Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:00:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bê trọc  (Đọc 99775 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #30 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:11:10 pm »

Ngày 19/5/1970

Nhanh thật, đã sản xuất 3 tháng rồi. Ba tháng qua đi với những ngày lao động khẩn trương vô cùng. Cuộc sống hối hả xốc tới như con tàu đã mở hết ga. Hầu như ngày nào cũng vậy, chúng tôi làm việc ít nhất là 9 giờ đồng hồ, có khi tới 10, 11 giờ. Tối cũng ít nghỉ sớm -thường là 21 giờ vì còn học văn hoá, họp.

Những ngày dọn rẫy thật đáng nhớ. Phơi mình dưới cái nắng lửa suốt ngày, không một bóng cây nhỏ. Vác những cây gỗ cháy nham nhở vứt khỏi rẫy hoặc xếp gọn lại. Dùng rựa cào cây nhỏ, dây dợ cho sạch. Chao, lúc ấy tro bụi tung lên mù mịt, thộc vào mồm, mũi nồng nặc. Đến ngột lên vì tro, vì nắng, nóng. Rồi trỉa lúa, bắp.

Tất nhiên là với phương thức rất nguyên thủy: dùng gậy thọc lỗ rồi tra hạt, lấp đất. Kể cũng lạ thật, làm thế vậy mà lúa ngô vẫn vươn lên xanh tốt - đặc biệt là ngô.

Không bao lâu bắp đã được ăn. Trái bắp to, mẩy hạt, ngọt ngào.
Có những buổi đi coi rẫy, tôi bẻ những trái bắp non quăng vào đống lửa. Khi lớp vỏ ngoài cháy gần vào trong, là lúc bắp chín. Bắp dẻo, thơm, ngọt lừ, tôi chỉ ăn 3 - 4 trái là no căng, thay cho bữa cơm.
Thật là sung sướng khi được hưởng thành quả lao động do chính tay mình làm nên. Bắp được thu về, chật nhà cửa. Chúng tôi lột bao rồi chất lên dàn, tối đốt lửa sấy. Lẽ ra có thể phơi, song lũ máy bay lượn dữ quá, sợ chúng phát hiện ra.
 
Ngày 9/6/1970

Chúng tôi vừa thu hoạch bắp vừa làm cỏ lúa. Trời hay mưa chiều - cứ xế trưa là trời chuyển mình, mây dồn lại đen kịt và rắc mưa xuống. Có khi mưa suốt buổi, ủ ê, buồn tẻ.

Giữa những ngày mưa giông dữ dội này, tôi nnhận được một tin thật đau lòng: vừa qua, trong đợt chuyển gạo, cơ quan chúng tôi bị hy sinh 3 đồng chí: Đinh Thành Lê, Kiều Thị Nghị và Bình. Ngày 4/6, Lê, Bình, Nghị và Minh chuyển gạo từ sông Giang lên. Tới Trà Lãnh, Bình bị bọn địch từ máy bay trực thăng HU1A bắn chết bằng một quả rốc két.

Trong khi máy bay vẫn quần lượn và đổ quân, 3 người còn lại hỳ hục tìm cách chôn cất Bình. Xong, Lê và Nghị lại chỗ để bao gạo để sửa soạn, chuẩn bị đi. Minh còn nán lại sửa mộ cho Bình. Bất thần anh nghe 2 tràng đạn nổ liên hồi, đạn bay riu ríu qua đầu. Anh vội nhảy vào rừng, luồn xuống suối và chạy thoát với bộ quần áo lót trên người, cái ăng gô hỏng xách trong tay. Anh chạy như trong cơn mê sảng, tay luôn nắm chặt chiếc ăng gô hỏng.

Cứ chạy bừa trong rừng mà cũng về tới cơ quan, khi ấy râu anh bạc hết. Còn Lê và Nghị, hai người đồng chí thân yêu của chúng tôi, vĩnh viễn nằm lại đó, giữa đường xuyên núi lạnh lẽo. Thật đau lòng, khi mọi người đến chôn thì thi thể Lê và Nghị đã trương lên, không mang đi được. Đành phải tấp ni lông rồi lấp đất, giữ nguyên vị trí và tư thế của 2 người lúc tắt thở: Lê nằm nghiêng gần bụi lách bên vệ đường, Nghị nằm ngửa giữa đường.

Tôi nhớ Đinh Thành Lê, một con người rất hiền hậu và siêng năng. Anh hay tâm tình với tôi - từ chuyện gia đình, vợ con tới chuyện văn thơ, báo chí. Anh là người rất dễ xúc động. Dạo Hồng bị gió độc ngã ngất, anh đã oà khóc! Vợ anh ở miền Bắc, bị chết vì bệnh ung thư, anh khóc, khóc mãi và anh tâm sự rằng có lúc tưởng không sống nổi nữa, anh đã mang súng ngắn vào rừng định tự sát, song lại thôi. Cuộc sống chiến đấu đã vực anh dậy, anh bước qua đau khổ mà đi lên. Anh lao vào công tác với những bài báo, bài thơ đầy tình cảm, với những ngày sản xuất, gùi cõng vất vả. Tôi nhớ mãi những ngày cùng anh và anh Lý chuyển cơ quan. Hồi ấy, 3 anh em đi sau cùng. 3 người sống với nhau gắn bó như anh em mà tôi là em út. Lê thường cặm cụi đi mò ốc, câu cá, thường lúi húi thổi lửa nấu cơm. Đi đường tôi sốt, Lê và Lý làm hết thảy mọi việc: lo dựng lều, kiếm củi, rau, nấu ăn và dành cho tôi cả đường, sữa của mình.

Mới đây Lê có viết thư cho tôi và động viên tôi rất nhiều. Vừa qua, khi đi cõng gạo, gặp người về chỗ tôi, Lê gửi lời thăm và hẹn sẽ viết thư dài, kể nhiều chuyện vui cho tôi nghe. Thư chưa kịp viết kể chuyện vui thì Lê đã ra đi, để lại nỗi đau xót quằn quại trong trái tim tôi!

Tôi nhớ Kiều Thị Nghị, một thiếu nữ rất hồn nhiên, sôi nổi và đầy nghị lực. Tôi thường gọi Nghị bằng họ của em “Kiều” và coi Kiều như em tôi - Kiều bằng tuổi đứa em trai kề tôi. Lúc nào Kiều cũng hoạt bát, vui vẻ. Nụ cười rất tươi có điểm hai lúm đồng tiền nhỏ, luôn đem lại cho tôi niềm vui - ngay cả trong lúc khó khăn vất vả. Đôi mắt Kiều đẹp như mắt bồ câu và rất trong sáng. Cái nhìn lúc nào cũng như lấp lánh, lấp lánh những niềm vui làm xáo động lòng người. Tuy sống ở rừng núi bị sốt rét hủy hoại nhiều, Kiều vẫn có vẻ đẹp phảng phất của một phụ nữ châu Âu.

Tôi nhớ Kiều những lúc cùng phát rẫy, hai anh em thường đi chung một lối. Tối về sưởi chung một bếp lửa. Em thường đòi tôi dậy học và dậy hát. Nhớ những buổi trưa nằm võng nghe em đọc những truyện ngắn trong tập văn nghệ giải phóng. Đặc biệt, tôi rất nhớ những chuyến gùi cõng đầy vất vả cùng Kiều. Những lúc ấy Kiều luôn tỏ ra là người có nghị lực phấn đấu mạnh. Hồi cõng hàng ở nước Oa, Kiều rẽ vào kho cõng dầu, còn bọn tôi cõng bắp, hẹn gặp nhau ở sông Tranh. Tới sông, chúng tôi dăng tăng, ăn cơm và đợi mãi mà vẫn chưa thấy Kiều đến. Anh em đoán Kiều gặp khó khăn gì đó, chắc là ngủ lại kho. Nhưng tới khi trời nhòa tối và lất phất mưa thì mọi người ngạc nhiên thấy Kiều cắm cúi cõng thùng dầu đi tới. Đúng là Kiều gặp khó khăn: thùng bị chảy. Xoay sở mãi tới 4 giờ mới có thùng thay, song Kiều vẫn quyết tâm đi. Tôi ngồi nhìn Kiều ăn cơm - những hạt cơm lạnh ngắt - với chút xì dầu mặn chát, cười nói vui vẻ mà thấy lòng trìu mến lạ.
Kiều đi sản xuất trước tôi 2 tháng. Khi tôi vào, gặp Kiều và Nhơn trỉa bắp ở gần rẫy Nóc ông Chanh. 4 người giở bánh chưng ra ăn rồi cùng xén tỉa, dọn xong rẫy đó. Kiều ơi! Cái rẫy bắp em trỉa đó, giờ bắp đã chín rồi. Khi cõng bắp về, anh không khỏi ngậm ngùi nhớ tới em. Anh nhớ khi về cơ quan, em hẹn khi nào ăn bắp nhớ để phần em với. Anh mong có ngày em vô, bắp non đó em tha hồ nướng mà ăn. Giờ đây bắp trỉa đã ra trái vàng rồi, mà em không trở lại, mà em mãi mãi đi xa!...

Anh nhớ khi cùng Kiều đi cõng gạo Sơn Ba, em rất cố gắng bước kịp theo anh và Tạo. Đường bằng, em nói đi quá tức chân nên đi chậm. Những lúc ấy anh muốn chờ em, song đường dài quá, trời sắp tối, anh phải bước nhanh cho kịp để em lấy đó làm đích mà bước tới. Đi trước, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn bóng em lúi cúi bước theo phía xa, nhòa nhoà trong ráng chiều đen đỏ, ngập chìm trong cái vắng lạnh mênh mông, anh thấy thương em lắm. Anh về trước, còn em ở lại mang thêm chuyến gạo nữa. Sáng đó, nhìn về hướng em đi, thấy máy bay quần và bắn dữ, anh lo cho em. Một mình thân gái dặm trường. Một mình một cõng gạo, vượt sông, vượt con đường 5 trống trải và vắng vẻ, liệu có sao không em? Song, em đã vượt qua được tất cả. Anh vui mừng khi chuyển gạo chuyến sau, anh được cùng em đi. Hôm đó em có kinh, song em không hề phàn nàn gì và vẫn ráng mang gần 40 kg gạo theo kịp anh em. Đường qua nhiều sông, anh cố gắng tìm thuyền hoặc tìm chỗ cạn lội qua cho em khỏi ướt. Buổi trưa nắng, anh chú ý dừng lại những nơi có thể dừng để em giặt giũ quần áo. Anh cố gắng giúp em cho em đỡ vất vả, song làm sao bù đắp được những gian khổ mà em - cũng như các chị em khác ở miền Nam này - phải chịu đựng. Có lẽ em hiểu được điều đó nên em rất bình thản vượt qua mọi gian khổ. Nhiều lúc anh bật cười khi ngồi nghỉ chờ em, em cõng gạo đến, mồ hôi nhỏ giọt trên trán mà vẫn nói đùa: “Tưởng anh đi nữa không nghỉ. Anh cứ đi đi, em chẳng sợ đâu!”. Cũng có lúc em gắt gỏng đôi chút, song chỉ độc một câu: “Bực mình quá đi!”. Những lúc ấy anh thường trêu em:
“Tưởng bực người, chứ bực mình thì kêu lên làm gì cho khổ”. Và em lại cười. Em cũng hay trêu anh, đặc biệt là hay nhại tiếng miền Bắc của anh. Anh nói “sông Tranh”, “nhất trí” mà phát âm sai vần “Tr”, em liền hỏi lại: “sông Chanh hả anh? Nhất chí hả anh?” làm anh bật cười.

Hôm em trở về Ban, anh đi cõng gạo và cùng đi với em một buổi đường. Bữa cơm trưa hôm đó, anh em mình ăn ở đỉnh dốc trên nước Lon, giáp sông Tang. Thức ăn cũng chỉ là ít xì dầu trộn muối rang, củ nén. Giờ đây, mỗi khi ăn thứ lương khô đó, anh lại nhớ tới em nhiều. Ăn rồi chúng ta chia tay nhau. Anh bắt tay em và hẹn ngày gặp lại. Ngờ đâu em ơi, bữa cơm đó là bữa cơm tiễn biệt, cái bắt tay đó là cái bắt tay cuối cùng, tạm biệt mà thành vĩnh biệt. Em đi một mình về Trà Niêu và lo phải ngủ rừng một mình, sợ cọp. Cọp không có, không hại em, song giặc Mỹ giết mất em! Cái loài cọp dữ đó giết hại bao người đồng chí thân yêu của tôi rồi.

Nghị ơi, cái bình đông nhựa của em - cái bình đông từng đựng nước cho hai anh em mình uống chung - bọn biệt kích Mỹ cũng lấy lê đâm thủng rồi em ạ. Thật tan nát lòng anh!

Tấm đi mưa của em thủng mấy lỗ, anh dán giùm em, giờ đắp cho em đó. Em đã gặp lại gia đình chưa? Hình như không em nhỉ, vì gia đình em bị giặc lùa vào khu dồn rồi mà. Nằm dưới lớp đất mỏng, dưới trời mưa dữ dội này, có lạnh lắm không em? Giông tố cuồng loạn trong lòng anh!

Nghị ơi, anh mong rằng khi về ban, anh sẽ gặp lại em, sẽ lại chép cho em bài hát, sẽ cố dạy em học văn hóa để em lên được một lớp cùng với anh em khác, vậy mà em đã đi xa rồi, xa mãi. Bài hát em là hoa Pơ Lang anh chép cho, em đã thuộc chưa và có mang theo không? Tiếng nói của em vang mãi trong lòng anh!

Khi viết thư cho bạn, em viết: “Cố gắng xứng đáng với quê hương hơn nữa!..” Em ạ, em đã xứng đáng với quê hương rồi đó.

Anh nguyện sống sao cho xứng đáng với em, với sự hy sinh của em.
Khi em đi vào cõi vĩnh hằng, cũng là lúc em sống trong trái tim anh mãnh liệt nhất. Không ngày nào anh không suy tưởng đến em.

Không ngày nào anh không nhắc tên em! Em đã đi qua 21 mùa xuân của cuộc đời, và giờ đây, em sẽ đi vào mùa xuân bất tận của tâm hồn anh!
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #31 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:15:36 pm »

Ngày 12/6/1970

Cầm đến tấm tăng, anh lại nhớ đến em nhiều Nghị ạ. Tấm tăng của anh bị đứt đường chỉ nối giữa, em đã ngồi cắm cúi khâu lại đó. Nhìn những đường chỉ quấn quýt, anh lại nhớ tới đôi tay khéo léo của em. Nhớ hôm em đứng cắt, may quần áo ở chỗ sản xuất này.
Lúc em về Ban rồi, anh định gửi nhờ em may cho anh một cái áo, song em đi quá xa mất rồi.

Anh đi qua bãi dong riềng bữa hai anh em mình đào củ đó, thấy nghẹn ngào lắm Nghị ơi. Em có nhớ không, bữa đó rừng núi đã hết ánh mặt trời. Song cùng em đào dong, trước cái vui tươi hồn nhiên của em, anh vẫn thấy nó sáng láng vô cùng. Giờ đây bãi dong đó đã nứt mầm mới, lên rất xanh tốt. Còn em, sao em không trở lại?

Những hình ảnh của em cứ sống lại trong anh mãi. Đó, em đang ngồi chèo đò ở sông nước Mỹ đó. Hôm ấy cơ quan di chuyển, khi qua sông thiếu người chèo đò, em đã hăng hái ngồi đằng mũi chèo. Đôi tay em khoan thai đưa mái chèo đẩy chiếc thuyền lướt tới giữa dòng sông cuồn cuộn nước chảy, còn trên miệng thì điểm một nụ cười vừa bối rối vừa bẽn lẽn trước những câu nói đùa của anh em khác. Em đã từng tâm sự với anh, quê em ở miền biển thuộc huyện Sơn Tịnh, cha em làm nghề cá. Em bảo khi nào thống nhất anh về quê em chơi, em sẽ cho ăn cá biển thỏa thích. Vậy mà em ra đi đột ngột quá, đi không hẹn ngày về. Cha, mẹ em chắc đang trông tin đứa con gái độc nhất của mình. Nhớ ghé về thăm gia đình em nhé!

Nhớ Nghị, tôi nghiền ngẫm về những thực tế mà mình đã trải qua, trong đó có những kỷ niệm với Nghị, viết một truyện ngắn như sau:
 
Cõi mơ Hòa
Tới chiến trường vào cuối mùa khô năm 1968. Đã bắt đầu có những cơn mưa rào xối xả, nhưng không kéo dài. Khi Hòa cùng 5 anh em khác vượt khỏi cánh rừng loòng boong, xuống hết một con dốc ngắn thì thấy một con sông trong xanh, lấp loáng dưới ánh nắng xế gay gắt. Mọi người đều ồ lên sung sướng. Sau những ngày đi xuyên những cánh rừng bịt bùng, mắt bị bưng bít bởi màu xanh bạt ngàn của lá, của cây, nay đứng trước con sông rộng với bờ cát trắng lấp lánh và bầu trời trong xanh vời vợi, ai cũng thấy tâm hồn như được chắp cánh bay lên. Chỉ riêng Hòa vẫn lầm lì, cắm cúi bước. Mãi đến khi đôi chân anh chạm phải dòng nước mát lạnh, anh mới bừng tỉnh. Vết thương ở mu bàn chân nhói buốt. Cách đây hơn một tuần, khi luồn vào rừng kiếm nấm, anh chẳng may đá phải mũi chông ba lá của đồng bào Kadong. Thật tệ hại, chưa đến chiến trường, chưa tham gia chiến đấu mà đã bị thương!

Nhưng điều làm Hòa day dứt hơn là anh không được điều về đơn vị chiến đấu. Trạm đón tiếp Quân khu phát hiện anh là sinh viên trường Đại học Giao thông nên điều anh sang Trung đoàn 230 thuộc Cục Hậu cần, chuyên trách công tác giao thông...

- Chào hết mấy anh nghen!

Hoà giật mình ngước nhìn lên. hóa ra lội qua sông, bước lên bờ từ hồi nào rồi. Bây giờ, nghe tiếng chào lạ tai, Hòa mới để ý thấy một cô gái mặc áo đen đứng bên một gốc cây sấu to tướng đang chào hỏi. “Giọng nói gì nghe chát như ổi xanh vậy!” - Hòa thầm nghĩ, nhưng vẫn làu bàu đáp lại:

- Không dám, chào cô!

Khi mọi người đã quây quần bên gốc sấu, người giao liên nói với cô gái:

- Cô Nghị nè, tui giao cho cô đủ năm lính mới toanh đó nghe.

Giấy tờ đây. Nhận được chớ?

- Chớ sao! - Cô gái đáp gọn lỏn.

“Chà, sao mà ăn nói cộc cằn”, Hòa xét nét nhìn Nghị. Dọc đường hành quân, trong những đêm dừng chân ở bãi khách, Hòa hay la cà vào nhà khách của trạm giao liên thăm dò tình hình “vùng đất mới”. Trong những câu truyện vui bên bếp lửa rực hồng, Hòa thường được nghe mấy anh lính cũ đùa đùa thật thật.

- Cậu hỏi khu Năm à? Hay đấy. Nhưng phải cái giọng nói con gái khu Năm chát lắm. Mà mấy cô lại hay hút thuốc rê nữa. Chính vì vậy mới có câu: “Tiếng đồn con gái Quảng Đà, mất mùa thuốc lá chết ba ngàn người”.

Còn chính Hoà, mới tuần trước thôi, cũng đã gặp một cô hút thuốc như vậy. Hôm ấy, Hòa đang ngồi nghỉ thì một cô gái xăm xăm bước tới:
- Cho tui mượn con dao!

Hoà chưa hiểu cô cần dao làm gì, nhưng vẫn rút con dao găm buộc cạnh túi cóc ba lô cho cô gái mượn. Cầm con dao, cô gái lẳng lặng tới khúc cây đổ bên đường. Cô rút trong túi ra một xấp lá thuốc, xếp chồng lên nhau, cuộn chặt thành một thỏi to bằng cán dao. Xong, một chân đạp lên thân cây, một tay cầm thỏi thuốc tì lên thân cây, tay kia cầm dao, cô gái ra sức thái. Hồi lâu sau, thỏi thuốc đã biến thành những sợi thuốc quăn queo, đen sẫm. Cô đưa trả Hòa con dao, rồi lại xin một mảnh giấy, cuốn một điếu thuốc to bằng ngón tay cái, hút ngon lành.

Những câu chuyện và hình ảnh ấy đem lại cho Hòa ấn tượng không đẹp về con gái khu Năm. Lại thêm nỗi bực bội về chuyện công tác, Hòa thấy hết sức khó chịu với cô gái có cái tên Nghị - tên con trai này.

Cái chân đau đã làm khổ Hoà. Miệng vết thương đã kín lại, nhưng bên trong lại làm mủ, nhức nhối. Cả bàn chân trái tấy đỏ, nóng như gạch nung. Vào đến đơn vị, chỉ kịp chào hỏi mọi người một lượt, Hòa đã bị cơn sốt quật ngã. Anh mắc võng, phủ bọc, nằm li bì. Chiều hôm ấy, đang mê man trên võng, Hòa nghe tiếng gọi:

“Nè anh! Nè anh!” và thấy cái võng mình bị giật giật. Mở bọc võng, Hòa bắt gặp ngay khuôn mặt nghiêm nghị của cô gái dẫn đường hồi chiều hôm qua. Anh bực bội định phủ bọc võng lại, thì cô gái đã giữ lấy:

- Dậy anh, em coi vết đau chút.
Cô gái cầm hộp dụng cụ y tế. Thì ra cô là y tá.

Hòa ngồi dậy, đầu nặng như chì. Cô gái ngồi xổm dưới đất, lấy tay nắn nắn chỗ sưng ở bàn chân Hoà.
- Trời, làm gì mà mạnh tay vậy?
- Vậy mà mạnh à? Ngồi im em rửa nghe!

Nghị lấy panh cặp bông, nhúng nước nóng, chà đi chà lại trên miệng vết thương. Hòa sởn gai ốc. Nghị giữ chặt chân Hòa, dùng panh khơi miệng vết thương cho bật mủ ra. Hòa thấy buốt đến tủy sống, song cố cắn răng im lặng. Nhưng nào đã xong. Nghị lại lấy panh cặp bông, thọc vào miệng vết thương, thọc theo vết chông, như thông nòng súng. Hòa thấy như bị bào từng thớ thịt ra. Anh hất tung chân.

- Trời! - Hòa kêu lên, nhưng không phải vì đau, mà vì vừa làm một việc tai hại: cái hất chân của anh làm đổ cả hộp dụng cụ y tế, văng cả máu mủ vào người Nghị. Anh đợi một tiếng gắt. Nhưng không, cô gái chỉ khẽ lắc đầu, nhặt nhạnh những lọ thuốc nằm lăn lóc trên nền nhà rồi lại cắm cúi xức thuốc, băng cho Hoà.

Nằm kín trong tấm dù rồi, Hòa thầm nghĩ: “Nói năng khô khan, nhưng lại không bẳn gắt, cũng lạ”.

Mất gần một tuần, vết thương mới sạch mủ, Hòa chưa đi làm đường được. Anh được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Buổi sáng, Nghị đưa anh cái gùi đan bằng mây, bảo: “Anh đi kiếm môn thục nghe!” - hóa ra Nghị cũng là chị nuôi? - Hòa thầm hỏi rồi lẳng lặng xách giỏ đi. Công việc làm Hòa say mê. Những cây môn thục có cọng dài, lá to láng bóng mọc thành từng cụm rải rác khắp rừng.

Dọc đường hành quân, Hòa chưa ăn môn thục, nhưng đã nghe anh em kháo nhau: “Môn thục là vị thuốc bắc, bổ lắm!”. Hòa suy luận: “Là cây thuốc, chắc bổ ở củ. Vậy lấy củ thôi, chứ lấy lá làm gì cho nặng?”. Thế là Hòa vặt sạch cọng, lá, chỉ để củ lại. Anh mải mê lần theo các bụi môn thục, hì hục nhổ nhổ, vặt vặt. Mãi đến gần trưa anh mới hăm hở bước về, như vừa lập được chiến công. Đặt cái gùi xuống cái giàn cây ngoài sân, Hòa gọi:

- Cô Nghị ơi, lấy môn mà nấu này!
- Ủa, anh làm chi mà kỳ vậy? Môn thục chỉ ăn được cọng thôi, anh bỏ cọng ở đâu, để em đi lượm về.
- Trên kia kìa! - Hòa làu bàu trả lời và chỉ tay về phía cánh rừng non trên dốc.

Bước qua suối rồi, Nghị quay lại dặn:
- Em đang nấu mắm trên bếp. Anh coi nó sôi thì lấy dá hớt bọt nghe!
- Được rồi! - Hòa trả lời cụt lủn rồi vào bếp.

Nồi mắm kho bắt đầu sôi, đùn bọt lên. Hòa ngó quanh bếp: chẳng có cái rá nào hết. “Quái, tại sao lại lấy rá hớt? hay là cô ta bảo mình lọc mắm bằng rá?”. Bếp lửa cháy phừng phừng. Nồi mắm sôi bùng lên, ngầu bọt. Hòa chưa kịp nghĩ phải làm gì thì nó đã trào ra, dội xuống bếp xèo xèo. Tro bụi bốc mù lên. Hòa vội bắc nồi mắm xuống. Chợt nhớ có cậu Vinh bị sốt nằm trên nhà, Hòa chạy vội lên.

- Này, lấy rá hớt mắm là sao hả cậu? Cô Nghị bảo mình lấy rá hớt nồi mắm sôi, mà mình tìm mãi không có rá cậu ạ!

Chợt hiểu, đang sốt đùng đùng, Vinh cũng cười sặc sụa:
- Trời ơi, cô ấy bảo lấy cái vá, tức là cái muôi, để vớt bọt ấy mà. Tiếng trong này thường lẫn V với D, ông tướng ạ!

Chạy trở vào bếp, Hòa càu nhàu: “Thật ăn không nên đọi, nói không nên lời, rõ ngán!”.

Chẳng bao lâu, Hòa đã làm quen được với cuộc sống mới. Đơn vị của Hòa là trung đội Sơn Hải có nhiệm vụ làm và sửa đường, bắc cầu cho xe đạp thồ đi. Đơn vị đóng quân ở đoạn cuối của đường thồ.

Hướng Bắc, nó vươn mãi tới con đường ô tô đỏ lói chạy ngoằn ngoèo bên các sườn núi. Hướng Nam, nó bị dòng sông Thanh chặn đứng lại. Từ đây, người ta không dùng xe đạp thồ nữa, mà dùng thuyền vận chuyển hàng hoá, vũ khí cho các đơn vị chiến đấu. Hòa đã nhiều lần xem xét, nghĩ cách bắc cầu qua con sông này để nối đường thồ dài mãi ra, nhưng chưa được. Sông quá rộng, một bên là bãi cát, một bên là vách đá dựng đứng, không có thế để bắc cầu. Giữa những ngày ấy thì Hòa bị gục: cơn sốt rét đầu tiên đã tấn công anh.

Nghị đưa thuốc ký ninh cho Hòa uống. Mới chưa hết một liều, Hòa đã thấy tai bùng lên, bùng lên lục bục như nồi bắp hầm. Nhìn vào đâu, Hòa cũng thấy như bị chói nắng. Miệng đắng như ngậm mật gấu, Hòa không ăn uống gì cả. Nghị ép Hòa ăn cháo, nhưng Hòa nuốt không nổi. Cổ họng luôn luôn ghê lợm, bắt Hòa nôn mửa suốt.

Đêm, mắt chong chong, không ngủ được, đầu buốt thon thót. Mãi, cơn sốt không lui. “Chết chăng?” - Hòa lẩm nhẩm. Nhớ tới chục ống ký ninh mà mẹ đã cẩn thận đựng trong một ống tre nhỏ dắt vào thành ba lô lúc Hòa ra đi, Hòa bảo Nghị:

- Tôi có thuốc, cô tiêm hộ nhé!
Nghị nói:
- Không được đâu, mới sốt phải ráng uống thuốc, chớ có tiêm.
Hoà rên rỉ:
- Trời ơi, ác độc vậy, không tiêm giúp, để tôi chết à?

Nghị cười ngặt nghẽo:
- Chết dễ vậy sao anh ơi! Thôi đưa thuốc, em cất dùm, khi nào sốt ác tính hãy tiêm!

Quả thật, cơn sốt phải lui. Nhưng người Hòa mềm oặt. Hòa nằm bẹp trên võng, tưởng không thể cất nổi cái đầu nặng trịch lên.
Nghị luôn luôn đến giật võng Hoà:
- Đừng nằm nhiều, bết người đi. Dậy cho thanh thản chút coi!

Hoà lại phải ngồi lên. Đầu váng. Mắt hoa. Hòa cau có nhìn Nghị, nghĩ thầm: “Làm gì mà ám dữ vậy?”. Không để ý đến thái độ khó chịu của Hoà, Nghị lại giục:
- Anh xuống võng, đi lại cho nó quen chút nào!

Cứ thế, dường như ngày nào Hòa cũng không được nằm yên vì Nghị “ám”. Nhưng cũng lạ, anh thấy sức khỏe hồi phục khá nhanh...

Một hôm, Hòa được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Nghị rủ:
“Sáng nay, anh và em đi cải thiện cho anh em nghen!”. Hòa tán thành, nhưng chưa biết “cải thiện” bằng cách nào! Sau khi dọn dẹp bếp núc, Nghị bảo Hòa cầm rựa, mang gùi cùng mình ra khu rừng đót. Rừng khu Năm có những cây đót thật kỳ diệu. Thân, lá trông giống hệt cây dừa, nhưng lại không có quả như dừa. Quả của nó mọc thành buồng, giống như buồng cau, mỗi quả chỉ bé bằng đốt ngón tay. Thử ăn vào quả đót mà xem - ngứa móc họng ra. Vậy mà đồng bào dân tộc lại biết cách trích cuống buồng để lấy ra thứ nước tự lên men, biến thành rượu ngon tuyệt: thơm, ngọt, nồng nàn vị rượu nếp. Nghị nói rằng ở giữa ngọn nó có một cái lõi mềm, ăn ngon như củ sắn (tức củ đậu ở ngoài Bắc), gọi là hũ đót. Để lấy được hũ đót, phải vạc vỏ dần dần từ ngoài vào.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #32 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:19:24 pm »

Hai anh em lên tới rừng đót lúc mặt trời đã vượt khỏi ngọn cây cao nhất rừng. ánh nắng cố len lỏi qua những tán lá dày của rừng, tỏa hơi ấm xuống, nhưng vẫn không xua nổi cái ẩm lạnh muôn thủa của rừng già. Những cây đót mọc rải rác đó đây, chịu lép dưới những bóng cây cổ thụ ngút ngàn. Nghị bảo Hòa chọn một cây mọc nghiêng bên sườn núi, dễ chặt, còn mình chọn một cây nằm lưng chừng dốc. Hòa hăm hở chặt. Rựa thật sắc, nhưng gặp thứ gỗ dai, xốp, nên không ăn ngọt xớt được. Hơn nữa, cái mũi khoằm của rựa luôn luôn làm vướng víu, nhiều khi khiến con rựa bật ngược trở lại.

Thỉnh thoảng dừng tay, Hòa vẫn nghe tiếng rựa của Nghị phồm phộp bập vào thân đót, nghe không dồn dập, nhưng cần mẫn, đều đặn. Hòa càng chặt mạnh hơn. Mồ hôi túa ra ướt sũng lưng áo. Hòa quyết lấy được hũ đót trước Nghị. Chẳng bao lâu, Hòa đã chặt đứt phăng ngọn đót, làm nó rơi đánh rầm xuống, lăn hai ba vòng rồi mắc kẹt ở gốc một cây trường. Hòa reo to:

- Xong một cây rồi, cô Nghị ơi! - rồi hăm hở chạy đến chỗ ngọn đót.
Nhưng Nghị lại cau mày:
- Trời ơi, ai lại chặt lìa nó ra, làm sao vạc được vỏ?

Hoà bối rối:
- Vậy phải bỏ à?

Nghị bảo:
- Thôi, ráng vạc dần vỏ mà lấy hũ, đừng bỏ phí mà phải tội với rừng.

Hai người hì hục lôi khúc ngọn cây đót lên chỗ bằng. Nghị lấy rựa róc lớp vỏ ngoài - tay này róc, tay kia kéo. Những lớp xơ lằng nhằng níu kéo lớp vỏ như muốn đánh vật với con người. Nhưng dần dần, hết lớp này đến lớp khác bị lột, để hiện ra cãi lõi trắng phau.

Nghị khéo léo vạc nốt những đoạn xơ ở đầu, lấy được một hũ đót to bằng cái bi đông. Cô lấy rựa, xắt một miếng nhỏ, đưa cho Hoà: “Anh ăn thử coi!”. Hòa bỏ ngay miếng đót vào miệng, nhai rau ráu: ngọt và mát lịm.
Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, nhưng không đủ sức xuyên thủng lớp mây mù dày đặc của bầu trời tháng mười. Rừng đã thoáng đãng ra, nhưng vẫn ẩm ướt, bốc lên mùi lá cây mục ngầy ngậy, nồng nồng. Không khí lành lạnh. Nhưng Nghị và Hòa vẫn thấy nóng ran.

Họ vừa hạ xong cây đót thứ tám. Những hũ đót nằm lăn lóc trong gùi; những chỗ bị bầm vập đã ngả màu cánh gián. Nghị bảo: “Ta nghỉ trưa, rồi xuống suối bắt ốc, về nấu cơm chiều là vừa”. Cô xăng xái đeo gùi, rảo bước theo triền dốc về phía suối. Hòa ngoan ngoãn bước theo. Bây giờ anh mới để ý thấy Nghị có dáng người săn chắc, với những bước đi thoăn thoát mà vững vàng. Cô rảo bước trên con đường trơn nhẫy mà không hề trượt ngã. Đến bờ suối, Nghị đặt gùi lên một tảng đá. Dòng suối, mặc dù phải luồn lỏi giữa khu rừng, vẫn đón được những tia nắng hiếm hoi của bầu trời đầu mùa mưa, hắt sáng lên gương mặt Nghị, làm ngời lên đôi mắt to, lấp lánh của cô. Nghị bảo Hòa lượm củi, nấu cơm, còn mình thì lội xuống suối kiếm ốc, cá. Hòa lại ngoan ngoãn làm theo. Tìm kiếm mãi, Hòa mới lượm được một nhúm củi khô. Nhưng không sao. Chỉ cần chừng ấy làm mồi là đủ. Hòa đã học được ở Nghị cách đun bằng củi trường tươi. Cây trường có vỏ đỏ, bị chặt thì ứa ra thứ nhựa đỏ như máu.

Gỗ của nó thẳng thớ, dễ chẻ, có thể tước mỏng như đóm tre. Thứ đóm ấy mau khô, chỉ cần dựng cạnh bếp lửa một lúc là đốt đã cháy đùng đùng. Bây giờ, bên bếp củi, Hòa đã có một lô đóm củi trường.

Đốt xen lẫn với những cành tre khô, củi trường nổ tí tách, bắn ra những hoa lửa trông đến là vui mắt. Vừa nấu cơm, Hòa vừa chăm chú nhìn Nghị đang lom khom dưới suối. Đã nhiều lần Hòa tự hỏi:
vì sao Nghị có thể sống một cách vô tư như thế giữa một cuộc sống gian nan là vậy? Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình Nghị, Hòa giải đáp được một phần.

Nghị sinh ra trong một gia đình ngư dân ở vùng biển Sơn Tịnh, sâu trong vùng kiểm soát của ngụy quyền Sài Gòn. Những năm tuổi thơ của Nghị gắn liền với những nỗi nhọc nhằn khi biển động, lúc trời nắng lửa, với những trận gió cát mịt mù. Nhưng cái dữ dằn của thiên nhiên lại không dày vò Nghị bằng cái dữ dằn của con người. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nghị phải đi ở cho một người bà con xa. Tiếng là người nhà, nhưng bị bóc lột chẳng kém người dưng nước lã. Mới hơn chục tuổi đầu, Nghị phải làm đủ việc, từ vá lưới, làm mắm, phơi cá tới nấu cơm. Một tiếng nói yêu thương, Nghị không hề được nghe. Suốt ngày chỉ cắm cúi làm lụng, để rồi thỉnh thoảng giật thót mình khi nghe tiếng quát của bà thím và lâu lâu lăn lộn một lần trong trận đòn oan của ông dượng. Rồi quê Nghị được giải phóng. Một không khí khác lạ đã tràn đến vùng biển này.

Cũng là cuộc sống lao động, nhưng Nghị thấy mọi người cư xử với nhau thân ái hơn, hay quan tâm đến nhau hơn. Nghị được sinh hoạt thiếu nhi, được học hát, thật vui. Khi quân Giải phóng rút về căn cứ, Nghị trốn gia đình theo một đơn vị hậu cần. Từ đấy, Nghị phải nếm trải những gian lao mới, nhưng cũng được biết thế nào là bình đẳng và thương yêu. Dạo ấy, cuộc sống ở vùng căn cứ thiếu thốn lắm. Đơn vị hầu hết là những người lính trẻ quê ở miền Bắc, làm nhiệm vụ vận chuyển hàng từ miền Bắc vào.

Cõng trên lưng súng đạn, lương thực, thực phẩm, quân nhu để tiếp tế cho các đơn vị chiến đấu phía trước, nhưng họ chỉ sống bằng những thứ tự túc được. Bữa ăn chủ yếu là sắn, rau rừng với mắm cái và thường thì không đủ no. Nghị thường được các anh dành riêng cho xuất cơm không độn sắn, với vài con cá nhỏ xíu bắt được ở suối, “để có sức mà lớn” - như các anh thường nói. Anh trung đội trưởng còn cho Nghị cả cái võng dù, ấm mà nhẹ, anh được cấp khi rời hậu phương, thay cho tấm võng nilông mỏng, lạnh lẽo. Tối tối, các anh lại mở đài cho Nghị nghe - các anh bảo rằng đó là tiếng nói thân thương được truyền đi từ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Rồi các anh dạy Nghị học.

Khi thì học vào lớp buổi tối, bên ngọn đèn dầu leo lét. Lúc lại học truyền miệng ngay trên rẫy, khi đang làm cỏ cho ngô. Sống giữa núi rừng thâm u nhưng trong tình thương yêu của đồng đội, Nghị vẫn lớn lên, khỏe mạnh cả về thân thể và tinh thần. Bởi thế, nhiều khi Nghị nói rất chân thành: “Đi làm cách mạng sướng hơn ở nhà nhiều”. Cũng bởi thế, cô vượt qua sự vất vả, đói cơm, lạt muối mới nhẹ nhàng làm sao. Đồng thời, cuộc sống khắc nghiệt đã luyện cho Nghị thói quen sống nghiêm khắc - nghiêm khắc với chính bản thân mình.

Mải suy nghĩ, Hòa không biết Nghị đã đến bên bếp từ lúc nào.
Cô bày lên tấm lá chuối bốn con cá nhỏ đã làm sạch, một nắp cặp lồng ốc đã chặt trôn và một cái bắp chuối. Cô hồ hởi:

- Em chiêu đãi anh Hòa một bữa cơm Xã hội chủ nghĩa nghen!

Hoà giật mình bứt khỏi dòng suy nghĩ:
- Chà, Nghị giỏi quá, làm sao lại bắt được cả cá thế này.
- Giỏi chi đâu anh, liệng đá rầm rầm xuống suối, cá sợ rúc vô hang, lùa tay bắt đại được mấy con cá mù thôi mà.

Hai anh em vừa ăn cơm bên con suối róc rách tiếng nước chảy vừa thủ thỉ tâm sự. Đến bây giờ Hòa mới thấy rằng Nghị thật giàu tình cảm. Hình như hằng ngày, do công việc dồn dập, do những căng thẳng của cuộc sống mà tình cảm ấy không có dịp được bộc lộ ra. Còn bây giờ, trong cái tịch mịch của rừng già, bên tiếng suối róc rách, hình như dòng tình cảm vốn tràn đầy của cô gái mới lớn ấy mới có dịp được khơi nguồn, tuôn chảy dào dạt. Nghị kể về cuộc sống cơ cực của mình ở quê, những trận sốt rét kinh khủng khi mới lên chiến khu, bước đường trưởng thành khi được sống giữa một đơn vị quân đội. Tại đó, cô đã được anh em dạy cho từ mù chữ lên lớp bốn, rồi lại được đi học lớp y tá ngắn ngày. Tại đó, cô bắt đầu làm quen với những cuốn sách văn học có giá trị như Ruồi trâu, Thép đã tôi thế đấy, Những người khốn khổ, Đội cận vệ thanh niên... Cô ngừng kể và hỏi:

- Ngoài đó, Xã hội chủ nghĩa sướng lắm hả anh?

Hoà chưa kịp nói gì thì Nghị đã tự trả lời:
- Sướng thiệt đó chớ. Nội chuyện được đi học, được hiểu biết, đã sướng hết chỗ nói rồi. Mà nghe nói anh học cao lắm hả?
- Cũng đang dở dang đại học, cao gì đâu.
- Em thì mới đang bì bạch lớp tư. Em chỉ mong ngày mai thắng lợi rồi, sẽ được học lên đại học thôi...

Cứ thế, Nghị vừa hỏi lại vừa tự trả lời và say sưa nói tới “ngày mai chiến thắng”. Cái ngày mai ấy như một con chim dẫn đường luôn luôn bay ở phía trước, cất tiếng hót lảnh lót chào đón Nghị.

Cơm nước xong, hai anh em cùng đi bắt ốc. Vào những ngày này, rừng đã bắt đầu bị những cơn mưa xối xả đầu mùa tấn công.
Những dòng suối đang trong vắt bỗng đục ngầu, nước dâng cao, trôi ào ạt. Nước chảy băng băng, cuốn theo đủ thứ nằm trong lòng nó: từ rác rưởi đến sỏi cát và cả những con cá, con ốc nhó bé. Để khỏi bị nước cuốn đập vào đá vỡ tan tành, bầy ốc khôn ngoan men vào bờ, chui tụt vào trong các hốc đá. Khi nước rút, chúng vẫn cố thủ ở đó để đề phòng những trận mưa khác. Bây giờ, hai anh em chỉ cần đi dọc mé nước, luồn tay vào các hốc đá là có thể vốc ra từng vốc ốc.

Thứ ốc đá này chỉ to bằng đầu ngón tay cái, nhưng nấu canh ngọt phải biết. Mà cách ăn mới lạ chứ: chặt trôn, bỏ vào nồi nấu lẫn với rau, khi ăn thì bốc từng con mà hút lấy thịt từ trong vỏ ra.

Mùa mưa đã thực sự đến rồi. Bầu trời xám ngắt, lúc nào cũng mọng nước. Mưa tầm tã, cơn này chưa kịp dứt, cơn khác đã sầm sập đuổi tới. Con suối nhỏ hiền lành phía dưới nhà bếp bỗng rộng ra dữ tợn. Đêm, nằm nghe tiếng mưa xối trên lá cây mà buồn nẫu cả ruột.

Xen vào tiếng rì rầm của mưa là tiếng nước suối cuốn ào ào, sùng sục, lại có cả tiếng những hòn đá ông sư lăn theo nước cùng cục, cùng cục nữa.

Mùa mưa kéo theo bao nhiêu khó khăn cho cuộc sống ở chiến khu: giao thông tắc nghẽn, lương thực thiếu hụt, bệnh tật bùng ra.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #33 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:22:10 pm »

Đơn vị đã cạn gạo rồi. Những bao sắn khô được chuyển từ nơi sản xuất về cũng nhanh chóng rỗng đi. Đường xuống đồng bằng bị kẹt do nước sông Thanh dữ quá. Phải đi ngược ra phía Bắc, lĩnh gạo ở trạm “Xã hội chủ nghĩa”. Khu Năm có hai loại trạm giao liên:trạm “Giải phóng”, bắt đầu từ đoạn đường cắt ngang Khâm Đức trở vào, do lực lượng của Mặt trận Dân tộc giải phóng phụ trách. Còn từ đó trở ra do đoàn 559 Quân đội nhân dân Việt Nam phụ trách, mà không biết ai đã đặt cho cái tên thật đáng yêu: Trạm “Xã hội chủ nghĩa”.

Nghe nói sắp được ra trạm “Xã hội chủ nghĩa” nhận gạo, Nghị nằng nặc đòi đi. Nhưng Nghị đang sốt. Nghị nài nỉ trung đội trưởng: “Anh Tuyên, em sốt nghĩa vụ đó mà, bớt liền thôi. Cho em đi với. Em đi ra cho biết trạm “Xã hội chủ nghĩa” là thế nào”. Với Nghị, những chữ “Xã hội chủ nghĩa” sao hấp dẫn và thiêng liêng nhường vậy. Chưa một ngày ở miền Bắc, Nghị chưa hiểu Xã hội chủ nghĩa cụ thể ra sao. Nhưng cứ thấy miền Bắc cử con em mình - những chàng trai mạnh khoẻ, thông minh, có học thức - vào cùng đồng bào quê hương chiến đấu, cứ thấy miền Bắc luôn luôn chi viện cho chiến trường từ vũ khí đến lương thực, thực phẩm, Nghị cũng mường tượng được ở đó con người sống tốt đẹp thế nào. Đó là ngọn lửa trong đêm, là tiếng hú gọi của đồng đội giữa rừng hướng Nghị đi tới. Đó là niềm tin, là hy vọng, tạo thành sức mạnh giúp Nghị vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống chiến khu.

Nhưng, đúng ngày lên đường cõng gạo thì Nghị bị quỵ hẳn.
Lần này, cơn sốt đến dữ dội quá, khiến Nghị không gượng dậy được.
Trước lúc lên đường, nắm bàn tay giá lạnh của Nghị, Hòa động viên: “Cố uống thuốc cho khoẻ, về anh sẽ có quà Xã hội chủ nghĩa cho em!”.
Đến ngày thứ chín, Hòa và anh em mới cõng gạo về. Cách nhà nửa ngày đường, gặp cậu Vinh đi lên Tiểu đoàn bộ, Hòa hỏi thăm mới biết rằng Nghị đang sốt bê bết, có chiều nguy kịch, đã uống thuốc liều cao lắm rồi mà không bớt. Giàu nghị lực như Nghị mà bây giờ cũng phải nằm bết trên võng. Không thể đưa Nghị đến bệnh xá Trung đoàn được, vì phải băng qua sông Nước Mỹ, nước lớn quá.

Mà thuốc tiêm thì cả đơn vị không còn một ống nào... Nghe nói đến đó, Hòa giật tay Vinh:

- Sao, cậu bảo phải có thuốc tiêm à? Trời ơi, chính Nghị giữ hơn chục ống thuốc của mình chứ đâu. Sao không lấy mà tiêm cho Nghị?
- Có ai biết là Nghị giữ thuốc tiêm trong mình đâu...

Hoà xốc gùi gạo, bươn bả đi. Những ý nghĩ u ám cứ bao phủ đầu óc anh. Có kịp không hả em? Anh về lấy thuốc tiêm cho em có kịp không đây. Trời ơi, nếu em có làm sao thì anh ân hận biết chừng nào! Anh có quà Xã hội chủ nghĩa cho em đây - một đôi dép nhựa Hải Phòng có quai hậu, hai chiếc cặp ba lá. Đứa bạn đồng hương của anh tặng anh để anh tặng em đây... Nghị ơi, cố chờ anh nhé!

Tới nhà, quăng vội gùi gạo lên giàn, Hòa chạy xồng xộc lên lưng dốc, nơi Nghị ở. Cái giá lạnh của rừng mưa tràn ngập căn nhà. Một chiếc võng treo ở góc nhà, phủ bọc kín mít. Im lặng và lạnh lẽo đến rợn mình. Chỉ có tiếng mưa rả rích một điệp khúc buồn tẻ. Không kịp lau khô tay, Hòa đến bên võng, mở tung bọc ra. Hòa muốn trào nước mắt: Nghị nằm co quắp trong tấm dù hoa, trán lạnh ngắt. Hòa lay lay:

- Nghị! Nghị! Tỉnh lại em! Anh về đây!

Nghị từ từ mở mắt - đôi mắt to, đen, vốn luôn luôn sáng lấp láy, nay dại hẳn đi. Nghị chỉ mấp máy môi: “Anh Hòa!”, rồi lại thiếp đi. Hòa cuống quýt lay Nghị:

- Nghị, Nghị! Thuốc đâu, sao không tiêm?
Nghị lại hé mắt, nói đứt quãng:

- Trong ống tre... ba lô, dành cho anh...
- Trời ơi! - Hòa kêu lên mà nghe tim mình nhói buốt. Thương quá! Sao lại nghiêm khắc tới cứng nhắc như vậy hả em?

Phủ bọc võng lại cho Nghị, Hòa lại góc nhà tìm hộp kim tiêm đem luộc và chuẩn bị thuốc. Chuyến đi vừa qua, anh được anh bạn đồng hương tặng cho một hộp thuốc B12. Nhờ chịu khó học tập khi tập trung huấn luyện để đi B, Hòa tiêm khá thành thạo.

Thuốc tiêm đã làm lui cơn sốt, nhưng Nghị vẫn đuối sức lắm.
Mưa thì tầm tã không dứt. Làm sao đưa Nghị đi bệnh xá được. Có lẽ hồng cầu của Nghị chỉ còn vài triệu. Hòa nhìn Nghị nằm mê man mà tâm trí rối bời, ruột gan quặn thắt. Rồi anh quyết định: phải băng qua sông Nước Mỹ, mời bác sĩ về.

Trong chiến trường, có những việc được giải quyết ngoài sức tưởng tượng của con người. Trường hợp Nghị là một. Cả một tốp bác sĩ, xét nghiệm viên đã cùng Hòa vượt qua được sông Nước Mỹ hung dữ chỉ bằng sợi dây mây căng ngang sông. Anh em đã xét nghiệm và lấy máu của ba người, trong đó có Hoà, truyền cho Nghị. Thế mà Nghị dậy được. Chẳng bao lâu sau, Nghị lại khỏe mạnh, lại xốc vác mọi công việc của đơn vị. Nghị thường đùa: “Em được tiếp máu Xã hội chủ nghĩa nên mạnh hơn trước nhiều!”.

Hôm ấy, vào buổi chiều tà, Nghị đi lấy măng về. Chưa kịp ăn cơm, cô đã chạy đi tìm Hòa, hồ hởi khoe:

- Anh Hoà, em tìm ra chỗ bắc cầu rồi!
- Sao, chỗ bắc cầu nào?
- Bắc cầu qua sông Thanh ấy. Mải đi kiếm măng, em đã vượt qua khu rừng nứa, sang tuốt ngọn núi bên kia. Ai dè, ở đó hai bờ sông gần nhau quá, lại có những tảng đá chạy ngang sông.

Nơi Nghị tìm ra quả là tuyệt vời: hai bờ sông có độ cao tương ứng, giữa sông lại có những tảng đá lớn nối đuôi nhau, làm trụ cầu thật phù hợp. Qua bên kia sông, vượt khỏi mỏm dốc là đến con đường 14, xưa kia địch làm, nay vẫn bỏ không.

Phương án làm cầu của Hòa được đơn vị thực hiện thật chóng vánh. Anh em hạ những cây gỗ lớn hai bên bờ bắc lên những tảng đá, rồi ghép gỗ nhỏ và phên nứa thành chiếc cầu khá vững chãi.

Con đường thồ được nối dài, vượt sông Thanh, vươn sang tận đường 14, kéo xuống tận Tý, Xé. Chiếc cầu ấy mặc nhiên được anh em gọi là cầu Cô Nghị. Cũng từ đó, đơn vị kiếm thêm được một khoảnh đất mầu mỡ bên kia sông làm nơi trồng rau, khoai. Thỉnh thoảng Nghị ra đó kiếm rau tươi về cho đơn vị.

Dạo này, chuẩn bị sang giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, bị tấn công liên tục ở đồng bằng, bọn địch điên cuồng đánh phá lên căn cứ của ta. Lũ máy bay B57 bay lẻ, thỉnh thoảng quăng xuống núi rừng những trái bom nổ chát chúa. Đã có những trận B52 rải thảm đó đây. Tuy không chà đi xát lại tạo thành thảm bom dày như trước, nhưng mỗi loạt bom thả từ ba chiếc bay song song cũng đủ tạo ra một thảm chết dài cả cây số. Dọc đường thồ, đã có vài đoạn bị tấm thảm đó phủ lên: cây cối đổ nhào, đất đá bị cày xới đỏ quạch, tạo thành những hố sâu hoắm. Đơn vị của Hòa bận túi bụi với việc sửa đường, bắc cầu. Nghị quay tròn với công việc phục vụ: chăm sóc người ốm, kiếm thức ăn và nấu cơm. Đôi ba ngày, Nghị lại đi qua bãi rau bên kia cầu Cô Nghị một lần để lấy rau lang về.

Thường thì phải sau bữa cơm chiều, khi chim rừng đã xào xạc về tổ, Nghị mới cõng gùi rau nặng trịch về nhà. Những hôm như thế, Hòa ra tận gốc sấu bên bờ sông Thanh đón Nghị. Gốc sấu già sần sùi đã trở thành nơi in dấu những kỷ niệm dịu êm của hai người. ”Chừng nào em mới được ra miền Bắc, anh Hoà?” Nghị đã hỏi Hòa câu hỏi ấy không biết bao nhiêu lần. “Chừng nào, chừng nào”... Hòa day dứt, khổ sở. Bởi anh không sao trả lời được câu hỏi ấy.

Hôm nay, Nghị lại ra bãi sông hái rau lang. Chim muông xao xác về tổ. ánh nắng quái chiều đang dần dần nhạt đi. Chỉ bãi sông và chiếc cầu là còn nhận được những tia nắng cuối ngày, nổi bật lên giữa mầu xám của núi rừng. Nhìn chiếc cầu mang tên mình, Nghị lại thấy lòng tràn ngập một tình cảm đằm thắm. Các anh trong trung đội đã bỏ bao công sức làm nên chiếc cầu, Nghị làm được gì mà được gắn tên mình cho chiếc cầu?

Thật là những gì tốt đẹp nhất, các anh ấy đều dành cho mình. Nghị bỗng thấy chiếc cầu đẹp lạ lùng. Dường như nó đã bứt khỏi mặt đất, lửng lơ giữa bầu trời, khoe những đường nét gãy gọn, khỏe khoắn, còn phía dưới nó, bụi nước đang ánh lên muôn hồng ngàn tía như ở cõi mơ nào đó.

Bỗng có tiếng gầm gào quái dị của bầy B52. Đúng lúc Nghị đi đến giữa cầu thì đất trời rung chuyển. Một quầng lửa bùng lên, bốc lên cao, cuốn theo cả những mảnh vụn của chiếc cầu, thả rơi lả tả xuống lòng sông. Nghị cũng đã tan biến vào cõi mịt mù đó.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #34 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:24:45 pm »

Chỉ mấy phút sau, cả Trung đội Sơn Hải đã tập trung bên mố cầu, lặng đi trong nỗi đau vô hạn. Hòa đăm đăm nhìn vào cái nơi mà anh đã quá gắn bó - cầu Cô Nghị - bây giờ chỉ còn là một khoảng không lạnh ngắt.

Dòng sông Thanh đục ngầu như giận dữ, vật vã băng mình qua hẻm núi, cuồn cuộn cuốn về xuôi...

Cứ xuôi mãi con sông này, sẽ tới một dòng sông lớn hơn, chảy êm ả giữa một đồng bằng phì nhiêu. Đó là quê Nghị. Dòng sông có đưa Nghị về quê không? Và em có biết rằng cứ ngược mãi theo con sông này, sẽ gặp con đường đất đỏ vượt Trường Sơn ra miền Bắc.

Ngọn lửa dẫn đường của Nghị ở phía đó, Nghị có vượt được thác ghềnh mà tới đó không?...
 
Ngày 14/6/1970

Chúng tôi dồn sức vào việc trồng sắn. Phải phấn đấu cho được 80.000 gốc! Rất gay go là hom sắn ở xa quá, phải đi một ngày mới có. Sáng dậy, ăn cơm xong, mỗi người mang một nắm cơm, một con rựa xuống phía Đắc Lon, rúc vào các rẫy sắn cũ mà chặt cây sắn.Rồi bó thành bó khoảng 100 cây mà cõng về. Leo dốc, leo dốc chí tử, thở phì phò. Gùi cây sắn đè mọp lưng xuống.

Gặp đồng bào đi lấy nước đót và họ cho uống đến say. Ở rừng núi có thứ đót thật hay. Khi nó ra buồng, người ta chặt buồng gần sát cuống, xẻ rãnh rồi hứng ống tre ở dưới. Nước trong cây đót chảy ra một cách nhỏ giọt, mỗi ngày được khoảng 1, 2 lít. Thật kỳ lạ, thứ nước đó vừa ra không khí là lập tức lên men, nồng như bia và pha vị ngọt. Uống ngon và say như nước rượu nếp vậy. Tôi uống một ống nhỏ, vậy mà mặt cũng đỏ bừng, người chuyếnh choáng.

Chúng tôi trồng sắn xen trong lúa, mỗi công được khoảng trên 1000 gốc.
 
Ngày 17/6/1970

Giữa lúc công việc đang dồn dập thì Ban lại rút 3 người. Chỉ tiêu sắn rút xuống còn 60.000 gốc, các thứ khác vẫn giữ nguyên.
Phải ráng hết sức Lan và Cứu hết sức bịn rịn lúc chia tay chúng tôi. Anh em từng chung lưng đấu cật vượt gian khổ gây dựng cơ sở, nay xa nhau sao khỏi thương nhớ? Chuyện trò tâm tình với nhau tới 11, 12 giờ đêm.
Rồi ghi lưu niệm. Tặng vật kỷ niệm cho nhau. Tôi thấy cái tập thể này rất đáng yêu. Ai cũng vậy, đều hăng hái, biết lo lắng việc chung và rất thương yêu, đùm bọc nhau.
 
Ngày 1/7/1970

Tôi đón ngày sinh thứ 24 của mình ở cơ sở sản xuất. Nhanh thật, đã 3 lần rồi tôi đón sinh nhật của mình ở môi trường sống mới - nơi đầy gian khổ. Rất đáng mừng là trong hoàn cảnh đó, tôi vẫn đương đầu chịu đựng được và vẫn lớn lên.

Hồi này chúng tôi tập trung vào việc làm cỏ lúa, giữ bắp, trồng sắn. Công việc quá dồn dập, người lại ít nên chúng tôi phải làm rất căng. Ngày làm suốt, không nghỉ trưa, tối về lại lẫy bắp hoặc làm các công việc linh tinh khác. Giữa những ngày bận rộn này, đồng bào đã đến làm giúp chúng tôi - chúng tôi giúp lại muối, vải, rựa... Đồng bào ở đây thuộc dân tộc Kà Dong. Bà con rất nghèo, thiếu ăn và thiếu mặc. Tôi không khỏi ái ngại khi thấy những cô gái đang ở tuổi dậy thì mà phải mặc những chiếc áo rách rưới, hở cả da thịt. Có những em bé chỉ khoảng 8, 9 tuổi cũng đến làm - làm như người lớn vậy. Tôi thấy thương chúng vô hạn. Ở cái tuổi đó, đáng lẽ các em chỉ việc ăn, học và chơi. Song cuộc sống khắc nghiệt quá, nó đòi hỏi các em phải vươn tới quá sức mình. Tôi trò chuyện với đồng bào và thấy thông cảm với họ.

Tôi cũng học tiếng Kà Dong và nói được đôi câu.
Bắp trỉa trong lúa của chúng tôi rất tốt, cây vươn cao, trái mập mạp. Nhưng lũ sóc phá quá. Chúng leo lên cây, gặm lấy gặm để những trái đã căng hạt. Do vậy, chúng tôi phải thay nhau đuổi chúng. Lũ sóc rất khôn, cứ thập thò ở cửa rừng, gọi nhau sọc sọc, hễ thấy vắng là phóc ra rẫy ăn bắp liền. Đặc biệt là một loại sóc nhỏ, chúng tôi gọi là con đồi. Chúng chỉ to hơn con chuột nhắt một tý, lông mầu xám, có 3 sọc đen dọc sống lưng, nhanh nhẹn vô kể. Thoắt cái, chúng đã điu vào trái bắp mà gặm nhấm, thấy động, thoắt cái, chúng đã vọt mất vào rừng, không làm sao bắn được.

Mùa này dễ đau ốm quá. Nắng rất dữ dội. Song lại có những cơn mưa đột ngột. Hơi đất xông lên nồng nồng khó chịu. Muỗi và dãn phát triển với mức độ kinh khủng. Ngồi ăn cơm trưa ở rẫy, muỗi lao vào chích khắp người. Dãn bu đầy chân, đập một cái phải chết hơn chục con. Đập hết những con này thì lập tức hàng chục con khác lại bu vào liền và thi nhau đốt.
 
THƯ GIA ĐÌNH


Hà Nội, ngày 1 tháng 7 năm 1970

Con yêu dấu!

Mỗi lần cầm bút viết thư cho con, bố lại đặt câu hỏi: liệu thư này có đến tay con không và bao giờ gia đình lại nhận được thư của con? Có thể nói không tháng nào gia đình, bố mẹ không biên thư cho con và từ 7/1969 đến nay 7/1970 bố mẹ chỉ nhận được 2 thơ của con. Có lẽ gia đình, nhất là mẹ con, được gặp con, nói chuyện với con trong giấc mơ nhiều hơn, sau những ngày mong mỏi tin tức của đứa con yêu dấu! Bức thư dịp Tết của con gửi về khu sơ tán của trường, sau một thời gian đi nơi này nơi khác, cuối cùng mới đến tay bố mẹ.

Gia đình được thư của con sau 5,6 tháng lo nghĩ, bố mẹ và các em con rất phấn khởi. Các em con thay phiên nhau đọc thơ của con, vì đứa nào cũng muốn đọc trực tiếp thơ của anh Long của nó. Con sống, lao động, công tác trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, mà vẫn giữ vững được ý chí phấn đấu, tinh thần lạc quan cách mạng, bố mẹ và các em rất vui mừng.
Trước hết bố báo tin để con rõ gia đình ta cùng với trường đã chuyển cả về Mễ Trì - Hà Nội, ở địa điểm cũ, cho nên con đừng viết thư về khu sơ tán nữa. Tình hình sản xuất, lao động ở ngoài này chắc con cũng đã theo dõi được, bố chỉ nói thêm là ở ngoài này mọi người, kể cả các học sinh của bố, đang ra sức đóng góp phần trực tiếp của mình vào việc sản xuất ra của cải vật chất, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của từng người.

Gia đình ta, cùng với sự biến chuyển chung, cũng có những điểm mới, phấn khởi.

Anh Đức sau khi tốt nghiệp đại học cơ khí chính xác vào loại ưu đã về nước hôm 2/4 và hôm nay công tác ở ủy ban Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Anh không béo song rất khỏe mạnh, anh có mang được ít quà về, chỉ tiếc là con ở xa nên không gửi quà cho con được.

Em Phúc, sau mấy năm công tác tốt, được chọn đi thực tập ở Liên Xô. Em lên đường từ 10/1969 và hiện nay đang ở Liên Xô, cách Kiép 100km. Em thường xuyên biên thư về. Em rất khỏe mạnh, và sẽ thực tập trong 3 năm, sau 6 tháng học tiếng Nga, em sẽ về nước vào khoảng 6/1973.

Em Việt hiện nay là sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Em học ngôn ngữ, khoa văn. Em học vào loại khá, đang học thi học kỳ II 1969 - 1970 trước khi nghỉ hè. Em học hệ 4 năm 1/2. Em được học bổng như toàn thể sinh viên của trường đại học ở miền Bắc.

Ngọc có những tiến bộ đặc biệt. Em đang học chuyên ngoại ngữ, tức lớp năng khiếu ngoại ngữ, em học vào loại giỏi cả về phổ thông và ngoại ngữ. Em học tiếng Anh. Cuối năm vừa tổng kết xong, em là học sinh tiên tiến, được xếp vào loại ưu tú, được ghi âm tiếng Anh để phát ra trong hội nghị tổng kết. Em được học bổng mỗi tháng 22đ và có rất nhiều triển vọng Em Diệp cũng là học sinh tiên tiến cuối năm. Em học khá toàn diện.
Lan học vào loại xuất sắc, nhất là về văn và toán (được khen thưởng cuối năm).

Em Thủy được lên lớp 3, em học vào loại trung bình khá. Em hơi gầy, yếu, nên cũng không muốn ép em học nhiều.

Bố mẹ vẫn công tác với hết khả năng của mình, dĩ nhiên cùng với thời gian, có già hơn trước, nhất là sau 3, 4 năm sơ tán, nhưng rất phấn khởi vì các con mau chóng trưởng thành. Gia đình, nhất là mẹ con, nhớ con và thương con nhiều lắm. Câu hỏi thường đặt ra là:

“Bao giờ con trở về với gia đình?”. Lẽ dĩ nhiên là bao giờ con hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, và có thể là đến ngày Nam Bắc thống nhất. Mong con về, tuy cũng không mong con về quá sớm mà chưa hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

Cùng với sự trưởng thành của các con, kinh tế gia đình đỡ vất vả hơn trước con ạ. Em Ngọc, em Việt, anh Đức và bố đều có xe đạp đi cả con ạ. Nhà có Radio để nghe tin tức và ca nhạc hàng ngày.

Bố mẹ nói để con yên tâm, đừng lo nghĩ gì về gia đình.
Cô Chung, chú Phương và các em Tiến, Quang,.... vẫn khỏe mạnh, bình yên. Quang được lên lớp. Em Tiến đang theo lớp 7.

Ngoài này đang nâng cao chất lượng giáo dục nên các kỳ thi cuối cấp đều tiến hành chặt chẽ hơn trước, quy mô vào các trường đại học cũng vừa phải đi để có điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo.

Nhân dịp anh Đức về, bà Chắn và cậu Hiếu có về thăm gia đình ta. Cụ nội, bà Chắn, trẻ Nghiêm, ông Thành vẫn được bình yên và thường nhắc tới con luôn.
Con yêu dấu, thời gian đi mau thực. Thấm thoắt bố đã sắp 55 tuổi rồi con ạ. Vui mừng vì các con mau chóng trưởng thành. Bố đặt nhiều hy vọng ở con, đứa con được tôi luyện trong thực tế đấu tranh cách mạng.

Nhớ con lắm, mong thư con nhiều lắm. Con nhớ biên thơ về địa chỉ cũ ở Hà Nội, cho bố hoặc cho mẹ ở trường Đại học Ngoại ngữ - Thanh Xuân (Mễ Trì, Hà Nội).
Chúc con luôn luôn mạnh khoẻ, vượt được hết khó khăn, gian khổ, phấn đấu tốt và đạt được nguyện vọng tốt đẹp của con.

Bố của con
Phạm Đức Hoá.
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:27:05 pm gửi bởi hoacuc » Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #35 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:29:04 pm »

Từ ngày 23/7 đến 14/8/1970

Tôi và Giáo đi Kỳ Long (Tam Kỳ, Quảng Nam) mua hàng và tuyển người. Thật là một chuyến đi hết sức chật vật.

Khi mới bước chân xuống đường thì đã nghe tin địch càn ở Trà My. Song chúng tôi quyết bám đường đi bằng được. Tới nơi, mới biết địch đã rút rồi.

Tới sông Trường, đi trên đường chiến lược, tôi thấy dưới bờ sông có một cô gái đang vội vã bước đi. Trông dáng người, tôi biết ngay là giao liên. Tôi hỏi:”Về trạm Hòa đi đường nào đồng chí?”. Cô ngước nhìn lên: “Đi đường nớ!” và vẫn hối hả bước. Đoạn sông này địch rất chú ý: Moranh chúng lượn suốt, hễ thấy gì khả nghi là chúng gọi pháo dập tới vô hồi, gọi rọ, HUIA tới cắn xé. Dọc sông, đất đai đầy thương tích. Cây cối nát nhừ. Những nấm mộ còn nằm rải rác đó đây. Đó chính là nguyên nhân làm cô giao liên đi như bị ma đuổi vậy. Cô đi quá nhanh, gần như là chạy. Chúng tôi theo hút cô, bàn chân dường như không bám đá sỏi và cát ven bờ, song lại đạp nước bắn tung toé, khiến quần áo ướt mèm mỗi khi phải lội ngang sông.

Thật chết tiệt, cái bao mang của tôi bị sút quai. Đành phải ngồi cột lại. Thế là mất hút cô giao liên, bị lạc mất gần buổi đường. Tới 3 giờ chiều mới tìm được vào trạm. Cũng may, lúc đó trời mới giáng cho một cơn mưa đá, mưa rào dữ dội. Những viên nước đá to bằng đốt ngón tay rào rào rơi xuống, lóng lánh như những giọt nước mắt khóc cho cuộc đời của nó ngắn ngủi quá, vì chỉ một lúc nó đã tan biến thành nước và bị đất hút lấy hút để... Tôi lượm mấy viên đá cho vào miệng, cố tìm lại cảm giác mát lạnh và thú vị khi còn ở Hà Nội ăn kem, uống cafê đá. Song vô hiệu. Mát lạnh thì có, nhưng chẳng thú vị gì. Lạt lẽo.

Phải chờ trạm một ngày mới có trực (ôi, chờ và trực). Tôi và Giáo vào cơ sở sản xuất 2. Được biết tin Cẩm mới hy sinh - vì địch phục kích bắn chết trong đợt càn vừa rồi. Nơi này chỉ có 3 người.

Chi lại về cơ quan nên còn 2. Tiến ốm. Một mình Mai lủi thủi đi làm cỏ lúa. Gặp Phạm Hồng ở đây. Vui quá, 2 đứa ôm lấy nhau. Hồng chiêu đãi chúng tôi một bữa thịt gà rừng (Hồng bẫy được) và một bữa chè đỗ đen sữa. Hồng cho xem những bức tranh vẽ từ khi xuống Quảng Nam. Phần lớn là ký Họa và tương đối có sức sống. Hồng đi B trước tôi, đã giúp đỡ tôi rất nhiều lúc tôi mới vào, từ việc dạy cho cách buộc gùi tới cách phát rẫy hoặc chống trả với những cơn sốt rét. Dạo ở A9, Vượng vào Quân Khu, tôi và Hồng ở cùng nhà, thường cùng Nga nghe chương trình sân khấu truyền thanh vào các tối thứ 7, mà vở kịch chúng tôi thích nhất là Tiền tuyến gọi.

Bắt đầu theo trạm đi. Giao liên dẫn đường cho chúng tôi là cô Xuân. Chân Xuân đi hơi cà nhắc vì bị tiêm ký ninh quá nhiều, song cô đi rất nhanh. Có điều cô biết chờ khách chứ không bỏ khách như cô bữa trước.
Khi đi từ trạm 25 xuống trạm 24, tôi theo một giao liên nhỏ. Đó là Ba, em mới chừng 13, 14 tuổi. Khi ngồi đợi giao trực, tôi được nghe cô giao liên ở trạm 25 kể rằng Ba bé xíu thôi và còn ngây thơ lắm. Có lần, dẫn một số khách đi, thấy khách đi quá chậm, hay nghỉ, Ba khóc lóc, van nài: “các chú ơi, đi nhanh lên, không quá giờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình đấy!”. Tôi hình dung Ba yếu đuối lắm. Song không phải vậy, Ba ở trước mặt tôi đó: vui tươi, nhanh nhẹn. Em dẫn đầu đoàn người, đầu đội mũ Giải phóng, lưng mang bao bột mì đựng công văn, vai còn khoác một cái túi giúp một chị đi sau. Ba chào chúng tôi bằng nụ cười rất tươi. Gặp lại mấy anh quen, Ba liến thoắng: “Ôi, anh Thoại sao ốm nhom vậy?

Anh Lang có nặng, sớt bớt đồ tôi mang cho!”. Và Ba mang bớt một số vải cho Lang. Đi đường, Ba luôn chuyện trò. Đủ thứ chuyện ngộ nghĩnh:
“chui, mấy trứng gà rừng cho ấp nở ra mấy con gà đen thui như Mỹ đen, trông phát phiền!”, “con Liên mới đi đồng bằng về, dẫn theo mấy đứa chút chun!”..

Sáng sau, Liên dẫn chúng tôi đi. Liên mới chừng 16 tuổi, nước da hơi xanh, yếu và nét mặt có gì hơi già dặn, khắc khổ của người phải lo nghĩ quá sớm. Liên bảo chúng tôi đi trước vì em còn phải đi nhận hàng. Liên dặn: “các anh ráng đi sớm, đi nhanh qua mấy bãi trống ven sông nghe!”.

Đoạn đường này địch dùng B57 đánh dữ. Thỉnh thoảng lại gặp vài hố bom - thường là hai hố một chỗ. Nhiều hố bom trúng giữa đường khiến chúng tôi phải đi vòng, luồn trong cây cối mà đi.
Gần trưa, Moranh quần dữ. Đường chúng tôi đi qua rừng non, theo suối nên nhiều chỗ trống trải. Liên luôn nhìn lên bầu trời quan sát máy bay và ra lệnh cho chúng tôi: “nó tới đó, đứng im”, “nó quần đó, rúc sâu vào bụi”, “Đi nhanh!”... Chúng tôi răm rắp làm theo lời Liên như theo lệnh người chỉ huy vậy.

Ăn cơm trưa rồi Liên tạm biệt chúng tôi để dẫn khách về trạm.
Liên nói: “chào hết mấy anh nghe!”. Rồi thoăn thoắt bước đi, rồi lại nói với lại: “Tôi chào rứa đó!”. Những lời nói của Liên có gì hơi cộc cằn đôi chút và có nhiều khi không hợp với một cô gái ở lứa tuổi Liên. Song tôi không cho Liên là một con người cộc cằn. Khi Liên nói: “Tôi chào rứa đó!” và cười cười thì tôi hiểu rằng em đang bối rối trước những câu nói của chính mình. Chắc em cũng muốn nói những câu tế nhị hơn song tìm không ra. Ở những nơi ác liệt như thế này, người ta quen nói ngắn, gọn rồi. Khi máy bay địch quần lượn, bắn phá thì giao liên làm sao có thể nói những câu dài dòng, văn vẻ ngoài mấy câu: “dừng lại!”, “núp kín nghe!”, “chạy nhanh!”, “nằm xuống!”... Nhưng chính trong những câu cộc lốc đó, tôi lại thấy chứa chất biết bao tình cảm rộng lớn, sâu sắc. Những lời nói xuất phát từ đáy lòng thương yêu anh, che chở, bảo vệ anh đó!
Càng đi xuống gần đồng bằng, tình hình càng căng hơn. Địch càn ở Kỳ Yên đã gần tháng rưỡi rồi. Quân của chúng lết khắp nơi:xóm Mới, Nhà thờ, Dương Bông, Bầu Tre... và sáng nay chúng lại đổ quân ở Danh Sơn - nơi chúng tôi định đi qua.

Được cái giao liên rất thạo đường. Đoàn đi lại có mấy giao liên thuộc tuyến này đi mua hàng nên tôi thêm tin tưởng ở sự dẫn dắt của họ. Sang, một thanh niên khoảng 23, 24 tuổi - có dáng người to, khoẻ, da ngăm đen, là linh hồn của đoàn. Sang thuộc đường và rất xông xáo. ít nói, nhưng hay nói vui, cởi mở, Sang thu hút được tình cảm của tôi ngay từ đầu. Tay cầm chắc khẩu AK báng xếp, Sang luôn đi đầu bám đường. Gần tới con sông Kỳ Yên, bọn tôi phải đi tách ra xa nhau vì ở đây dễ gặp địch. Chúng mới đi khỏi nơi đây.

Giấy tờ, sách báo lố lăng, lon đồ hộp còn vứt bừa bãi. Nơi này là một thung lũng khá phẳng và rộng, cây cỏ thấp, thưa. Chúng tôi vừa thận trọng vừa khẩn trương vượt qua bãi trống đó. Nắng chói chang, bầu trời cao rộng, in hình mấy cái trực thăng phía xa. Chúng tôi lội ào qua khúc sông cạn, nước tới mắt cá chân. Đạp nước bắn tung toé, ướt cả hai ống quần. Rồi vượt qua một bãi cát lẫn đá sỏi. Ở mé sông, cát, sỏi bị nhuộm đỏ thẫm vì máu. Lại lội qua sông. Đoạn này nước chảy mạnh. Khi tôi vừa định bước chân trái lên một hòn đá to thì nước cuộn tới cướp phăng chiếc dép. Bỏ vậy mà đi thôi. Đi khỏi bờ sông một quãng, chúng tôi gặp một số dân. Họ ngồi tản mát trong các bụi cây, quanh đó là một vài thứ đồ đạc dùng hàng ngày.

Họ cho biết máu ở bờ sông là của 2 anh bộ đội bị bọn Mỹ phục kích bắn chết từ chiều hôm kia. Một anh khác bám ra chôn lại bị HU1A của Mỹ bắn chết. Du kích mới chôn 3 cái xác chiều qua.

Đây là một thôn thuộc xã Kỳ Yên. Ở đây, đồng bào trồng sắn trên luống cao, to, rất đẹp, sạch cỏ. Lác đác có những đám bắp, đậu.
Vài rẫy lúa. Có rẫy lúa bị chất độc hóa học cháy vàng. Bọn Mỹ hồi này rải chất độc với diện rất nhỏ chứ không tràn lan như trước, nhưng toàn nhằm vào nương rẫy. Thật là thâm độc!

Đi loanh quanh một hồi, chúng tôi gặp rất đông người - phần lớn là cán bộ, bộ đội. Họ ùn lại ở một đám rừng non thưa thớt, đứng ngồi lộn xộn. Họ cho biết còn phải chờ du kích bám đường mới đi được. Chúng tôi cũng ngồi lại. Mỏi quá, ngồi lê la trên cát, cỏ. Thỉnh thoảng, vài chiếc trực thăng lại quần lượn trên đầu, khiến chúng tôi phải nép vào bụi. Có những tiếng pháo, tiếng súng liên thanh, tiếng đạn cối nổ rải rác đó đây. Rồi đi, đúng là lối đi “bám”. Có một số đi trước dò đường. Rồi mọi người theo sau, đi cách xa nhau. Súng đạn sẵn sàng. Đi chậm rì. Thỉnh thoảng phải dừng lại nghe ngóng, đợi chờ. Thỉnh thoảng vượt qua một quãng đồng trống, phải chạy cho nhanh, đồng thời phải giữ khoảng cách cho thưa nhau. Với cách đi như vậy, chúng tôi vượt qua nhiều quãng đồng trống, nhiều khu nhà dân. Nói là khu nhà dân, thực ra chỉ là từng cụm nhà thưa thớt. Nhà, thực ra là những túp lều nhỏ, dựng tạm bợ che mưa nắng cho hầm. Có mấy ngôi nhà bị đốt cháy, tro còn nóng. Hầm cũng bị bọn giặc quẳng lựu đạn, lựu đạn lân tinh xuống khiến sập lở hoặc tanh lợm.
Đường Hố Nước, Bầu Tre có địch, bọn tôi phải vòng qua đường Danh Sơn. Lúc này đi rất nhanh, gần như là chạy. Vượt qua vài khu ruộng. Ở một bờ ruộng, văng đầy cát tút đạn AR15 - chứng tỏ bọn Mỹ đã có mặt ở đây và bắn rất dữ. Trời nhập nhoạng tối. Trên trời, vài chiếc trực thăng vận tải bay nặng nề, in bóng đen sẫm, to xù và nổ máy ầm ĩ. Khát nước vô kể. Đạp qua vài thửa ruộng đầy cỏ, sình bùn. Nhập vào đường Danh Sơn. Con đường này tương đối lớn, chạy qua những khu đồi sim thấp và toàn đá sỏi. Chân tôi không dép, đạp lên đó đau ê ẩm. Tuy nhiên, phải ráng chịu đau mà đi cho nhanh. Đi như chạy trong bóng tối nhập nhoạng. Đường chỉ hiện ra mờ trắng dưới chân. Thỉnh thoảng lại bước hẫng xuống một hố nhỏ hoặc vấp vào mô đá điếng người. Chẳng thèm suýt xoa, cứ cắn răng mà bước tới. Sang đi đầu. Mọi người đi sau, im lặng hoặc chỉ nói chuyện nho nhỏ.

Rồi nghe tiếng đài văng vẳng ở phía đồi trước mặt - đài Tiếng nói Việt Nam. Như vậy là không có địch. Chúng tôi mạnh dạn bước tới. Băng qua một khu ruộng nhỏ. Lội qua một con sông - lội mò mẫm, chẳng biết nông sâu ra sao. Lại dò dẫm bước lên bãi cát sỏi.

Tiếp qua một con sông nhỏ. Rồi chui vào một thôn xóm. Ở đó im lặng như tờ. Tối như bịt mắt. Người đi trước bỗng sụp xuống một cái hầm. Xì xào lộn xộn một lát rồi lại đi. Tôi cứ bám theo người đi trước mà tiến, chẳng rõ đường xá quanh co ra sao. Rồi bỗng thấy ánh đèn dầu hắt ra từ một ngôi nhà. hóa ra đó là trạm. Chúng tôi bước vào. Những người trong nhà đang ăn cơm. Lúc này đã gần 8 giờ tối. Nhà thật đơn sơ, không phên vách, không bàn ghế. Dưới nền nó là một căn hầm rộng, có thể cột võng được. Chúng tôi lên nhà trên ngủ. Ngôi nhà đó đã bị pháo bắn sập, người ta đã dỡ đi và cắm 4 cây lớn vào chỗ 4 cây cột để ngụy trang. Tuy nhiên, cái hầm vẫn tốt. Trời nóng như nồi rang. Muỗi vo ve, vo ve, ùa vào đốt. Phủ bọc võng vào, nóng vô kể. Mà hất ra thì muỗi đốt, không chịu được.
Đành phải đưa võng hoài. Rồi cũng thiếp đi trong cái mệt nhọc.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #36 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:30:48 pm »

Đêm nay im tiếng pháo.
Sáng dậy, tuy chẳng đi đâu cũng phải nấu cơm 2 bữa từ sớm.
Ăn cơm xong rồi cột bao gọn gàng. Và cứ ngồi đó đợi. Trạm cũng làm như vậy. Những đồ dùng không sát với thân thể lắm như con rựa, thùng nước.v.v. thì quẳng bừa ra bụi bờ, bãi cỏ. Đó là một kiểu nghe ngóng xem địch có càn không, nếu có thì có thể lánh kịp và không để đồ đạc cho địch phá.

Nghe tiếng động cơ xe tăng rú phía xa xa. Đó là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay lại. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa có những tràng liên thanh nổ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Ăn cơm trưa rồi có thể đi làm mọi việc cần thiết.
Chúng tôi đi Kỳ Long mua ít hàng. Phải chú ý đi nhanh qua những chỗ trống để rọ khỏi thấy, khỏi kít xuống bắn chết hoặc bắt sống. Trên trời, một chiếc mô ranh hai thân lượn vòng miết trên cao và dùng loa cực đại để chiêu hồi. Tiếng nói ve vãn bị át đi một cách thảm hại bởi tiếng ù ù của động cơ máy bay.

Đi băng ngang qua con đường lớn - nó chạy về phía đồn Chóp Chài. Vết xe hằn rõ trên đường. Vượt qua những bãi trống. Ở đây, cỏ tranh bị địch đốt cháy trụi. Bình yên một cách kỳ lạ. Băng qua một cánh đồng lúa, chúng tôi lọt vào vùng 4 Kỳ Long. Xóm nhà thưa thớt, ít dân. Trẻ con ở đây quần áo mầu sặc sỡ. Nhiều người la hét gọi chúng tôi đi nhanh hoặc núp vào bụi vì có địch ở Dương Tranh, cách xóm đó vài phút đi bộ. Từ ngọn đồi đó, địch có thể thấy rõ và bắn trúng chúng tôi. Lúc này tôi thấy tiếng mìn nổ ở đó, đất bụi bay mù mịt. Rồi một quả mù của địch nổ, tung khói mầu tím mù mịt.

Ngay sau đó, có 2 HUIA bay tới, lượn quanh quả đồi. Tôi thấy cửa máy bay mở toang. Một chiếc rà sát rồi hạ ngay xuống đám mù tím và cất cánh lên sau đó một lúc. Chiếc kia cũng làm như vậy.

Chúng tôi đi tìm hàng để mua. Rất hiếm và rất đắt. Họ đòi gần 600 đồng (bằng 30 đồng miền Bắc) một bao gạo (nặng 6 kg) - nếu tính ra tiền miền Bắc là 5 đồng một kg, gấp hơn 10 lần gạo ngoài đó! Thị trường tư bản thật kinh khủng.

Lại nghe tiếng mìn nổ, thấy khói mù đỏ và 2 trực thăng xuống, lên. Đồng bào bảo rằng bọn Mỹ mới lên đồi đó, bị vấp mìn của du kích và phải gọi máy bay tới chở những tên chết, những tên bị thương.

Quẩn quanh mua hàng, trời đã tối. Chúng tôi nấu cơm ăn - thứ gạo máy trắng muốt mua ở vùng địch chuyển ra. Ngồi giữa sân mà ăn cơm - nhà ở đây bị địch đốt cháy trụi, bà con chỉ dựng mấy túp chật chội, tấp mấy tấm tranh vào tạm bợ để dễ vứt ra bụi mỗi khi địch càn đến. Đang ăn cơm, chúng tôi giật mình vì những tiếng súng nổ loạn xạ. Đạn bay veo véo trên đầu, đỏ lừ. Đó là đạn do địch ở trên xe bắn tới. Tầm đạn đi hơi cao. Lại có tiếng súng nổ phát một chắc chắn ở phía gần đó - đạn của du kích “bia” Mỹ Nguỵ.

Tôi vào một ngôi nhà nhỏ mua gạo. Trong nhà chật ních người - toàn là cán bộ, miền Bắc có, miền Nam có. Một cô bé chừng 14, 15 tuổi đang bán gạo. Cô bé nói rằng chỉ còn một ang thóc thôi. Tôi vội bảo “mua gạo chứ ai mua thóc làm gì?”. Cô bé giải thích: “ang thóc tức là nửa ang gạo chứ không phải là thóc chưa giã”.

Khoảng 8, 9 giờ tối, chúng tôi ra về. Không thể ở lại đây qua ngày sau, vì xe tăng địch có thể lên rất sớm. Dấu vết của nó còn hằn lên đó: chằng chịt trên các thửa ruộng lúa khô nước. Lúa đang thì con gái, bị hạn, xơ xác, bị xe nghiền nát. Sang vẫn cắp AK đi đầu. Giáo lăm lăm súng ngắn đi thứ hai. Tôi đi liền đó. Trăng lờ mờ. Khi đi qua ruộng, chúng tôi không dám đi theo con đường mờ trắng mà phải đi ven nó vì sợ địch ở phía quả đồi gần đó phát hiện. Khi đi khỏi khu ruộng, chúng tôi thấy những bóng đen lố nhố phía trước.

Sang ghìm súng, khẽ hỏi: “ai?”. Có tiếng đáp khẽ: “chúng tôi!”. Thở phào nhẹ nhõm. Không phải địch mà là anh em đi về, thấy rợn quá đang chần chừ ở đó, chờ người cùng đi lên. Lại bám đường đi. Nhiều khi phải nép vào bụi hoặc nằm rạp xuống đường nghe ngóng từng động tĩnh nhỏ. Rồi vượt qua đường xe. Con đường này chạy về đồn Chóp Chài - đi bộ mất chừng 20 phút là tới đồn thôi. Vượt vào dãy đồi bát úp, cây cối lúp xúp và đường lạo xạo đá sỏi. Vấp liên tục và luôn đạp lên những hòn đá sắc cạnh, đau điếng. Khuya mới về tới nhà. Lại cột võng trên nóc hầm. Ngủ trằn trọc trong cái nóng hầm hập, trong tiếng vo ve của muỗi và trong tiếng pháo cầm canh.

Trưa nay, ăn cơm xong thì Giáo đi Kỳ Long, còn tôi ở nhà giữ đồ. Giáo đi một hồi lâu thì tôi nghe mấy tràng súng máy nổ phía đường cái gần thôn Kỳ Qúy. Rõ ràng là tiếng súng địch bắn. Tôi bồn chồn không yên. Giữa lúc ấy thì Giáo chạy về, nói gấp: “báo một tin buồn: Phước hy sinh rồi!”. Tôi sững người vì bất ngờ quá. Phước là trạm trưởng trạm giao liên vùng dưới - giáp thị xã, đi chỉnh huấn về. Trưa nay, Phước cùng đi xuống với đoàn của Giáo, Sang. Phước mang AK đi đầu, tới đường cái thì gặp địch phục. Chúng bắn Phước gãy chân. Ngã xuống rồi, Phước còn dùng AK quạt lại bọn địch.

Chúng ném tới một trái lựu đạn làm nát cả mình mẩy anh. Sang cũng dùng AK bắn lại mấy loạt rồi mới chịu chạy. Cũng may, đoàn có tới gần chục người, đi liền nhau, gặp đạn địch bắn loạn xạ mà chỉ bị một ngưòi.
Tối, tôi vác cuốc cùng mấy anh em trong trạm 24 đi chôn Phước - người ta đã khiêng Phước về để gần nhà ông Phán. Trời tối thui.

Trong ánh đèn dầu nhập nhoạng, tôi thấy xác Phước được cột dọc theo một cây tre, đặt nằm dài dưới bãi cỏ. San - cô giao liên của trạm 24 - soi đèn sát mặt Phước rồi thốt lên: “trời ơi, tội quá anh Phước ơi!”. Tôi không khỏi bùi ngùi xúc động. Mới đó thôi, Phước còn sống vui tươi, khỏe mạnh. Phước vào loại hơi xấu trai - cao và gầy, hàm răng khấp khểnh, miệng quá rộng so với khuôn mặt nhỏ, xương xương. Song Phước rất hay cười, nụ cười rất tươi và cởi mở, dễ chiếm được tình cảm của mọi người. Sáng nay, Phước còn đứng nói chuyện với chúng tôi. Sang trách Giáo là sáng nay không xin đôi dép của một nông dân bị chết vì lựu đạn về cho tôi. Tôi bảo: “thôi đồng bào họ nói cho. Nếu như anh em mình thì được, mình sẽ vỗ vai anh bạn hy sinh mà xin đôi dép, chắc anh ta cũng thông cảm! ”. Lúc ấy phước đứng gần tôi, cười cười: “ừ. anh em mình thì thông cảm thôi, chắc anh bạn đó sẽ đồng ý!”. Vậy mà bây giờ Phước nằm đó, cứng đờ, lạnh ngắt.

Khoảng 8, 9 giờ tối, chúng tôi bắt tay vào đào huyệt cho Phước.
Trời mưa bụi lất phất. ánh đèn dầu hắt lên một vùng sáng nhỏ vàng vàng giữa khoảng trời đất đen thẫm. Rồi chúng tôi khiêng Phước tới. Tôi đi cuối đoàn, sát với đầu Phước. Mùi máu người tanh vô cùng. Hình Phước cứ liền liền trước mắt tôi. Cánh tay trái anh nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng. Cánh tay phải bị mảnh lựu đạn làm gẫy nát, lủng lẳng, lủng lẳng phía dưới, mỗi khi đi qua một bụi cây, vướng phải cây, cỏ, lại đung đưa, đung đưa, lạnh ngắt.

Chúng tôi lót bộ quần áo của Phước dưới huyệt. Xong, tôi cùng một anh giòng giây ở đòn khiêng, đưa phước xuống huyệt. Xác anh đã cứng khừ, lạnh ngắt. Máu đẫm quần áo, đẫm cả tấm dù bọc xác anh. Ngọc cố ấn cánh tay trái của Phước xuống, song không được.

Đành để Phước nằm dưới huyệt với cánh tay trái giơ lên trong tư thế cầm súng bắn. Rồi lấp đất, đắp mộ cho anh. Im lặng tiễn Phước đi. Mưa lâm thâm. Lạnh lẽo vô cùng!

Ra về trong mưa lạnh và trong nỗi buồn thương Phước. Đôi dép cao su của Phước giờ đây đang nâng bước tôi. Một cô giao liên ở trạm 23 có thân hình mập mạp nói: “Thật tội nghiệp anh Phước, trưa nay còn đi với bọn mình mà giờ đã nằm đó. Nhưng cũng còn may là chôn cất kịp”. Lan (nữ giao liên) bảo: “Anh Phước sống tội lắm, luôn thông cảm với mọi người, luôn tươi cười, vui vẻ.” Tôi đi sau 2 cô, nghe họ thì thầm trong hơi gió lạnh:

- Anh Phước được công nhận đảng viên chính thức...
- Ừ, mới cánh đây 3,4 bữa.
- Mới 20 tuổi chứ mấy.
- Công tác tiến bộ lắm.
- Anh ấy tội lắm, chỉ lo cho công tác thôi. Anh ấy bảo đi xa trạm có mấy ngày mà nhớ quá, chỉ muốn bay về trạm mà công tác thôi. Mỗi khi nghe nói có địch, mọi người hỏi thì anh trả lời: “Cứ đi, gặp địch thì đánh, không thể đứt liên lạc được “ và đội mũ, xách súng đi liền.

Không thể chờ mua tiếp hàng nữa, chúng tôi phải đi lên. Ở nhà, mọi người đang chờ, công việc đang chờ. Lại theo giao liên lên theo đường Danh Sơn. Lên đèo, ngồi nhìn lại miền xuôi. Phía xa, ở ngọn đồi cao nhất, đồn Chóp Chài phơi mình dưới nắng. Cả khu đồi trọc lốc, đỏ lói và xen vào những khu nhà trắng. Một con đường ngoằn ngoèo theo triền dốc lên đó.

Lên khỏi nước Y, chúng tôi định nghỉ một ngày. Song thật dáng ghét, khi mới nấu cơm sáng ăn xong một lát thì lũ trực thăng ở đâu đột ngột bay tới. Chúng bay thấp tới mức chúng tôi nhìn thấy cả những thằng Mỹ lố nhố trong máy bay qua khung cửa mở toang.
Chúng bắn rốc két, đại liên, cối xuống đồi tranh gần đó. Sợ bọn địch đổ quân thì phiền, bọn tôi vội thu dọn đồ đạc, tiếp tục hành quân.

Về tới nóc ông Chanh, không khí thật dễ chịu. Lũ trẻ ùa ra ôm lấy tôi. Chúng bảo bọn con gái đã khóc vì tưởng tôi chết rồi. Tôi thường dạy chúng hát và được chúng rất mến. Chị Lý gọi tôi vào nhà, lấy chuối và đưa nước đót cho tôi. Chị Chanh vội đi nấu cơm.

Đồng bào đã thu hoạch lúa, nhà nhà đều no. Ai cũng tíu tít gọi tôi vào nhà, mừng mừng, rỡ rỡ. Tôi rất cảm động trước tình cảm đó.
Về nhà trước sự mừng rỡ của anh em, kết thúc chuyến đi 21 ngày đêm nhọc nhằn và căng thẳng.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #37 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 08:57:58 pm »

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Trung Trung bộ. Ngày 2/9/1970.

Bố mẹ và các em yêu quý!
Hôm nay có người ra Bắc, con tranh thủ viết thư thăm gia đình. Đang trên đường công tác, con viết vội ít chữ thôi.

Lá thư con nhận của gia đình mới nhất là lá thư bố mẹ và Diệp, Lan, Thủy viết ở Hà Nội. Cho tới nay, con chưa nhận được lá thư nào khác. Con rất mong thư gia đình.
Hồi này con vẫn khoẻ, con đã thực sự quen với cuộc sống ở trong này và đã ít sốt. Việc công tác, phấn đấu của con có nhiều tiến bộ. Vừa rồi, chi bộ đã xét đơn xin vào Đảng của con và nhất trí 100%, quy định thời gian dự bị cho con là 9 tháng. Tuy nhiên, còn phải đưa lên đảng ủy duyệt để có quyết nghị, ở trong này giao thông khó khăn nên hiện chưa có quyết nghị gửi tới. Con báo tin như vậy để gia đình mừng.

Con muốn viết thư cho gia đình nhiều, song việc gửi rất khó khăn, gửi đường dây không bảo đảm đến nơi nên con chỉ gửi khi có người ra Bắc. Đó là lý do vì sao nhà nhận được thư con thưa thớt như vậy.
Nhận được thư bố báo tin như vậy con rất mừng. Hiện anh Đức đã về nước chưa và công tác ở đâu? Phúc đi Liên Xô thực tập gì?

Ngọc học có giỏi không? Hàng ngày con đều nhớ tới bố mẹ, các em, cụ, bà, cô Chung, cậu Hiếu.
Cho con gửi lời thăm cô chú Sen, Thìn, Chín và các cô chú khác.
Con vội nên viết được ít, mong bố mẹ thông cảm. Có dịp con sẽ viết thư dài hơn, nói nhiều chuyện hơn về cuộc sống của chúng con trong này.
Con rất mong thư gia đình
Con của gia đình
Việt Long
TB: Bố mẹ gửi cho con ảnh của gia đình chụp thời gian gần đây nhất.
 
Ngày 4-9-1970

Lúa sớm đã chín vàng rực nương rẫy. Ban cử thêm người vào suốt lúa, càng thêm vui. Giữa những ngày bận rộn này, giặc Mỹ lại tới quấy nhiễu. Hôm trước, chúng cho B.52 rải bom ở Nước Boa. Và hôm nay, mới hơn 7 giờ sáng, chúng đã tới đấm lưng chúng tôi. Tôi sốt, đang nằm mơ mơ thì nghe hàng tràng tiếng nổ như sấm động nối nhau. Vội nhào xuống hầm. Hai đứa trẻ khóc thét lên.
Hết loạt bom, tôi ra rẫy nhìn, thấy phía Nước Lon và phía rẫy 3 của chúng tôi bụi đất, khói bom bay mù mịt. Chúng tôi rất lo lắng cho sinh mạng mấy anh em đang làm kho lúa phía đó.

Một lúc sau, Bá chạy về. Chưa tới ngõ, anh đã nói: “kho bắp hư hết rồi!” – Như vậy có nghĩa là người không ai việc gì. Rồi Tạo, Hiến chạy về. Hiến bị một vết xước nhỏ trên đầu, máu ri rỉ như bị vắt cắn; anh em xúm lại rửa thuốc và băng cho anh. Tạo ngồi thở, mồ hôi ra đầm đìa. Cậu ta đột ngột cười to, nói trong tiếng cười: “Khỏi chết. B52 chụp trên đầu vẫn khỏi chết”. Rồi thì Huy, Tám chạy về, bình an cả. Anh em cho biết lũ B52 bắt đầu rải “tấm thảm bom” của chúng từ rẫy 2, kéo qua rẫy 3 và nối dài qua Nước Lon, qua giải núi bên kia. Anh em đều nằm giữa “tấm thảm” đó. Hiến nằm giữa triền dốc, gần bụi lồ ô. Phía đó, một quả bom đào đã làm bay cả bụi lồ ô đi mất. Phía sau Hiến vài mét, hai quả bom khác đào hai lỗ sâu hoắm. Vậy mà không giết nổi Hiến, chỉ làm anh bị trầy da đầu và mất một chiếc dép cao su. Tạo, Bá cũng nằm gần mấy hố bom, nghe bom nổ chát chúa mà không hề gì hết.
Bom làm sập kho bắp của chúng tôi và hư một số lúa của rẫy 2, 3. Cũng may mà bắp chỉ sập xuống đất, không bay mất trái nào.

Huy động toàn lực lượng đi cõng hết số bắp về nhà. Đông người nên chỉ qua chiều hôm sau là đã chuyển hết bắp. Hai mái gà cùng một đàn gà con cũng được chuyển về. B52 dù sao cũng giết được hai con gà nhỏ của lũ tôi. Tuy nhiên, bầy gà con vẫn điềm tĩnh chiêm chiếp theo mẹ kiếm ăn, không tỏ ra sợ hãi gì.

Công việc lại đi theo nếp của nó. Suốt xong lúa rẫy 5, chúng tôi kéo về rẫy 3 (vì trời mưa nên suốt lúa ở rẫy 5 lâu, nếu không, chúng tôi đã kéo qua rẫy 3 từ 9 giờ sáng rồi, chắc là bị đội B52 đông lắm).
Hai quả bom nổ ở bìa rẫy làm hư nhiều lúa của chúng tôi. Ngoài số bị đào bới tung ra, bị đất lấp, còn có nhiều khóm lúa bị sức ép làm cho tả tơi, nát nhừ tận gốc. Những cây ở xa cũng bị chấn động, rụng rất nhiều hạt. Bọn tôi phải cặm cụi nhặt từng bông lúa dưới đất lên.

Ngóng đợi những đợt B52 tiếp theo, song không có. Như vậy là khu nhà của chúng tôi vẫn bình yên - “tấm thảm hủy diệt” của bọn Mỹ rải cách đó tới 20 phút đi bộ.
Lũ máy bay trực thăng hồi này cũng tích cực đi rải chất độc.

Nước Tong, Nước Ngheo, Trà Niêu... đã bị rải rồi. Khi đi làm rẫy, chúng tôi mang theo súng đạn, sẵn sàng nện cho lũ quỉ độc đó những đòn đích đáng nếu chúng mò đến hà hơi độc vào nương rẫy của chúng tôi.

Mặc dù bận rộn với việc nương rẫy, mệt mỏi vô cùng, tôi vẫn thức đêm để viết truyện - những xúc cảm từ cuộc sống hối thúc tôi phải cầm bút:
 
Chú bé vùng ranh
Cô giao liên trạm hai mươi bốn tươi cười bảo chúng tôi: “Ba, giao liên mới của các anh đó!”. Theo tay cô, tôi nhìn thấy ở đoạn đường trước mặt một chú bé dẫn đầu một đoàn người đang bước tới.
Chú đội cái mũ lưỡi trai to tướng, sụp cả xuống vầng trán, trông thật ngộ. Lưng chú mang một cái túi bằng bao bột mì. Vai chú khoác một khẩu AK báng xếp. Khẩu súng, mặc dầu đã được xếp báng lại khá gọn gẽ, vẫn có vẻ dài lượt thượt so với thân hình lũn cũn của chú. Bước tới gần chúng tôi, Ba ngẩng mặt lên, nhoẻn cười:

- Chào hết mấy anh nghe!

Hấp háy đôi mắt, chú nghiêng đầu về phía cô giao liên trạm hai mươi bốn:

- Đi nhanh dữ chị? Rứa là em lại đến sau chị rồi, tức thiệt! Nói rồi chú cười. Trên khuôn mặt tròn vành vạnh của chú, nụ cười thật rạng rỡ. Với dáng dấp lanh lợi đó, Ba đã thu hút được cảm tình của tôi ngay từ đầu.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #38 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 09:02:24 pm »

Ba mang gùi công văn, vai vác AK đi đầu. Chúng tôi nối hàng một bước theo. Đường xuyên qua một khu rừng bị rải chất độc vào mùa hè năm trước. Mặc dầu đã là mùa xuân, khu rừng vẫn còn mang nặng dấu tích của sự tàn phá. Những cây to vẫn trụi lá, giơ những cành khẳng khiu, khòng khoeo lên trời. Chỉ những cây nhỏ là đang nứt lên những chồi non xanh mơn mởn. Tôi im lặng bước theo Ba. Đường chúi xuống dốc. Đất gan gà pha sỏi lạo xạo dưới chân trơn lạ lùng. Tôi trượt hoài. Ba ngoái lại, cười:

- Con đường của em lạ rứa đó, nắng thì trơn, mưa lại êm! Đấy, anh coi, những hòn sỏi như những bánh xe lăn đôi dép đi ấy.

Rồi em hạ thấp giọng, vẻ quan trọng:
- Đi đường cũng phải rút kinh nghiệm anh nhỉ! Những đoạn này mà cứ cúm rúm dò từng bước, chỉ tổ trợt xoạc cẳng. Phải mạnh dạn bước từng bước chắc chắn, bước nọ tiếp bước kia mới được.
Im lặng một lúc, như chợt nhớ ra điều gì, Ba hỏi tôi, một câu hỏi chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện đang nói cả:

- Anh, ở căn cứ anh có nuôi gà rừng bao giờ chưa? Trên đó nhiều thứ gà, chim đẹp lắm nhỉ?
- Ừ, nhiều lắm, nhưng anh chưa nuôi gà rừng bao giờ cả!
- Bữa hổm, em lượm được ba trứng gà rừng, cho gà của trạm ấp, nở ra ba con gà con. Chao, nó đen thui như Mỹ đen, trông phát phiền anh à!

Rồi, như bị cuốn hút vào cái việc nuôi gà thú vị ấy, Ba dấn bước vượt lên đỉnh dốc, vừa thở phì phò, vừa nói liến láu:
- Cái giống rừng nó vẫn quen rừng anh ạ! Vừa xuống ổ là chạy rúc bụi liền! Em phải đem cái lồng, nhốt chúng vào trong. Anh có biết làm cách nào cho chúng quen nhà không?

Ba hay có những câu hỏi đột ngột, thật khó trả lời. Và em lại hay tự trả lời những câu hỏi đó. Em say sưa:
- Chắc rồi hắn sẽ quen anh hỉ? Cứ đi trực về là em đưa sắn vụn vào tận trong lồng cho chúng ăn. Mình chăm hắn rứa, lẽ nào hắn lại không ưng mình?

Tôi chăm chú theo dõi câu chuyện ngộ nghĩnh ấy của Ba. Ba vẫn bước thoăn thoắt phía trước, cái đầu lắc qua lắc lại. Khi lên tới đỉnh dốc, Ba dừng lại, quay nhìn chúng tôi:
- Ráng lên các anh, tới đây mát lắm!

Em tháo gùi, đặt xuống một tảng đá gần đó. Anh em trong đoàn lần lượt đặt ba lô, gùi xuống, thở phào khoan khoái. Tôi và Ba ngồi trên một tảng đá cao, to. Ở đây, tầm mắt chúng tôi trải rộng ra, phóng khoáng. Trước mắt tôi, con đường chúi xuống một cái dốc rồi khuất dần sau những dải đồi bát úp lúp xúp. Xa hơn nữa là những nà, những ruộng um tùm cỏ. Và tít tắp dưới kia, bao la, phóng khoáng, là đồng bằng, là biển. Lẽ ra, cái thảm cây cỏ đó phải phủ đầy màu xanh dịu dàng. Nhưng, chiến tranh đã ghi lên những dấu tích lở lói. Có những khoảng rừng cây cối khô trụi, phơi mầu mông mốc dưới nắng. Có những vạt rẫy cây cối vàng ruộm. Đó là kết quả của những trận máy bay Mỹ - Ngụy rải chất độc hóa học. Lỗ chỗ khắp nơi là những hố bom, hố đại bác đỏ lói.

Một luồng gió từ biển thổi thốc về, mát rượi. Ba chợt thốt lên:
- Mát quá anh hè! Gió ni là gió cá chuồn đây!
Tôi hỏi lại:
- Gió cá chuồn?

Ba lấy tay quệt mồ hôi trán, vẻ thành thạo:
- Trời cứ gió như ri đi biển là trúng lắm, cá chất đầy thuyền!
- Em có đi biển?
- Quê em vùng biển.

Ba đưa tay chỉ về phía xa xa:
- Quê em, Kỳ Anh đó!

Rồi em say sưa:
- Ông già em làm nghề biển. Em chỉ được ra bãi biển đón thuyền vô, chớ chưa được đi biển anh à! Hồi đó em có chút chun mà.

Má em gánh cá, em chạy theo. Chao, vui lắm.
Ba lại chợt hỏi:
- Anh được ăn cá chuồn với bánh tráng chưa? Chưa à? Chà, ngon tuyệt! Má em hay cho em ăn món đó lắm!

Tôi hỏi:
- Giờ, ba má em vẫn đi làm biển?
Giọng Ba chợt giận dữ:
- Đâu có được, anh!

Ba dừng lại một chút. Em nhìn mãi ra xa. Sao ở đôi mắt ngây thơ ấy lại có cái nhìn xa xăm đến như vậy. Một tràng bom nổ rền làm cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Ba đứng dậy:
- Lại thằng B.57. Thôi, đi, mấy anh!

Ba dặn dò:
- Từ quãng này đường trống, địch chú ý lắm. Các anh nhớ đi thưa hàng và nhanh theo em nghe! Mà các anh sửa lại đai dép, dây mang cho chắc đã!

Tôi đứng chăm chú nhìn Ba xốc lại gùi. Chú bé thật hồn nhiên, song lại có những nét thật cứng cáp. Bắt gặp cái nhìn chăm chú của tôi, Ba bỗng đỏ Ửng mặt lên, lúng túng. Em giật cái mũ lưỡi trai trên đầu xuống, bóp nhàu trong tay:
- Em đội cái mũ ni lấc cấc lắm hả anh? Trước, em cũng có chiếc mũ Giải phóng xinh lắm, nhưng pháo lượm mất rồi!

Mọi người đã rục rịch bước đi. Ba bỏ dở câu chuyện, vượt lên:
- Đoạn này em phải đi trước. Nhớ cảnh giác bám đường nghe mấy anh!

Đường vượt qua một dãy đồi bát úp rồi trườn xuống một cái nà lớn. Ở đây, cỏ dại mọc um tùm, thỉnh thoảng có vài bụi lách, tuyệt không có một chòm cây lớn nào! Một dòng sông lớn cắt ngang nà, nước loá lên trong ánh nắng. Nắng vàng ong ong. Cỏ và bùn hấp hơi nóng, bốc lên mùi hăng hăng, tanh tanh. Bầu trời trong xanh, tít xa điểm mấy chấm đen của những chiếc máy bay trực thăng. Im lặng một cách kỳ lạ! Ba vẫn đi trước, ghìm chắc trong đôi tay nhỏ bé khẩu AK. Chúng tôi rảo bước theo em. Chợt Ba ngoái lại, vẫy tay rồi rúc vào một bụi cỏ. Chúng tôi nhanh nhẹn làm theo em, ngồi im thin thít. Có tiếng động cơ máy bay phành phạch, phành phạch. Ba chiếc HU1A bay ngang đầu chúng tôi rồi lướt về phía Tam Kỳ. Ba gọi chúng tôi, vụt ra khỏi bụi và lại rảo bước. Sắp tới con sông, Ba ra hiệu cho chúng tôi dừng lại. Em men theo các bụi cỏ, lom khom bước tới. Phía trước em là một bãi cát trắng. Bãi cát loá nắng, vắng lặng, chỉ có tầng không khí bị nung nóng khẽ xao động. Ba nghe ngóng, dò xét rồi vụt chạy ra, vẫy tay cho chúng tôi chạy theo. Cát xào xạo dưới chân. Rồi nước! Nước con sông đã ôm gọn đôi chân tôi.

Mát rượi! Dòng sông vào mùa này trong suốt, hiền từ như một dải lụa. Ba đã lội qua bờ bên kia. Chúng tôi cũng lội ào qua, đạp nước tung toé. Lại đạp lên cát xào xạo, sỏi lổn nhổn mà chạy vào xóm trước mặt. Thoáng nhìn, giữa bãi cát, một vũng máu đen kịt. Chắc lại có người bị bọn Mỹ “lết” phục kích bắn chết. Thoáng nghĩ vậy mà vẫn lao nhanh về phía trước...

Vào tới xóm, Ba để chúng tôi ngồi nghỉ ở một vườn cây và bảo:
- Các anh nghỉ chút, em đi nắm tình hình rồi quay lại liền!
Vừa bước được mấy bước, gặp một tốp người từ phía Bắc đi lại, Ba chợt reo lên:
- A, anh Luyện!

Mới kịp giáp mặt, Ba đã tíu tít:
- Sao anh, tình hình đường ra sao?

Luyện nắm tay Ba, ân cần:
- Lũ Mỹ “lết” mới qua Dương Tranh, Bầu Tre, không đi đường ni được em ạ!
Ba nhíu mày:
- Vậy phải vòng qua Đèo Sỏi?

Hình như mỗi con đường đều hằn rõ trong óc Ba nên em mới có thể nói một cách chắc chắn như vậy. Luyện gật đầu:
- Chỉ có con đường nớ thôi. Em đi, chú ý pháo nghe! Bọn anh đi bám địch đây!

Ba dẫn chúng tôi rẽ ngoặt về hướng Tây. Luyện đưa anh em du kích tiến về hướng Bắc. Bóng những người du kích vai vác AK, CKC khuất dần sau những hàng cây rậm rạp.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #39 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2007, 09:04:56 pm »

Trời đổ ập bóng tối xuống, trùm kín chúng tôi. Con đường chỉ hiện lên mờ trắng trước mặt. Trước khi vượt qua một cánh đồng lớn, Ba đứng lại căn dặn:

- Các anh chú ý nghe pháo. Có chuyện chi thì lăn xuống con mương cạn ngay bên phải đường. Cánh đồng ni bọn em gọi là cánh đồng toạ độ đó!

Bóng Ba mất hút trong màn đêm. Chúng tôi cứ căng mắt theo con đường mờ trắng mà vọt theo. Có tiếng pháo đề pa ở phía Nam “ùng”. Tiếp đó là tiếng rít: “víu...!”. Sau đó là tiếng nổ “oàng” ở phía xa.

Tiếng Ba vang lên: “Kệ nó! Thằng Trà Bồng đó! Nổ xa”. Tiếng “ùng!... viu... oàng” cứ nối tiếp, nối tiếp điểm nhịp bước chân của chúng tôi. Rồi đột nhiên im bặt. Chỉ còn tiếng những bước chân chạy thình thịch trên đất. Gió đột nhiên tràn về mát rượi. Vừa thoáng nhớ tới lời Ba: “Gió cá chuồn” thì tôi bỗng giật nảy người lên vì tiếng thét: “Nằm xuống!” Chỉ kịp lăn bừa xuống con mương khô, đã thấy trước mặt bung ra một quầng lửa chói loà rồi một tiếng nổ dữ dội. Những quầng lửa như vậy cứ liên tiếp bùng lên khắp cánh đồng như những đốm ma trơi khổng lồ, nổ chát chúa. Rồi lại im. Tiếng Ba vang lên: “Có ai hề chi không?” Chúng tôi ngồi dậy: “Không!”. Ba dằn giọng:

- Thằng Gò Gai đó! Các anh chú ý, nghe tiếng xoẹt trên không là lăn xuống mương liền nghe. Thôi đi!
Con đường, cánh đồng với những đốm ma trơi nổ choang choác đã ở sau lưng chúng tôi. Ba dẫn chúng tôi rẽ vào một xóm nhỏ. Xóm im lìm chìm trong màn đêm đen đặc. Dò dẫm từng bước một thì vào một căn nhà nhỏ. Căn nhà bỏ hoang, không phên vách, không mái.

Duy chỉ có cái hầm là còn tốt. Ba dẫn chúng tôi xuống ngồi trong hầm. Em cười:
- Mệt không các anh? Các anh hút thuốc đi, ngồi đây hút được đó!

Trong khi người lục túi lấy thuốc, người sửa lại bao mang, thì Ba đã nhảy lên khỏi hầm, biến mất trong bóng đêm. Lát sau, Ba trở lại:
- Uống hớp nước, các anh. Chắc khát hung rồi!

Chúng tôi ồn lên vì sung sướng. Trải qua một ngày nắng gắt, một thôi chạy, ai nấy mệt nhoài, khát cháy họng. Những hớp nước Ba mang lại lúc này thật quý vô cùng. Những đốm lửa thỉnh thoảng lại loé lên từ đầu những điếu thuốc. Có ai đó quẹt thùng diêm làm bừng sáng lên một góc hầm, Ba ngồi ở góc đó, mắt sáng long lanh, vẻ sung sướng. Đột nhiên, có một tiếng kêu: “Chết cha tui rồi!”. Ba thảng thốt:
- Chi đó anh?

Một tiếng đàn ông ồm ồm đáp lại:
- Trời ơi, cái xắc tài liệu của anh sút đai, rớt lúc nào rồi!
- Cái xắc? Nó mới rơi?
- Chắc vậy, trước khi vượt cánh đồng, anh còn nắn đai nó mà!

Ba ngồi im lặng. Còn anh em khác thì cứ ồn lên trách móc anh cán bộ già đã đánh mất cái xắc:
- Sao không cột đai cho chắc?

Anh cán bộ rầu rĩ:
- Cực quá, xắc đó đựng toàn tài liệu quan trọng! Làm sao bây giờ?

Ba đứng vụt dậy:
- Để em đi kiếm về!

Có tiếng can ngăn:
- Biết ở mô mà kiếm, em?
- Pháo bắn dữ rứa!

Nhưng Ba đã nhảy phốc lên mặt đất, mất hút trong màn đêm.
Cả căn hầm rì rầm, xao động. Có ai đó thốt lên:
- Thằng nhỏ dễ thương quá!

Một giọng khác tiếp:
- Thằng nhỏ mau lớn dữ! Mới cách đây chưa đầy năm, nó chút chun chứ mấy!

Rồi vẫn giọng đó kể:
- Hồi nớ bọn mình đi từ dưới lên, cũng qua vùng ranh này, nhưng đường còn tĩnh, không ác liệt như bữa ni mô. Các ông biết đó, cánh già bọn mình đi bết lắm, đã chậm lại nghỉ nhiều. Thấy giao liên là một chú bé mười hai, mười ba tuổi, bọn mình đòi nghỉ luôn. Cứ đi chừng hơn nửa tiếng lại: “Ba, uống nước cam đã em”, hoặc: “Chà, chỗ ni mát rứa, không nghỉ cũng uổng, Ba...”.
Ba cứ lặng lẽ chiều theo bọn mình. Nhưng khi mặt trời gần đứng bóng, không nén được nữa, chú bé van vỉ: “Các chú đi mau lên, không quá giờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình”. Rồi nó oà lên khóc.
Một anh cười lớn:
- Ô, thế thì chuyến đi của mình với Ba lại khác hoàn toàn. Bữa ấy không có Ba chắc mình chết mất.

Chẳng là bữa ấy, Ba cũng dẫn mình qua bãi trống hồi trưa bọn mình vượt qua đấy. Chẳng may dép của mình tuột quai. Thằng “chuồn đen” ở đâu lại lùi lũi đến.

Hoảng quá, mình chạy quýnh cẳng giữa bãi trống. Thằng “chuồn đen” nghiêng cánh, thế là pháo nã tới tấp, tung bụi mù mịt. Mình không biết chạy đường nào nữa. Chính lúc đó Ba lao ra hét lớn:
“Nằm xuống!” rồi kéo mình nhào xuống một hố đạn gần đấy. Thằng “chuồn đen” quần lượn nhòm ngó, và mỗi lần nó nghiêng cánh là pháo lại dập tới. Ba ngước mắt nhìn trời, bảo mình: “Anh, chạy theo em nghe!”. Rồi Ba kéo tay mình, lao lên. Hễ thằng “chuồn đen” quay đi thì Ba kéo tay mình chạy. Lúc nào nó vòng lại thì Ba kéo mình nằm xoài xuống, giấu thân trong cỏ. Rồi cũng thoát. Hai anh em chạy vào trong xóm ngồi thở. Mình nhìn Ba bỗng giật mình. Trên đầu Ba một dòng máu đang chảy ri rỉ. Chiếc mũ tai bèo của em đâu mất...

Một anh sốt ruột hỏi:
- Sao? Ba bị thương à?

- Bị thương, Ba bị thương... Nhưng em chỉ nhoẻn cười, đưa tay vuốt dòng máu: “Không hề chi anh, như con vắt cắn thôi”. Chúng mình lại đi. Lúc này, một chiếc “tàu rọ” cùng mấy chiếc HU1A nữa bay tới, quần sát sạt bãi nà. Thật hú hồn! Nếu cứ quýnh ở đó thì nó chộp cổ rồi!”. Điếu thuốc tắt từ lúc nào anh không hay. Anh móc thùng diêm quẹt quẹt... Bữa ấy, Ba cứ đầu trần vậy mà đi dưới nắng. Một anh trong đoàn có cái mũ lưỡi trai của lính nguỵ, không hiểu lượm được ở đâu, vẫn nhét trong túi ba lô, liền đưa cho Ba, nói mãi chú bé mới nhận. Nhưng vừa chụp nó lên, em lại giật xuống ngay. “Dị òm anh, cái mũ thằng ngụy coi lấc xấc, thôi trớt”. Bọn mình phải xúm lại giải thích mãi, chú bé mới chịu...
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM