Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:10:46 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những bí mật về chiến tranh Việt Nam  (Đọc 101167 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #50 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:00:01 pm »

     Khi chúng tôi lái xe ra khỏi Sài Gòn, Vann cố tình tránh đi cùng một đoàn xe có hộ tống viên tỉnh trưởng. Nhưng trên đường trở về hôm thứ ba, ông ta đã phải miễn cưỡng đồng ý với lời đề nghị của viên tỉnh trưởng muốn chúng tôi ngồi với ông ta trong chiếc xe hơi của ông ấy. Vann nói với tôi: "Chúng ta rất có thể vì sự ngu xuẩn của mình mà bị nổ tung trong đoàn hộ tống này hơn là trong chiếc xe trinh sát của tôi ".

     Chúng tôi tới một pháo đài nhỏ phía sau hàng rào thép gai và một đường hào bao quanh, một tiền đồn của Lực lượng phòng vệ dân sự (PFs), được trang bị và huấn luyện nhẹ đang luyện tập theo các tiểu đội và trung đội để bảo đảm an toàn ở cấp làng xã; một làng bao gồm vài xóm nhỏ. Tiền đồn này có một boong-ke dược đắp bằng các bao cát và một tháp canh các PFs nằm trên đỉnh chòi quan sát vẫy chúng tôi khi chúng tôi lái xe đến. Vann nói: "Tiền đồn của PFs này rất tiện lợi cho Việt Cộng". "Làm sao ông ta biết điều đó?". "Nhiều tháng nay không hề có báo cáo nào về việc đụng độ với Việt Cộng; không có thương vong, không bị tấn công. Đấy, anh có thấy đống đổ vỡ này ngay bên cạnh tiền đồn đó không?" Chúng tôi dừng lại, và Vann chỉ cho tôi sơ đồ của một toà nhà, chỉ còn một phần khung và mấy tấm lợp mái, trên cùng một bãi đất cạnh tiền đồn của PFs. Nó được bao quanh bằng dây thép gai kiểu mới. Dây thép gai đã được cắt thành từng đoạn và cắm xuống đất. "Đó là một trung tâm huấn luyện PFs mà chúng ta đang cố gắng xây dựng. Việt Cộng đã phá huỷ nó tới 5 lần. Lần gần nhất cách đây 3 đêm. Họ dỡ các tấm ván và mái lợp xuống, cắt dây thép gai. Chính xác là 117 bước chân sẽ tới tháp canh ở đằng kia. Nhưng các PFs không hề nghe thấy gì, không nhìn thấy gì, cũng không có hành động gì". Một số công nhân nằm gần đó vẫn đang ngủ. "Đó là những công nhân xây dựng, có thể một số người đã giúp Việt Cộng phá dỡ nó".

     Có thể các PFs không được cảnh báo, vẫn đang ngủ? "Hừm, không. Người dân nói với chúng ta điều gì đã xảy ra. Trong khi các công nhân Việt Cộng ở ngoài đó, phá huỷ khu nhà và gây ra cảnh ồn ào, họ còn hướng về phía tháp canh này la hét: "Chúng tao là anh em của chúng mày. Tại sao chúng mày đi làm việc cho bọn Mỹ và những kẻ phản bội ở Sài Gòn?" Và hầu hết những lần xảy ra các vụ việc này, viên chỉ huy của PFs hoặc xóm trưởng đều đã trực tiếp nói chuyện với người đại diện của Việt Cộng".

     Hai ngày sau đó, trên đường trở về Sài Gòn, chúng tôi lái xe qua tháp canh này, các tấm lợp mái cuối cùng được di chuyển khỏi trung tâm huấn luyện và đám dây thép gai còn bị rối tung thêm.

     Ngày qua ngày chúng tôi lái xe qua các vùng đất, nơi đường sá vừa được đào thành hào sau đó lại lấp đi, hoặc nơi có một bức tường xây chắn nằm ngang đường vì thế chúng tôi phải lái xe đi vòng, hoặc nơi có một hố mìn lớn đã được lấp đầy. Trong mọi trường hợp, ở đó đều có một tiền đồn PFs đóng cách xa khoảng 50 đến 100 mét. Vann giải thích, ở đây không có sự trùng hợp.

     Việt Cộng cố tình cắt đứt và đánh mìn con đường - bằng lao động chân tay, cuốc xẻng mà có thể nghe thấy tiếng động đó trong vòng nửa dặm - ngay trong tầm nhìn và tầm nghe của binh lính quân đội Việt Nam cộng hoà, của các đồn PFs và thậm chí của các lực lượng địa phương quân ở các thị trấn huyện. Đó là một bài học rõ ràng cho dân làng về việc ai là người kiểm soát địa bàn vào ban đêm và sự bảo vệ của Mặt trận dân tộc giải phóng lớn như thế nào - nếu họ muốn bất kỳ điều gì - họ có thể tin tưởng vào các lực lượng của chính phủ Việt Nam cộng hoà.

     Một trong các cách mà tôi học được để đánh giá tình trạng an toàn dọc trên các con đường trong mấy ngày đi cùng Vann là theo dõi tình trạng của dây thép gai gần các tiền đồn hoặc dọc theo đường đi. Nó có bị cắt không, nếu có thì bị cắt lâu chưa? Khi đến gần một bốt Vann dừng lại chỉ cho tôi xem một số đầu dây thép gai bị cắt cách không xa một bốt khác lắm.

     Thép gai đã cũ, nhưng vết cắt vẫn sáng bóng, không bị gỉ. "Có thể mới bị cắt đêm hôm trước hoặc cách đây 1, 2 ngày. Và nhìn xem họ đã cắt chúng thế nào. Họ không phá thành lỗ để chui qua qua hàng rào mà cắt tất cả các sợi theo chiều dọc. Họ đang gửi đi một lời cảnh báo".

     Vùng đất này khá bằng phẳng, nên nếu muốn, người ta có thể phát hiện ra các du kích Việt Cộng địa phương mà không cần phải đi xa lắm. Các con đường bị ngăn chặn, đánh mìn hoặc phục kích trên cùng các vị trí ngày này qua ngày khác. Cố vấn tình báo Mỹ của MACV ở Bầu Trai nói với tôi: "Nếu tôi muốn gặp quân du kích, tôi phải đợi trong đường hào cạnh cầu Sui Sau vào các đêm". Ông ta chỉ vào chiếc cầu trên bản đồ, chiếc cầu này theo tiếng địa phương gọi là Sui Cide, ở trên đoạn đường cách chiếc cầu này 1,25 dặm, đã có 18 người bị giết trong tháng trước. Ngày hôm qua, khi chúng tôi đang lái xe trên một quãng đường với tốc độ 70 dặm một giờ thì bị chặn lại vì một số xe đang bị sa lầy nơi đoạn đường bị Việt Cộng phá hoại hai ngày trước đó và đã được sửa lại một cách cẩu thả. Chúng tôi dùng dây kéo trên xe kéo được một xe bị sa lầy lên, sau đó chính chúng tôi lại bị kẹt ở đó và lại phải nhờ các xe khác mới kéo lên. Trong lúc đó, có 5 người đến nói với chúng tôi bằng các thứ tiếng và ký hiệu khác nhau "nhanh chóng rời khỏi đây" vì Việt Cộng có mặt ở cả hai bên đường. Chỉ có khoảng 45 phút trước khi chúng tôi có thể rời đi". Đó là lần duy nhất trong 2 năm tôi chứng kiến John Vann nổi cáu.

     Ba tháng sau, gần chiếc cầu đó, Doug Ramsey, trợ lý của Vann, bị phục kích và bị bắt; nếu Doug tự lái xe thì Vann cảm thấy rất an tâm, Doug sẽ có thể vượt qua đám phục kích, nhưng tay lái xe người Việt Nam của anh ta lại lái rất chậm chạp và dừng lại ngay trước họng súng. Người lái xe được thả về nhưng Ramsey trở thành một tù nhân của Việt Cộng trong hơn 7 năm. (Phần lớn thời gian đó anh ta bị nhốt trong một cũi làm bằng tre, mỗi chiều khoảng 3 tới 4 feet trong khi Ramsey cao hơn 6 feet - bị phơi dưới nắng, mưa, trong khu rừng phía biên giới Campuchia).

     Chúng tôi lái xe tới xóm Tân Hoa, giờ là trung tâm của làng Hiệp Hoà, vì Hiệp Hoà đã trở nên quá mất an toàn. Trên bản đồ, xã này thuộc khu vực bình định, được tô màu đen vì ở dưới mức an toàn, ban ngày trong xã có cán bộ. Nhưng tất cả những người này, gồm cả xã trưởng phải tới Đông Hoà vào các đêm, để đảm bảo an ninh cho nhà máy đường. Chúng tôi lái xe chầm chậm dọc theo một con kênh tới đoạn cuối cùng rồi lại quay trở lại.

     Vann nói: "Những người dân ở đây có vẻ khá ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng ta. Họ không thấy một ai có quan hệ với Chính quyền Việt Nam cộng hoà lại xuống con đường này để đi dạo trong một thời gian dài". Trông họ rất ngạc nhiên. Nhưng khi tôi vẫy tay, họ mỉm cười và vẫy tay lại. Có lúc chúng tôi đi qua một đám đông chừng hơn một chục cậu con trai mặc bộ đồ đen ở vào đầu lứa tuổi 20, tuổi quân dịch, nhưng không tham gia trong quân đội "của chúng ta". Vann nói, "Không còn nghi ngờ gì, anh đang nhìn thấy một tiểu đội Việt Cộng", vì thế tôi đã chụp một bức ảnh. Họ đứng thành hàng thẳng và mỉm cười. Vann lẩm bẩm, "Thực ra trông họ không có chút gì là người của chính phủ Việt Nam cộng hoà cả".
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #51 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:00:59 pm »

     Quay lại khu chợ, bị hai khối người vây kín lấy, tôi cố gắng ra khỏi xe và chụp thêm mấy bức ảnh cho tới khi Vann bấm còi.

     Vann nói: "Phải ra khỏi đây, đám người bắt đầu tản ra". Lúc này mới có một khoảng trống quanh chiếc xe của chúng tôi. "Chúng tôi được an toàn trong chốc lát vì họ không chờ đợi việc thấy chúng tôi và phải mất ít phút để họ có phản ứng nào đó. Nhưng cuối cùng, một trong số những người này quay lại chỗ chúng tôi và nghĩ về việc nhận được 20.000 đồng, giải thưởng mà Việt Cộng đưa ra cho người nào giết được một người Mỹ".

     Có một con đường nhưng chúng tôi không đi vào. Đến ngã ba, Vann chỉ sang bên phải và nói: "Nếu anh muốn gặp Việt Cộng chắc chắn tới 100%, cả ngày hoặc đêm, chỉ cần đi vào phía hàng cây kia, cách độ gần 400m. Một số nhà báo người Ba Lan muốn gặp Việt Cộng, họ đi vào đó và đã gặp ngay. Việt Cộng đốt cháy xe Jeep và giữ họ trong 3 ngày. Những nhà báo này đã có được một câu chuyện thật hay".

     Dần dần, tôi có được một sự hình dung rõ về những nơi chúng tôi đã đi tới, ở cả các làng xã và vùng nông thôn, đều có những cái biển nhỏ chỉ đường cho tất tả những ai quan tâm, như người hàng xóm thường nói, "Muốn tìm Việt Cộng, rẽ trái - khoảng 10 feet (30m)", "Chiếc cầu không đi được vì bị đặt mìn, tối nay và tất cả các đêm", "ở đây không hoan nghênh GVN" hoặc "Các phương tiện giao thông của GVN chỉ được đi qua con đường này từ 7h sáng đến 6h tối, các giờ khác chỉ Việt Cộng được qua" (giống như các đường phố ở Washington, D.C, có đường một chiều theo các hướng đối diện vào các giờ cao điểm buổi sáng và buổi tối).

     Tại sao lại có tình hình này, ở một tỉnh kề cận với Sài Gòn và có rất nhiều các đơn vị của Nam Việt Nam hoạt động bên trong, là điều tôi mới chỉ được biết vào mùa thu năm 1965. Nhưng các câu trả lời tôi nghe được, từ các cuộc tiếp xúc mà tôi may mắn được có mặt, cứ lặp đi lặp lại ở khắp Việt Nam, cho tới khi tôi rời Việt Nam vào giữa năm 1967. Một trong những bài học sớm nhất này, nhìn bề ngoài, có vẻ giống như một hiện tượng quân sự thuần tuý (mặc dù mọi việc khác trong cuộc xung đột này mà tôi được biết sau đó, đều có nguồn gốc từ các vấn đề chính trị). Có một nghịch lý là trong một tỉnh, nơi có rất nhiều Việt Cộng, nhưng dường như các đơn vị của GVN rất khó phát hiện và đánh nhau với họ.

     Giải thích ban đầu cho nghịch lý này, các cố vấn Mỹ ở Hậu Nghĩa nói với tôi (và sau này chính tôi cũng đã tự khám phá ra), là vì những báo cáo về các cuộc hành quân đều sai sự thật. Dân vệ địa phương không di chuyển khỏi các tiền đồn của họ vào ban đêm. Tương tự như thế, với các lực lượng Địa phương quân và Sư đoàn 25 ở Hậu Nghĩa (cũng như ở khắp Việt Nam, mà tôi sớm biết được); thì hầu hết các hoạt động nhỏ lẻ do Quân đội Việt Nam cộng hoà (ARVN) báo cáo và phần lớn các hoạt động vào ban đêm được viện dẫn đều là bịa đặt. Các cố vấn Mỹ có biết việc này và vì các lý do khác nhau nên đã không báo cáo lên trên. Thứ hai, khi các đơn vị, kể cả đơn vị nhỏ và các cuộc hành quân mức độ lớn tổ chức đánh ra bên ngoài thì đó phải là những nơi được cho là Việt Cộng không có mặt; đó là mục đích mà tin tức tình báo muốn nói tới và tin tức tình báo cũng đủ giỏi để đảm bảo việc đó. Thứ ba, các cố vấn Mỹ đã cho tôi biết, các cuộc hành quân qui mô lớn có thể chờ đợi để được thoả hiệp trước về các hoạt động xâm nhập của Việt Cộng từ các sở chỉ huy và các đơn vị yểm trợ và từ việc đảm bảo của các nguồn thông tin liên lạc giấu mặt của ARVN (ví dụ như họ đã để lộ các kế hoạch và sự di chuyển trên đài phát thanh cho những người theo dõi đài phía Việt Cộng). Cuối cùng, các cố vấn của Trung đoàn 49 nói với tôi: "Mọi kế hoạch của trung đoàn gần như đều bị thay đổi bởi sở chỉ huy Sư đoàn 25 và mọi thay đổi như thế - từ thay đổi hướng tiến quân, di chuyển lực lượng chặn đánh, để ngỏ cánh bên sườn - chỉ là nhằm để giảm thiểu cơ hội đụng độ và để cho Việt Cộng một con đường thoát". Các cố vấn nói với tôi rằng họ đã cảnh báo "từng ngày" rằng mỗi khi kế hoạch bị thay đổi, thì sự thành công chỉ là con số không.

     Các vấn đề này không phải gần đây mới có. Vào năm 1962-1963, Tổng thống Diệm đã lo ngại rằng các thương vong của Quân đội Việt Nam cộng hoà sẽ gây nguy hiểm cho chỗ dựa mỏng manh của ông ta. Chỉ huy quân sự ở mọi cấp hầu như không dựa vào việc thi tuyển năng lực mà chỉ dựa vào tham nhũng (thăng chức và thuyên chuyển vị trí dựa vào việc hối lộ và tiền hoa hồng, việc cấp vốn cho các tỉnh, tài trợ cho các hoạt động bằng tiền của các quỹ, các nguồn mà Mỹ cung cấp chẳng qua là các hình thức bòn rút khác nhau), và dựa vào lòng trung thành đối với chế độ Sài Gòn. Rõ ràng không hề có sự thay đổi nào dưới sự điều hành của hội đồng tướng lĩnh sau vụ ám sát Diệm. Cũng không có sự thay đổi khi Harkins bị thay bằng Westmoreland, người luôn đặt lòng tin vào các đơn vị của Mỹ được đổ vào đầu năm 1965 và là người hầu như không có một nỗ lực nào để cải tổ chính sách đề bạt thăng chức và các hoạt động của Quân đội Việt Nam cộng hoà.

     Tất nhiên, cuối cùng đó là vấn đề của một hệ thống chính trị, một cấu trúc xã hội mà chính phủ Mỹ, vì nhiều lý do khác nhau, đã dựa vào để theo đuổi cuộc chiến tranh và không muốn làm mất tính ổn định của nó.

     Ngay sau chuyến đi của tôi tới Hậu Nghĩa, John Vann nói với tôi về một sĩ quan Việt Nam, người có ảnh hưởng lớn tới suy nghĩ của ông, trung tá Trần Ngọc Châu. Vann coi anh ta là người Việt Nam am hiểu nhất về vấn đề đánh bại cuộc nổi dậy của Cộng sản mà ông từng gặp, một phần vì kinh nghiệm trực tiếp của ông ta với vấn đề này. Không giống như đa số các nhà lãnh đạo quân sự được chúng ta ủng hộ ở Việt Nam và đứng về phía người Pháp để chiến đấu, Châu đã phục vụ trong quân đội Việt Minh chống lại người Pháp cho đến năm 1950, lúc đầu là chỉ huy tiểu đoàn, sau là chính trị viên trung đoàn. Châu đã tham gia vào các lực lượng dưới quyền của Hoàng đế Bảo Đại vì anh ta tin rằng người Pháp đang tìm cách giành độc lập cho Việt Nam.

     Sau này, anh ta đã trở thành một trong những sĩ quan đầu tiên học trong học viện quân sự ở Việt Nam và vào miền Nam năm 1954 để phục vụ trong quân đội dưới thời Diệm. Hầu hết, gia đình anh ta, gồm các anh em trai, vẫn ở ngoài miền Bắc. Một trong số họ là sĩ quan tình báo của Bắc Việt Nam, cùng cấp bậc với anh ta.

     Điều làm Vann đặc biệt ấn tượng là anh ta đã từng là thư ký Hội đồng An ninh quốc gia dưới thời Diệm, sau đó là tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hoà đúng vào thời điểm nổi dậy của Phật tử năm 1963.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #52 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:01:59 pm »

     Anh ta là một người mộ đạo Phật. Tuổi thanh niên của anh ta được nuôi dưỡng để trở thành một tăng ni cùng với Trí Quang, một nhà lãnh đạo phong trào đấu tranh của Phật giáo năm 1963.

     Ở Kiến Hoà, Châu những đưa ra nhiều ý kiến cho thấy kinh nghiệm của anh ta với Việt Minh, các biện pháp tranh đua với Việt Cộng và tìm kiếm sự ủng hộ chính trị đối với chính quyền.

     Ví dụ, anh ta đã thành lập cái mà anh ta gọi là các đội điều tra trắc nghiệm, đi hết xóm này đến xóm khác, tìm hiểu về những than phiền của người dân địa phương và những dự án họ muốn ủng hộ.

     Vann đưa tôi đi gặp Châu ở Kiến Hoà. Bằng tiếng Anh khá thành thạo, Châu làm tôi có ấn tượng mạnh, đặc biệt vì chất dân tộc chủ nghĩa rõ ràng trong anh ta cũng như sự tôn trọng nhiều mặt trong các hoạt động của phong trào cộng sản. Đặc biệt, anh ta chỉ ra sự gần gũi và sự quan tâm tới phúc lợi của Cộng sản đối với người dân địa phương. Vì những phẩm chất này mà anh ta cho rằng chính quyền phải học hỏi nhiều từ những người Cộng sản. Vào đúng lúc đó, sự kỳ thị đối với đức tin Phật giáo của anh ta của những người Cộng sản đã làm anh ta xa rời những người Cộng sản, và anh ta vẫn cho rằng chính quyền miền Nam Việt Nam - với sự viện trợ của Mỹ - hoàn toàn có thể đem lại cho người dân của anh ta một sự lựa chọn tốt hơn, tự do hơn và tôn trọng tôn giáo và truyền thống văn hoá của người Việt Nam hơn.

     Châu là một chiến sĩ dũng cảm và cũng là người trí thức. Anh ta được cả Việt Minh và Diệm tặng thưởng huân huy chương vì sự dũng cảm trong chiến đấu. Rõ ràng là anh ta thấy được sự ưu việt của GVN trên nhiều lĩnh vực và sự cải tiến đó là cần thiết, và mặc dù anh ta tôn trọng dũng khí, kỷ luật và lòng yêu nước của những người cộng sản, nhưng anh ta vẫn cho rằng cần phải chiến đấu chống lại họ và nếu có thể phải ngăn chặn họ thống trị Việt Nam. Giống như những người khác đã biết anh ta, tôi thấy sự khẳng khái của anh ta đã củng cố niềm tin của tôi lúc đó tới mức mà tôi cho rằng chúng ta có mặt ở Việt Nam không đơn giản chỉ để thúc đẩy lợi ích riêng của chúng ta mà còn đem lại nhiều lợi ích cho người Việt Nam.

     Anh ta thực sự là một người Việt Nam chín chắn, dũng cảm và tận tuỵ, và là người thấy vui mừng khi có sự can thiệp của Mỹ.

     Tôi từng biết, một trong những lý do chính ngăn cản tiến trình phát triển của cuộc chiến tranh là sự yếu kém toàn diện của giới lãnh đạo quân đội miền Nam Việt Nam. Hầu hết các sĩ quan đều mua địa vị hoặc có được địa vị nhờ vào thói gia đình trị. Vấn đề không phải là thiếu nguồn sĩ quan giỏi mà là không tiến cử những người có phẩm chất lãnh đạo tốt luôn rất dồi dào. Các sĩ quan phải là những người giàu có, có quá trình đào tạo cơ bản; thuộc thành phần có ruộng đất, điều đó có nghĩa là họ có ít sự đồng cảm và kinh nghiệm đối với các binh lính. Người Pháp ủng hộ những người theo Thiên Chúa giáo, đó là một truyền thống mà Diệm và những người kế tiếp ông ta tiếp tục ủng hộ. Châu là một trong hai sĩ quan duy nhất có cùng cấp bậc hoặc có cấp bậc cao hơn trong quân đội có nhiều kinh nghiệm quý giá về Việt Minh.

     Kinh nghiệm về Việt Minh đó, cũng như vốn kiến thức của anh ta về Phật giáo, đã làm cho người ta hoàn toàn không thể tin rằng anh ta sẽ lên đến cấp tướng, mặc dù anh ta rất có khả năng.

     John Vann và Doug Ramsey tin rằng "vấn đề chính" ở vùng nông thôn Việt Nam là "các nhà lãnh đạo chính phủ, các thành viên nội các, các quan chức cấp tỉnh, cấp huyện hiện nay không xuất thân từ nông dân, không có cùng suy nghĩ, không biết nhiều về nông thôn hoặc không đáp ứng được các nguyện vọng của người nông dân". Trên tất cả các mặt, họ đều có sự khác biệt sâu sắc với các quan chức của Mặt trận dân tộc giải phóng. Đó là khía cạnh khác của "vấn đề".

     Đến cuối tháng mười, Vann được đề bạt làm cố vấn các vấn đề dân sự cho viên tướng tư lệnh các lực lượng Mỹ trên toàn Vùng III chiến thuật. Ông ta quyết định "tìm những người làm được việc trong khu vực theo cái cách mà ông ta từng thực hiện ở Hậu Nghĩa. Vann đặt ra một lịch trình cho các chuyến đi cuối tuần, tới thủ phủ các tỉnh và mời tôi đi cùng. Cứ đến mỗi cuối tuần công việc học hỏi của tôi lại tiếp tục. Luôn có những điều mới lạ để học hỏi ở mỗi tỉnh, mỗi huyện chúng tôi, mặc dù thực tế là chỉ quan sát và nghe đi nghe lại một vấn đề. Tôi chưa bao giờ ngừng học hỏi từ John. Chúng tôi có nhiều thời gian để nói trong những chuyến đi như vậy. Đa phần Vann trả lời những câu hỏi của tôi về Việt Nam, và chúng tôi cũng nói với nhau nhiều về cuộc sống của mình.

     Suy nghĩ độc đáo của Vann đối với việc chèo lái tình hình thực ra cũng có cơ sở của nó. Ông ta tin chắc rằng ảnh hưởng một cách rõ ràng hơn của người Mỹ đối với chính quyền miền Nam Việt Nam có thể tạo ra sự thay đổi lớn về tình hình. Nhưng biết được những gì cần phải làm đòi hỏi phải có sự am hiểu sự tình ở cấp làng, xã mà không ai có thể có được điều đó nếu chỉ ngồi trên tỉnh, để quan sát hoặc chỉ nhìn xuống từ trên máy bay trực thăng. Cách đó không chỉ làm cho bạn mất hiệu quả quan sát vì phải bay đủ cao để tránh được các tay súng bắn tỉa, nhưng quan trọng hơn, là bạn khó có thể tới thăm được nhiều nơi trong vùng. Lại đúng vào lúc không có nhiều các chuyến bay trực thăng như thế.

     Các quan chức và một số các cố vấn dựa chỉ chủ yếu vào các bản báo cáo từ các kênh chính thức. Điều đó có nghĩa là bạn sống trong sự thờ ơ, thường có sự lạc quan thái quá, so với những gì bạn học được từ các cuộc trò chuyện, mặt đối mặt với các đại diện chính quyền ở cấp thấp nhất hoặc với những dân làng ngay tại chỗ. Sẵn sàng đi bằng xe ô tô đã tạo ra cho bạn khả năng nắm bắt tình hình một cách thường xuyên hơn nhiều và có thể tới được nhiều nơi tưởng chừng không thể đến được. Hơn nữa, bạn có thể chứng kiến những sự việc xảy ra trên đường đi mà không có cách gì khác là buộc phải tham gia vào.

     Tôi thường xuyên được nghe Vann nhắc nhở những người Mỹ khác tham gia chương trình bình định về tầm quan trọng của việc phải tự mình tìm hiểu tình hình và các vấn đề ở các khu vực họ phụ trách. Ông ta khuyên họ không nên chờ đợi các đoàn xe có hộ tống hoặc trực thăng mà phải tự lái xe đi vào các làng để xem điều gì đang diễn ra ở đó. Đó là một sự mạo hiểm. Không một ai trong chúng tôi nghĩ rằng bạn sẽ khuyên người khác thực hiện các hành động mạo hiểm mà bạn cho rằng họ phải thực hiện trừ phi bạn có cảm giác đó là sự mạo hiểm của chính bạn; chúng tôi đã làm cái điều mà Vann (và sau này là tôi) đề xướng.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #53 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:02:52 pm »

     Đối với tôi có một lý do (được ngầm hiểu) khác để lái xe đi trên các con đường. Đặc biệt những tháng đầu tiên, với tư cách là một người còn trẻ tuổi, một quan chức dân sự và chưa có kinh nghiệm về Việt Nam, tôi sẽ đỡ bị nguy hiểm hơn nếu tôi đến một tiền đồn ở khá xa bằng trực thăng, chứ không phải chui ra khỏi một chiếc xe bụi bặm cùng với Vann. Sự có mặt của Vann, cùng với kiến thức về quân sự và danh tiếng của ông ta ở Việt Nam, đã giúp tôi chống lại những ấn tượng ban đầu không hay rằng tôi là một kẻ non nớt hoặc đơn giản là kẻ hữu dũng vô mưu khi đi ô tô đến đó. Các thiếu tá và đại tá mà chúng tôi đến thăm đều thừa nhận rằng Vann biết những gì ông ta đang làm; ông ta cho rằng các chuyến đi thị sát là rất quan trọng và những mạo hiểm trong chuyến đi là thật đáng giá. Tất cả những viên sỹ quan đều rất có ấn tượng về Vann.

     Các tỉnh chúng tôi đã tới trong những tuần đầu tiên là các tỉnh gần Sài Gòn nhất. John đã hoãn đến hai tỉnh ở xa hơn đến tận cuối chuyến đi. Ông ta không chắc lắm về những gì chúng tôi sẽ thấy được trong chuyến đi áp chót đến Hàm Tân, thị xã của tỉnh Bình Tuy, nằm ở phía Bắc Sài Gòn, trên bờ biển. Chúng tôi sẽ không thể trực tiếp tới đó, không thể dễ dàng đi thẳng đến đó, và còn có một khu căn cứ của Việt Cộng nằm giữa Hàm Tân và Sài Gòn. Chúng tôi sẽ phải đi đường vòng, tổng cộng khoảng 140 dặm, chủ yếu qua rừng rậm. Trước tiên, chúng tôi lái xe tới Xuân Lộc, cách Sài Gòn 60 dặm về phía Đông Bắc, nói chuyện với các cố vấn ở đó, ăn trưa, sau đó đi về phía Đông 80 dặm thì đến được Hàm Tân. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ở đó và quay trở về vào chủ nhật vẫn theo đường cũ. Vann đã nghiên cứu rất kỹ tuyến đường này và cho rằng chuyến đi này sẽ thực hiện được.

     Nhưng rất khó có thể nói trước điều gì vì gần một năm nay chưa có ai lái xe từ Sài Gòn đi Hàm Tân theo tuyến đường này.

     Cái đêm trước khi chúng tôi rời Sài Gòn, tôi đã nói về chuyến đi này với một phóng viên chuyện viết về lĩnh vực chính trị dưới quyền của Phil Habib ở đại sứ quán, một người bạn của tôi, người mà tôi sẽ gọi là Victor. Anh ta là một sĩ quan trẻ của Cục đối ngoại, nói được tiếng Việt, rất thông minh và am hiểu về Việt Nam. Habib đã giữ anh ta ở lại Sài Gòn làm công việc phân tích các vấn đề chính trị đã khá lâu kể từ sau khi anh ta đi thăm mọi nơi ở Việt Nam bằng ô tô, chứ không phải bằng trực thăng hoặc máy bay. Khi biết chúng tôi sẽ đi ô tô, anh ta tỏ ra nhiệt tình muốn đi cùng chúng tôi để nắm bắt được tình hình an ninh trên bộ. Vann rất vui vì có một người làm về lĩnh vực chính trị đi cùng.

     Chúng tôi phải rời Sài Gòn từ sáng sớm thứ bảy vì muốn tới Hàm Tân trước khi trời tối. Chúng tôi đón Victor và đi qua nhiều đường phố đông đúc ở nội thành Sài Gòn và ở cả ngoại ô. Trên đường cao tốc tới Biên Hoà, thấy có nhiều xe tải hạng nặng ra vào căn cứ lớn của Mỹ và cả đường băng ở đó. Khi chúng tôi rẽ về phía đông bắc sau khi qua Biên Hoà, thì các phương tiện giao thông đã giảm bớt đi nhiều. Chẳng bao lâu sau chỉ còn duy nhất chiếc xe trinh sát của chúng tôi trên đường. Chúng tôi chạy qua những cánh đồng lúa, nhìn thấy những người phụ nữ nông dân bình dị đội những chiếc nón lá đang lom khom, những cậu bé đang cưỡi trên lưng trâu. Mấy đứa giơ tay vẫy chúng tôi. Victor thấy vui sướng vì lại được ra khỏi Sài Gòn trên con đường này.

     Anh ta nói với chúng tôi rằng Habib là người rất thận trọng với những việc ông ta giao cho các sĩ quan chính trị thực hiện, nhất là những việc mạo hiểm. Điều này cũng hạn chế Victor làm những việc anh ta muốn, với tư cách là một phóng viên phụ trách lĩnh vực chính trị ở các tỉnh.

     Vann đang lái xe, Victor ngồi ở chiếc ghế dựa nhỏ ngay phía sau Vann. Khi chúng tôi đón anh ta, John đưa cho anh ta một khẩu súng, nhưng anh ta đã từ chối. Hầu như mọi quan chức dân sự ở bên ngoài Sài Gòn, thậm chí ở các tỉnh lỵ, đều có vũ khí trong văn phòng hoặc trên xe và mang chúng bên mình khi họ xuống các vùng nông thôn, mặc dù họ không đem theo chúng vào trong các tỉnh lỵ hoặc các làng nơi họ đặt căn cứ. Nhưng Victor lại không được huấn luyện về quân sự và cũng không có kinh nghiệm về sử dụng các loại vũ khí.

     Giờ đây chúng tôi đi đang qua một vùng nông thôn rộng lớn, khá tiêu điều. Không có chiếc xe nào đi cùng hướng với chúng tôi. John đưa ra những nhận xét trên đường đi như thường lệ ông nói chủ yếu cho Victor nghe những điều ông đã bảo tôi lưu ý từ trước: các cột hàng rào có những đoạn thép gai bị cắt cong lên, bên cạnh những tiền đồn của PFs bị cháy hết, các đường băng nham nhở ngang qua một con đường rải nhựa, nơi Việt Cộng đã cho nổ mìn phá con đường và nó đã được làm lại.

     Lúc đầu Victor hỏi John rất nhiều câu hỏi và ghi chép nhanh.

     Sau đó, anh ta lại im lặng trên suốt một đoạn đường. Cuối cùng anh ta nói: "John, ông nhận xét như thế nào về tình hình an ninh dọc tuyến đường này?"

     John nói: "Bình thường, ở mức trung bình".

     Victor lại im lặng. Sau đó anh ta nói nhỏ: "John, sự thật là tôi không dự định sẽ làm việc này. Phil sẽ tức giận nếu biết tôi ra ngoài cùng với ông. Các sĩ quan chính trị không được phép ra ngoài trên những con đường này, trong trường hợp chúng ta bị bắt. Tôi nghĩ tốt hơn tôi nên quay lại". Vann nói với anh ta chúng tôi không có thời gian để đưa anh quay lại, hoặc chúng tôi sẽ không thể tới Hàm Tân vào ban ngày. Tuy nhiên, có một căn cứ của Quân đội Việt Nam cộng hoà ở ngay phía trước, chúng tôi có thể để anh ở đó. Đến thứ bảy, chắc chắn sẽ có một đoàn xe hộ tống trở về Sài Gòn và họ sẽ đón anh. Một trung uý của Quân đội Việt Nam cộng hoà ở căn cứ đó đã khẳng định điều này, Victor xuống xe và chúc chúng tôi may mắn trong chuyến đi. Anh ta nói, anh ta mong muốn có thể đi với chúng tôi và thực sự trông chờ vào điều đó, thật là thú vị khi anh ta mong muốn điều đó, nhưng anh ta nên nghĩ kỹ trước khi chúng ta khởi hành.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #54 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:04:49 pm »

     Một giờ sau, sau khi lái xe qua những đồn điền cao su rộng lớn chúng tôi tới Xuân Lộc. Chúng tôi gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các cố vấn Mỹ khi lái xe vào khu nhà cố vấn của tỉnh. Vì gần một năm nay, họ chưa hề thấy một chiếc xe nào đi một mình từ Sài Gòn vào đây. Nhưng họ đang chờ đợi chúng tôi vì Victor đã tới đó trước chúng tôi và nói với họ chúng tôi đang trên đường đi. Một chiếc trực thăng đã hạ cánh xuống căn cứ của Quân đội Việt Nam cộng hoà trên đường tới Xuân Lộc và Victor quyết định đi nhờ một chuyến để tới nghe báo cáo của các cố vấn ở đó.

     Trong bữa ăn trưa, sau buổi họp ngắn, chúng tôi nhận được rất nhiều câu hỏi về tình hình trên dọc đường đi. Các cố vấn rất quan tâm tới những so sánh của chúng tôi với 9 tỉnh khác mà chúng tôi đã tới khảo sát vài tuần trước đó. Có nhiều cử chỉ lắc đầu huýt sáo khi chúng tôi nói chúng tôi sẽ tới Hàm Tân. Họ thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy con đường đó từ trên trực thăng, khi bay trên khu rừng có những tán cây 2 tầng. Họ đưa cho chúng tôi thêm đạn, lựu đạn và tập trung xung quanh chiếc xe để tiễn chúng tôi lên đường. Trước khi chúng tôi đi, Victor gõ nhẹ và mở cửa xe. Anh ta nói, "Để cho vui, tôi sẽ đi cùng các anh". John nói chắc chắn rồi, và Victor trèo lên xe.

     Chúng tôi tiếp tục câu chuyện còn bỏ dở từ bữa ăn trưa khi rời Xuân Lộc đi Hàm Tân. Victor là một người bạn đường tốt, rất thông minh và vui tính. Anh ta lại ngồi sau John; tôi ngồi ghế bên phải. Ngay sau khi rời Xuân Lộc, chúng tôi qua một khu rừng rậm. Trời tối sầm lại. Mặc dù hôm đó là một ngày nắng đẹp nhưng mặt trời đã biến mất. Trước đây tôi đã từng được nghe về các khu rừng có những tán cây 2 - 3 tầng, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Nghĩa là có vài tầng lá tiếp liền nhau, phù hợp với các loại cây có chiều cao khác nhau, mỗi tầng lá đan xen nhau như một cái trần tách biệt. Tôi đã thấy điều mà các cố vấn ở Xuân Lộc nói rằng họ chưa bao giờ nhìn thấy con đường này từ bên trên. Từ "rừng nhiệt đới" được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam vì dường như nó gợi cho người ta về tính ưu việt hơn so với cái gọi là rừng hoặc đầm lầy, đây là loại khu rừng cổ tích.

     Con đường đi xuyên qua khu rừng khá nhỏ hẹp và hút gió, vì thế chúng tôi không thể nhìn ra xa phía trước trong bóng tối.

     Con đường cứ như một đường hầm được đặt xuyên qua rừng cây rậm. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con đường nào như thế. Trong những năm chiến tranh, con đường này không được tu sửa và rừng rậm đã trùm lên nó vì thế nhiều chỗ chỉ đủ rộng để cho một chiếc xe đi qua. Tôi tự hỏi chúng tôi sẽ làm gì nếu gặp một chiếc xe khác đi ngược chiều, chưa kể đến nếu có một trận phục kích.

     Một số đoạn đường tôi có cảm giác nếu thọc tay ra ngoài cửa xe vào đám lá cây rối tung, chắc sẽ không thể rút tay lại dược.

     Chúng tôi không chỉ bị che kín bằng các bức tường xanh ở hai bên mà thường xuyên nhìn thấy ngay trước mặt cũng có một bức tường cách khoảng gần 50m, ở đoạn gấp khúc của con đường.

     Tôi đang nghĩ là chỉ cần một người nấp ở phía sau tán lá, ở một đoạn đường vòng, với khẩu súng tự động là có thể chặn được cả một tiểu đoàn trên con đường một chiều này. Những chiếc trực thăng không thể phát hiện anh ta từ phía trên và đám bộ binh sẽ phải mất nhiều thời gian để đi loanh quanh tìm anh ta, nếu họ muốn thoát ra khỏi con đường này.

     Các dây nho và cành cây đang quất mạnh vào hai sườn bên xe, mọi người phải cố đóng chặt cửa để các cành cây khỏi chọc vào bên trong xe. Đi được khoảng 10 phút trên con đường này, Vann, không thể lái xe nhanh được vì có nhiều khúc quanh, đã đặt khẩu M-16 lên cửa sổ, tay trái giữ chặt súng và đặt ngón tay vào cò chỉ lái xe bằng tay phải. Ngồi phía dưới, tôi đã làm theo Vann nhưng về bên phải cửa xe. Tôi phải giữ thật chặt để tránh các cành cây đâm qua cửa sổ vào, kéo ngược nó lại. Tôi mở một trong các ống dựng lựu đạn đem theo, lấy ra hai quả lựu đạn hơi cay và đưa cho John một quả. John đặt nó trên ghế cạnh ông ta, còn tôi để trong lòng.

     Đây là một bài luyện tập tôi đã trải qua vài lần trong tháng trước, thường vào lúc John đang lái xe rất nhanh. John đang nói với tôi một cách thực tế về những việc khi lái xe, hy vọng những thận trọng này sẽ không làm những người đi trên xe phải lo sợ.

     Victor không nói gì. Nhưng sau khi đi được 20 phút, Victor nhoài người lên phía trước, vỗ vào vai Vann và hỏi, "John, tình hình an ninh trên đoạn đường này thế nào?"

     John nói: "Tồi tệ".

     Victor không do dự lâu. Anh ta nói, "John, tôi nghĩ tôi phải quay lại". John không nói gì. Rõ ràng chúng tôi không thể quay đầu xe lại được nữa. Nhưng đi được khoảng một trăm mét nữa, con đường đã rộng thêm một chút và có chỗ lùi, ông ta mới có thể quay xe lại được.

     Quay trở về Xuân Lộc bằng con đường chúng tôi vừa đi, Vann đặt súng xuống và lái xe bằng hai tay, tăng tốc và vượt qua các đường rẽ nhanh hơn để bù lại thời gian chúng tôi vừa mất. Victor không nói gì khi được quay trở về căn cứ. Chúng tôi vẫy tay tạm biệt và Vann vòng xe và đi ngược lại.

     Mặt trời vẫn còn khá cao, cho tới khi chúng tôi không nhìn được thấy nó khi vào lại khu rừng cũ.

     John lại có phần chậm đôi chút nhưng vẫn đi nhanh hơn lần đầu, tới khi ông lại đặt chiếc M-16 lên cửa sổ và trở lại lái xe bằng một tay tới tận nơi chúng tôi đã quay đầu lại. Lúc đó John khó có thể nói được gì, tiến lùi liên tục, nhưng mọi sự bất ngờ lúc đó chỉ làm ông ta lắc đầu và cười. Vann nói: "Tôi thực sự không nghĩ anh ta (Victor - ND) sẽ làm như thế lần thứ hai. Tôi cũng không nghĩ anh ta có tác dụng".

     Tôi nói: "Lạy chúa, John, tại sao anh phải nói tình trạng an ninh trên con đường này rất tồi?"

     Trong một giây, Vann bỏ cả hai tay khỏi vô lăng, mở rộng cánh tay, chỉ vào cây cối đang quấn quýt lấy hai bên hông xe và nói "Tôi có thể nói được gì nào? Hãy cứ nhìn đi?"
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #55 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:05:49 pm »

     Khi chúng tôi tới Hàm Tân, trời vẫn chưa tối nhưng cũng đã muộn. Chúng tôi vào khu nhà của nhóm cố vấn và tự giới thiệu về mình. Một sĩ quan hỏi chúng tôi đến khi nào; vì anh ta không nghe thấy tiếng máy bay trực thăng tới. Chúng tôi nói chúng tôi không đi bằng trực thăng. Lúc đó anh ta nhìn ra ngoài và thấy chiếc xe bám đầy bẩn của chúng tôi. Anh ta phác một cử chỉ tỏ ý nghi ngờ và hỏi "Các anh lái xe tới đây à?" John nói đúng thế, sáng nay chúng tôi đi từ Sài Gòn, qua Xuân Lộc. Các cố vấn khác tập trung xung quanh, nhìn chúng tôi chằm chằm tỏ ý ngạc nhiên mặc dù thực tế là chúng tôi đã đi suốt cả ngày bằng ô tô.

    Họ nói gần một năm nay, không ai lái xe trên con đường này.

     Một người hỏi: "Con đường đó được mở rồi à?"

     John nói: "Đúng thế, hôm nay".

     Một cố vấn bộ binh về các vấn đề tác chiến trong rừng hỏi, "Dọc đường đi có nhiều chỗ có thể phục kích tốt không?"

     John trả lời: "Hai chỗ, Sài Gòn tới Xuân Lộc và Xuân Lộc tới Hàm Tân".

     Sau khi trở về tới Sài Gòn, chúng tôi đã thực hiện chuyến đi cuối cùng. Vũng Tàu, một tỉnh gần Sài Gòn nhất nằm ở ven biển, được người Mỹ cho rằng đó là nơi rất nguy hiểm nếu đến đó bằng đường bộ. Người Việt Nam và người Pháp đã lái xe đến đó suốt, trên một tuyến đường cao tốc khá tốt, mặc dù thỉnh thoảng họ phải dừng lại nộp phí giao thông ở các trạm thu phí của Việt Cộng. Dẫu sao đối với những người Mỹ thì những chuyến đi như thế vẫn chắc chắn được coi là đồng nghĩa với sự chết chóc và bắt bớ.

     John nói, từ những thông tin riêng của mình và từ lý do về mặt tâm lý như đã nói trên, ông ta cho rằng điều này đã bị cường điệu hoá. Vũng Tàu là một nơi nằm ngoài Sài Gòn, mọi người đều muốn đến đây vào những ngày nghỉ cuối tuần vì ở đó có một bãi biển rất đẹp. Nhưng bãi đỗ trực thăng thì có hạn. Vì thế người Mỹ cảm thấy có sự phân vân giữa việc lái xe đến đó hay đi xe buýt, giống như người Việt Nam hoặc người Pháp, và sự miễn cưỡng của họ mà họ không muốn tự thừa nhận, là không muốn thực hiện bất cứ sự mạo hiểm nào.

     John cho rằng suy nghĩ chung của người Mỹ là sẽ chẳng có gì nguy hiểm khi lái xe tới đó đã phản ánh cách giải quyết của họ đối với cuộc xung đột này mà không cảm thấy hèn nhát. John không muốn thừa nhận rằng Việt Cộng đã làm chủ các tuyến đường đi tới một trong các tỉnh trong địa bàn ông ta quản lý.

     Bằng việc lái xe đến đó, ông ta hy vọng có thể làm cho viên tỉnh trưởng thấy xấu hổ phải tham gia tích cực hơn vào các hoạt động an ninh, điều này sẽ gây tiếng vang tốt và giúp cho an ninh của tỉnh được tốt hơn. Nhưng tôi cho rằng lý do lớn nhất của ông ta đi tới các tỉnh bằng xe ô tô là mong muốn được đến thăm mọi nơi trong 11 tỉnh ông ta phụ trách bằng xe ô tô. Trong bất cứ tình huống nào, ông ta cũng không từ bỏ mong muốn này. Như thường lệ, John vẫn lái xe. Ông ta đem theo mấy chiếc sandwich để ăn dọc đường. Trong chuyến đi này, có rất nhiều xe cộ chạy trên đường. Nhưng chỉ sau một giờ, chúng tôi đã gặp một dãy xe con, xe tải, xe buýt bị chặn lại, thành một hàng dài phía trước mặt. Vann quyết định xem có chuyện gì xảy ra. Giữa đường cao tốc và một cái rãnh nhỏ phía bên phải có khoảng đất chỉ vừa đủ chỗ cho ông ta có thể lách ra và lái xe thẳng lên phía trên đầu của dãy xe con đang bị chặn lại. Hoá ra nó dài cũng độ vài dặm. Trời nóng bức, nhiều lái xe và hành khách, gồm cả những người trên xe buýt đổ xuống, đang đứng cạnh xe của họ.

     Những chiếc xe này bị chặn lại đã hơn 2 tiếng đồng hồ. Những đứa trẻ nhỏ từ đâu đến đang bán bỏng ngô và các túi đựng các quả dứa. Một số lái xe nói với chúng tôi, phía trước có một trạm kiểm soát quân sự.

     Cuối cùng thì chúng tôi cũng lên được phía đầu hàng, một binh sĩ Quân đội Việt Nam cộng hoà đã chặn chúng tôi lại. Một trung uý Quân đội Việt Nam cộng hoà tiến tới từ nơi một trung đội lính đang nằm dài trên cỏ và nói với chúng tôi, bằng tiếng Pháp, chúng tôi không thể đi xa hơn. Đang có khoảng 1.000 Việt Cộng đang vượt qua con đường phía trước mặt. Đó là một sự thông báo gây sốc có quá nhiều Việt Cộng. Tôi chưa từng được nghe là có nhiều Việt Cộng đến như vậy trong một cuộc hành quân. Tôi nghĩ chẳng có gì lạ khi họ nói con đường này không an toàn. Viên trung uý không biết khi nào con đường sẽ được thông. Anh ta rất lịch sự, nhưng quả quyết rằng chúng tôi sẽ phải chờ; chúng tôi không thể đi tiếp lúc này. Đó là sự khẳng định.

     Tôi dịch cho John vì ông ta không nói được tiếng Pháp.

     John nhìn về phía trung đội lính. Phần lớn binh lính đang nằm nghỉ, một số đang ăn, hoặc đang hút thuốc. Ông ta nheo mắt nhìn lên chiếc máy bay trinh sát đang lượn đi lượn lại một cách chậm chạp ở phía trên coa đường, cách khoảng một dặm về phía trước. Sau đó ông nói: "Chuyện vớ vẩn", và bắt đầu quay xe lại đường cao tốc, ngay trước những chiếc xe khác.

    Viên trung uý nhìn một cách ngạc nhiên, sau đó tức giận. Anh ta chạy tới trước xe chúng tôi, hai tay dang ra chỉ về phía trước ra hiệu cho chúng tôi dừng lại. Anh ta nói tiếng Pháp, "Không được! Các ông không thể đi được! Đoạn này bị cấm hoàn toàn". John phẩy tay bảo anh ta tránh ra và lái xe tiến dần về phía trước.

     Viên trung uý đứng sang một bên nhưng rút súng lục từ trong bao ra và chĩa vào chúng tôi. Anh ta dang rộng tay ra và nói tiếng Pháp nhanh hơn tới mức tôi không thể hiểu mặc dù tôi có nghe được ngữ điệu. Anh ta quát to bằng tiếng Việt Nam với một số binh lính và họ đã bắt đầu đứng dậy. Tôi hy vọng John dừng lại, nhưng ông ta quay lại nhìn viên trung uý đầy quả quyết khiến cho nòng súng của anh ta phải hướng lên trên - và quay đầu bỏ đi. Khi chúng tôi tăng tốc, tôi quay lại nhìn. Viên trung uý nhìn hai chúng tôi rất tức giận và cảnh báo một cách đầy đe doạ việc chúng tôi đang làm, và điều đó đã làm tôi lo lắng.

     John lao xe đi thật nhanh. Chúng tôi có vũ khí trong xe, những John đã không để nó lên cửa sổ. Con đường thẳng tắp và các vùng quê hiện ra ở cả hai bên đường. Không có cây cối, không gì che khuất. Con đường này hoàn toàn đối nghịch với con đường rừng trên đường tới Hàm Tân. Nhưng chúng tôi không nhìn thấy một ai, không có dấu hiệu của Việt Cộng, không có quân đội Việt Nam cộng hoà, cũng không có chiếc xe nào khác. Suốt cả đoạn đường chỉ có mình chúng tôi.

     Sau 10 đến 12 phút, tôi hỏi Vann tại sao ông ta chắc chắn rằng viên trung uý đã sai. Vann nói vì ông chẳng cảm thấy sự nguy hiểm nào cả. Điều gì đã làm cho Vann khẳng định như vậy? Vann nói: "Anh có nhìn thấy những binh lính của Quân đội Việt Nam cộng hoà đang nằm trên bãi đất đó không? Họ sẽ không thể có tâm trạng nghỉ ngơi như thế nếu họ thực sự cho rằng có Việt Cộng ở cách một dặm về phía trước. Họ hoàn toàn không thể ở đó nếu có tình hình nguy cấp". Vann cũng không nghe thấy tiếng đạn pháo. Ông ta chỉ lên chiếc máy bay nhỏ đang bay trên đầu chúng tôi suốt dọc con đường và nói: "Hãy nhìn mà xem, nó đang bay thấp và chậm như thế nào. Nó không bị hoả lực dưới mặt đất bắn. Vì thế, không thể có một Việt Cộng nào dọc tuyến đường này và cả phía trước". Tuy nhiên, Vann vẫn lái xe nhanh qua các cánh đồng vắng vẻ. Trong vòng mấy phút, chúng tôi đã đến được chỗ dãy xe ô tô đi ngược chiều với chúng tôi. Nó trông như thể đoàn xe mà chúng tôi vừa bỏ lại phía sau. Có nhiều binh lính của Quân đội Việt Nam cộng hoà trên đầu hàng xe. Trông họ rất hoảng hốt khi nhìn thấy chúng tôi. Khi thấy chúng tôi lái xe qua, tất cả các tài xế đang nằm dưới đường vội vã quay trở về xe và khởi động máy. John nói: "Họ gặp chúng ta, họ nghĩ đường đã thông. Tôi đoán là thế". Chúng tôi không thể nói để cho họ đi vì lính của Quân đội Việt Nam cộng hoà chặn họ lại. Làn đường của chúng tôi rất vắng vẻ, nên đi rất thoải mái trong khi trên các làn đường khác những chiếc xe nối đuôi nhau bị chặn lại dài đến vài dặm.

     Khi họ đã ở phía sau chúng tôi, tôi hỏi John: "Ông nghĩ gì về tất cả điều này? Viên trung uý đó hình như thực sự lo sợ về việc cứ lao lên phía trước của chúng ta".

     John nói: "Anh ta lo lắng vì nếu chúng ta đi qua được thì, anh ta sẽ không có cớ gì để cho đám lính nằm quanh ở đó. Lẽ ra anh ta phải đi cùng với lính ra xem thực sự đã có chuyện gì xảy ra ở đó".

     "Nhưng tại sao họ lại bắt xe cộ dừng lại sau đó? Điều gì đang diễn ra?"

     John nói: "Ồ, có thể đã có thông báo một số Việt Cộng, có thể là một tiểu đội, đi qua đoạn đường này nhiều giờ trước đó".

     "Anh ta nói là một nghìn cơ mà".

     "Một cơ hội lớn để làm quan trọng hoá vấn đề ấy mà".

     Như thường lệ, hoá ra John đã biết điều viên trung uý đang làm, mặc dù đã đi qua trạm kiểm soát được mấy phút mà tôi vẫn chưa an tâm lắm. Chúng tôi tới Vũng Tàu rất sớm để thảo luận, ăn tối với nhóm cố vấn và các đại diện của Cơ quan Phát triển quốc tế (AID) ở đó. Sáng hôm sau, John tới thăm tỉnh trưởng và chúc mừng ông ta vì tình hình của tỉnh đã an toàn hơn năm trước nhiều, khi mà chúng tôi không bao giờ nghĩ tới việc có thể lái xe tới đó như chúng tôi vừa làm. Viên tỉnh trưởng lắng nghe những góp ý của John về việc làm như thế nào để tình hình tốt hơn nữa trước khi ra tiễn chúng tôi về Sài Gòn.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #56 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:07:28 pm »

Chú thích:


-----------------------------------------------------------------------------------------------

(72) David Halberstam viết về Vann: Halberstam, The Making of a Quagmire, 147-49.

(73) Đây là những chú thích của tôi: Ellsberg, bản ghi nhớ cho cuốn ghi âm: Chuyện thăm tới một tỉnh bất ổn, Hậu Nghĩa, tài liệu chưa xuất bản.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #57 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:08:38 pm »

Chương 9

Hy vọng tiêu tan



     Kinh nghiệm tôi học được qua việc lái xe trên những con đường làng và những quan chức cho tôi đã đem lại kết quả tốt trong một cuộc điều tra tôi được giao nhiệm vụ thực hiện vào mùa xuân năm 1966. Tổng thống Johnson đã yêu cầu đại sứ quan báo cáo thường xuyên về những gì ông ta chính thức gọi là cuộc chiến tranh khác, kém về mặt quân sự, sẽ càng mạnh về mặt chính trị của cuộc xung đột cao hơn lòng trung thành của những người dân vùng nông thôn, khác với cuộc chiến tranh của các đơn vị chiến đấu lớn chống lại các lực lượng Bắc Việt Nam hoặc các đơn vị chủ lực Việt Cộng. Điều này phải bắt đầu bằng một bản báo cáo cho Tổng thống về sự tiến triển được mong đợi,, được thực hiện ở Việt Nam trong chương trình bình định năm 1966. Trên cơ sở của báo cáo trước đây, phó Đại sứ William Porter yêu cầu tôi chuyển từ đoàn của Lansdale về để thu thập dữ liệu về khu vực Quân đoàn 3 xung quanh Sài Gòn cho việc viết báo cáo này, không phụ thuộc vảo MACV vì chắc chắn MACV sẽ đưa ra những đánh giá riêng của nó.

     Tôi lại lái xe về các tỉnh của Quân đoàn 3, lần này chủ yếu đi một mình, quan sát các điều kiện dọc theo các tuyến đường và nói chuyện với từng cố vấn Mỹ. Tôi tập trung tới họ hơn người Việt Nam vì trong trường hợp này báo cáo của tôi phải được nhanh chóng hoàn thành. Tôi đem về những tài liệu đã tập hợp được trong một đề cương chi tiết ngày 31 tháng ba về "sự tiến triển" được mong đợi, bắt đầu bằng: "Trong phần lớn các khu vực ưu tiên của Quân đoàn 3, việc đạt được kết quả mong muốn của chúng ta rất kém thậm chí là các mục tiêu vừa phải trong chương trình bình định ở nông thôn năm 1966…"(74)

     Tôi đã phân phát, trình bày và bảo vệ đề cương này trong một cuộc họp của Hội đồng đặc nhiệm, gồm các cấp trưởng hoặc cấp phó của tất cả các cơ quan dưới sự lãnh đạo của đại sứ, do phó Đại sứ Porter chủ trì, với sự có mặt của các đại diện chính phía quân sự trong đó có một cấp lướng, người chịu trách nhiệm về chương trình bình định của MACV. Có một đại diện của CIA và các đại diện của tất cả các ban khác trong Hội đồng. Robert Korner thuộc văn phòng NSC ở Nhà Trắng sau này tới Việt Nam để đi đầu trong nỗ lực bình định dưới sự chỉ huy của tướng Westmoreland, đã tham dự cuộc họp để xem xét quá trình tiến triển cho Tổng thống Johnson. Tôi rất nhớ thời gian của cuộc họp này vì hôm đó là ngày sinh nhật của tôi, ngày 7 tháng tư năm 1966.

     Tôi bắt đầu với việc nêu những đánh giá về bản báo cáo có kèm theo biểu đồ, ngay trước tôi là biểu đồ của tướng Harris W. Hollis, người thực hiện chương trình bình định. Ông ta đã đưa ra một bản thống kê quân sự về những gì quá trình bình định đã đạt được ở Quân đoàn 3. Ông còn thể hiện trên một bản đồ trong đó các phần của Quân đoàn 3 có màu đỏ biểu thị sự kiểm soát của Cộng sản, các khu vực bị tranh chấp biểu thị bằng đường vạch chéo song song và các khu vực do GVN kiểm soát có màu xanh da trời. Bản đồ của ông ta vẫn còn được treo trên một cái giá bên cạnh tôi khi tôi trình bày. Về nguyên tắc, các khu vực khác nhau này được đánh giá bằng một bộ tiêu chí cụ thể. Nhưng trong điều kiện thực tế, tôi đã đanh giá "sự kiểm soát của GVN" nghĩa là một khu vực trong đó một quan chức của huyện hoặc của làng, do chính phủ Việt Nam trả lương hoặc cuối cùng do chúng ta trả lương, có thể ngủ qua đêm trong một làng mà không cần có vệ sĩ. Đó là một cuộc thử nghiệm thú vị ở một khu vực do chính phủ kiểm soát. Ở Quân đoàn 3 không có những tình trạng đó dù là các khu vực màu xanh da trời. Hơn nữa, khi bàn bạc công việc với các quan chức, tôi biết được rằng một khu vực bị tranh chấp là một nơi trong đó một quan chức sẽ không phải ngủ qua đêm nhưng ban ngày có thể vào cùng với một tiểu đội hoặc một trung đội lính để bảo vệ anh ta. Khu vực màu đỏ do Việt Cộng kiểm soát là nơi một quan chức sẽ không thể qua nếu không có một hoặc hai đại đội đi theo.

     Một vấn đề khác nữa để xem bản đồ là trong một khu vực bị tranh chấp, GVN có sự tiếp cận khá tốt với mọi người vào mọi lúc của ngày nhưng cơ bản là không vào ban đêm. Việt Cộng đã có sự tiếp cận tốt với một số người vào ban ngày, khi không có binh lính nào của GVN ở đó, thì gần như vào tất cả các đêm. Kết quả, GVN kiểm soát ban ngày, Việt Cộng kiểm soát ban đêm.

     Nghĩa là Việt Cộng có thể thu thuế đều đặn, tiến hành tuyển tân binh, truyền giáo và thậm chí ngủ ở đó trong nhiều đêm. Vì các mục đích thiết thực, họ đã sống ở đó; những người khác sẽ không thông báo về họ mặc dù có các quan chức chính phủ đi theo là một bảo vệ tới thăm vào ban ngày. GVN cũng có thể vào khu vực đó vào ban ngày để thu thuế (và các khoản cho thuê), cố bắt lính quân dịch và (uyên truyền. Quân du kích địa phương không đủ mạnh để ngăn chặn họ trừ phi họ đến để tiến hành một hoạt động quân sự. Nhưng nếu các đơn vị Việt Cộng muốn tiến hành hoạt động quân sự trong khu vực đó, để di chuyển hoặc để phục kích một đơn vị RFs hoặc một đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hoà, họ cũng sẽ không gặp phải phiền phức. Họ có thể dựa vào sự ủng hộ của dân địa phương và của những người khác để giữ bí mật cho họ trước Quân đội Việt Nam cộng hoà.

     Tóm lại, chúng ta đang tự đánh lừa chúng ta bằng việc gọi các khu vực và các làng này là nơi bị tranh chấp. Vì những thói quen hữu hiệu nhất, các khu vực này đều do Việt Cộng kiểm soát.

     Tôi nói với người nghe, tấm bản đồ trước cuộc họp cho thấy, "Đây là kết quả được thể hiện dưới dạng màu sắc, các khu vực kiểm soát hiện tại". Tiếp theo có một lớp vải sợi mỏng trong suốt có thể nhìn qua được, cho biết: "Và đây sẽ là kết quả vào cuối năm, sau khi chúng ta thực hiện các kế hoạch của mình. Chúng ta mong đợi kết quả báo cáo cho Tổng thống lúc đó sẽ thêm nhiều màu xanh da trời hơn. Chúng ta sẽ mở rộng khu vực màu xanh da trời nhiều hơn".

     Tôi chỉ vào bản đồ có lớp vải mỏng trên đó và nói: "Kế hoạch là khu vực màu xanh da trời sẽ mở rộng từ đây đến đây. Đó là kế hoạch của chúng ta. Bây giờ, chúng ta nên nói gì với Tổng thống về việc ông ta sẽ đánh cược với chúng ta như thế nào, liệu kế hoạch đó có đạt được mục tiêu hay không?"
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #58 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:09:31 pm »

     "Ông ta nên đánh cược rằng việc mở rộng khu vực màu xanh sẽ không xảy ra. Sẽ không có sự tiến triển nào được tạo ra ở quân đoàn này vào năm 1966". Nguyên nhân do không được an toàn vì Việt Cộng; cũng như quan trọng là người dân bị mất an toàn và thiếu sự bảo vệ của các lực lượng chính phủ. Để giải thích điều đó, tôi đã nói với họ về điều tôi đã chứng kiến trong 10 ngày trước khi lái xe đi vào khu vực đó.

     Một trong những cảnh đó là một làng nhỏ ở gần một chiếc cần ở tỉnh Long An, cách không xa Sài Gòn bị cháy. Sáng hôm đó tôi lái xe từ Sài Gòn đi về phía nam, khi đi qua, ngôi làng vẫn đang cháy. Một người dân cho tôi biết một tiểu đội dân quân Việt Cộng đã vào cướp làng một cách lặng lẽ trong đêm. Một đoạn đường ngắn tới làng và một chiếc cầu lớn rất dễ thấy, cách làng khoảng gần 100 mét. Tôi đã chụp một tấm ảnh để trình lên cuộc họp, từ trong đám những túp lều đang cháy, chỉ vì đó là nơi tôi đang đứng hoặc vì nhìn vào bức ảnh chụp cả chiếc cầu và những túp lều, có thể bạn nhận ra ngay chiếc cầu và ngôi làng nhỏ đó gần nhau tới mức nào.

     Nguyên nhân làm cho việc này trở thành quan trọng là vì một trung đoàn của quân đội miền Nam Việt Nam, Trung đoàn 49 thuộc Sư đoàn 25 có sở chỉ huy đã hỗ trợ làm chiếc cầu đó.

     Có 2 tiểu đoàn (lính Sài gòn) đang sống ngay ở khu vực lân cận của chiếc cầu, cách ngôi làng khoảng 100 đến 100 mét. Tôi được biết lý do ngôi làng bị cháy qua những người dân làng và đám lính nguỵ vì khi một tiểu đội dân quân Việt Cộng vào làng trong đêm, các đơn vị lính Sài gòn cách đó gần 200 mét đã bắn rocket và pháo vào khu làng và làm tất cả các túp lều bốc cháy. Những túp lều này được làm bằng lá cọ, nhưng bây giờ chúng đã trở thành đống tro đang bốc khói.

     Không một tiểu đội hay trung đội nào lại dám mạo hiểm di chuyển vào làng qua chiếc cầu này để thách thức sự xuất hiện của Việt Cộng. Ngay việc đi bộ vào làng để ngủ, Việt Cộng cũng đã khiến cho quân đội miền Nam Việt Nam phải phá huỷ ngôi làng và những người hàng xóm của họ. Có thể Việt Cộng đã cố tình làm việc này để trừng phạt những người dân làng vì một số lý do. Hoặc Việt Cộng có thể đã tin tưởng vào kinh nghiệm trước đây vì đó là nơi ăn ở giữa họ và trung đoàn và nó đã đổ vỡ vào đêm nay. Hoặc có thể chỉ huy trung đoàn đã muốn trừng phạt dân làng vì một số lý do. Dù là nguyên nhân nào đi nữa thì chỉ có người dân là phải hứng chịu. Tôi được biết tiểu đội Việt Cộng đã bỏ đi mà không hề bị thương vong khi đám cháy bắt đầu. Mọi người đều đồng ý rằng binh lính của Quân đội Việt Nam cộng hoà đã bắn trước tiên.

     Tôi không biết đã có bao nhiêu thương vong. Tôi không nghĩ có rất nhiều băng đạn đã được bắn ra, mà chỉ đủ để bắn từ túp lều này sang túp lều khác liền kề nhau. Trên những mảnh đất vuông nơi một túp lều bị cháy, người dân và đám trẻ con đang bới những đống tro để lượm những mảnh gốm vỡ, những ấm trà, ít đồ chơi và khung ảnh bị cháy. Tôi đã chụp được nhiều ảnh của đám người này, tôi cũng sẽ trình lên. Dân làng trông rất buồn, ngoại trừ đôi lúc một đứa trẻ tỏ ra vui sướng khi nó tìm thấy một đồ chơi bằng nhựa chưa bị cháy nhiều lắm.

     Đó là những cảnh bạn có thể chứng kiến chỉ khi đang đi trên đường vì bạn thực sự không thể có được một báo cáo kiểu này từ một người cố vấn. Về trường hợp này tôi đã kiểm tra 10 ngày sau đó để xem sự kiện đó có được cố vấn báo cáo lên không nhưng đã không thấy có.

     Tôi tiếp tục tả lại hai trường hợp khác tôi đã quan sát trong 10 ngày trước. Tôi đi thanh tra các trường học đang được xây dựng theo kế hoạch của chương trình bình định. Chúng ta đã cung cấp xi măng cho những trường học này qua chương trình AID, một phần phi quân sự mà chúng ta đang làm. Điều tôi chứng kiến đã tự nói lên chính nó. Trong nhiều ngày, hết trường học này đến trường học khác, nếu bạn ấn gót giầy xuống sàn nhà gót giầy của bạn sẽ lún đến cùng cái được gọi là bê tông.

     Nếu bạn lấy trong túi ra một đồng xu, cạo vào các bức tường hoặc sàn nhà, cát sẽ cày lên vụn tan. Thực tế bạn có thể chọc ngón tay qua. Đây là thực chất của lớp "bê tông" được làm chủ yếu bằng cát. Đại diện AID cấp tỉnh nói, mỗi lớp học sử dụng hết 30 bao xi măng thay cho 75 bao theo yêu cầu và được USAID viện trợ. Phần còn lại được chuyển đổi, đem bán ra chợ đen cho các công trình xây dựng tư nhân, xây dựng chung cư ở Sài Gòn để kiếm lợi riêng cho xã trưởng, cho những người nhận xi măng của AID chuyển đến. Đây là sự nhận thức chung của mọi người. Tôi trích ra đây một đoạn phát biểu của đại diện cấp tỉnh trong cuộc họp này: "Những người này biết bê tông sẽ như thế nào; họ sẽ ra sao và họ biết phần còn lại sẽ đi đâu. Ngay cả những tác động về mặt chính trị của một chương trình được tiến hành như thế này là gì? Họ có thấy vui không khi chẳng thu được gì? Hay nếu chúng ta không có chương trình gì hết thì những cam kết bị phá vỡ, các công trình xây dựng kém chất lượng, sự đánh lạc hướng và những khoản tiền thu nhập một cách bất chính có làm họ tức hơn với chính phủ? Chúng ta phải cố gắng để làm cho ra".

     Tôi nói, các cố vấn khác mà tôi nói chuyện với, không nghĩ là cần phải nghiên cứu thêm. Họ nói, những người hiểu rất rõ số xi măng còn lại sẽ đi đâu, thay vào các trường học cho con em họ, thực tế Mỹ đã bỏ qua chuyện đó vì việc đó đã xảy ra ngay trước mắt chúng ta. Điều này làm cho họ tức giận với cả chính quyền miền Nam Việt Nam và Mỹ, vì thế đã khuyến khích con em họ ghi tên vào danh sách tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng. Cùng lúc, có một sự thật là một số trường học, nếu được dựng lên sau khi xây, lại bị Việt Cộng phá huỷ. Tôi cũng đã nhìn thấy những trường hợp đó trên dọc đường đi và đôi khi ngay bên cạnh các tiền đồn của PFs. Nhưng trong nhiều trường hợp, Việt Cộng đã không phải phá vì đơn giản chúng tự đổ. Cùng với những bức ảnh chụp gót giầy của tôi đang bước lạo xạo trên chỗ được gọi là một sàn bê tông, tôi đã đưa ra cuộc họp những bức ảnh tôi đã chụp các lớp học xây bằng cát. Những bức ảnh cho thấy những vòng xoáy cát lớn đang cuốn qua sàn nhà trước một cơn gió nhẹ. Các phòng học được xây dựng tháng trước, món quà của người Mỹ, đang biến mất trước mắt chúng ta, đang cươn đi trong gió.

     Điều thứ 3 tôi báo cáo là làng Đức Lập, xã Duc Han A và Duc Han B. Các xã này được tiểu đoàn biệt kích số 38 bảo vệ, các tiểu đoàn độc lập người Việt Nam được dựng theo mô hình các tiểu đoàn biệt kích riêng của chúng ta. Điều tôi quan sát được là dấu hiệu của các lỗ đạn trên tường nhà từ tuần trước. Các ký hiệu bằng tiếng Việt Nam mà người ta đã dịch cho tôi là những khẩu hiệu rất tục tĩu chống lại cái mà người Mỹ gọi là cán bộ phát triển cách mạng (RD). Các ký hiệu này do đám biệt kích viết lên, họ cũng phải chịu trách nhiệm về những lỗ đạn trên tường. Tôi được biết một viên chỉ huy trung đội biệt kích đã lệnh cho một nữ cán bộ ngủ với anh ta. Khi cô ta từ chối, viên chỉ huy, để giữ yên ổn, đã yêu cầu cô ta chấp thuận nhưng cô ta vẫn từ chối và cuộc xô xát đã xảy ra giữa đám lính biệt kích và nhóm cán bộ; đám biệt kích đã giết một vài thành viên của nhóm cán bộ. Cùng lúc, có thể do tức giận trước một cuộc tấn công của Việt Cộng vào tiểu đoàn, tiểu đoàn biệt kích đã đổ xô vào khắp làng, dồn dân làng vào trước họng súng, lấy đi tất cả những đồ vật có giá trị của họ và hãm hiếp nhiều phụ nữ trong đó có cả các cán bộ. Nhóm cán bộ này đã không ở trong xã nữa vì họ sợ đám biệt kích. Vào buổi sáng ngày 27-3, tôi tới thăm và được biết dân trong hai làng đó đã liên lạc với Việt Cộng để nhờ họ tiêu diệt Tiểu đoàn biệt kích số 38.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #59 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2007, 08:10:39 pm »

     Để kết thúc báo cáo tôi nói, Tổng thống phải được biết rằng việc ủng hộ vật chất, tiền của và trang thiết bị - giống như việc cung cấp xi măng cho các trường học hoặc tài trợ cho các lực lượng miền Nam Việt Nam như tiểu đoàn biệt kích và trung đoàn của Quân đội Việt Nam cộng hoà - sẽ không có sự tiến triển gì, cũng không giành được các mục tiêu hoặc tạo thuận lợi cho các mục tiêu của nước Mỹ chừng nào mà những thực tế như thế này vẫn tiếp tục được chờ đợi. Hãy cố gắng vì chúng ta có thể thay đổi được những việc này và chúng ta nên cố gắng - tôi đã nêu ra một số giả thiết phải thực hiện việc đó như thế nào - Tổng thống không nên chờ đợi vào bất cứ sự tiến bộ thực sự nào trong năm 1966 - nếu có thể.

     Theo tôi nhớ lại, hoàn toàn cảm thấy dễ sợ khi nghĩ tới việc đòi hỏi những đánh giá thẳng thắn của giới quân sự, những người hiện tại đang đối mặt với một đại diện trực tiếp của Tổng thống.

     Nhưng sau 10 ngày đi trên đường, tôi lại chẳng đếm xỉa gì tới việc này. Cũng nhờ vào thời gian thực tập với Vann, tôi đã có một cái thẻ quan trọng: tôi là người duy nhất ở đó được vào các xã để chứng kiến những việc này. Không còn ai cùng cấp với tôi, cả phía quân sự và dân sự (trừ John) là thích hợp để báo cáo những việc như thế theo sự quan sát riêng của mình. Niềm tự hào về việc giải thích được nhiều điều trước những người khác đã giúp cho những kết luận của tôi có căn cứ và với những căn cứ này họ không thể tranh cãi hoặc phủ nhận một cách thẳng thắn.

     Cho họ niềm tin, tôi nhanh chóng chứng minh được rằng phản ứng của một số sĩ quan cao cấp ở đó với bài giới thiệu này ít gay gắt hơn tôi mong đợi. Một trong những đại tá có kinh nghiệm nhất ở đó, một người tôi không biết rõ, sau cuộc họp đã kéo tôi sang phòng bên cạnh, ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi và nói một cách nhã nhặn: "Những điều anh vừa nói là đúng. Anh đã nói lên sự thật". Sau đó ông ta nhìn tôi, gật đầu và nói: "Chúc mừng anh". Tôi gật đầu, chúng tôi đứng lên và quay ra nói chuyện với những người khác, đang ra về.

     Sau khi tôi phát biểu, một vị tướng, người đưa bản báo cáo tóm tắt này cho MACV đã cố gắng để khôi phục lại trạng thái ban đầu. Ông ta nói trong khi rất nhiều điều tôi đã báo cáo là đúng sự thật về quá khứ, thậm chí cả hiện tại, nhưng thực tế dưới sự chỉ đạo của Mỹ, một số đơn vị của quân đội Việt Nam cộng hoà, đặc biệt là sư đoàn số 5 vẫn đang "khá lên".

     Đó là câu thần chú mà các cố vấn người Mỹ (trước họ là người Pháp) đã dựa vào hàng thập kỷ nay để làm lạc hướng mối quan tâm của cấp trên. Tôi chỉ rõ có một số căn cứ để nói như thế trong một số trường hợp. "Nhưng vấn đề phải đối mặt là: họ đang tiến triển nhanh tới mức nào, nhanh được bao nhiêu? Có tiến triển nhanh hơn Việt Cộng không? Tiến triển như thế có đủ để thay đổi chương trình mà chúng ta tuyên bố sẽ đệ trình lên Tổng thống vào cuối năm nay không? Hay sẽ không có tiến bộ nào để báo cáo? Tôi nói tôi nghĩ là không.

     Bảy năm sau, tháng 5-1973, tôi nhận thấy phải kể lại buổi báo cáo ngày hôm đó cho bồi thẩm đoàn trong phiên toà xét xử tôi. Luật sư yêu cầu tôi kể lại kinh nghiệm của tôi ở Việt Nam, nhưng tôi thấy phía truy tố đã thành công trong việc phản bác lại bất cứ điều gì tôi nói ra nếu dưới dạng "tôi biết" hoặc "tôi đi đến kết luận" hoặc nếu nó liên quan tới những gì tôi đã viết ra mà không được đưa ra làm bằng chứng. Tuy nhiên, tôi đã để ý thấy khi nào tôi dẫn chứng là tôi đã nhìn thấy hoặc tôi đã báo cáo miệng thì mọi phản đối của người truy tố đều không được chấp nhận. Có nghĩa là tôi có thể giải thích bản báo cáo này bằng lời nói như kiểu truyền đạt những điều tôi đã biết ở Việt Nam và những điều đã làm tôi thay đổi.

     Khi tôi kể tới một ngôi làng bị cháy, tôi ngừng lại một lát sau đó nói với giọng xúc động: "Đó là một cảnh tượng hết sức tồi tệ". Lúc này, bản ghi chép về phiên toà cho thấy, tôi nói:

    "Xin lỗi", tôi xin ngừng một phút. Sau đó, tôi bình tĩnh lại và tiếp tục kể khoảng nửa tiếng hoặc hơn phần còn lại của bản báo cáo trước cuộc họp. Đến giờ nghỉ ăn trưa, tôi vào căn phòng có đội bảo vệ, ngồi xuống một chiếc bàn và khóc suốt thời gian ăn trưa.

     Các thành viên khác của đội bảo vệ đã rời phòng, để tôi lại một mình. Họ không hiểu tại sao tôi khóc. Kể cả các phóng viên đã mở cửa vào phòng vài lần để nói chuyện với một trong các luật sư của tôi, thấy tôi gục đầu xuống bàn thổn thức, cũng vội vàng đóng cửa lại. Đó là lần duy nhất họ thấy tôi như thế.

     Cuối giờ ăn trưa, tôi rửa mặt, quay trở lại phòng toà án và tiếp tục đưa ra lời khai trước toà trên bục đứng của nhân chứng.

     Phần lớn mọi người đều cho rằng sự suy sụp của tôi đơn giản là do căng thẳng khi đứng làm chứng.

     Tôi khóc vì nhớ lại buổi sáng hôm đó, đám khói bốc lên từ những chiếc chiếu ngủ đã bị cháy, những nền lò sưởi cháy đen, một bà già đang nhặt lên một chiếc ấm trà từ đống tro tàn. Tôi đã không nghĩ tới cảnh tượng đó trong suốt 7 năm. Bây giờ nghĩ lại cảnh đó, tôi thấy những bức ảnh tôi đã chụp và đưa cho các tướng lĩnh và cho Korner xem trong cuộc họp. Tôi thấy hình ảnh một cô bé gái nhỏ nhắn cầm con búp bê nhựa bị cháy đen trên tay, tôi thấy Việt Nam.

     Mùa xuân năm 1966, có một cuộc nổi dậy lớn nữa của Phật giáo ở Quân đoàn 1, các tỉnh phía bắc của miền Nam Việt Nam, gồm các thành phố Huế và Đà Nẵng. Trước khi xảy ra việc này, Hubert Humphrey đã đến Sài Gòn trong một chuyến thăm ngắn để đề nghị sự ủng hộ công khai của tướng Kỳ.
Logged

Để gió cuốn đi...
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM