Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:43:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bê trọc  (Đọc 99783 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #10 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2007, 02:53:13 pm »

Ngày 29/7/1968

Vẫn chưa liên lạc đươc với Khu. Gạo còn chút xíu thôi, nằm chờ sao được? ở cái khu rừng nghèo nàn này thì kiếm được gì mà ăn kia chứ. Ngay trạm cũng chỉ ăn cháo. Đến một lát sắn khô cũng không có mà ăn.
Chiều qua, Dân - trạm trưởng - lục tìm mấy củ sắn tươi để dành từ mấy hôm trước, định xắt ra nấu cháo. Song nó thối mất rồi. Ai nấy tiếc đứt ruột.

Trước tình hình như vậy, chúng tôi bàn nhau phải quay ra trạm ngoài để kiếm gạo, sắn.
Lại quay về con đường cũ. Đường rừng bữa nay ẩm ướt vì trận mưa hôm qua và quá nhiều vắt. Mặc dù chúng tôi đã bôi thuốc chống vắt, vắt vẫn không hề sợ. Chúng ào ào xông đến bám vào chân cẳng, quần áo. Tôi đi một đôi bít tất dầy và dài tới đầu gối nên vắt không cắn được. Tuy nhiên chúng bám đầy bít tất. Không sao bắt xuể. Đứng lại bắt một hai con thì lập tức ba bốn con khác lên thay. Vừa đi vừa co cẳng lên, lấy tay gạt bừa, rơi con nào thì rơi vậy. Lũ vắt bò lổm ngổm đầy hai bít tất, leo lên tận đầu gối. May quá, tới một con suối rồi. Chúng tôi nhảy ra các tảng đá ngồi bắt vắt. Ở các kẽ chân, quai dép, vắt hàng búi. Chỉ một chặp, tôi giết được 30 con vắt to nhỏ. Ôi chao, vắt!

Trưa nắng, chúng tôi ra tới một con suối lớn. Ai nấy kiếm bóng mát ngồi nghỉ. Tôi lội qua suối rồi ngồi xuống một tảng đá bên một bụi cây mát rượi.Vừa ngồi xuống thì tôi thấy một con vắt no tròn lăn cù theo độ dốc của phiến đá. Không hiểu nó hút máu tôi từ lúc nào mà bây giờ no như vậy, no tròn bóng lên, no không bò nổi nữa.

Trông con vắt mà tiếc máu vô kể. Tôi lấy gậy chọc cho con vắt toé máu ra cho bõ ghét. Máu đen thẫm, loang đầy phiến đá. Tôi ngồi im, mệt mỏi. Sao nhớ nhà thế. Tôi thấy hình ảnh cha, mẹ, anh em hiện lên rất rõ. Tôi muốn ôm lấy lũ em mà không được. Và tự nhiên nước mắt tôi cứ trào ra, không sao kìm nổi. Tôi để mặc những giọt nước mắt lăn trên gò má, nóng hổi. Ôi, những giọt nước mắt yêu thương, ngươi không làm yếu lòng ta, ngươi cứ chảy đi...

Xế chiều, chúng tôi tới trạm. Người đói run lẩy bẩy. Anh em chia cho mỗi người 1/3 lon gạo để nấu cháo. Phải ăn hết sức dè sẻn như vậy mới được. Tôi đi kiếm môn dóc. Môn dóc là loại rau dại mọc rải rác trong rừng, trông gần giống các loại khoai môn nhưng lá dài và nhỏ hơn. Tôi lọ mọ khắp rừng mà chỉ lần được vài cây. Chúng tôi hái lá, tước cọng, rửa sạch để chuẩn bị nấu canh. Thật đã đói thì một cọng rau cũng quí. Cái thứ môn dóc ấy nấu lên bay mùi hôi như cám lợn, song lúc này cũng quý như rau muống vậy. Tôi ra máng nước, nhặt lại mấy đầu mẩu sắn anh em vứt bữa trước, tuy nó xương xẩu và đã chạy nhựa thâm lại nhưng vẫn quí, vì nó còn chút chất bột. Tất cả những thứ đó - 1/3 lon gạo, mấy cọng môn dóc, mấy đầu mẩu sắn - tôi dồn cả vào ăng gô, nấu nhừ ra. Bữa cháo ấy mới ngon lành làm sao.

Ăn rồi toàn Chi họp bàn cách gỡ thế bí (Chi không phải là chi bộ mà là tên gọi của mỗi đoàn kèm theo số hiệu, như Chi của tôi có phiên hiệu 192). Anh Bí thư Chi đang sốt, mặc sù sụ chiếc áo vệ sinh và nói bằng cái giọng khịt khịt của người tịt mũi: “Bây giờ gặp khó khăn, tất cả chúng ta phải đoàn kết, thương yêu nhau, cùng nhau phải giải quyết...” Bàn luận rồi chúng tôi nhất trí: để một số đồng chí ốm yếu lại coi đồ đạc, còn những người khỏe quay lại trạm 3 để xin gạo.

Tôi chuẩn bị đồ đạc để sáng đi sớm. Đêm ngủ mê toàn thấy ăn tiệc. Tỉnh dậy thấy trống không và bụng đói cồn cào, sôi lục bục.
 
Ngày 30/7/1968

Bốn chúng tôi ở tiểu đội Hai và 4 người ở tiểu đội Một hợp thành một đoàn, khăn gói lên đường. Thành và Điều thuộc tiểu đội tôi ở lại vì yếu mệt. Chúng tôi nấu một ít cơm để ăn sáng và trưa, còn bao nhiêu gạo thì trút hết lại cho anh em.

Khăn gói nhẹ bỗng, chúng tôi lên đường - lại qua rừng quế, qua những đoạn đường trơn tuột. Khi tới làng, chúng tôi dừng lại để đổi sắn. Vật tư cạn rồi. Tôi cầm cái hộp guy gô của Vượng vào với tâm trạng đầy lo lắng: liệu có kiếm được gì không? Tôi thẩn tha vào các nhà, dỗ dành mấy lũ trẻ và cuối cùng đổi được 9 củ sắn. Tôi mừng rơn, 4 anh em sẽ được nhờ tôi ở 9 củ sắn ấy đấy.
Chúng tôi cắm cúi leo dốc. Đỉnh dốc này có một rẫy sắn cũ.

Nắng và nóng làm chúng tôi thở hồng hộc. Tôi ngồi nghỉ với hai đồng chí pháo phòng không. Hai người mang hai gùi sắn vơi vơi, củ nhỏ và cong queo. Họ cho biết, họ mót sắn ở đồi này. Song gay lắm.
Đất rắn và có lẫn đá nên phải dùng xẻng đào, vậy mà suốt từ sáng đến trưa, họ chỉ kiếm được từng ấy sắn. Còn chúng tôi, với mấy con dao găm nhỏ, liệu được gì? Mà thật tai hại, khi leo từ suối lên đỉnh dốc, con dao găm của tôi lại biến đâu mất rồi kia chứ. Chúng tôi nhìn nhau thất vọng và vội xuống dốc để theo kịp tiểu đội Một.

Theo mãi, theo mãi mà vẫn mất hút họ.
Xế chiều rồi mà chúng tôi vẫn không thấy 4 anh ở tiểu đội Một đâu cả. Tôi nhớ ra rằng anh Bí thư Chi (ở tiểu đội Một) và mấy anh nữa cùng tiểu đội đó có người quen ở trường Kinh tài, trường này nằm ở gần đây. Chúng tôi hiểu rồi. Họ bỏ chúng tôi để vào trường Kinh tài nhờ vả cho dễ. Nhớ đến câu của anh Bí thư Chi: “Chúng ta phải đoàn kết thương yêu nhau” mà thấy chua chát! Thôi, đành dừng lại giữa rừng này thôi.
Chúng tôi dựng nhà tăng để ở. Cái sườn nhà này cũ quá rồi, cứ xiêu xiêu vẹo vẹo. Chúng tôi lấy cây chống, lấy đá chèn cho vững.

Vượng chặt về một ôm cọng đùng đình gác lên mái để căng tăng cho phẳng phiu. Không khí ẩm ướt. Chúng tôi khó nhọc lắm mới kiếm được ít củi tạm gọi là khô. Rồi bóc sắn nhét vào ăng gô. San đòi “đạo diễn” món sắn luộc, anh khoe rằng sắn anh luộc sẽ vừa bở tung vừa ráo nước, ngon như bánh khảo vậy. Để bồi dưỡng, chúng tôi làm luôn hai bắp chuối rừng mà tôi và Vượng hái được ở rẫy. Thái nhỏ ra cho vào hai ăng gô, thế là được một bữa canh tuyệt vời. Xẩm tối, chúng tôi dọn “cơm”, cũng 4 ăng gô như ai, tiêu chuẩn cao đấy chứ. Tôi, San, Vượng, Nhị quây quần bên 4 ăng gô, ăn những khúc sắn bở tung với canh bắp chuối ngọt lừ, vừa húp canh sùm sụp vừa khen bữa “cơm” ngon thật là ngon. Rồi thì leo lên võng nằm và nghe đài. Trời mưa lắc rắc. Rừng âm u, tịch mịch. Chúng tôi thiếp đi, quên hết cả mọi lo lắng về những ngày sắp tới. Nhưng quái ác thay, quá nửa đêm thì cái cây ngang cột võng của chúng tôi bị gẫy, đánh bật chúng tôi dậy. Bốn anh em lại hì hục cột cột, chống chống, sửa lều trong đêm tối âm u, dưới trời mưa lắc rắc, giữa không khí giá lạnh.

Chúng tôi đi đã chẵn ba tháng rồi đó, ba tháng đầy vất vả song cũng đầy kỷ niệm yêu thương.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #11 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2007, 02:56:59 pm »

Ngày 31/7/1968

Sáng, dốc chút gạo còn lại ra nấu cơm. Trời vẫn mưa nhẹ hạt.
Chúng tôi phải đóng 4 cái cọc và che áo mưa lên để làm tạm cái bếp.
Song củi quá ẩm ướt nên nấu thật vất vả. Khói tuôn ra và đọng lại đầy cả khu rừng. Không khí nặng quá, khói không tan nổi. Lại có tiếng máy bay trinh sát ì ì phía xa. Cứ chúi mũi vào bếp mà thổi phù phù, chóng cả mặt.

Lại những con đường rừng là lạ quen quen. Đây, dòng suối bữa nọ chúng tôi ngồi nghỉ, xem đồng bào dân tộc lật đá bắt cá. Chúng tôi ngồi bên bờ suối, trầm ngâm. Lúc này, cậu y tá của trạm 2 Giải phóng lại ở đâu dò đến. Cậu ta được lệnh tập trung lên đoàn công tác. Tôi sốt sắng hỏi cậu ta về anh thương binh và cô bé. Cậu ta cho biết anh thương binh nhờ có thuốc nên sau đó ít ngày, vết thương đã hết dòi và nay chân đã khỏi. Còn em bé, em còn đâu nữa! Y như điều tôi dự đoán, bệnh sốt rét quái ác đã cướp mất em! Ôi, thật là cay đắng! Lòng tôi nặng trĩu buồn thương...

Từ đoạn này đi ra, người thật đông. Bộ đội chuyển đạn, chất nổ... đi nườm nượp. Có cả những người gùi những gùi sắn nặng trịch, với những củ sắn to tướng, mập mạp. Chúng tôi xin được vài củ sắn cỡ vừa vừa, lấy làm mừng lắm. Cái bụng xấu tính, cứ sôi lên đòi ăn. Tới một đỉnh dốc gần trạm, chúng tôi dừng lại, làm một bữa “xổi”. Tại đây, vỏ sắn vứt la liệt, những mẩu sắn vứt lăn lóc trên sườn đồi, dưới khe suối. Thỉnh thoảng lại có những củ còn nguyên xi lành lặn nữa. Chúng tôi lột sắn, đựng đầy 4 ăng gô, chất lửa đùng đùng. Sắn bở tung, nóng hổi, đối với chúng tôi như là một bữa tiệc.

Có anh bộ đội mới hành quân từ Bắc vào, nghe chúng tôi nói chuyện, liền đem cơm nắm ra ân cần mời chúng tôi, còn anh ta ăn sắn - anh ta cũng thèm sắn. Thật giống như khi chúng tôi còn nhiều gạo, chỉ độc thèm sắn. Này, bình tĩnh lại anh bạn ơi, rồi thì sắn sẽ làm cho anh ê ẩm đấy.

Ăn uống no nê rồi, chúng tôi kéo quân vào trạm. Thật bất ngờ, chúng tôi lại gặp Thuyết và Các, hai anh em cùng Chi bị ốm, đi sau.

Hai anh kéo chúng tôi vào ở ngôi nhà được trạm phân phối cho.
Hàn huyên, cười nói mãi rồi cũng phải lo tới thực tại, lo tới tương lai của chuyến đi. Gạo hết, muối chẳng còn.

Chiều đó, chúng tôi được một bữa cơm no, ngon, nhờ cơm gạo trắng tinh của Thuyết, Các, nhờ lương khô thịt voi của hai anh bạn bộ đội và nhờ nồi canh sắn ngọt lừ do bọn tôi tự kiếm. Rồi thì xúm vào bàn bạc cụ thể để kiếm ra lương thực. Hiện nay, trạm không chịu cấp gạo cho chúng tôi (kho có trên 5 tấn) và chỉ cho tạm vay: mỗi người một ngày được vay nửa lon sữa bò! Kia, thức ăn no của chúng tôi là rẫy sắn ngoài kia.
 
Thứ năm, ngày 1/8/1968

Chúng tôi dọn ra bãi khách và bắt tay ngay vào việc đi đào sắn - chỉ có dao găm thôi. Tôi cũng có một con dao găm, thực ra nó là loại lưỡi lê của Mỹ, một anh bạn đi ra Bắc tốt bụng đã cho Nhị, Nhị lại cho Tôi.
Ở đây sắn nhiều, nhưng bỏ lâu rồi nên hoang vu, sắn mọc lẫn những bụi gai góc, lau sậy, cây cối. Phải chui rúc mà mót, may thì gặp nơi nhiều, không may thì gặp nơi ít.

Cứ theo triền dốc đi xuống, chúng tôi gặp một bãi sắn đã bị khai thác. Cây sắn to đổ ngổn ngang, còn trơ cái hốc đỏ lòm mầu đất. Tôi ngơ ngác tìm các bờ bụi, chẳng thấy cây sắn nào sất! Mà sao lắm cây mâm xôi thế. Loại cây này thân đầy gai, bò ngùng ngoằng, quấn vào nhau dầy đặc. Gai nó cào toạc cả da thịt. Nắng chói chang. Nắng toé lửa. Tôi bươn lên sườn núi lùng nhùng những bụi mâm xôi rồi rúc ngang, kiếm mãi vẫn chẳng có gì. San và Vượng cũng vậy. Nhưng sau đó, chúng tôi cũng tìm ra 2,3 gốc sắn mọc lẫn trong lau lách. Thế là xúm nhau vào phát, đào. Cái thứ sậy chết tiệt này, rễ, gốc ăn tràn mặt đất, cắm sâu xuống đất và cứng tổ cha. Tôi, San, Vượng phải thay nhau dùng dao găm bạt dần từng mảng rễ, gốc đó ra mới đào được. Khát khô cả cổ. Bi đông cạn sạch nước rồi. Trời lại rắc cho một ít hột mưa rào. Thế là hơi đất được dịp bốc lên, thốc vào mặt chúng tôi - những khuôn mặt có những cái miệng và cái mũi đang há hốc ra thở dốc. ậm ạch, hì hục mãi rồi cũng moi được sắn từ lòng đất lên. Khoảng một nửa gùi tất cả. Quá trưa, chúng tôi ra về.
 
Ngày 2/8/1968

Lại đi đào sắn, song đi chếch ra ngoài một chút. Tôi và San mượn được hai cái xẻng nhỏ, chắc sẽ đỡ vất hơn. Nơi này khá rậm. Rúc một lúc là mất hút Vượng rồi. Chúng tôi í ới gọi nhau, nhưng không được, đành chia hai cánh, đào hai ngả vậy. Nơi này khá nhiều sắn. Tôi và San cắm cúi đào. Đất cũng khá mềm. Cứ đào được một bụi, lại rúc rúc, luồn luồn trong bụi rậm, lần ra từng hốc sắn mà đào.

Khoảng nửa buổi, tôi rúc ngược lên và gặp Vượng, Anh đào được khá nhiều sắn. Sắn to thật, nhiều củ bằng bắp đùi. Tôi cũng ra sức đào. Moi lên những củ sắn đầu phình to, đuôi múp lại, trông thật ngộ ngĩnh.
Xế trưa, chúng tôi ra về, mỗi người lặc lè một gùi sắn. San không gùi, anh buộc lại mà gánh. Thế là tai vạ đến với anh: rúc một chặp, sắn bị dây dợ, gai góc lôi kéo thi nhau rơi. Mỗi lần như vậy, San lại phải đặt gánh xuống, lượm từng củ, buộc lại. Có lẽ quá mệt, anh đâm bẳn tính, cáu gắt nhặng xị. Tôi cứ bụm miệng cười. Ai bảo dại!
Khát khô cả cổ. Mệt mỏi rã rời. Gùi sắn trĩu nặng trên lưng...
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #12 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2007, 02:59:32 pm »

Thứ bảy và chủ nhật, ngày 3-4/8/1968

Đã có sắn ăn, sắn để, chúng tôi tạm nghỉ ngơi cho dãn xương, dãn cốt và tích cực đi làm công tác vận động lương thực. Thuyết xin được cho chúng tôi khoảng hai lon muối - thật quý hơn vàng (lúc này, do tài “ngoại giao” Thuyết, Các vẫn được nghỉ và ăn uống trong trạm, bốn đứa chúng tôi nghỉ ở nửa ngôi nhà ở giữa bãi khách, cạnh tiểu đội Một).

Trạm vẫn khăng khăng không cấp gạo cho chúng tôi. Lý do họ nêu ra: đường dây vẫn thông suốt, các anh cứ đi là được! Chúng tôi phải nằn nì mãi, sau mới được cấp 6 kg gạo. Tuy nhiên, anh em ăn hết sức dè sẻn. 4 người ăn chưa đến 2 lon gạo một ngày, còn toàn là sắn. Sáng, chiều, ăn chút cơm ghế sắn. Trưa, ăn sắn luộc.
 
Ngày 5-8/8/1968

Chúng tôi tiếp tục vừa nghỉ ngơi vừa đào sắn, thái và phơi, sấy sắn. Chủ yếu là sấy vì ở đây rừng già, chỉ có ít ánh nắng. Chúng tôi làm một cái giàn bếp lớn, gác lên đó một cái vỉ tre rồi rải sắn lên.
Phía dưới là bếp, hàng ngày nấu ăn, tối thì chất củi gộc, củi tươi vào đốt suốt đêm. Chẳng bao lâu chúng tôi được một bao sắn khô to tướng.
 
Ngày 9/8/1968

Có tin đã nối được liên lạc với VQ ( tức Vinh Quang, mật danh của Khu ủy khu Năm). Trạm cấp cho chúng tôi gạo ăn đường: 6 ngày, mỗi ngày mỗi người 2 lon.
Thật là mừng, chúng tôi bàn nhau phải liên hoan một bữa. Tôi, San, Nhị vác cần đi câu cá, được khoảng một nắp ăng gô. Lại xin được hai quả dứa. Thế là được một nửa ăng gô cá kho ngon tuyệt.
Chiều, chúng tôi nấu cơm không ghế sắn, ăn với cá kho dứa và coi đó là đại tiệc.
 
Ngày 10-13/8/1968

Lại trở lại đường cũ, ba lô nặng trịch những sắn khô và chút gạo.
Khi vượt được đỉnh Sơn Mại rồi, đi qua một con suối, tôi thấy có mấy anh bộ đội trẻ măng ngồi bên một đống củ nần. Loại củ này to bằng ấm tích, tròn, có bột mầu trắng ngà, phải làm thật kỹ (sắt ra, ngâm nước mấy ngày), ăn mới hết đắng, hết say. Mấy anh ấy ở đơn vị pháo ngoài Bắc mới vào, bị lạc đơn vị, bị đói. Sâu vào phía trong một chút, dưới một cái tăng có treo một cái võng. Chiếc võng căng nặng, chứng tỏ có người nằm trong. Ở một đầu chiếc võng, ướt đầm đìa những nước. Từ đó bay ra mùi khai thối nồng nặc. Anh bộ đội đó bị ốm nặng, lại bị đói, liệu có thoát khỏi cái chết giữa núi rừng hoang vu này không?
Chúng tôi nghỉ lại ở trạm Dân. Trạm vừa bắn được hai con Dộc (loại thú rừng họ khỉ), Dân cho chúng tôi một con nhỏ. Lúc nào cũng vậy, Dân rất niềm nở, tươi cười và hay chia ngọt xẻ bùi với anh em. Trạm anh vừa cứu được một đồng chí bộ đội bị ốm và suýt chết đói. Hiện anh ta đã khỏe và trạm vẫn nuôi. Lương thực vẫn khó khăn.
 
Ngày 14/8/1968

Đi đến trạm Khoa. Đường bằng, men theo các bờ suối hoặc xuyên qua những khu rừng bằng phẳng, đầy lá khô và nhung nhúc những vắt. Thỉnh thoảng có một vài cái dốc ngắn song trơn tuồn tuột - đất ở đây là loại đất thịt, bị thấm nước, nó tạo thành một lớp bùn quánh, nhầy ở bề mặt, còn phía dưới vẫn cứng nên mới trơn như vậy. Nhiều người đã ngã - ngã lăn ba vòng từ trên xuống, ngã ngồi trượt một đường dài... đủ kiểu ngã. Tôi cố sử dụng chiếc gậy thật khéo léo, lúc thì chống, lúc thì ghìm lại thành một cái trụ vững chắc nên xuống mấy dốc đó đều an toàn.
 
Ngày 15/8/1968

Giao liên dẫn chúng tôi đến trạm Phú là một anh người nhỏ nhắn. Anh bị đau bụng - kiểu đau dạ dày - nên thường tụt lại đi sau chúng tôi. Đường men theo bờ sông, cũng dễ đi. Phía bờ sông bên kia có những nơi bị bom cày phá khiến cây cối đổ gục, đất bị đào bới, phơi màu đỏ hoen ố.
Đến trưa, chúng tôi mang cơm ra ăn. Cơm của tôi có ít, vì hết sắn khô để ghế rồi. Anh giao liên mang gói cơm bé xíu ra - thực ra đó là sắn khô nấu thì đúng hơn, vì chỉ có loáng thoáng ít hạt cơm.
Anh nói trạm này cũng đói, gạo quá ít và đi lấy sắn quá xa, phải mất hai ngày đường. Anh giao liên chỉ ăn vài miếng là hết veo nắm cơm tội nghiệp. Tôi mời anh ăn thêm với tôi, anh ta ăn rất tự nhiên.

Cũng thật xúi quẩy, chúng tôi xin được một quả lựu đạn, đem đến một hục sâu ở suối ném, định kiếm một chút cá. Nhưng lựu đạn nổ mà chẳng có con cá nào chết cả!
Chiều, tới trạm, vừa kịp căng tăng thì trời nổi gió đùng đùng và sầm sập đổ mưa. Chúng tôi góp gạo, ăn chung với trạm. Còn trạm thì có sắn tươi và cá - cá do anh em giao liên mò ở suối, được ít con. Bữa cơm nóng, ngon.

Đường nhiều dốc nhưng ngắn. Rừng nhiều muỗi quá, mỗi khi ngồi nghỉ là chúng ào vào đốt túi bụi. Tôi phải lấy khăn mặt đập ngang đập dọc luôn tay mà vẫn bị đốt tịt cả người. Rừng cũng nhiều hạt gắm quá, tôi nhặt không biết chán. Trong lúc lương thực thiếu thốn này, hạt gắm thật quý - nó có chất bột, sẽ làm chúng tôi bớt đói một chút và ăn lại ngon, vừa bùi, vừa béo. Điều cũng cặm cụi nhặt với tôi. Thuyết nhặt được một nắm, đưa cho tôi mang rồi đi thẳng - anh rất ngại làm công việc cải thiện sinh hoạt và chỉ thích nghỉ ngơi. Vượng, Nhị, San thấy chúng tôi nhặt cũng chẳng để ý, cứ đi thẳng, có lẽ các anh chưa biết giá trị của hạt gắm.

Bãi nghỉ của chúng tôi quá chật hẹp, nằm kề một con suối nhỏ, dưới một cái làng của đồng bào dân tộc. Tôi bước vào bãi định kiếm một chỗ căng tăng thì bỗng thấy đau buốt ở chân; Tôi ngã khuỵu xuống. Trời, mu chân trái của tôi mang nguyên si một mũi chông tre kiểu lá tranh. Mũi chông cắm sâu vào mu bàn chân, tôi phải rút nó mới chịu rời ra. Nó cắm sâu tới gần hai đốt ngón tay. May nó không có ngạnh nên không bị mắc cứng trong đó. Máu từ vết thương tuôn ra, đỏ thẫm cả bàn chân. Anh em chạy xúm đến. Vượng nhai thuốc lá dịt cho Tôi. Điều dở băng băng chặt lại. Tôi tập tễnh về treo võng nằm, lòng đầy lo ngại. Lúc ấy tôi mới để ý nhìn và thấy ớn lạnh: quanh bãi nghỉ, ngược lên triền dốc, chi chít những chông. Chông hình lá tranh, bén nhọn, được cắm chênh chếch và lẫn vào cỏ, rất khó phát hiện. Có lẽ đồng bào cắm chông đề phòng biệt kích.

Tối, Điều mang hạt gắm ra rang. Anh em xúm xít quanh bếp lửa. Chúng tôi chia đều cho 7 người, mỗi người được khoảng bốn chục hạt, ăn thấy bùi, béo, thơm, thú vị vô cùng.
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2007, 07:47:50 pm »

Ngày 17/8/1968

Cái chân đau muốn cản trở cuộc hành quân của tôi. Đường lại cứ nhằm suối mà đi. Lội nước đến phát sợ lên. Người ớn lạnh, sởn gai ốc.
Đến trạm, tôi vội lấy thuốc tím rửa chân rồi rắc thuốc Sunfamit vào. Miệng vết thương khép kín, trắng bợt. Lo lắng về gạo vô cùng. Biết đi mấy ngày nữa? Ôi, cái kiểu đi nửa ngày ỡm ờ này làm chúng tôi tốn gạo quá. Chúng tôi ăn rất dè sẻn.

Hành quân mang nặng mà chỉ ăn một lon rưỡi gạo một ngày - nấu cơm suốt từ sáng để ăn ba bữa. Do vậy, phải tự kiềm chế ghê lắm, nếu không sẽ ăn hết ngay trong một bữa. Cơm ăn với muối trắng mà thấy ngon lạ. Sáng, ăn 1/3 khẩu phần, thấy thòm thèm quá. Muốn ăn thêm. Này, hãy tự kiềm chế đi, ăn thêm một thìa thôi nhé. Trưa, chiều lấy gì ăn nếu ăn hết từ sáng? Đến trưa lại phải đấu tranh dữ dội nữa. Bụng đói cồn cào, đầu gối bủn rủn. Ăn mấy thìa đấy? Còn phần của chiều - chớ quên điều đó, chớ sa đà. Trời ạ, ác hại thay, sao trời sinh ra hạt gạo ngon thế? Ăn một lại muốn ăn hai. Nhất là những lúc đói kém này. Song, tôi tự kiềm chế nổi - phần của bữa nào ra bữa đấy, có xê xích cũng chỉ trong khoảng một, hai thìa.

Tối, Thuyết lò mò đi xin được hơn một lon bắp. Tất cả tiểu đội đều mừng rỡ và lập tức bắc nồi, chất lửa rang ngay. Những hạt bắp thơm phức, ròn rộm đã đem lại cho chúng tôi một niềm vui nho nhỏ.

Anh em quây quần quanh bếp lửa, chia nhau từng hạt bắp rang và tán đủ thứ chuyện. Mọi mệt nhọc, lo lắng dường như bị lãng quên.
 
Ngày 18/8/1968

Chúng tôi tới trạm An. Giao liên cho chúng tôi đóng tăng ở một bãi nhỏ, giữa dốc và nằm kề một con suối nhỏ.

Tình hình đường lơ mơ quá. Còn đi mấy ngày nữa, giao liên không biết. Ai sẽ cấp thêm gạo cho chúng tôi? Trạm ư? - Trạm cũng đói. Cho đến hôm nay, mỗi người chúng tôi chỉ còn một lon rưỡi gạo và một chút cơm nguội đóng trong ăng gô và... hết, xung quanh là rừng núi cùng những anh em thiếu đói...

Số gạo còn lại phải để dành, phòng khi đói lả còn có chút hơi gạo. Chúng tôi phải đi kiếm thêm môn dóc ăn. Ở đây, môn dóc cũng hiếm. Cây môn dóc cằn cỗi, nhỏ xíu, mọc lưa thưa trên vách núi, ven suối. Tôi tập tễnh lê cái chân đau đi kiếm môn dóc cùng San.

Cái suối này đổ từ đỉnh núi xuống nên rất dốc. Lòng suối đầy đá tảng trơn tuột. Chúng tôi thận trọng dò từng bước theo suối đồng thời phải hết sức chú ý hai bên vách núi. Hễ có môn dóc là phải bám vào cây, đạp chân vào những mô đá mà leo lên hái. Hái mãi mà chỉ được vài nắm. Tôi phớt cái chân đau, xông bừa vào bụi, mặc gai mây cào, mặc dây leo níu. San cũng xông xáo theo tôi, song anh hơi thiếu kiên trì. San cứ giục: “Về thôi, đủ rồi”. Tôi nhìn bó rau mà lắc đầu: “Đấy, 7 người ăn chứ ít đâu?”. San in lặng và lúi húi kiếm môn dóc. Tôi vướng phải một dây leo hình múi khế, có 4 cạnh, rất giống cây củ trắng (loại giống củ mài, củ to mà rất nhiều bột, ăn thơm, ngon). Tôi mừng rỡ bảo San: “Có thể là củ trắng đấy”. San sáng mắt lên: “Đúng không, nếu đúng thì lấy dao găm đào bằng được”. Tôi lần theo dây, nó mọc ra từ một cái dây khác to tướng chứ không phải mọc ra từ dưới đất. Thất vọng, làm gì có thứ của quý ấy ở chốn rừng già này. Vẫn chỉ có môn dóc làm bạn với ta.

Hái suốt chiều chỉ được hai bó môn dóc. Chúng tôi rửa sạch, tước cọng và chia đều cho 7 người, mỗi người được khoảng nửa ăng gô. Đến khi lấy muối, tôi giật mình: gói muối chỉ còn chút xíu. Mọi khi tôi vẫn giữ muối, hôm qua đưa Điều nấu canh, lúc ấy gói muối còn khá nhiều. Chúng tôi bực bội, ai ăn mà hết đi nhanh vậy?
Nhưng rồi cũng phải nén lại. Lúc đói kém mà dằn vặt nhau quá thì chỉ thêm khổ. Được, rồi sẽ phải lựa lời nói với nhau sau.

Tôi trộn cơm nguội vào ăng gô canh loãng tọet, húp xì xụp, thấy ngon như ăn súp vậy. Thực ra cái thứ rau rẻ mạt này khi nấu lên cứ hôi hôi mùi bùn và từa tựa như cám lợn.

Tối, tôi đến tăng của Thuyết lấy bi đông chế nước cho anh. Tình cờ tôi thấy anh còn một gói ruốc bông (chắc anh xin được ở một trạm nào đó ngoài đường dây Xã hội chủ nghĩa ). Thì ra anh vẫn cất kỹ và ăn giấu một mình. Tôi thấy buồn quá. Tôi nhớ hôm xin được con dộc, chúng tôi nấu kha khá cơm gọi là liên hoan. Tôi vẫn ăn với cái điệu chậm rãi như ở nhà - tôi quen ăn chậm nhai kỹ. Điều đau dạ dầy nên cũng phải nhai kỹ. Tất cả có 4-5 ăng gô cơm, nghĩa là mỗi người được một nửa ăng gô, còn lại một ăng gô rưỡi là phần liên hoan chung. Nhưng khi tôi và Điều ăn hết một ăng gô thì 4 ăng gô kia đã hết veo rồi. 5 anh bạn kia đã ăn hết cả phần cơm tội nghiệp gọi là cơm liên hoan. Thật là dở mếu dở cười. Trong hoàn cảnh thiếu thốn này, ai cũng mau đói, lúc ấy ăn uống dễ bị “quá đà”, lẹm cả vào phần của đồng đội. Thật đúng như các cụ nói chín người mười ý, mỗi anh em trong đoàn có một tính nết riêng. Người chăm kẻ lười, người biết nhường nhịn kẻ lại không. Biết làm sao? Nhưng nói chung, tiểu đội chúng tôi vẫn thường chia ngọt xẻ bùi cho nhau -từ mẩu sắn, hạt ngô đến lá rau. Đồ đạc tư, anh em đều góp lại, mang ra đổi chác kiếm cái ăn chung. Riêng tôi, giờ đây ba lô đã vơi quá nửa, chỉ còn vài thứ thật cần thiết cho cuộc sống.

Nằm trên võng lạnh, để mặc cho cái đói dày vò, tôi nghĩ miên man. Trong khó khăn, bệnh cá nhân có điều kiện bộc lộ. Tiểu đội Một đối với chúng tôi không được tốt. Tiểu đội ấy toàn là anh em người địa phương, quen thông thổ và có người quen nên kiếm được nhiều lương thực. Họ không hề chia xẻ cho chúng tôi. Tới bữa, họ mang gạo, sắn, bắp, đỗ... ra một chỗ và nấu ăn. Họ vẫn luôn luôn kêu thiếu thốn. Tôi nhớ có hôm vào nơi tiểu đội Một ở giữa lúc họ ăn bắp rang, mùi bắp thơm lừng, có anh còn đang nhai dở bắp trong miệng, vậy mà vẫn có anh nói: “Đói hỷ, chẳng có gì ăn cả”. Họ không chia xẻ cho chúng tôi, họ còn giành giật của chúng tôi những của cải của toàn đoàn, đem đi đổi chác. Chiếc lưới đánh cá, họ cho trường Kinh tài để lấy về bắp, đỗ xanh, mắm cá - họ nói rằng họ gửi ở đó (!?). Gửi đó, ai sẽ lấy và bao giờ lấy? Rồi bộ tông đơ cắt tóc, túi thuốc công họ cũng chiếm cả.

Sinh hoạt lỏng lẻo quá, chẳng họp hành, kiểm điểm gì cả nên thật khó phê bình, sửa sai. Chỉ thỉnh thoảng nặng lời với nhau thôi.
Buồn thật!
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #14 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2007, 08:16:03 pm »

Chương 2

Ở căn cứ

Từ 25/8/1968

Chân đau khiến tôi phải nằm suốt. Thật là phiền phức. Cô Nga - y tá - rất tận tình chữa vết thương cho tôi. Ngày nào cũng vậy, cứ buổi chiều là cô mang nước nóng đến rửa vết chông và cái nhọt rồi bôi thuốc đỏ vào. Qua mấy ngày, miệng vết chông khép kín lại và bọng mủ ở trong, nhức nhối. Cái nhọt cũng căng mủ. Nga nặn ra toàn máu đen và mủ. Sau đó, cô lấy panh cặp bông và thọc nó vào tận trong lòng vết thương để kéo máu mủ ra. Miệng vết chông đã liền thịt nên phải lấy panh chọc ra rồi luồn bông có tẩm thuốc vào.

Ngày nào tôi cũng phải chịu cái đau và ghê rợn kinh khủng khi rửa vết thương. Chiếc panh ngoáy vào lòng vết thương như bào từng thớ thịt tôi ra. Tôi cắn răng chịu đựng để khỏi phải la lên, để cô y tá yên tâm làm việc. Rồi tôi được tiêm hai lọ Pê-nê-xi-lin. Công hiệu lắm, vết thương dịu dần.
Cơ quan đang gặp khó khăn về lương thực. Anh em chạy nháo nhào đến các làng đổi bắp về. Ngày đầu chúng tôi được ăn ba bữa cơm. Sau đó xuống còn hai bữa: sáng 9 giờ ăn bắp, chiều 4 giờ ăn cơm.

Từ ngày 29/8, tôi bắt tay vào việc: soạn những bản tin khai thác từ những bức điện báo cáo và những tài liệu, bài vở từ các địa phương gửi về. Tôi ngỡ ngàng với phương thức làm việc này.
 
Ngày 2/9/1968

Chúng tôi đón ngày tết Độc lập tại cơ quan. Anh em đi đánh cá về làm một bữa liên hoan rôm rả. Chiều, sau khi nghe bài diễn văn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng tôi ngồi bàn luận về cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, củng cố thêm quyết tâm chiến đấu và chiến thắng.
 
Ngày 18/9/1968

Tôi đi A7 cõng gạo. Ở đây, cõng gạo về ăn là nghĩa vụ của mỗi người. Mỗi tháng cần đi cõng gạo ít nhất một lần.
Lại qua bến đò Giằng. Trời bỗng ập mưa rào. Rồi phút chốc nước lũ kéo về ầm ầm. Dòng sông bỗng trải rộng ra, nước đỏ ngầu, chảy điên cuồng, tung lên những con sóng bạc. Đò không thể qua sông được. Chúng tôi lùi về một dải cát, căng tăng mắc võng nghỉ.

Nhưng tai ác thay, vừa ăn cơm xong thì nước tự nhiên tràn đến, dâng cao dần. Lúc đầu, nước chỉ sâm sấp bàn chân. Phút chốc, nước đã lên tới đầu gối, lạnh ngắt. Chúng tôi cuống cuồng thu đồ đạc, kéo lên một dông cao. Rồi mò mẫm phát cây, kiến thiết chỗ ở. Ướt nhớp nháp. Rét run cầm cập. Vắt được dịp bò đến hút máu chúng tôi.
 
Sáng 19/9

Chúng tôi qua đò. Tôi gặp lại Xuân Quý, người cùng tập trung ở Hòa Bình với chúng tôi, đã rời miền Bắc trước chúng tôi ít ngày và hiện ở tiểu ban Văn nghệ, cùng công tác viết văn với chồng là Bùi Minh Quốc - tức Dương Hương Ly. Xuân Quý đi cõng gạo về và đêm qua phải ngồi suốt bên bến đò, dưới trời mưa tầm tã.

Đi qua rừng loòng boong. Cây loòng boong từa tựa như cây hồng bì, có những chùm quả vàng, tròn căng. Quả loòng boong có 4 múi như quả hồng bì, song ngọt lịm và thơm lạ. Ở một múi, có một vết hằn, giống như vết bấm của móng tay. Loòng boong là đặc sản của miền Tây Quảng Đà này. Chúng tôi hái loòng boong ăn thỏa thuê. Rừng núi cũng tình nghĩa lắm chứ.
 
Ngày 20/9

Tôi cõng 90 lon muối ra về. Chán quá, để quên chiếc mũ trong gùi, lún sâu dưới muối, nên không lấy ra được. Nắng xiên vào gáy nhức nhối.
 
Ngày 21/9

Tôi mang muối vào làng đồng bào Thượng để đổi bắp cho cơ quan - cứ một lon muối ăn ba lon bắp. Làng này khá sạch sẽ. Trẻ em được học chữ dân tộc mình và hay hát những bài hát cách mạng.
Tôi thấy người ngây ngấy sốt. Có lẽ cảm nắng.
 
Ngày 23/9

Tôi cõng hơn 100 lon bắp về. Bến lội của chúng tôi trở nên sâu và nước chảy xiết vì mưa lũ. Tôi phải vác gùi bắp lên vai, chống gậy lội qua sông. Nước sâu tới ngực, chỉ chực quật ngã tôi. Hãy cẩn thận. Nhiều người đã chết vì cách vượt sông nguyên thủy này.
 
Ngày 24/9

Tôi đã bị vi trùng sốt rét tấn công. Đây là trận sốt rét đầu tiên mà tôi phải chịu. Đầu đau như búa bổ. Các khớp xương nhức nhối.

Bụng anh ách, lúc nào cũng thấy no một cách khó chịu. Uống ký ninh vào, tai bùng lên, bùng lên bùng bục. Mắt cảm thấy bị chói nắng, không nhìn rõ gì cả. Miệng đắng ngắt, không muốn ăn uống.
Cố gắng ăn tý cháo, song nuốt không nổi, cổ họng ghê lợm cứ bắt nôn mửa. Đêm, mắt chong đèn không sao ngủ được. Đầu cứ buốt thon thót.
Tới chín, mười ngày sau tôi mới khỏi sốt. Dậy đi lại thấy chân nặng trịch, người lảo đảo muốn ngã. Phạm Hồng động viên tôi: Ai ở Trường Sơn mà chẳng bị sốt rét nghĩa vụ, rồi sẽ quen đi và sẽ thấy bình thường!

Bây giờ là mùa mưa rồi. Những trận mưa rào xối xả và kéo dài khiến các con suối trở nên dữ tợn, khiến những dòng sông tràn đầy nước, chảy ào ào, cuốn những cây gỗ trôi băng băng.
Chính trong mùa mưa dữ dội này, chúng tôi được lệnh chuyển xuống A7. Anh Hồng bảo tôi rằng ở căn cứ, di chuyển cơ quan là chuyện thường. Ở đâu lâu nhất là 3 tháng, có nơi chỉ một tháng, vì ở lâu dễ bị địch phát hiện, cho máy bay B.52 dội bom hoặc đổ quân tấn công. Chuyến đi đầy vất vả và đã gây tổn thất cho chúng tôi:

Điều đã bị chết, chết một cách vô lý. Mấy hôm trước đó Điều sốt rét.
Anh sang ở với tôi cho gần y tá để tiện tiêm thuốc. Sau đó anh khỏi nhưng sức vẫn yếu và phải hành quân. Tới dòng suối lớn chảy xuôi về A7, Điều tụt lại đi sau. Và điều không ngờ đã xảy đến: anh ngã ngửa, ngồi dựa vào ba lô, ngâm mình trong nước suối mà chết. Sớm hôm sau San, Thành... mang cuốc xẻng ra chôn Điều. Tôi cũng muốn ra tiễn đưa Điều, song công việc bận quá, không bỏ đi được.
Tôi bùi ngùi nhớ tới Điều, nhớ tới những câu chuyện tiếu lâm của Anh; Nhớ tới tài uốn lưỡi câu, cắt tóc của Anh; Nhớ tới những điều tâm sự của anh về gia đình; Nhớ tới lời hẹn của anh: ngày thống nhất về Nghệ An quê hương Anh, Anh sẽ cho ăn cá thỏa thích. Anh đi ngày 30/4 và chết ngày 28/10/1968. Cũng trong chuyến đi này, một đồng chí ở Ban An ninh không may xảy chân ngã xuống cầu, lập tức dòng nước sông Thanh hung dữ cuốn anh đi, nhận chìm anh dưới thác nước khủng khiếp.
Công việc vẫn tiếp diễn. Chúng tôi chặt cây dựng nhà, đào hầm hố và làm chuyên môn. Những trận sốt rét từ nay đã điểm nhịp vào cuộc sống của tôi, ít ra mỗi tháng một lần.

Từ trung tuần tháng 11-1968, cơ quan hai lần lâm vào cảnh bế tắc về lương thực. Gạo gần hết rồi mà không sao moi được ở đồng bằng lên. Hồi này, địch buộc phải ngừng đánh phá miền Bắc nên chúng đánh phá miền Nam điên cuồng hơn. Phi pháo, B57, B52 thi nhau hoành hành. Ở Sơn Phúc, Lộc Thành, chúng càn quét liên tục, bịt mất đường lấy gạo của chúng tôi. Mức ăn phải giảm xuống, từ 2 lon xuống 1 lon rưỡi, rồi 1 lon một ngày. Anh em thi nhau xuống núi kiếm rau rừng, củ nưa về ăn cho đỡ đói lòng. Vùng này quá lạnh. Sương mù bao phủ suốt ngày. Cái rét và đói hành hạ chúng tôi. Đêm, chúng tôi phải đốt lửa cho ấm. Nhìn lửa than, chỉ ước có củ sắn mà nướng.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười Một, 2007, 08:19:28 pm gửi bởi dongadoan » Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #15 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2007, 08:24:43 pm »

Ngày 21/11/1968

Tôi và Hồng xuống Quảng Đà lấy một số đồ đạc gửi đoàn Trọng Quyền mang vào. Tại đây, tôi được sống trong bầu không khí ấm cúng, vui nhộn của một tổ phóng viên, giống như khi sống ở Sơn La vậy. Hoàng Mẫn vẫn béo tròn và say mê in, phóng ảnh bằng ánh sáng mặt trời. Đinh Trọng Quyền vẫn sôi nổi và cởi mở. Trần Mai Hạnh, Thế Trung vẫn vui nhộn, hoạt bát và vẫn có những câu chuyện sinh động về các cô gái. Chỉ có Trần Biên - điện báo viên - là dao động, sợ chết, nay đã ra Bắc rồi. Trọng Định đã hy sinh hồi cuối tháng 8 vì bị pháo trên đường công tác.

Nghỉ một ngày, sáng hôm sau tôi và Hồng rủ nhau xuống Sơn Phúc mua một ít hàng. Chúng tôi chỉ có trách nhiệm xuống Quảng Đà. Song muốn thấy đồng bằng một chút nên liều đi. Đường xuống dần, trườn qua những đồi lúp xúp, cây cối thưa thớt. Qua một quãng rừng, tôi thấy có mấy hố bom lớn do B57 thả. Cây cối tơi tả.

Bên đường có những mảnh quần áo rách và ở một vài đám đất có nhặng bu đến - từ đó mùi hôi thối xông ra nồng nặc. Chắc có anh nào xấu số bị bom xé vụn ra. Chúng tôi tiến gần vùng ranh. Có những người mang hàng đi ngược chiều với chúng tôi. Họ cho biết tình hình rất căng. Bọn biệt kích ở núi Chóp Nón luôn kiểm soát con đường vượt ranh. Hễ phát hiện người là chúng bắn cối đến hoặc gọi pháo nã tới. Do vậy phải vượt ranh vào sáng tinh mơ hoặc sẩm tối. Chúng tôi định tranh thủ vượt ranh buổi trưa, tối đó mua hàng và sáng sau về sớm. Ai cũng ngăn chúng tôi: chớ nên liều lĩnh. Tôi và Hồng bàn cãi mãi: đi hay không đi. Một mặt mong được thấy đồng bằng, một mặt sợ xảy ra chuyện gì sẽ bị kỷ luật. Vừa bàn cãi vừa đi xuống. Sắp tới con đường dưới chân núi Chóp rồi. Đường vắng ngắt, không một bóng người, chỉ có những hố bom, những thân cây đổ ngổn ngang. Tôi bỗng nghe hai tràng súng máy nổ ròn.

Ai bắn đấy? Hồng bảo hình như du kích bắn máy bay. Một lúc sau, tôi thấy một cậu bộ đội trạc 18-19 tuổi tay xách dép hớt hải chạy tới. Cậu ta cho biết mình vượt ranh, bị bọn biệt kích phát hiện.
Chúng không nã cối mà bắn đạn thẳng tới. May mà không trúng.

Tôi và Hồng dừng lại bàn bạc: thôi, quay lên thôi kẻo chết uổng mạng, lại bị kỷ luật. Nếu là đi công tác thì dù ác liệt đến mấy cũng phải vượt qua, đằng này lại tự ý đi...
Chúng tôi quay lại, xa dần gò Đu. Tại đó có hai xác bộ đội nghĩa vụ bị biệt kích bắn chết cách đây đã lâu. Không ai chôn cả, giờ đây hai xác chỉ còn là hai bộ xương, lồng trong hai bộ quân phục mục nát.

Cuối tháng 12, địch điên cuồng mở cuộc càn lên nơi Khu đóng quân. Một thằng phản bội đã tiết lộ mọi điều bí mật. Thế là ngày đêm địch cho máy bay B52, B57 trút bom xuống các khu rừng khả nghi, nhưng chẳng trúng ai cả. Pháo cũng bắn ì oành suốt đêm.

Tình hình căng, chúng tôi phải ngủ hầm. Có hôm nằm trên nhà, chúng tôi bỗng nghe tiếng rít xoáy vào không khí. Bom B57! Mọi người nhào xuống hầm. Tôi đang nằm trên võng, người quấn tròn trong màn, bọc võng, vậy mà cũng bật tới hầm từ lúc nào, không vướng víu gì cả. Bản năng sinh tồn của con người có một sức mạnh kỳ diệu thật.

Địch đổ quân ở A7 - giữa nơi cơ quan tỉnh Quảng Đà đóng.
Chúng dò dẫm mò theo đường, đã lên tới cây gỗ vuông, rồi tới suối Nước Lớn, nghĩa là chúng chỉ còn cách chúng tôi vài tiếng đồng hồ.

Song chúng bị ta chặn đánh ở đó, diệt một số, nên chưa tiến thêm được bước nào.
Tiểu ban Văn nghệ mở cuộc họp tại Ban. Bùi Minh Quốc và Xuân Quý đến nhà tôi. Chúng tôi chuyện trò về văn học, nhạc hát rất sôi nổi. Xuân Quý sắp đi công tác Quảng Đà, đang bận rộn chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Chúng tôi chuyện trò trong cái giá lạnh và trong cái đói quặn thắt lòng. Quốc sang Quân khu, lúc về được Thu Bồn cho ít gạo. Buổi tối, chúng tôi nấu cháo “liên hoan”: 1 lon gạo, 4 người. Cháo loãng có mì chính và muối, cộng thêm ít dầu xà lách, mà thấy ngọt ngào, bùi béo tợn.
Chúng tôi xì xụp húp. Quốc nói rằng chưa bao giờ được ăn cháo ngon như vậy.

Gạo gần cạn kho rồi. Cái đói vẫn tấn công điên cuồng vào chúng tôi. Song, mọi người vẫn vững vàng, không một lời ca thán.

Chính trong lúc này, tôi bận rộn nhất: tuyên truyền cho thắng lợi của miền Bắc ruột thịt đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, tuyên truyền cho ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng 20 -12. Tài liệu rất nhiều. Chúng tôi say mê làm tin cả ngày lẫn đêm. Và cuộc sống của cơ quan vẫn vui tươi, lạc quan. Nơi ở được tổng vệ sinh thêm quang đãng. Nhà ăn được sửa sang lại với những dãy bàn, ghế ngay ngắn. Thanh niên chúng tôi sáng vẫn tập thể dục đều đặn, vẫn viết báo tường, chỉ tiếc là không được ca hát vì gần địch quá, sợ chúng nghe thấy. Thay vào đó là những câu chuyện vui. Chẳng hạn, anh Trần Phát, còn gọi là Sáu Phát vì anh là con thứ sáu, đi lạc, bí quá bèn bắn súng làm hiệu, mọi người tưởng địch đột kích... Thế là có mấy câu nhắc nhẹ anh:

Anh Trần Phát
Một hôm anh đi lạc
Anh rút súng bắn sáu phát
Khiến mọi người ngơ ngác
Đổ ra rừng nhao nhác
Ồ, hóa ra anh Sáu Phát
Một hôm anh đi lạc...

Thứ “thơ xà quần” - đọc vòng tròn, không bao giờ hết - kiểu này, ai cũng thích.
Hôm qua họp cơ quan, anh quản lý tuyên bố bắt đầu ăn một lon gạo một ngày và Ban quyết định đưa một đoàn vào A5 - cơ sở sản xuất ở hậu cứ - lấy gạo về cứu đói. Sáng ngày 18-12, đoàn chúng tôi ra đi. Mưa rả rích. Đường trơn tuồn tuột. Song phải đi thật khẩn trương, đi như chạy vậy. Tới nơi, chúng tôi khẩn trương giã gạo và vẫn ăn một lon gạo một ngày, song có sắn ghế nên vẫn no. Sắn ở đây bị chất độc hóa học nên lụi hết, củ sượng như củ chuối và phải đào vất vả lắm. Ở đây, bọn Mỹ rải chất độc dữ quá. Từng cánh rừng bị trụi lá, phủ đầy một màu xám hoặc màu nâu vàng úa. Đứng trên núi cao nhìn xuống, thấy rừng cây xơ xác mà đau lòng quá. Có những rừng quế rất quý cũng bị tàn lụi cả, thật tiếc đứt ruột.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #16 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2007, 08:55:31 pm »

THƯ GỬI GIA ĐÌNH


Quảng Đà, ngày 26/11/1968.

Bố mẹ và các em yêu quý!

Không hiểu những thư trước con gửi về, gia đình có nhận được không mà vừa rồi cơ quan con điện vào hỏi chúng con đã đến nơi chưa? Con gửi lá thư đầu ở trong này vào cuối tháng 8. Lẽ ra ngoài đó phải nhận được rồi mới phải chứ! Con rất sốt ruột và rất mong thư gia đình nên hễ có ai ra là con tranh thủ viết thư ngay.

Hiện con vẫn khỏe và công tác bình thường. Dạo này con đã quen với sốt rét nên không bị trận nào nặng, chỉ thỉnh thoảng sốt 2,3 ngày rồi lại khỏi ngay thôi, khỏi thì lại khoẻ, lại làm việc ngay được. Đặc biệt con ăn khỏe lắm, có bao nhiêu cũng hết, nên luôn thấy đói.
Còn tình hình gia đình thế nào? Có gì bố nhờ bác Đào Tùng, anh Đỗ Phượng điện vào báo tin cho con mừng. Nhưng điện vào chỗ anh Quyền, tổ phóng viên Quảng Đà, chứ không phải điện thẳng tới chỗ con đâu, từ đó các anh ấy sẽ nhắn lên cho con. Bố mẹ cũng nhớ đến số 47 Bát Đàn - Hà Nội tìm anh Trần Tô (mới ở Miền Trung Trung Bộ, chỗ anh Đống, ra) để gửi thư vào cho con. Hồi ra đi, con có gửi về nhà thẻ phóng viên của con, vào đây con thấy cần dùng, vậy bố mang đến anh Tô, nhờ anh ấy mang vào cho con nhé. Cái thẻ này chỉ gửi người trực tiếp mang vào thôi, không gửi theo bưu điện được.

Do cần khai lý lịch, con cần rõ quá trình hoạt động cách mạng của bố từ trước đến nay. Bố tìm cách gửi người mang vào cho con với.
Các em dạo này có khỏe không, học tập giỏi không? Anh rất nhớ các em. Các em phải viết thư ngay cho anh nhé.

Thôi, con vội viết vài dòng. Chúc bố mẹ, các em khỏe mạnh.
Cho con gửi lời thăm cô chú trong cơ quan.

Con của gia đình
Việt Long
Hòm thư 3.105 Vinh Quang

TB:
Nếu gửi theo bưu điện thì mang đến cơ quan con hoặc Ban Thống nhất Trung ương nhờ chuyển.
 
THƯ GIA ĐÌNH
[/b]

Hà Bắc ngày 8/12/1968

Long thân mến của mẹ.

Từ ngày con đi đến nay bố mẹ và các em mong tin con đỏ cả mắt, lần nào mẹ về Hà Nội cũng đến chỗ chị Sáu hỏi tin con mãi đến cách đây độ 2 tháng chị Sáu mới cho biết tin là con đã vào đến nơi an toàn rồi mẹ đỡ sốt ruột một ít.

Mẹ nói chuyện cái xe đạp cho con nghe, sau khi con đi thì cô Chung ngày nào cũng đến hỏi xe đạp mà vẫn không thấy về, sau cách đến 3 tháng anh Phối mới đem về cho và xe như thế là hỏng hết, lốp săm dính vào nhau vì bùn, xích bị rỉ không đi được, gác đờ xen không có, bê đan không có, còn gác đờ bu thì lại để ở một chỗ khác, mẹ phải đến lấy sau, nói chung là cái xe chỉ còn được mỗi cái khung thôi. Về mẹ phải sửa mất gần 2 chục mới đi tạm được và lốp bây giờ thì cứ đứt hết tanh, nhưng thôi con ạ, mẹ tính anh Phối đem hộ về như thế là cố gắng lắm rồi, mẹ chỉ tiếc là cái xe mới có hơn một năm mà nó hỏng quá sức tưởng tượng. Hôm ấy mẹ có gặp anh Phối và anh Phối nói là anh đổi vào Thanh hóa mà xe của anh Phối cũng chưa đem về được mà anh Phối phải đem xe về cho gia đình mình để con được yên trí và anh Phối cũng khoe mẹ về vấn đề vào Đảng của con. Anh Phối có cho mẹ xem cái giấy của chi bộ trên ấy nhận xét về con và có báo cho tổ chức để gửi vào cho con chả biết có nhận được không, anh Phối có nói là kết hợp với thời gian thử thách con đi ngoài này vào trong ấy tốt thì sẽ có triển vọng kết nạp.

Khi con đi thì cô Chung có gửi lên cho mẹ 30đ và cái bút máy nắp vàng của con rồi, và tất cả đồ dùng con gửi về mẹ nhận đủ rồi. Bố mẹ và cả gia đình rất thương con về bước trưởng thành của con quá vất vả nhưng mẹ nghĩ đấy cũng là sự yêu cầu của con và cũng hợp với thanh niên thời đại này. Bố con về nhà lúc nào cũng nhớ đến con và cứ nhắc đến con luôn, mẹ thì hàng ngày nhìn lên ảnh con mà không sao cầm được nước mắt, mẹ nhớ bồn chồn cả người vì trước con còn ở Sơn La, tuy xa nhưng còn có hy vọng con được về chơi hay nghỉ phép, nhưng bây giờ thì không biết là thời gian nào mới gặp lại con được. Hôm bố mẹ mới đi Hà Nội về thì nhận được thư của con vào đầu tháng 12, cả nhà mừng quá, khi đọc thư con các em con và bố xúm quanh lại nghe thư. Mẹ đọc, mẹ không sao đọc được vì quá xúc động và thương con quá nhất là em Thủy và Lan nó cứ ngó mặt mẹ, nhưng dù sao bố mẹ và các em con cũng mừng là con đã vượt được chặng đường nguy hiểm và đã vào đến nơi an toàn thế là cả nhà mừng rồi, còn việc ở trong ấy ra thế nào thì đấy là số phận may rủi thôi con ạ. Ở nhà thì mẹ lo cho con lắm lắm, còn các em con ở nhà học vẫn tốt, em Ngọc được khen là học sinh toàn diện, vừa được bình cho mua cái xe đạp Liên Xô con, mẹ mua cho em và hiện nay tạm để cho Việt đi còn xe của con thì để cho Phúc dùng, để em học thêm văn hóa sang năm thì em Ngọc cũng phải đi học xa rồi, còn anh Đức con thì vừa rồi gửi cho bố cái đài lại không đủ giấy tờ, thành ra họ lại phải giữ lại và trả lại anh thế có chán không?

Trên nhà cụ bà, cậu Hiến vẫn bình thường, cậu Hiến mới về công tác qua Hà Nội mẹ cũng gặp. Hồi này ngoài này tạm yên ổn do đó trường mình có mấy trăm học sinh học ngắn hạn được về trường Mễ Trì học, còn trường thì vẫn ở khu sơ tán, bố mẹ cũng vẫn ở sơ tán. Về phần con ở trong ấy hết sức giữ gìn sức khỏe và nhất nhất con làm gì hoặc đi đâu là phải hết sức thận trọng. Cẩn thận đấy con ạ, mẹ lo cho con lắm đấy.

Con cố gắng năng viết thư cho nhà đỡ sốt ruột, như thế là thư con gửi hơn 3 tháng là nhanh đấy con ạ, chỉ cần con viết ít chữ thôi cũng đủ rồi, còn việc con đi thì mẹ có hỏi chị Sáu về vấn đề quyền lợi của gia đình nhưng chị Sáu bảo chả có gì cả vì con chưa có gia đình riêng, và chỉ có mỗi cái thẻ để đi khám bệnh thôi.

Thôi mẹ muốn viết rất nhiều nhưng sợ thư nặng quá còn để bố và các em viết nữa. Cuối thư mẹ chúc con khỏe mạnh, tiến bộ để ngày thống nhất gia đình được đoàn tụ vui vẻ.
Mẹ của con.
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #17 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2007, 08:58:09 pm »

T107.BC13/9 - 8/12/1968

Con yêu dấu của bố mẹ!

Bố đã nhận được lá thư đầu tiên con gửi từ địa điểm công tác mới. Mẹ đọc thư, bố và các em chăm chú ngồi nghe, mừng mừng, thương thương, mừng vì con đã vượt mọi khó khăn, nguy hiểm, thương con nhiều lắm. Chuyện nhà mẹ đã nói rồi. Nói chung bình yên, khỏe mạnh. Các em đều học tốt cả. Ngoài này từ khi giặc Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc, mọi người ra sức làm việc, đẩy mạnh công tác các mặt, đồng thời không ngừng nâng cao cảnh giác.

Tình cảm đối với miền Nam càng thắm thiết con ạ! Có con hoạt động bên trong, cả gia đình thấy thắm thiết tình cảm Bắc Nam ruột thịt, có thể nói không ngày nào gia đình không nghĩ tới miền Nam, tới đứa con yêu dấu đang sống và chiến đấu trong sự chăm sóc nuôi dưỡng của đồng bào miền Nam. Mong con ra sức phấn đấu, đạt nhiều kết quả trong công tác, xứng đáng là thanh niên của thế hệ Hồ Chí Minh. Con hết sức chú ý tu dưỡng vươn lên Đảng.

Hoàn cảnh chiến đấu trong đó là điều kiện khách quan thuận lợi để con phấn đấu tốt. Đồng thời con hết sức chú ý giữ gìn sức khoẻ. Mỗi lần nhớ con, bố lại đem ảnh con ra xem, nhớ lại hồi con còn bé. Con là đứa con yêu quý nhất của bố trong các đứa con yêu dấu của gia đình. Bố yêu con, thương con, nhớ con nhiều lắm. Bố mong thư con, mong con khỏe mạnh, mong được tin con phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng. Bố, mẹ ở nhà ra sức công tác với tinh thần “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Tin thắng trận dồn dập làm nức lòng mọi người. Mong con góp phần xứng đáng cho thắng lợi đó.
Mong đến ngày thống nhất gặp con, đứa con yêu quý đã được tôi luyện trong khói lửa.
Bố của con.
 
Ngày 25/12/1968

Đúng Noel, bọn tôi nghỉ ngơi để hôm sau kéo quân về. Chiều đó, anh em kiếm được một con gà, ít nếp làm bữa liên hoan nhỏ. Tôi nhớ lại cách đây đúng một năm, tôi đến thăm Phúc, đứa em trai kề tôi. Những ngày ấy thật ấm cúng. Hai anh em chụp ảnh, phóng ảnh và đi bắn chim rất say mê. Tôi cũng nhớ đến cô Chung - em ruột mẹ tôi. Gian phòng của Cô nhỏ bé, lúc nào cũng tràn ngập ánh sáng và rất ấm cúng. Trước lúc ra đi, tôi thường đến nhà Cô và được Cô hết sức chiều chuộng. Những bữa ăn, Cô dọn cho tôi những món tôi ưa thích nhất: bánh mì nóng hổi, ròn tan, bơ, pa tê, rau xà lách trộn dấm... Cô đùm bọc tôi với tình thương yêu của người mẹ. Hôm tiễn tôi đi lên trại 105 tập trung, Cô khóc, làm tôi vô cùng xúc động. Tôi nhớ người mẹ hiền hậu, người cha nghiêm nghị, lũ em ngoan ngoãn của tôi. Trong lá thư viết cho tôi, cha tôi đã viết lên những lời đầy tình cảm, chan chứa yêu thương. Ông yêu quý tôi nhất nhà, song không hay biểu lộ tình cảm đó và đối với tôi rất nghiêm khắc. Giờ đây khi xa tôi, khi tôi đã mạnh bạo bước vào đời, Ông mới nói rõ tình cảm đó. Ông ước mong gặp tôi một lần nữa trước khi tôi đi B, song lúc đó gia đình tôi sơ tán tận Hà Bắc, tôi tập trung tại Hòa Bình, không thể về thăm, nên Ông không được gặp tôi. Ông kể lại:

Khi tôi ra đi, đêm đến gia đình không ai ngủ được. Mẹ tôi nói: “Thôi từ nay đứa con duy nhất biết chăm lo việc gia đình đã đi xa”. Ngọc, đứa en gái thứ 5 nói: “Từ nhỏ anh Long đã dũng cảm rồi...”. Diệp, đứa em gái thứ sáu nói: “Anh Long học giỏi và rất giỏi văn, Diệp cũng muốn học theo anh”. Bé Lan, đứa em gái thứ 7 nói: “Lan rất thích hát cho anh nghe và thích anh dạy hát cho”. Còn bé út Thủy thì bảo: “Anh Long đúng là anh của Thuỷ, anh chụp cho Thủy nhiều ảnh rất đẹp”. Tôi hình dung rõ mồn một từng đứa em của tôi, đứa nào cũng rất đáng yêu. Phúc có tài câu cá, bắt ếch... và chỉ thích rèn rũa những con dao, cái nhẫn... Cậu ta đã trở thành công nhân nguội. Phúc lầm lỳ ít nói song đối với anh rất tận tình. Cậu ta biểu hiện bằng tình cảm chứ không biểu hiện bằng lời nói. Việt đang học lớp 10, học văn khá và rất thích đi làm công tác như tôi.

Ngọc cũng lầm lỳ, hiền như cục đất và rất chăm việc gia đình, học giỏi và ngoan ngoãn. Ngọc làm bánh bao rất khéo, hôm tôi về nhà được ăn bữa bánh bao do chính tay Ngọc làm, rất ngon. Diệp mảnh khảnh, nhí nhảnh, hay múa hát. Diệp bộc lộ những cá tính rất độc đáo và tỏ ra có năng khiếu về văn. Tôi thường mong muốn được kèm cặp Diệp, hướng nó đi vào sâu con đường văn học. Lan béo tròn, mắt đen láy, tính tình lỳ sì, nhưng rất hay hát và hát rất hay, rất đúng nhạc. Lan thường ngồi hát cho tôi nghe suốt buổi theo “Yêu cầu của thính giả”. Lan có đức tính rất đáng yêu là biết chăm sóc bé Thủy một cách tận tình. Lan thường dẫn Thủy đi học và có khi Thủy dỗi không đi thì Lan dỗ dành rất ngon ngọt và kiên trì.

Còn cô út Thủy thì rất nũng nịu, hay hờn dỗi và đã biểu hiện tính cẩn thận. Tôi nhớ có lần tôi mở cửa tủ và quên không đóng lại, Thủy im lặng đến và nhẹ nhàng đóng lại rất cẩn thận. Lũ em mỗi khi thấy tôi về là chạy ùa ra đón, níu lấy tôi và Thủy bao giờ cũng dang tay ra đòi anh bế. Có những ngày chủ nhật, anh em quây quần bên nhau đàn hát rất vui vẻ. Tôi nhớ cha mẹ tôi rất hòa thuận và chăm sóc tôi rất chu đáo. Hồi công tác ở Hải Dương, chủ nhật tôi thường hay về nhà. Lần nào mẹ tôi cũng mua gà, vịt, gạo nếp... để bồi dưỡng cho tôi. Có thời gian tôi bận quá không về nhà được, bố mẹ tôi trông mong hoài. Con ngan mẹ tôi mua để chủ nhật liên hoan cứ được để dành suốt mấy tuần lễ. Khi tôi về, con ngan đã nặng thêm 4 -5 lạng, lúc ấy mẹ tôi mới thịt nó. Gia đình tôi sinh hoạt ấm cúng, hòa thuận và được bà con rất quý mến. Tôi nhớ bà ngoại, bà trẻ tôi đã từng tần tảo nuôi anh em chúng tôi từ nhỏ để cha tôi yên tâm đi kháng chiến. Hai bà luôn luôn sống vất vả, nghèo nàn, lận đận, song chăm sóc con cháu rất chu đáo với tình cảm đằm thắm. Tôi quặn thắt lòng nghĩ đến Cụ ngoại đã quá cố. Người lúc nào cũng vất vả. Có lần giã giò để bán nuôi chúng tôi, Cụ bị giã phải tay. Bàn tay Người dập nát, đẫm máu, song Người không hề kêu rên. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh cụ tôi người bé nhỏ, đội thúng bánh dày, giò chả ngược xuôi trên con đường Dốc Đỏ, Miếu cô, chợ Tam Cờ ở Tuyên Quang để bán lấy tiền nuôi bọn tôi. Tôi thường lon ton chạy theo Người trong những buổi chạy chợ đó. Tôi nhớ cô Tuyết tôi tính tình hiền lành, hay làm và không may bị giặc Mỹ sát hại. Gia đình bên ngoại tôi rất nghèo, song sống đùm bọc nhau và rất giàu lòng thương người. Anh em bộ đội đi ngang đường ghé nghỉ nhờ hoặc ở chiến khu với cha tôi về đều được săn sóc rất chu đáo.

Điều đặc biệt trong họ hàng nhà tôi bên ngoại là rất nghèo nhưng rất gắn bó với bố mẹ tôi, với chúng tôi. Còn bên nội (trừ bà và ông nội tôi quá cố từ lâu) thì giàu có hơn song hơi xa chúng tôi. Gia đình bên ngoại tôi đều sống ở vùng tự do, tham gia kháng chiến, còn họ hàng bên nội phần lớn sống ở vùng địch kiểm soát, buôn bán để sinh sống.
 
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #18 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2007, 09:09:39 pm »

Sáng 26/12/1968

Chúng tôi ra về, trên lưng mỗi người nặng một bao gạo. Tối hôm sau bọn tôi ghé vào một đơn vị bộ đội nghỉ nhờ. Ở đây cũng thiếu gạo, anh em ăn toàn sắn. Có một anh bộ đội trẻ bị phù phổi, thở phì phò và sẩm tối đó thì tắt thở. Chúng tôi nằm gần nơi để xác anh, thấy lạnh ngắt. Người đồng chí ơi, anh quê ở đâu? Hẳn cũng có một gia đình ấm cúng ở hậu phương đang ngóng chờ anh! Đau lòng quá! Song làm sao khác được, cuộc kháng chiến này ác liệt quá, gian khổ quá, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh mọi quyền lợi cá nhân, kể cả sự sống của bản thân mình.

Chuyến đi đầy vất vả. Lúc này địch đổ biệt kích lung tung và cho máy bay bám riết hành lang của ta. Do vậy phải đi rất khẩn trương. Chạy, chạy và chạy: Chạy qua bãi trống. Chạy vượt đường xe. Chạy vượt những khu rừng tan hoang vì bom B52, trơ trụi vì hóa chất độc. Lội qua sông cũng phải chạy. Khi chạy qua một khu rừng trống trải vì bọn Mỹ mới rải hóa chất độc, cây cối không còn một nhành lá, tôi vấp ngã tới hai lần. Bao gạo nặng trịch đè dúi lưng, dúi cổ xuống, song phải bật dậy ngay. Một chiếc Mô ranh hai thân rà sát ngọn cây. Nó bay thấp quá, thấy ở buồng lái nhô ra hai đầu giặc lái. Tôi phải núp vào một bụi lách nhỏ. Sao thấy trống quá, thân mình, bao gạo như phơi ra trước mắt bọn chúng vậy. Nó quần đảo mãi với cái đầu mum múp, với cái đuôi gọng bừa, với thân hình đen trũi xấu xí, trông thật đáng ghét. Nó mù, chẳng thấy gì hết.

Anh em đi đường cho biết bọn biệt kích mới nổ mìn clâymo (mìn định hướng, chúng tôi gọi tắt là mìn mo) ở đội 6 - nơi chúng tôi sẽ đi qua. Nhưng không thể dừng lại được. Thời giờ là vàng ngọc.

Chúng tôi lặng lẽ tìm vào nơi đó. Ở một gốc cây kề bên đường, đất bị toác ra vì mìn nổ. Bên triền núi đầy vỏ đồ hộp do bọn biệt kích vứt lại. Rồi cũng qua nơi đó một cách an toàn.
Con đường chúng tôi đi, nay trở về đã khác hẳn. Bom B57 rải dọc theo đường, lấp cả lối đi. Chúng tôi ngửi thấy mùi thối nồng nặc xông ra từ trong bìa rừng. Chắc có anh nào bị thương bò vào đó và chết tại đó.
Cơ quan lại dời về A9. Chúng tôi mang gạo về đó.
 
THƯ GIA ĐÌNH


Hà Nội, ngày 25/12/1968

Con thân yêu của bố mẹ!

Con ơi con! Hàng ngày bố mẹ hướng về miền Nam trông chờ tin tức, chờ tin con, chờ tin thắng trận. Thư con gửi tháng 8/1968 đã đến tay bố mẹ, đến tay cô Chung và các bà. Đọc thư con, lòng của mẹ hồi hộp. Các em con đều im lặng ngồi nghe. Mẹ dơm dớm nước mắt, phần thì thương con gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm, phần thấy mình lại được vinh dự có con tham gia tiền tuyến, bõ công nuôi dưỡng con từ nhỏ tới lớn. Bây giờ bố kể chuyện gia đình con nghe.

Gia đình ta vẫn bình yên, bố mẹ đều cố gắng làm việc, như hồi con còn ở ngoài này về thăm gia đình. Các em con ngày một lớn, ngày một ngoan thêm. Việt đang phấn đấu để cuối năm đỗ lớp 10 và vào đại học. Ngọc cũng đang phấn đấu học hết lớp 7 để vào được lớp 8 cấp III. Việt phấn đấu tương đối tốt, đặc biệt từ khi cậu ta được vào Đoàn. Ngọc cố gắng cả 2 mặt: học tập và đạo đức, Ngọc là học sinh xuất sắc và là cháu ngoan Bác Hồ, được đi họp ở Huyện 2 lần.

Diệp vẫn nhí nhảnh như trước, học khá, rất mê đi xe đạp. Mẹ mới mua chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô cho Việt đi học. Ngọc, Diệp, Lan tập đi cả ngày. Còn chiếc xe đạp Thống nhất của con, mẹ đã nhận được rồi và em Phúc đang dùng.

Bố kể tiếp chuyện các em con:
Lan học giỏi, tương đối toàn diện, thường được xếp thứ 3, thứ 4 trong lớp. Thủy đang học lớp 1, em học cũng khá và có triển vọng.

Mẹ con vẫn làm việc như cũ, và vẫn bận cả ngày, giặt giũ cho các em bé, nấu cơm, nuôi gà v.v... Bố vẫn vậy, vẫn gắng đem hết sức mình ra để cống hiến cho cách mạng. Có điều con ạ, bố cảm thấy cũng yếu hơn trước vì tuổi đã 53 rồi, tuy vậy, bố vẫn cố gắng vượt mọi khó khăn mệt nhọc để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Con đã phấn đấu rất nhiều. Bố đọc thơ con cũng hình dung được con bố đã vượt được bao khó khăn nguy hiểm, con bố đã bước đầu thể hiện được Chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bố cảm thấy như con đang mở đầu một bản anh hùng ca. Con ạ! Cố gắng lên nữa, bố mong con đem hết nghị lực, ý chí, và quyết tâm để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng đã giao phó cho con. Viết thư cho con, bố nhớ con lắm, hình dung lại cả lúc con còn thơ ấu quấn quýt với bố, hình dung lại hiện nay con đã trưởng thành và đang gắng sức cống hiến thật nhiều cho cách mạng.
Con ơi! nhớ con lắm lắm, mong con hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, ngày càng được gần Đảng và mong ngày thống nhất được gặp con..

Bố. Phạm Đức Hoá.
 
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười Một, 2007, 09:15:20 pm gửi bởi hoacuc » Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #19 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2007, 09:13:45 pm »

Hà Nội ngày 25/12/1968

Anh Long mến thương!

Nhận được thư của anh đã gần một tuần rồi, hôm nay nhân tiện có người vào chỗ anh công tác em tranh thủ viết thư tới anh đây.

Đọc thư anh em mới hiểu hết được cuộc sống đầy gian khổ và mạo hiểm của anh, thiếu thốn tất cả từ vật chất đến tình cảm, song em tin rằng với anh, một người giàu nghị lực, mạo hiểm và tràn đầy sức sống, anh sẽ vượt qua được tất cả những khó khăn trên và tạo cho nó trở thành một cuộc sống bình thường như những thói quen thường ngày của mình vậy.

Viết thư cho anh đúng vào ngày Nô en, ngày mà cách đây mới có một năm anh đến thăm em và chụp ảnh cho em ở trường mới.
Một năm trôi đi rồi thế nhưng những hình ảnh ấy nó vẫn luôn luôn gợi lại trong trí nhớ của em tưởng như bình thường mà lại chứa đựng đầy tình thương.

Anh yêu quí. Cuộc sống hiện tại của em vẫn trôi đi một cách bình thường, những ngày chủ nhật được nghỉ em thường xuống cô Chung chơi.
Hôm vừa rồi em có tranh thủ về qua nhà chơi, các em đều khỏe và học giỏi cả, đặc biệt có cô Ngọc học giỏi nên được phiếu mua chiếc xe Liên Xô nhỏ. Bố mẹ đã mua cho các em rồi, các em cũng nhắc tới anh luôn.

Em hiện giờ vẫn công tác tại trường. Không phải đi sơ tán nữa.
Em cũng đang tranh thủ bắt đầu học thêm bổ túc văn hoá. Trong năm tới em có thể sẽ được tăng lên bậc hai. Hiện tại em đang chuẩn bị để thử nghề. Anh Đức hiện nay cũng đang đi thực tập. Cũng lâu rồi em không nhận được thư của anh ấy nên cũng không rõ tình hình.

Anh mến thương! vào công tác trong trong ấy chắc anh bận nhiều lắm phải không. Lúc nào rỗi anh có hay đàn hát cho nó vui không. Cuộc sống mới đến với anh chắc sẽ có nhiều nguy hiểm hơn.
Song cũng như bố mỗi lần nhắc đến anh hay kể chuyện về anh cho các bác, các chú nghe, Bố rất vui sướng và tự hào có một người con như anh, biết hy sinh lợi ích riêng của mình vì lợi ích chung của Tổ quốc. Em tin rằng anh sẽ làm được tất cả những gì mà anh muốn đấy.
Thôi em tạm dừng bút ở đây nhé! Ước gì có một ngày nào cả gia đình mình sẽ sum họp và cùng chụp chung một tấm ảnh nhỉ.

Chúc anh đạt được nhiều thành tích trong công tác và chiến đấu.
Ôm hôn anh nhiều lần
Em của anh - Phúc.
 
Năm 1969
 
Ngày 1/1/1969

Năm mới đến với những ngày đầy gian khổ, ác liệt. Bọn địch đã đổ quân ngay A7, lập đồn ở đó và tung biệt kích đi lùng sục khắp nơi. Gạo đã có kha khá, song chúng tôi vẫn ăn dè sẻn, kiếm thêm rau, củ làm chất độn. Chúng tôi đi chặt hũ đót về nấu ăn. Cây đót giống cây dừa, ở ngọn có một khúc có lõi mềm, ngọt như củ đậu.

Phải dùng rựa vạc từng bẹ đót, bóc dần cho tới khi gặp hũ nó. Chặt một cây phải mất khoảng nửa tiếng, rất mất công. Nhưng nó là thức ăn ngon, bổ nên chúng tôi không quản ngại, thay nhau đi chặt.
Hàng ngày, Lợi hoặc Nga đi xa tới nửa ngày đường để mót sắn, dong riềng hoặc hái rau về cho tập thể. Đường đi phải qua sông Thanh nước chảy cuồn cuộn. Một cái cầu nhỏ bắc chênh vênh trên hai mỏm đá, có căng một dây mây làm tay vịn. Sáng sáng, Lợi hoặc Nga ra đi, chiều chiều, chúng tôi trông ngóng họ về an toàn. Có hôm gần tối rồi mà Nga chưa về, khiến anh em lo sốt vó. Mãi nhá nhem Nga mới về, cõng nặng một gùi sắn, rau mà vẫn cười hồn nhiên.

Nhìn thân hình nhỏ bé bị cái gùi to tướng đè nặng, anh em ai cũng thấy lòng se lại. Phụ nữ miền Nam cực khổ quá, nhiều khi phải cố gắng quá sức mình nên thân hình thường khô khan, cằn cỗi. Song sức sống trong lòng họ thì thật là mãnh liệt.

Trong phong trào cải thiện đời sống, anh em bắt tay vào câu cá Chình. Loài cá này không có vẩy, đầu múp, mắt híp, chuyên sống ở hang đá dưới nước. Người có kinh nghiệm quan sát kỹ mặt cát trước cửa hang có thể đoán biết trong đó có cá chình hay không, cá to hay nhỏ. Mồi câu nó là con cá niên còn sống. Cá niên giống loại cá diếc, thịt rất béo. Móc lưỡi câu vào sống lưng con cá niên, thả xuống nước để nó kéo lưỡi câu vào gần cửa hang. Cá chình rất háu ăn và dữ dằn, thấy mồi liền lao ra đớp. Thoa mở đầu và thu được kết quả khả quan: bắt được một con cá chình lớn. Nó dài thượt, phải kéo lê trên đất mang về. Nó nặng khoảng 6 -7 kg, chặt ra được hai thau lớn. Nó ngon một cách đặc biệt: thịt rất nạc, bùi, thơm và da dày, béo như mỡ heo. Theo kinh nghệm, cá chình để hơi ươn, thịt càng thơm ngon. Anh em reo mừng đón Thoa về như đón một người chiến thắng. Rồi ai nấy lụi cụi lấy dây thép uốn lưỡi câu chình - thứ lưỡi câu to tướng và có ngạnh dài, sắc. Thỉnh thoảng lại được một con chình, lại được một bữa tươi.

Tôi trở lại A7 để lấy ba lô, tài liệu. Khi vừa qua bến đò Giằng thì gặp Thành, Thoa hốt hoảng tới bến. Áo quần hai anh ướt sũng.
Thành không có mũ đội, tóc ướt bết. Thoa không dép, chân tập tễnh. Thành nói gấp gáp: “Quay lại, biệt kích phục ở đội 5 và đã bắn chết Bửu”. Chúng tôi đành quay về bến cũ. Anh em bàn nhau phải đi chôn Bửu. Sáng dậy sớm gọi đò, song anh em bảo vệ không cho qua, để còn xem tình hình. Sớm hôm sau, bọn tôi kiên quyết đi. Bửu đã nằm ngoài trời hai ngày rồi. Không thể để xác đồng chí mình phơi mãi như thế được. Bốn anh em tiến thận trọng theo đường 14.

Sắp đến đội 5, Hồng, Y và Tiện bứt dây mây - để buộc vào xác Bửu mà kéo, phòng địch gài lựu đạn dưới lưng. Tôi và Thành ghé xuống cơ sở sản xuất bỏ hoang kiếm cái cuốc và một cái thùng sắt để đào huyệt. Chuẩn bị xong, chúng tôi đi tới nơi Bửu hy sinh. Ở đó có một ngôi mộ mới - không biết anh em nào đã chôn Bửu rồi. Chúng tôi quay về cơ quan.
Nghỉ được ít ngày, tôi, Thành và Bông mang súng trở lại A7.

Kiên quyết bám địch bằng được mà lấy đồ đạc, tài liệu. Đường vắng ngắt. Rừng im lặng một cách huyền bí. Chúng tôi đi lặng lẽ, lăm lăm súng trong tay. Qua nơi Bửu hy sinh rồi. Bước chân đưa dần chúng tôi về A7. Tôi và Thành lần mò xuống hang đá ở chân núi, lấy đồ đạc lên. Ba lô mốc thếch, ẩm ướt. Khi trở về, tôi bị sốt, không ăn nổi cơm, vẫn gắng đi. Bọn Mỹ đang ở trên đỉnh dốc A7, còn chúng tôi thì đi viền theo sườn núi ấy.
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM