại quá ọp ẹp.
Đúng là: “Đàn ông cửa nhà, đàn bà gà lợn”.
Đêm, lạnh ngắt.
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM