Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:43:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những bí mật về chiến tranh Việt Nam  (Đọc 101005 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #170 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:26:36 pm »

     Charlie nói: "Ông biết không, ông đang nói chuyện trên một đường dây bị nghe trộm". Đó là giả định mà các luật sư của tôi đưa ra, mặc dù họ không biết thực sự về điều đó.

      "Ông đang đùa đấy hả".

     "Không hề".

     Viên quan chức của Bộ Tư pháp thốt lên: "Ôi, Chúa ơi" và cúp máy.

     Charlie kể lại câu chuyện này cho tôi và nói, "Anh có hai ngày". Tôi xem lại những gì còn lại và quyết định xem sẽ chuyện chúng cho ai. Tất nhiên, tôi không nhất thiết phải làm như vậy. Tôi có thể trình diện ngay và giao lại công việc này cho ai đó, nhưng từ trước đến nay, tôi là đầu tầu của quá trình này và tôi muốn trụ lại đến phút cuối cùng. Sau khi hai mươi tháng nỗ lực, và sau hai tuần thắng lợi vừa qua, thách thức công khai và thành công, tôi không hề muốn rời bỏ khi các nhà chức trách bảo tôi phải làm như vậy. Luật sư của tôi còn ở vào một tình trạng khó xử hơn, có nguy cơ dính líu vào một vụ rắc rối pháp lý, nhưng họ gánh chịu mà không một lời phàn nàn. Khi Toà án Tối cao đang nghe tranh luận, họ tuyên bố tại một cuộc họp báo ở Boston rằng tôi sẽ trình diện tại Văn phòng luật sư tại Boston lúc 10.00 sáng thứ hai, ngày 28-6. Họ cũng không biết gì nhiều về nguyên nhân của sự trì hoãn này.

     Sáng thứ bảy, tôi chia các bản sao còn lại thành hai phần và cuối tuần, nhóm của chúng tôi chuyển chúng đến toà soạn báo Người đưa tin Cơ đốc giáo và Tuần tin tức. Đến đêm chủ nhật, tủ đựng tài liệu đã sạch trơn. Chúng tôi đã sẵn sàng lộ diện vào sáng ngày hôm sau. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp bảo lãnh. Hai ngày với tư cách là một kẻ chạy trốn có thể không thuyết phục được thêm một vị quan toà để cho phép tôi bước ra khỏi toà án. Trong căn phòng ở nhờ cuối cùng, chúng tôi nghĩ đây có thể là đêm cuối cùng chúng tôi bên nhau. Trước lời thúc giục quyết liệt của chính phủ trong buổi sáng chủ nhật đề nghị Toà án Tối cao tiếp tục ngăn chặn việc công bố thông tin cho công luận Mỹ, tôi cảm thấy thật bõ công để chứng minh trên thực tế nỗ lực của chính phủ là vô ích, trong khi các thẩm phán đang cân nhắc, để các tờ báo sẵn sàng hành động như thể họ không bị ràng buộc gì.

     Buổi sáng ngày thứ hai, ngày 28-6, Charlie Nesson đến để cùng chúng tôi đến toà án liên bang thưa kiện.

     Ông bày tỏ hy vọng sẽ có nhiều nhà báo ở đó. Tôi mặc bộ đồ đẹp nhất mà ai đó đã "ăn trộm" ra khỏi căn hộ của tôi. Đó là một món quà cưới của người anh rể và là bộ complê may duy nhất mà tôi từng có. Tôi mặc nó trong suốt phiên toà. Trong những ngày này, trước khi vụ Watergate diễn ra, dường như bất kỳ ai đến toà án với một bộ complê lịch sự cùng cà vạt luôn có vẻ như vô tội trước hội thẩm đoàn.

      Charlie đưa cho tôi lời khuyên của một nhà báo rằng FBI đang cố gắng một cách tuyệt vọng để tóm được tôi trên đường trước khi tôi trình diện tại toà án. Sự bất lực của FBI trong nỗ lực truy bắt tôi hai tuần qua khiến họ lúng túng, trong khi đó tôi đang phân tán hồ sơ và xuất hiện trên kênh truyền hình quốc gia, và tìm kiếm sự minh chứng vào phút cuối. Bản thân tôi cũng cảm thấy ấn tượng về sự thất bại của họ trong việc tìm kiếm tôi hay ngăn cản bất cứ bản sao nào của hồ sơ trước khi chúng xuất hiện. Một vài ngày sau đó, tôi hỏi luật sư của tôi, Leonard Boudin: "FBI thực sự giỏi cái gì?"

     Leonard trả lời: "Bắt kẻ đi đầu thú".

     Theo kinh nghiệm quá khứ, Boudin tin rằng Bộ Tư pháp hào hứng muốn trình diện tôi trước ống kính camera như là một kẻ tội phạm bị bắt giam, với còng số tám, nếu không nói là xích sắt. Charlie nói tôi có thể gặp rất nhiều xe cảnh sát ở trên đường dẫn tới trụ sở toà án. Ông ta cho rằng chính phủ sẽ rất hài lòng nếu tóm được tôi, thậm chí ở những phút cuối cùng, trước khi tôi bước vào Quảng trường Bưu điện. Ông ta thuê một chiếc taxi đến chở chúng tôi đến đó. Ông hướng dẫn người lái xe theo một lộ trình lòng vòng. Chúng tôi đi vòng ra rất xa và qua Charles trên một chiếc cầu ít được sử dụng.
Sáng hôm đó, tôi hình dung trong đầu một tuyên bố ngắn, tôi muốn nói với báo giới nếu tôi có cơ hội trước khi bị bắt.

     Đây có thể là cơ hội đầu tiên cho tôi đứng ra nhận trách nhiệm duy nhất về việc tiết lộ hồ sơ. Khi tôi còn hoạt động bí mật và chưa công khai nhận tôi là nguồn gốc của hồ sơ, tôi không thể chứng thực giả thuyết là đồng nghiệp cũ đã khai với FBI để thoát khỏi sự nghi ngờ. Giờ đây, tôi muốn bắt đầu tuyên bố hùng hồn và công khai rằng tôi làm việc này với trách nhiệm của cá nhân và "một mình", với tư cách như là một nhân vật trong chính phủ, một người được phép biết các thông tin mật. (Rõ ràng, ngay khi tôi quyết định, tôi không đơn độc, mà nhận được sự giúp đỡ quan trọng từ phía bạn bè, gia đình và những người phản đối chiến tranh). Đó là điểm chính mà tôi muốn nói, nhưng đó cũng là tuyên bố đầu tiên tôi phát biểu trực tiếp về động cơ và hy vọng của bản thân tôi.

     Trong khi đi lòng vòng, tôi chợt nghĩ ra rằng Patricia cần phải có một bản sao những điều mà tôi muốn nói, để trong trường hợp tôi bị bắt khi đang phát biểu hoặc trước khi tôi có thể nói ra, cô ấy có thể phát ngôn thay tôi. Trên chiếc ghế sau của chiếc xe tắc xi, Patricia ngồi kề bên, tôi viết ra tuyên bố của mình trên vài trang giấy viết thư và trao cho cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng nếu cảnh sát tìm ra được chúng tôi trước khi chúng tôi đến nơi hoặc bắt tôi đi đâu đó trước khi tôi kịp nói điều gì hoặc trước khi tôi kịp kết thúc, cô ấy sẽ tiến về phía micro và kết thúc bài phát biểu giúp tôi.

     Charlie ngồi ở ghế đằng trước với người lái xe. Tất cả mọi người - trong lúc tôi đang tập trung nguệch ngoạc viết - theo dõi các xe tuần tra và đợi nghe tiếng còi rú vang. Nhưng những con đường mà người tài xế chọn hầu như vắng tanh, ngay cả trong buổi sáng thứ hai. Ngay khi tôi dừng bút và trao những tờ giấy cho Patricia, chiếc taxi rẽ ngoặt qua góc phố và dừng lại trước lối vào Quảng trường Bưu điện. Con đường đông nghịt người từ đầu này đến đầu kia. Một số họ giương cao dấu hiệu ủng hộ tôi. Chúng tôi xuống xe và tiếng hoan hô dậy vang khi đám đông kéo đến xung quanh.

     Thoạt tiên, đám đông dường như tập hợp toàn những người mà chúng tôi quen biết, nhưng không có một ai trong số đó là những đồng nghiệp lâu năm của tôi trong chính phủ và Rand mà hầu hết là các bạn bè trước và sau đó, đặc biệt là từ Boston và Cambridge và trên khắp vùng Bờ Đông. Điều đó giống như một bữa tiệc sinh nhật bất ngờ, hoặc chương trình "This is your life"(*), hoặc những kinh nghiệm chết lâm sàng mà nhiều người đã kể lại sau cơn hôn mê, rằng khi họ đi qua một đường hầm tối để đến ánh sáng, họ gặp lại tất cả những người yêu thương.

      Ở một đầu của quảng trường nhỏ là toà nhà Post Office với toà án liên bang và văn phòng luật sư Mỹ bên trong. Tôi nhìn thấy những người trông giống như quan chức, cùng cảnh sát đứng ở các bậc cầu thang. Nhưng có vẻ họ không muốn bắt tôi. Họ cư xử giống như những người tốt bụng. Rõ ràng, do tôi đã tiến những bước dài mà không bị còng tay, họ sẵn sàng từ bỏ cuộc chơi và để tôi tự đến với họ. Họ chờ đợi trong khi chúng tôi ôm lấy nhau, bắt tay với phóng viên trong đám đông.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #171 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:27:54 pm »

      Họ bị nhấn chìm bởi một làn sóng báo chí. Chưa bao giờ tôi thấy nhiều nhà báo, phóng viên ảnh, phóng viên truyền hình đến như vậy. Họ vây quanh chúng tôi. Không có sự ngăn cách nào giữa tôi với họ để phát biểu. Tôi nói trước một rừng micro trước mặt. Tôi tự diễn thuyết. Đám đông ép sát vào tôi. Patricia không cần phải phát ngôn hộ tôi nữa. Tôi nói:

      "Mùa thu năm 1969, theo sự chủ động của cá nhân, tôi nhận trách nhiệm báo cáo với Chủ tịch của Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện thông tin trong cái gọi là Hồ sơ Lầu Năm Góc, bao gồm cả tài liệu nghiên cứu về các cuộc đàm phán của Mỹ, những điều chưa từng được tiết lộ cho báo giới. Đến thời điểm đó chỉ có tôi và hơn một chục cá nhân khác có quyền tiếp cận những nghiên cứu này. Đến mùa xuân năm nay - hai cuộc xâm lược sau đó - khoảng 9 ngàn người Mỹ nữa và hàng trăm ngàn người dân Đông Dương bị chết, tôi chỉ có thể ân hận rằng tại thời điểm đó, tôi đã không phơi bày lịch sử trên báo chí cho người dân Mỹ biết. Hiện nay, tôỉ đã hoàn thành công việc đó, một lần nữa, với sự chủ động của cá nhân tôi.

     Tất cả những hành động đó trái ngược với quy định bảo mật và, thậm chí, trái ngược với cách thức xử lý thông tin của Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, với tư cách là một công dân có trách nhiệm, tôi cảm thấy không thể hợp tác thêm nữa trong việc che giấu thông tin này đối với công luận Mỹ. Tất nhiên, hành động của tôi có thể gây nguy hiểm cho bản thân, và tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do quyết định của mình gây ra. Đó có thể là hậu quả cho cá nhân tôi, gia đình tôi.

     Nhưng dù hậu quả đó có ra sao, cuối cùng chúng cũng không thể so sánh với những hậu quả mà tôi, cùng với hàng triệu người Mỹ khác, đã từng vui vẻ chấp nhận khi trước để phục vụ cho tổ quốc này.
Đối với tôi đây là một hành động của hy vọng, một hành động của lòng tin. Hy vọng rằng sự thật sẽ giải thoát cho chúng ta khỏi cuộc chiến này. Tin rằng những người dân Mỹ hiểu biết sẽ buộc những công chức của họ ngừng nói dối, ngừng tàn sát và chấm đứt chết chóc ở Đông Dương do những người Mỹ gây ra".
Cuối cùng, khi chúng tôi rẽ đám đông để bước vào toà nhà liên bang, một phóng viên hỏỉ tôi: "Ông cảm thấy thế nào khi vào tù?". Tôi hỏi lại: "Chắc hẳn ông sẽ không vào tù để giúp chấm dứt chiến tranh chứ?"
Chúng tôi bước lên bậc thềm nơi các quan chức đang chờ đợi. Một số họ đang mỉm cười. Họ đón mừng chúng tôi trong lòng, và những cánh cửa đóng lại bỏ mặc đám đông hò reo bên ngoài. Hai giờ đồng hồ sau, khi tôi bước ra ngoài, mọi người vẫn chờ đợi và hoan hô một lần nữa. Tôi được thả với 50.000 ngàn đô tiền bảo lãnh mà không chắc chắn sẽ phải chờ đợi việc kiện cáo hoặc xét xử tiếp theo.

     Sáng thứ ba, ngày 29-6, trong khi Toà án Tối cao đang xem xét các trường hợp Hồ sơ Lầu Năm Góc, tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo đăng bài báo của riêng họ dựa trên tài liệu nghiên cứu đó với quảng cáo đây là phần đầu tiên trong một chùm ba bài liên tiếp. Tôi biết rằng Cha sẽ rất vui khi thấy tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo trên thực tế đã tán thành hành động của tôi.

     Đêm ngày thứ ba, 29-6, Thượng nghị sỹ Mike Gravel của Alaska bỏ lá phiếu của mình, hai lần: lần thứ nhất tại Thượng viện, nơi ông là nghị sỹ duy nhất cố gắng cản trở cuộc chiến và cuối cùng là người duy nhất nhận Hồ sơ Lầu Năm Góc từ tôi và cố gắng đọc chúng để ghi lại. Lần thứ hai là vào đêm khuya hôm đó, trong một buổi điều trần của Tiểu ban xây dựng và mặt bằng của Uỷ ban các công trình công cộng của Thượng viện mà ông triệu tập một cách vội vã.

     Ông đã vội vã rời khỏi phòng tập thể thao của Thượng viện thứ sáu, ngày 18-6, để nhận một cuộc điện thoại mà trợ tá của ông nghi ngờ rằng do tôi gọi. (Tờ Bưu điện Washington công bố bài báo đầu tiên vào buổi sáng hôm đó và biết rõ sẽ bị cấm). Từ một chiếc máy điện thoại công cộng, không giới thiệu bản thân, tôi hỏi liệu ông có nghiêm túc về việc kéo dài thời gian để trì hoãn việc thông qua lệnh cấm, và liệu ông có muốn sử dụng Hồ sơ Lầu Năm Góc cho mục đích này. Ông trả lời "Có" một các chắc chắn với cả hai câu hỏi.
Ngày 24-6, bất chấp mối lo ngại với tư cách là một nhà báo, Ben Bagdikian giữ lời hứa với tôi, chuyển chiếc hộp với tập tài liệu thứ hai đến cho Gravel (từ chiếc xe này sang chiếc xe khác) trước khách sạn Mayflower ở Đại lộ Connecticut.

     5 giờ 55 phút sáng thứ ba, ngày 29-6, Thượng nghị sỹ Gravel bị ngăn cản bởi một thủ đoạn nghị trường của một nghị sỹ Đảng Cộng hoà, không thể tiến hành việc kéo dài thời gian ở phòng họp nghị viện. Ý định của ông là kéo dài cho đến khi dự thảo hết hạn 30 giờ sau đó giữa đêm ngày thứ tư.

     Ông tiếp tục sử dụng ảnh hưởng cá nhân, bởi không nghị sỹ nào đủ can đảm cản trở. Ông triệu tập một cuộc điều trần vào buổi đêm trong một tiểu ban ít tiếng tăm mà ông làm chủ tịch.

     Với tư cách là Thượng nghị sỹ duy nhất có mặt, ông bắt đầu đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc để ghi vào hồ sơ điều trần lúc 21h45 trước ống kính camera. Ông ghi lại phần tài liệu còn lại mà Bagdikian đã chuyển đến cho ông vào băng khi ông ngưng buổi điều trần một mình vào lúc 1 giờ sáng. Sau đó, với sự giúp đỡ của các trợ lý, ông phân phát hàng bọc những văn bản tối mật trước đó chưa từng công bố cho một đám đông nhà báo và cho hãng tin AP. Hãng tin này đã đưa những văn bản đó lên mục tin tức của nó và truyền đi khắp đất nước. Ông làm như vậy mà không có sự đảm bảo nào về quyền miễn trừ của đại biểu quốc hội cho những hành động trên, và với nhiều khả năng sẽ bị các đồng nghiệp tẩy chay, và nguy cơ bị khiển trách hay mất chiếc ghế nghị sỹ. Khi các thẩm phán của Toà án Tối cao chuẩn bị ra phán quyết buổi sáng hôm đó, các toà báo ở khắp Washington và các nơi khác đã có sẵn các bài báo dựa trên những tài liệu mật mà Ngài Thượng nghị sỹ đã phân phát.

     Cũng trong buổi sáng thứ tư, ngày 30-6, khi tờ Monitor xuất bản kỳ hai, tờ Tin chiều của Long Island công bố những tiết lộ mới mà chúng tôi đã cung cấp cho họ cuối tuần.

     Tờ báo này trở thành tờ báo cuối cùng có nguy cơ đối mặt với Bộ Tư pháp, bởi vì Toà án Tối cao ngay chiều hôm đó, bỏ phiếu với tỷ lệ 6-3 (cả Potter Steward và Byron White tham gia vào số đông), huỷ bỏ giá trị của tất cả các lệnh cấm trên cơ sở Hiến pháp và gạt bỏ mọi cản trở cho việc tiếp tục công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #172 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:29:36 pm »

Chú thích:

(*) "This is your life" (Đây là cuộc sống của bạn) Một chương trình truyền hình quen thuộc của Anh, phát sóng thường kỳ kể từ năm 1955. Mỗi chương trình kể về câu chuyện cuộc đời của một nhân vật nổi tiếng, hoặc người đã giúp đỡ người khác Họ không biết trước về điều đó, và người dẫn chương trình mang lại cho họ ngạc nhiên ngay từ đầu chương trình. Họ được mời đến trường quay, nơi mà bạn bè, gia đình và những người khác xuất hiện với tư cách là các vị khách mời và kể chuyện về họ. Tất cả chi tiết về cuộc đời họ được ghi lại trong một cuốn sách bìa đỏ lớn, và sẽ được tặng lại vào cuối chương trình. Chương trình này đã trình chiếu đến năm 1987 do Eamonn Andrews phụ trảch và sau đó chuyển sang cho Micheal Aspel (1933 đến 2003). Một chương trình tương tự, với tên gọi tương tự được phát trên truyền hình Mỹ từ 1952 đến 1961 - ND.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #173 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:30:57 pm »

Chương 30

Cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp diễn



     Lời H. R. Haldeman nói với Tổng thống Nixon, trong băng ghi âm của Phòng Bầu dục, 14-7-1971 về tác động của Hồ sơ Lầu Năm Góc:

     "Đối với một người bình thường, tất cả chỉ là một mớ văn chương cầu kỳ. Nhưng trong mớ văn chương cầu kỳ này lại nói lên một điều rất rõ ràng. Anh không thể tin vào chính phủ, anh không thể tin vào những điều họ nói, và anh không thể tin vào những lời phán xử của họ. Và niềm tin vào sự sáng suốt của Tổng thống vốn được thừa nhận rộng rãi ở Mỹ đã bị tổn thương nghiêm trọng, bởi nó chỉ ra rằng người ta sẵn sàng làm những điều mà Tổng thống muốn dù cho điều đó là sai lầm, và Tổng thống cũng có thể sai lầm(103)".

     Thông điệp đó đã đến với quần chúng như một lời tuyên bố chung chung. Chính nhờ lệnh cấm đầy kịch tính của Nixon và thái độ bất chấp của phần lớn báo giới Mỹ mà sự chú ý đổ dồn vào nội dung những tài liệu đó đã vượt quá những trông đợi của tôi: phủ kín 50 trang tờ Thời báo New York, chiếm một nửa thời lượng bản tin tối trong suốt một tháng; xuất hiện trên trang nhất của không chỉ 19 tờ báo mà chúng tôi gửi bản sao mà hầu như toàn bộ tất cả các tờ báo trong nước. Và toàn bộ các tiêu đề và bài xã luận, trong suốt một tháng, ngày nào cũng nhắc lại thông điệp mà Haldeman đã tóm tắt một cách cô đọng và nhanh chóng.

     Dù rằng thông điệp này xa lạ và khó lọt tai, nhưng không ai thực sự phản bác và không thể chối bỏ nó. Đó là một sự thay đổi trong ý thức của người Mỹ. Nó càng được củng cố sau khi bí mật về vụ Watergate được hé lộ. Một sự thay đổi chỉ đem lại những điều tốt đẹp nếu chúng ta vẫn là một nền Cộng hoà.
Tuy nhiên tôi đã sớm nhận ra rằng tâm lý của những cử tri và những nhà bình luận vẫn khó tin vào những lời suy luận đối với ông Tổng thống đương nhiệm. Ít nhất là họ cũng phản đối trên cơ sở là tôi không có những tài liệu tương tự như những tài liệu mà tôi đã cung cấp về những chính quyền tiền nhiệm. Đây là việc mà tôi phải sớm kết thúc trong vòng 2 năm tới, sau một cơ hội lớn để kiểm chứng điều đó. Bản cáo trạng của Bộ Pháp lý dành cho tôi, sau hai tuần truy nã rộng khắp nhưng thất bại, đã cho tôi thấy cơ hội của mình. Điều đó đã làm cho tôi trở nên nổi tiếng đến mức tôi có thể sử dụng để truyền tải thông điệp chính: cách thức dối lừa của cơ quan hành pháp, lạm dụng quyền lực thời chiến, và chiến lược vô vọng nhằm ngấm ngầm đe doạ và công khai leo thang bạo lực trong những Hồ sơ của Lầu Năm Góc trong suốt 23 năm qua vẫn tiếp tục được chính quyền Nixon theo đuổi, trong năm cầm quyền thứ ba và sau đó.
Hầu như chẳng có ai tin tôi cả. Tôi không có những tài liệu để chứng minh cho những điều tôi nói về chính sách bí mật của Nixon, và không ai trong chính quyền bước ra để cung cấp những tài liệu này. Bản cáo trạng đối với tôi về ba tội nghiêm trọng cấp liên bang, cuối năm đó đã tăng thêm khoảng một tá tội danh khác khiến tôi có thể sẽ bị phạt tù tổng cộng 115 năm - cùng với Anthony Russo, người cũng bị thay đổi cáo trạng, có thể tù 25 năm rõ ràng là nhằm ngăn chặn bất kỳ một sự tiết lộ trái thẩm quyền những thông tin giống như của chúng tôi, có lẽ cũng phát huy tác dụng. Có thể thông cảm được rằng, rất ít người trong công chúng muốn tin lời tôi nói về triển vọng của cuộc chiến và sự leo thang tiếp diễn, và vì tôi thiếu những bằng chứng thuyết phục hơn, nên họ không cảm thấy bị bắt buộc phải tin. Vì vậy, tôi chỉ có thể nói, tôi không định thuyết phục những người không tích cực tham gia vào phong trào phản chiến. Những nhà phỏng vấn chuyên nghiệp và hầu hết những nhà bình luận đều lắng nghe tôi và đối xử với tôi một cách trân trọng. Nhưng kể cả những người này và công chúng đều không thực sự nghiêm túc tin vào những lời cảnh báo mà tôi cố gắng truyền đạt: Cuộc chiến này chưa kết thúc và nó không phải đang trong tiến trình kết thúc, thậm chí nó đang mở rộng ra một lần nữa.

     Thật không may, những sự kiện xảy ra đã chứng minh là tôi đúng. Tuy nhiên vào mùa thu năm 1971, sự lạc quan trong lời tuyên bố của Nixon về việc khai thông quan hệ với Trung Quốc đã khiến công chúng hiểu điều này nghĩa là cuộc chiến đã là chuyện cũ, lui vào lịch sử, những thông điệp của tôỉ lại trở nên thiếu sức thuyết phục và lạc lõng. Mọi người suy đoán trong thông điệp hào nhoáng của Nixon về chuyến thăm Trung Quốc sắp tới rằng một thoả thuận về Đông Dương đang được định hình. Có lẽ Tổng thống Nixon và Henry Klssinger cũng tin vào điều đó. Còn tôi thì không.

     Tôi không thấy có một dấu hiệu nào là Nixon đã từ bỏ những mục tiêu cá nhân: nhằm ép miền Bắc rút quân khỏi miền Nam cùng với Mỹ hoặc chấp nhận một lệnh ngừng bắn nhằm để Chính quyền Thiệu vĩnh viễn nắm quyền tuyệt đối ở Sài Gòn.

     Tôi cũng không thấy một dấu hiệu mong manh nào cho thấy Hà Nội sẽ chấp nhận những điều khoản này. Đối với miền Bắc Việt Nam, việc đồng ý ngừng bắn và trên cơ sở lời hứa về những cuộc bầu cử được tổ chức bởi chế độ chống cộng Sài Gòn thì cũng không khác gì những thoả thuận rỗng tuếch mà người Pháp đã đưa ra năm 1946 hay phương án của những "nhà bảo trợ" đưa ra trong Hiệp ước Geneva năm 1954. Tuy nhiên đó chính là điều mà Nixon nghĩ trong đầu; ông ta thậm chí còn không buồn thay đổi cái vỏ bọc của nó.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #174 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:32:04 pm »

     Những kí ức của ông ta về những năm 1954 đến 1960 khi ông đang là phó Tổng thống cũng sống động như của họ. Ông ta không hề có ý định cho phép có một cuộc bầu cử năm 1972 hoặc 1973 để rồi dẫn đến việc chia sẻ quyền lực ở Sài Gòn hoặc những người Cộng sản nắm quyền, cũng như Dwight Eisenhower hoặc John Foster Dulles đã từng làm năm 1954 và 1956. Thực ra tôi nghi ngờ rằng ông ta đang hy vọng lặp lại chính xác phương án Geneva mà Hà Nội cương quyết phản đối: nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc sẽ lại ép một giải pháp như vậy đối với đồng minh nhỏ bé của mình, để đổi lấy việc cải thiện quan hệ với Mỹ. Tuy nhiên, mặc dù Nixon có kế hoạch thăm cả Trung Quốc và Liên Xô, tôi tin rằng sự đối đầu giữa Trung Quốc và Liên Xô sẽ vẫn tiếp tục, giống hệt trong thập kỷ trước, và đảm bảo cho Hà Nội sự trợ giúp đầy đủ để tránh hậu quả đó. Dù sớm hay muộn, năm sau hoặc năm sau nữa, sẽ có một đợt tấn công mới để rồi Nixon sẽ đáp trả bằng việc tăng cường ném bom và có lẽ cả những biện pháp còn cứng rắn hơn.

     Trong khi đó, ông ta vẫn tiếp tục rêu rao về cái gọi là "những cuộc phản công bằng không quân vì mục đích phòng thủ" (đối với miền Bắc đến một mức độ ngang với mức ném bom thời Johnson. Ngay sau đêm Giáng sinh 1972, ông ta lệnh cho hàng ngàn máy bay ném bom miền Bắc Việt Nam suốt 5 ngày, đây là đợt oanh tạc dữ dội nhất kể từ năm 1968). Vậy là 6 tháng sau khi xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc, khi mọi người hỏi rằng tôi nghĩ những tài liệu này đã đem lại điều gì, tôi trả lời:

      "Chẳng có tác dụng gì". Chẳng có tác dụng gì liên quan đến cuộc chiến tranh, mối quan tâm lớn nhất của tôi. Mục đích chính của tôi không phải là thay đổi dư luận: mục đích chính của tôi là ngăn chặn việc ném bom, cuộc chiến tranh, và chính sách của Nixon. Như tôi thấy, cả ba đối tượng này đều chưa bị ảnh hưởng gì bởi dư luận Mỹ, hoặc bởi những tài liệu của tôi, suốt từ khi Nixon lên nắm quyền đến nay.

     Hầu hết người Mỹ đều muốn rút khỏi cuộc chiến từ trước khi những tài liệu này được xuất bản; phần đông coi cuộc chiến là phi đạo đức. Có lẽ cả hai nhóm người này đều đang tăng lên sau khi họ đọc các bài báo liên quan đến hồ sơ và bất cứ điều gì mà họ biết. Nhưng tác động đến mức nào? Bất chấp tình cảm của đa số, Tổng thống tiếp tục kéo dài cuộc chiến bằng cách giảm bộ binh nhưng lại tăng cường ném bom và luôn liên tục thuyết phục công chúng rằng ông ta đang đi đến một giải pháp.

     Ông ta lại lặp lại luận điệu đó vài tháng sau, tháng giêng năm 1972, tiết lộ rằng đã có một số cuộc hội đàm bí mật và ra vẻ như có một số lời đề nghị "hào phóng" mà ông biết rằng Hà Nội sẽ không bao giờ chấp nhận.

     Khi đó tôi đang dành thời gian mấy tháng, trước phiên toà xét xử chúng tôi bắt đầu vào tháng Năm, để viết lời bình luận trong một tập hợp những bài viết của tôi về Việt Nam, nhan đề "Hồ sơ cuộc chiến". Vì tôi đã hoàn thành phần giới thiệu của cuốn sách vào cuối tháng ba, tôi buộc phải viết những nhận định đáng buồn rằng: "Cuộc chiến vẫn tiếp tục và vẫn chờ một "sự kết thúc" bất tận, trong khi các đợt ném bom vẫn diễn ra đều đặn với cường độ ngang với Chiến tranh thế giới lần II". Mấy ngày sau khi tôi viết những dòng đó, miền Bắc mở đợt tấn công chớp nhoáng. Ba năm nay, Mort Halpelin và tôi từng dự báo đợt tấn công này, Nixon và Kissinger từng tìm cách ngăn ngừa nó bằng những lời đe doạ, những đợt ném bom, những đợt xâm lược công khai vào lãnh thổ Campuchia, Lào, và chính sách ngoại giao tam giác với Liên Xô và Trung Quốc. Một niềm tin vô căn cứ rằng sức mạnh của những lời đe doạ và những sự leo thang ít nhất cũng ngăn ngừa được một đợt tấn công ở quy mô luôn là tâm điểm trong chính sách chiến lược của chính quyền Mỹ suốt 3 năm qua. Đợt tấn công nổ ra ngay vào năm bầu cử Tổng thống cho thấy sự thất bại hoàn toàn của chính sách trước đó. Như Halpelin và tôi cũng dự báo, họ phản ứng bằng một đợt leo thang dài hơi, chưa từng có.

     Ngay từ ngày 1-4-1972, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng và theo đó, tôi chắc rằng, sẽ có những đợt ném bom không hạn chế ra miền Bắc, bao gồm cả B52. Tôi cũng chẳng biết nói gì thêm sau những lời cảnh báo của mình trước đó. Đối với ý nghĩa của sự kiện này, đây là lúc để xuất bản những tài liệu cuối cùng của tôi về cuộc chiến, tài liệu mã số NSSM-1 và một tài liệu tự chọn. Tôi từng muốn xuất bản những tài liệu này vào mùa thu năm ngoái, ngay sau khi Hồ sơ Lầu Năm Góc được phát tán, nhưng Patricia đã khuyên rằng trong bối cảnh Trung Quốc đang muốn khai thông quan hệ với Mỹ và Quốc hội lại đang tạm hoãn, những tài liệu này sẽ có ít tác dụng.

     Nay ít nhất thì những tài liệu này sẽ chứng minh được rằng Nixon có ý định thả thuỷ lôi ở Hải Phòng từ năm 1969 và sự thiếu hiệu quả của quân đội Mỹ đã được các nhà phân tích tình báo dân sự dự báo trước.
Những luật sư của tôi chắc rằng, việc tiếp tục tung ra tài liệu này ra sẽ dẫn đến thêm một tội danh nữa trong cáo trạng của tôi, như họ đã từng thấy ở năm 1971. Hơn thế nữa, nó lại liên quan đến tài liệu mật của Hội đồng An ninh quốc gia từ chính quyền hiện tại, loại tài liệu không thể biện luận là thuộc diện tài liệu "lịch sử" được. Do vậy việc tránh tội là hầu như không thể. Tuy nhiên, họ không gây sức ép với việc tôi chuẩn bị đưa ra lời kêu gọi. Và vì chúng tôi sắp phải đối đầu với một cuộc tổng tấn công mà chúng tôi đã tránh né trong 7 năm qua, cả Patricia cũng đồng ý rằng đây là thời cơ để chúng tôi làm tất cả những gì có thể. Sự nhượng bộ duy nhất mà tôi đồng ý với các luật sư của mình là tôi sẽ không khiêu khích Bộ Tư pháp bằng việc cung cấp 500 trang tài liệu mật tại một buổi họp báo hoặc công khai tuyên bố mình là nguồn cung cấp những tài liệu đó.

     Một lần nữa, Thượng nghị sỹ Mike Gravel sẵn sàng đóng vai trò trung gian đưa thông tin vào Hồ sơ quốc hội của Thượng nghị viện và lần này là cả giới truyền thông nữa. Mặc dầu đang phải cố gắng bảo vệ những người phụ tá khỏi bị kết tội vì có vai trò trong việc xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc tại nhà xuất bản Beacon - ông đã kháng án đến Toà án tối cao - ông vẫn khuyến khích tôi đưa cho ông ta bất cứ tài liệu gì tôi có. Tôi đã giao tài liệu NSSM-l cho ông để chờ thời điểm thích hợp. Vào tháng sáu ông bị Thượng nghị viện ngăn không cho đưa những văn bản trên vào Hồ sơ quốc hội qua một bài phát biểu tại Thượng viện. Dự tính được điều này, ông đã đưa những tài liệu này cho Jack Anderson và tờ Tuần tin tức và thế là chúng xuất hiện trong những bài viết nổi bật trên các báo Bưu điện Washington và Ngôi sao Washington, bắt đầu từ ngày 25-4-1972, chính vào ngày mà Thượng nghị viện ngăn cản Gravel đọc những tài liệu này trước Quốc hội.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #175 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:34:18 pm »

      Tám ngày sau, ngày 3-5-1972, tôi tranh thủ sự hiện diện của Thượng nghị sỹ Gravel và Hạ nghị sỹ Ron Dellums tại cuộc mít tinh trên bậc thềm trước toà nhà Quốc hội, là nơi tôi đang diễn thuyết - theo sự gợi ý của một trợ lý tư pháp của Dellum là ông Mike Duberstein - để Gravel có thể chuyển tài liệu cho Dellums. Sau khi cắt bỏ kí hiệu phân loại mật bằng một chiếc kéo, Duberstein đặt 500 trang tài liệu mật vào trong hộc dành cho những kiến nghị bổ sung cho Hồ sơ Quốc hội, theo đó tất cả đã được xuất bản vào ngày 10 và 11-5. Vậy là những Thượng nghị sỹ đang bàn cãi trong cuộc họp kín rằng liệu họ có đủ thẩm quyền để nhận tài liệu mật của Gravel hay cứ mặc kệ kí hiệu mật đi thì cuối cùng tất cả đều được đọc.

     Tuy nhiên, chính quyền Mỹ cũng đã học được một vài bài học. Lần này không hề có yêu cầu báo chí hạn chế hoặc lệnh cấm của toà án, không phạt, không khiển trách, không tính thêm tội danh trong cáo trạng của tôi, mặc dù ông Tổng thống cũng như ông Chánh án Toà án tối cao biết quá rõ nguồn cung cấp một lượng thông tin mật ấy là từ đâu rồi. Những quan chức khôn ngoan đã không hề phản ứng hoặc bình luận gì trước việc xuất bản đó. Kết quả là, việc tiết lộ 500 trang văn bản bí mật của chính quyền Nixon chỉ gây một chút xáo động, không có tác động gì thực sự đáng kể.

     Nỗi lo lắng của tôi về những điều sẽ đến với người dân Bắc Việt là hoàn toàn xác thực, bởi vì một đoạn băng ghi lại những đối thoại ở Nhà Trắng mãi đến gần đây mới được tiết lộ. Vào ngày 25-4-1972, buổi sáng mà tờ Bưu điện Washington lần đầu tiên cho đăng tài liệu NSSM-1 và những phân tích về việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng, có cuộc trao đổi trong Phòng Bầu Dục như sau:

     Tổng thống Nixon: Chúng ta phải bỏ kiểu không kích 3 ngày liên tiếp (ở khu vực Hà Nội và Hải Phòng). Chúng ta ta cần phải nghĩ đến một đợt ném bom dốc toàn lực - kéo dài cho đến khi chúng … - Và bây giờ với việc đánh bom toàn lực tôi đang nghĩ đến những điều xa hơn thế. Tôi nghĩ đến đê đập, tôi nghĩ đến đường sắt, và tôi nghĩ đến tất nhiên, cả những bến cảng…

     Kissinger: … Tôi đồng ý với ngài.

    Tổng thống Nixon: … Chúng ta phải sử dụng lực lượng lớn …

    Hai tiếng sau, vào buổi trưa, H. R Haldeman và Ron Ziegler cùng dự với Kissinger và Nixon:

    Tổng thống: Chúng ta giết được bao nhiêu bên Lào?

    Ziegler: Có lẽ là 10 ngàn hoặc 15 ngàn?

    Kissinger: Nói chung ở bên Lào, ta hạ được khoảng 10, 15 ngàn…

     Tổng thống: Thế đấy, quay lại chuyện đợt tấn công vào miền Bắc mà ta đang tính… nhà máy điện, bất kể cái gì còn lại - trạm xăng dầu, bến cảng… và tôi đang tính có lẽ ta sẽ nên đánh cả các đê đập. Điều đó sẽ làm chết nhiều người chứ?

    Kissinger: Khoảng 200.000 người.

    Tổng thống: Không, không, không,… tôi thà dùng bom nguyên tử còn hơn. Anh hiểu không hả Henry.

    Kissinger: Điều đó, tôi nghĩ, có lẽ là quá nhiều.

     Tổng thống: Bom nguyên tử, điều đó làm anh khó nghĩ à? Tôi chỉ muốn anh nghĩ rộng ra, Henry, vì Chúa(104).

     Một tuần sau, ngày 2-5-1972, sau khi nghe Kissinger và Haig trình bày về lợi ích của việc kết hợp ném bom và phong toả, Tổng thống đã đồng ý tiến hành cả hai. Như ông ta tuyên bố: "Phong toả kết hợp ném bom toạ độ sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu - khiến bọn Bắc Việt phải quỳ gối"(105).

     Vậy là, dù cho "kể cả Miền Nam sụp đổ" thì, một khả năng theo dự báo của Kissinger, miền Bắc dưới áp lực kép sẽ "phải trao lại tù nhân, nước Mỹ không thể bị đánh bại. Chúng ta không thể thua ở Việt Nam… Vì vậy chúng ta phải rút kiếm. Vì vậy - việc phong toả sẽ tiếp tục. Và tôi phải nói là… tôi thích nó … và tôi muốn mọi người hiểu rõ điều này. Lý thuyết về chiến lược đánh bom toạ độ là đúng đắn và tôi muốn nơi đó phải bị đánh bom nát vụn. Nếu chúng ta hành động, chúng ta hãy dội bom lên lũ khốn kiếp đó khắp mọi nơi. Hãy cất cánh bay, hãy cất cánh bay".

     Ngày 4-5, sau khi bàn luận về quyết định của mình với Kissinger, Al Haig, và John Connally, Nixon đã suy nghĩ về triển vọng cuộc chiến với Việt Nam. Nghe trong băng của Phòng Bầu Dục, ông ta đập xuống bàn như đang chỉ vào một tấm bản đồ tưởng tượng, hoặc có lẽ một tấm bản đồ thật ở đó:

    "Việt Nam! Lũ khốn đó đang ở trong chỗ này, ngay chỗ này (đập) Đây là nước Mỹ (đập). Đây là Tây (đập) Âu, cái vùng nhỏ xíu kiêu căng, đã gây quá nhiều thiệt hại… Đây là Liên Xô (đập), và đây là (đập) Trung Đông… Đây là (đập) lũ Châu Phi ngu dốt… và đây là lũ Mỹ La tinh không đến nỗi ngu lắm. Đây là chúng ta. Chúng nó muốn gây sự với nước Mỹ. Bây giờ, mẹ kiếp bọn Ananút, chúng ta phải làm việc thôi. Chúng ta sẽ nghiền nát chúng. Đây chẳng phải là giận dữ hay gì cả. Những lời chê bai rằng tôi "nóng nảy" đều nhảm nhí. Đáng ra tôi phải làm việc này từ lâu rồi, tôi đã không nghe theo bản năng mình.

     "Tôi sẽ cho thấy là nước Mỹ không thua. Tôi nói thẳng như thế, và chính xác là như thế. Miền Nam Việt Nam có thể thua. Nhưng nước Mỹ không thể thua. Điều này có nghĩa là tôi đã có quyết định. Bất kể điều gì xảy ra với miền Nam Việt Nam, chúng ta sẽ nghiền nát miền Bắc.

     "Chỉ một lần, chúng ta sẽ phải dùng hết sức lực của đất nước này đối với cái nước nhỏ bé khốn kiếp kia: để chiến thắng trong cuộc chiến. Chúng ta không thể dùng từ "chiến thắng". Nhưng những người khác thì được".

     Trong một cuộc trao đổi sau đó, Nixon có nói với Kissinger:

     "Có một điểm duy nhất mà tôi và anh còn bất đồng… là liên quan đến việc đánh bom. Anh quá quan tâm đến lũ dân thường, còn tôi cóc cần, tôi không quan tâm".

     Kissinger trả lời: "Tôi quan tâm đến dân thường vì tôi không muốn cả thế giới đoàn kết chống lại ông như chống lại một tên đồ tể".

     Tại cuộc mít tinh trước toà nhà Quốc hội ngày 3-5, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng sắp tới. Hoá ra, ông Tổng thống đã bí mật quyết định một ngày trước đó.

     Việc này được tiến hành 6 ngày sau đó, vào ngày 8-5-1972.

     Richard Nixon đã chờ đợi chiến dịch này kể từ khi chưa nắm quyền đến lúc nắm quyền, trong gần một thập kỷ. Tôi đã phản đối kế hoạch này, và lo rằng nó sẽ dẫn đến việc ném bom ồ ạt, và kéo dài. Tôi vẫn nhớ cảm giác chiều hôm đó và nói với Patricia, đó là ngày đen tối nhất của đời tôi. Sau đó khi chúng tôi chuẩn bị cho phiên toà ở Los Angeles, tôi nói với Mort Halpelin, người tham gia vào nhóm biện hộ với vai trò cố vấn: "Này, có lẽ chúng ta sắp kết thúc lời dự báo mà anh nói với tôi 3 năm trước".

     Ông ta trả lời: "Không, Hà Nội vẫn chưa bị đánh bom".
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #176 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:35:21 pm »

      Vào tháng bảy, sau khi nghe bản kiến nghị của hội thẩm đoàn tiến trình tranh tụng của chúng tôi bị hoãn lại sau khi Bộ Tư pháp phát hiện ra thiết bị nghe trộm điện tử trong số một luật sư của chúng tôi. Trong suốt quá trình trì hoãn kéo dài đó, tôi đã dành suốt mùa biểu tình năm 1972 để cảnh báo bất kỳ ai rằng tôi biết khả năng chiến tranh sẽ còn leo thang. Trong số đó bao gồm hầu như tất cả các đoàn báo chí đến đưa tin về việc tái đắc cử của Tổng thống tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hoà, và tại một cuộc họp báo do Hạ nghị sỹ McCloskey tài trợ. Ở khắp nơi, khán giả của tôi đều rất lịch sự nhưng vẫn hoàn toàn hoài nghi thông điệp của tôi. Họ thấy dễ tin hơn vào tuyên bố của Kissinger hồi cuối tháng 10 rằng "hoà bình đã ở trong tầm tay", thông điệp này đã đưa đến việc tái đắc cử của Tổng thống trong tuần sau đó với một chiến thắng áp đảo lớn thứ hai trong lịch sử nước Mỹ. Ở một vài góc độ, độ chênh lệch phiếu của Nixon còn cao hơn cả Lyndon Johnson năm 1964, người đã chiến thắng với khẩu hiệu "chúng ta không cần mở rộng chiến tranh nữa", ba tháng trước khi ông ta bắt đầu đánh bom Bắc và Nam Việt Nam.

     Một tháng sau cuộc bầu cử và một tuần trước lễ Giáng sinh năm 1972, Tổng thống Nixon lệnh cho những chiếc B52 ra Hà Nội lần đầu tiên. Trong 11 ngày đêm tiếp theo - trong kỳ nghỉ Giáng sinh - máy bay Mỹ đã trút xuống Bắc Việt Nam 20.000 tấn bom (lượng chất nổ ngang với quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki). Con số này được cộng vào với con số 150.000 tấn được ném xuống Bắc Việt Nam từ tháng tư đến tháng mười.

     Nếu tính từ thời điểm Hồ sơ Lầu Năm Góc được tiết lộ một năm rưỡi trước đó - sau khi đa số người dân Mỹ được thăm dò ý kiến cho rằng tham gia vào cuộc chiến là phi đạo đức" - thì Tổng thống Nixon đã ném khoảng 1,5 triệu tấn bom xuống vùng Đông Dương. Tức là ngang với toàn bộ số tấn bom mà Mỹ ném xuống châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ lần II.

     Trong tuần lễ Giáng sinh năm 1972, tôi luôn được hỏi rằng tôi nghĩ gì về tác dụng của việc phát tán Hồ sơ Lầu Năm Góc đối với cuộc chiến. Tôi vẫn trả lời giống như câu trả lời một năm trước đó: "Chẳng có gì, chẳng có tác động gì cả. Điều này đúng cả với phong trào hoà bình rộng lớn, mà việc xuất bản những tài liệu này chỉ là một phần. Và không chỉ phong trào hoà bình mà cả toàn bộ phong trào chống chiến tranh cũng chẳng có tác động gì cả. Cả khối cử tri cũng không gây được tác động".

     Trong suốt những tuần lễ Mỹ ném bom với mật độ dày đặc nhất trong lịch sử, 6 tuần sau thắng lợi vang dội của Tổng thống Mỹ nhờ lời hứa hẹn "Hoà bình trong tầm tay", tôi vẫn tiếp tục nói: "Người Mỹ chúng ta cũng có nhiều khả năng gây ảnh hưởng đến những gì đang xảy ra ở Hà Nội và Hải Phòng trong tuần này, như người Liên Xô có thể gây ảnh hưởng tới cuộc xâm lược Tiệp Khắc. Không như Liên Xô, chúng ta có một nền dân chủ thật sự. Điều mà chúng ta không có ở lúc này là một sự kiểm soát dân chủ đối với chính sách đối ngoại của Mỹ.

     Vào cuối tháng 1-1973, Hiệp định Hoà bình Paris được ký kết, Mỹ dừng ném bom Đông Dương, trừ Campuchia vẫn còn bị ném bom tăng cường. Tuy nhiên, như tôi dự báo - cùng với Nhà Trắng - cái tiêu đề chính thức "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam" vẫn chứng tỏ lối tư duy độc đoán. Hiệp định đã không đem lại một khoảng khắc hoà bình hay ngừng bắn nào cho miền Nam Việt Nam và không mở ra triển vọng nào cho việc kết thúc chiến tranh. Điều mà Kissinger và sếp của mình có trong tay vào tháng mười và đã thoả thuận lại, về cơ bản là không thay đổi. Tháng 1-1973, theo quan điểm của họ hoặc trên thực tế, chưa phải là lúc kết thúc cuộc chiến. Đó chỉ là một thoả thuận với Hà Nội về việc Mỹ đơn phương rút bộ binh để đổi lấy việc trao trả tù binh chiến tranh Mỹ, cùng với những lời cam kết rỗng tuếch về việc chuẩn bị và tiến hành những cuộc bầu cử công khai ở miền Nam Việt Nam, có sự tham gia của Mặt trận dân tộc giải phóng.

     Vì lãnh đạo của cả Washington và Sài Gòn đều sớm cho thấy họ không có ý định tuân thủ những điều khoản về bầu cử, cục diện vẫn là Mặt trận dân tộc giải phóng bị gạt ra ngoài lề các hoạt động chính trị công khai trong miền Nam. Trong khi đó, chính quyền Thiệu, được sự hậu thuẫn của người Mỹ, vẫn tuyên bố nắm quyền lực hợp pháp và duy nhất. Vì vậy, sẽ không thể có triển vọng tiếp tục ngừng bắn như vậy đối với Mặt trận dân tộc giải phóng và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hoặc đối với Việt Nam cộng hoà. Với việc chiến sự vẫn tiếp tục giữa Quân đội Việt Nam cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), tôi dự đoán Mỹ chắc chắn sẽ ném bom trở lại miền Bắc, miền Nam Việt Nam, và Lào sau hai tháng tạm ngưng chờ quân Mỹ rút hết. Cuốn "Không hoà bình, Chẳng danh dự" của Larry Berman (2001), một tài liệu đầu tiên về chính sách của Nixon và các cuộc đàm phán đã phản ánh hầu như đầy đủ các tài liệu và các cuộc phỏng vấn của cả hai bên, khẳng định rõ rằng Nixon luôn có dự định đó. Nixon đã bí mật, nhắc đi nhắc lại những cam kết "đảm bảo 100%" với Tổng thống Thiệu rằng ông ta sẽ tái ném bom quy mô lớn càng sớm càng tốt.

     Nixon thực sự có ý định thực hiện lời hứa đó, Kissinger cũng vậy. Như Berman tiết lộ, Kissinger ra sức thúc giục các đợt không kích với quy mô tương đương đợt Giáng sinh năm 1972, lại Lào và Việt Nam năm 1973, kể cả trước khi các lực lượng Mỹ kịp rút hết.

     Tuy nhiên đợt ném bom mà Nhà Trắng chăm chăm thực hiện đã không xảy ra, vì những lý do, cuối cùng, chính là nền dân chủ Mỹ, và chế độ pháp quyền. Việc xét xử Tony Russo và tôi, với việc tranh tụng trước toà bắt đầu lại vào tháng Giêng đã bộc lộ cho công chúng thấy phản ứng của Nixon đối với việc phát tán Hồ sơ Lầu Năm Góc. Nhưng đó không phải là phản ứng duy nhất. Việc phát tán trái quy tắc của tôi đã làm khuấy động một chuỗi phản ứng trong bộ máy cầm quyền và dẫn đến việc kiềm chế rất hiệu quả sự lạm dụng những quyền lực thời chiến của Tổng thống Nixon trong vài năm sau đó, ngăn ngừa việc Mỹ ném bom trở lại Việt Nam và Lào, và rút ngắn cuộc chiến.
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #177 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:35:55 pm »

Chú thích:

(103) "Đối với một người bình thường" - Tổng thống và Haldeman, 15:09, 14 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia. Xem biên bản tại Cục hồ sơ An ninh quốc gia, Đại học George Washington, www.gwu.edy/NSAEBB

(104) "Chúng ta phải bỏ kiểu không kích" - Tổng thống và Kissinger, 10:45, 25 tháng 4, 1972, Toà nhà Văn phòng Hành pháp.

(105) "Phong toả kết hợp ném bom toạ độ" - Tổng thống và Haig, 24:42, 2-5-1972, Trao đổi tại Phòng Bầu dục 717-20
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #178 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:37:51 pm »

     Trắng khi Hồ sơ Lầu Năm Góc lên trang ngày 13-6-1971. Một mặt, bản thân Nixon tỏ ra lạc quan với các nội dung được công bố, trong đó có những thông tin không mấy tốt đẹp về các Tổng thống tiền nhiệm, người của Đảng Dân chủ. Nhưng đồng thời ông sợ rằng sự việc sẽ là một tiền lệ cho những tiết lộ nay mai về hoạt động và chính sách bí mật ông ta đã và đang áp dụng với Đông Dương. Hai thái độ có phần trái ngược nhau chính là cơ sở dẫn đến những hành động của Tổng thống và người của ông. Nó đưa Nixon đến sự sụp đổ hoàn toàn về chính trị mà người ta vẫn gọi tên là vụ Watergate.

     Nixon và Henry Kissinger lần đầu tiên nhắc đến vấn đề trên vào một ngày chủ nhật. Hai thái độ đã được bộc lộ. Gọi điện cho Tổng thống từ California, Kissinger bình luận:

     "Theo dư luận(105), sự kiện này có thể sẽ có phần thuận lợi cho ta. Đây sẽ là cơ hội tốt để người ta thấy các chính quyền trước đã đẩy chúng ta đến với Việt Nam như thế nào… Tôi cho là dư luận cũng đã tự phát hiện ra vấn đề rồi, vì… nếu trước đây họ quy kết đây là cuộc chiến tranh của Nixon thì những gì bài báo chỉ ra là, nếu có là cuộc chiến tranh của ai đó thì đấy chính là chiến tranh của Kennedy, là chiến tranh của Johnson… Vì thế nếu phe Dân chủ vẫn luôn phàn nàn rằng… chúng ta sai lầm, thì nay đã rõ ràng … ai phải chịu trách nhiệm trước hết cho mớ hỗn độn này…"

     Nó đã là một lời buộc tội chính quyền trước.

     Sang ngày hôm sau Tổng thống mới tỏ ra thoải mái hơn với cách giải thích này. Nhưng ngay từ đầu ông đã lo sợ các hồ sơ "Lào và Campuchia"(107) - cụ thể là những đợt ném bom - trọng tâm trong các mục tiêu và chiến lược bí mật của Tổng thống có thể bị lộ ra ngoài từ chính Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng.
Dù sao, Tổng thống cũng sẽ chỉ lo lắng nếu có những tiết lộ về chính quyền của ông. Ngoài ra ông không hề bận tâm tới các tiết lộ về đời những Tổng thống trước. Ông không sợ ảnh hưởng đến khả năng tiếp tục chính sách đối ngoại bí mật của mình. Quá lạc quan Nixon còn trông chờ những tiết lộ mới, chứng minh cho sai lầm của các lãnh đạo của đảng Dân chủ, đặc biệt là Kennedy. Với ông, Ted Kennedy là đối thủ khó chơi nhất trong năm 1972. Ông hy vọng những loạt bài này sẽ còn tiếp tục để gây thêm tai tiếng cho gia đình Kennedy.

    Thứ hai, ngày 14-6, khi tờ Thời báo đã đăng được hai kỳ, vào 7 giờ 13 phút tối, Nixon trao đổi với Cố vấn đối nội, John Ehrlichman:

     Ehrlichman: Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp (Mitchell) (108) đã gọi đến nhiều lần về những bài báo trên Thời báo New York. Bộ Tư pháp cho rằng nếu Bộ trưởng không cảnh cáo tờ Thời báo, thì ông có thể sẽ phải rút bỏ quyền khởi tố tờ báo này. Ông muốn biết liệu Tổng thống có đồng ý cảnh cáo Thời báo trước khi số báo đầu tiên của họ được tung ra vào ngày mai hay không?

     Tổng thống: Hmmm.

     Ehrlichman: Tôi thấy có những dấu hiệu không thuận lợi cho vấn đề này nếu tính đến cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội (dự kiến vào thứ tư về dự thảo luật McGovern-Hatfield về cắt giảm ngân sách chiến tranh từ tháng 12-1971).

     Tổng thống: Ý cậu là khởi tố tờ Thời báo?

     Ehrlichman: Đúng thế.

     Tổng thống: Quỷ thần ơi, tôi không muốn truy tố tờ báo. Tôi muốn truy ra tên khốn nào đã cung cấp tài liệu cho bọn họ.

     Ehrlichman: Vâng, nếu chúng ta tìm ra kẻ đó.

     Tổng thống: Đúng vậy… Tôi muốn rằng, chúng ta có thể kiện tờ Thời báo được chứ?

    Ehrlichman: Hiển nhiên là được.

     Tổng thống: Hãy đợi nào - đợi đã - có phải ngày mai bọn họ sẽ đăng thêm một câu chuyện?

    Ehrlichman: Vâng.

    Tổng thống: Tại sao không đợi đến ngày mai?

     Ehrlichman: Đề nghị của Bộ trưởng là, ông nghĩ chúng ta nên có một hình thức cảnh cáo trước như thế nào đó với tờ Thời báo và sẽ tiếp tục làm như vậy nếu bọn họ vẫn không dừng lại. Như thế sẽ không mất đi quyền khởi kiện. Nhưng nếu không cảnh cáo trước, chúng ta sẽ bị xỏ mũi - ngồi đây và để bọn họ mặc sức mà không tỏ thái độ phản đối.

     Tổng thống: Hãy đợi một ngày nữa. Cho bọn họ thêm một ngày, còn sau đó thì… tôi cũng chưa biết… chưa biết.

     Kể cả trong lúc trò chuyện với Ehrlichman và với Mitchell ngay sau đó, dù lúc này đã đồng ý để Bộ trưởng Tư pháp đưa ra một lời cảnh cáo "sơ bộ"(109) cho tờ Thời báo ngay chiều hôm sau, Tổng thống cũng chưa hề nhắc đến lệnh đình chỉ xuất bản từ toà án. Họ mới chỉ nghĩ sẽ truy tố tờ Thời báo và người đứng đằng sau. Nội trong ba ngày đầu tiên, qua tất cả những biên bản ghi âm, chúng ta chưa một lần nào nghe thấy Tổng thống hay các cộng sự Nhà Trắng của ông, thậm chí Kissinger, bày tỏ ý kiến mượn lệnh của toà án để ngăn chặn việc xuất bản. Hình như chỉ Mitchell và Bộ Tư pháp mới nghĩ đến việc làm đó. Thứ ba Mitchell đề nghị toà án ra lệnh đình chỉ xuất bản lấy lý do việc tiếp tục sẽ gây tổn thương trực tiếp và không thể vãn hồi đối với an ninh quốc gia. Tổng thống nói với Haldeman rằng nếu công khai trước dư luận các chương về Kennedy trong Hồ sơ Lầu Năm Góc có thể có tác dụng tốt, "Lệnh của toà án chỉ có hiệu lực đối với tờ Thời báo thôi đúng không Bob?"(110) Haldeman khẳng định chắc chắn. Thảo luận với Haldeman và Kissinger tại Phòng Bầu Dục, Tổng thống nói: "Tiết lộ mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy đi. Sẽ tiết lộ hết… Vì một phần đang bị rò rỉ rồi, sẽ để rò rỉ tất cả những gì ta muốn"(111).

     Một phần mối quan tâm của Tổng thống với đối thủ Ted Kennedy là vì ông cần lôi kéo bộ phận cử tri dao động theo Đạo Thiên Chúa về phía mình, không để ngả về phe Dân chủ. Ứng cử viên hàng đầu cho cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của Đảng Dân chủ lúc đó, Thượng nghị sỹ Edmund Muskie, cũng là một người Thiên Chúa giáo. Nixon cũng rất nóng lòng chờ đợi các tài liệu về vụ ám sát Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm lên mặt báo. Tờ Thời báo đã gửi đơn khiếu kiện lệnh hạn chế xuất bản lên Toà án tối cao và có nhiều khả năng Toà sẽ đưa ra lệnh đình chỉ vĩnh viễn. Thời gian không còn nhiều. Tổng thống cần gấp rút công bố các chứng cớ tối mật về cái chết của nhà lãnh đạo theo Đạo Thiên chúa trong cuộc đảo chính được người anh trai của Ted Kennedy, Tổng thống Kennedy hậu thuẫn.

     Thứ tư, Tổng thống nói với Henry Kissinger: "Tôi muốn đưa lên báo các tài liệu (112) về vụ ám sát Diệm. Cần một người bên anh làm việc này". Im lặng, ông Cố vấn an ninh quốc gia không nói gì. Tổng thống nói tiếp: "Thôi được, tôi sẽ làm".

    Lúc đấy Kissinger mới nói: "Không nên để người bên tôi tiết lộ tài liệu mật".

    Tổng thống nhắc lại: "Tôi sẽ công bố".
Logged

Để gió cuốn đi...
Excocet
Thành viên
*
Bài viết: 617


Thép đã tôi thế đấy


« Trả lời #179 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2008, 06:39:45 pm »

     Sau khi Kissinger đi khỏi(113), ông gọi điện thoại và giao nhiệm vụ này cho Cố vấn Nhà Trắng Charles Colson. Ông này đảm bảo là mọi việc sẽ được hoàn thành, cho dù hôm thứ hai ông ta đã nói "Đơn giản chúng ta không thể cho phép báo chí đăng tải các văn bản mật"(114).

     Trong nhiều ngày sau đó, tờ Bưu điện Washington và Boston Globe đều không được phép đăng bài do Mitchell liên tiếp yêu cầu hạn chế. Tôi gợi ý tờ Bưu điện đăng lên các tài liệu khác tạm gác bài về chính quyền Johnson vì tôi chỉ muốn đưa ra một trường hợp điển hình và không muốn dư luận nghĩ chỉ có chính quyền Johnson mới thường xuyên dối trá. Tờ Bưu điện nghe theo, đăng câu chuyện của Eisenhower, về quyết tâm ngăn chặn cuộc bầu cử ở Việt Nam từ năm 1954 đến 1956. Nhưng chủ bút của Globe, Tom Winship lại muốn có các thông tin về chính quyền Kennedy, lấy lý do rằng ở Boston người ta có những hứng thú đặc biệt với chuyện về gia đình Kennedy. Buổi tối hôm đó, cấp dưới báo cáo với Tổng thống Nixon là số buổi tối của tờ Boston Globe "có một bức hình lớn(115) của John F. Kennedy và bốn câu chuyện khác nhau… làm Kennedy phát điên". Ông hỏi: "Có cả Diệm chứ? Rất tốt?"

     Tuy nhiên sự thực ngược lại. Câu chuyện về Diệm không xuất hiện trên tờ Boston Globe. Mitchell trước đó đã gọi đến cho chủ bút toà soạn này và nhắc nhở anh ta, như Winship nhớ lại:

     "Tôi buộc phải làm như vậy(116) với các anh (yêu cầu lệnh đình chỉ từ toà án vì nếu không sẽ khiến các toà soạn khác không bằng lòng, sẽ không công bằng cho tờ Thời báo và Bưu điện".

     Trong khi tờ Globe bị cấm đoán, thì tờ Chicago Sun - Times đã cho đăng các tài liệu về vụ ám sát Diệm vào ngay tối hôm đấy, ngày 22-6. Đây là tờ báo thứ tư đi ngược lại những cảnh cáo trước đó của chính phủ về nguy cơ đe doạ An ninh quốc gia.

     Chicago Sun-Times cũng là tờ báo đầu tiên được phép xuất bản, trong ngày hôm đó cũng như nhiều ngày liên tiếp sau mà không hề bị doạ đình chỉ.

     Trong khi đó, Tổng thống ngày càng quyết tâm với ý định tìm kiếm và phanh phui từ các hồ sơ mật những tài liệu có thể hạ thấp uy tín của cựu Tổng thống và anh em nhà Kennedy. Một chủ đề thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tháng sau đó và thậm chí nhiều năm là vụ việc nào để lộ ra cho báo chí thì sẽ có tác động lớn nhất: vụ Vịnh Con Lợn, khủng hoảng tên lửa Cuba, Bức tường Berlin hay là vụ ám sát Diệm. Đây rõ ràng là một công việc nghiên cứu không hề đơn giản, cần phải do một người có đầy đủ cảm quan về lịch sử cùng nhiều phẩm chất khác nữa, thực hiện. Sau khi đã xem qua danh sách các ứng cử viên cho công việc này do Haldeman và Ziegler đưa lên vào ngày 24-6, trong lúc FBI vẫn đang truy lùng tôi, Nixon nhận xét:

     "Tốt nhất là có một người hiểu rõ vấn đề này. Có nghĩa là, chúng ta cần một Ellsberg, một Ellsberg đứng về phía ta; nói cách khác, một học giả thông thuộc về lịch sử và hiểu được anh ta đang phải tìm kiếm thứ gì"(117).

     Lẽ dĩ nhiên Tổng thống vẫn có một thái độ khác đối với tôi và những việc làm của tôi. Ông vui mừng vì tôi đã tạo ra tiền lệ giải mật chóng vánh và rò rỉ thông tin về các đời Tổng thống trước đây của Đảng Dân chủ. Mặt khác, ông cũng lại lo rằng chính nó cũng sẽ là tiền lệ cho người khác tiết lộ thông tin về bản thân ông. Điều này dễ thấy trong một cuộc thảo luận của Tổng thống với Kissinger ngày 13-6 xung quanh Hồ sơ "Lào và Campuchia". Muốn ngăn chặn nguy cơ đó, câu trả lời hiển nhiên sẽ là tìm và truy tố kẻ nào cung cấp tài liệu cho tờ Thời báo - "thằng quỷ nào đã tuồn những tài liệu đó cho bọn họ".

     Cho dù có là ai đi chăng nữa, Tổng thống muốn kiện hắn ra toà để "tất cả mọi người trong cái chỉnh phủ này đều biết sợ Chúa". Vào ngày thứ ba, 15-6, Tổng thống đập tay xuống bàn, nói: "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào tù… chỉ cần có thế?" (118). Hôm đó, ông hỏi Milchell: "Có cách nào anh tóm cổ được cái gã Ellsberg ngay lập tức được không? Mà Ells- gì nhỉ?" (119)

     "Ellsberg".

     Nixon nói mỉa mai: "Ellstein… được rồi, thây kệ. Có thể là Ellstein, hoặc Halperin hoặc Gelb. Cả ba tên này đều có liên hệ với cánh báo chí".

     Hai hôm sau, ngày 17-6, Nixon không còn giữ được bình tĩnh nữa khi Haldeman nhắc đến tôi, ông ta hỏi ngay:

     "Tại sao FBI(120) chưa tóm lấy nó rồi tống vào quan tài? Đó là bước tiếp theo đúng không?"
Buổi sáng hôm đó chúng tôi đã trên đường trốn chạy.

     Điều đặc biệt cấp bách với chính quyền này là ngăn chặn những người khác làm theo tiền lệ của tôi. Vì Nixon và Kissinger và tôi, chúng tôi đều có chung suy nghĩ. Chúng tôi biết phải giữ kín chính sách Việt Nam thực sự nếu muốn nó khả thi.

     Cả hai người đều cảm thấy sự nhạy cảm khi có người nghi ngờ và tranh cãi về chính sách của họ. Tuy nhiên, khác với tôi, họ lại không cho những gì mình đang làm là ngớ ngẩn, liều lĩnh, vô vọng và sai lầm. Nhưng đồng thời hai người cũng hiểu rằng người khác sẽ nghĩ như vậy nếu nhờ vào những lài liệu mới được tiết lộ, chính sách của họ không còn được giữ bí mật và bị dư luận Mỹ hiểu lầm.

     Cũng trong cuộc đàm thoại đầu tiên liên quan đến tờ Thời báo vào chủ nhật, ngày 13-6-1971, Tổng thống đặc biệt lo sợ các cuộc ném bom lên đất Campuchia đầu năm 1969 có mật danh "Thực đơn", một loạt các cuộc tấn công lúc đầu được đặt tên là "Điểm tâm", "Bữa trưa" và "Bữa tối", có thể bị tiết lộ.

     Tương tự, ngày thứ ba, 15-6, Kissinger thúc giục Tổng thống đưa ra truy tố những kẻ phải chịu trách nhiệm: "Tổng thống, ngài phải thật mạnh tay(121) bởi vì nếu đã có những thứ này trên Thời báo New York, sang năm ngài sẽ gặp tình cảnh tương tự. Hồ sơ của chính quyền này sẽ lại bị tuồn ra ngoài trong thời gian tranh cử (năm 1972). Tôi muốn nói những người này…"

     Nixon đáp lại: "Tôi hiểu, họ sẽ lấy được toàn bộ hồ sơ về các chiến dịch Thực đơn".

     Tôi cho rằng hai người này, cũng như tất cả những người khác đều hiểu các tài liệu gốc có ý nghĩa thế nào với các tiết lộ của báo chí. Trong tháng 3-1969, William Beecher đăng một câu chuyện tỉ mỉ trên tờ Thời báo về các đợt ném bom bí mật lên đất Campuchia. Chính quyền đã tức giận đến nỗi quyết định chỉ đạo FBI bí mật tiến hành nghe trộm (đương nhiên là bất hợp pháp) một loạt các nhân viên NSC và các nhà báo để truy ra nguồn cung cho tờ báo. Nhưng câu chuyện này vì thiếu tài liệu gốc làm bằng chứng, chẳng qua cũng chỉ là vụ việc trong ngày và sau khi Lầu Năm Góc thẳng thừng bác bỏ, đã hoàn toàn bị lãng quên. Khả năng những tài liệu khác bị lôi ra ánh sáng sau tiền lệ của Hồ sơ Lầư Năm Góc, cho dù chậm hai hay ba năm sau nữa, lại là một vấn đề khác.

     Có những lý do đặc biệt cho tính nhạy cảm của chiến dịch tấn công Campuchia mang tên Thực đơn(122). Câu chuyện Beecher kể ra đã làm ê mặt Nhà Trắng vì những chi tiết về một chiến dịch mà Nhà Trắng đã muốn giấu kín với Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird và Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers. Cả hai người đều phản đối mạnh mẽ việc mở rộng chiến tranh. Nhắc tới chính sách về Việt Nam, Nixon và Kissinger đều coi bọn họ gần như kẻ thù. Hai ông luôn mong giấu kín họ càng nhiều và càng lâu càng tất, vì ngại sự phản đối quyết liệt, hoặc thậm chí trong trường hợp của Laird, ông ta sẽ báo lại với Quốc hội hay cho cánh nhà báo. Nếu hai Bộ trưởng có được Tổng thống thông báo điều gì đi nữa thì cũng chỉ rất sơ sài, và vào phút chót. Tuy nhiên, khi nói chuyện với Kissinger vào ngày 13 và nhiều lần sau đó, Nixon e ngại là hai vị Bộ trưởng đang có trong tay các tài liệu lẽ ra họ không nên có hoặc các bản ghi nhớ các cuộc trao đổi với Tổng thống. "Bất cứ khi nào(123) tôi trao đổi với Rogers và Mel (Lairdl về một trong các vấn đề này, về Lào và Campuchia, … tôi cho là họ đều tự mình ghi âm lại … họ thường tự mình suy luận ra từ những gì tôi yêu cầu, anh biết rồi đấy".

     Kissinger đảm bảo với Nixon: "Đúng là họ sẽ tự suy luận ra những gì Tổng thống yêu cầu, nhưng họ sẽ không hiểu được lý do đâu". Những lý do ấy ông ta và Tổng thống luôn thận trọng không để hai người biết được, đặc biệt trên văn bản.

     Sự thật là trong suốt năm 1971, các cuộc ném bom gây áp lực lên miền Bắc Việt Nam và Lào đều dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nixon và Kissinger, thông qua một "kênh nối thẳng" tới Đô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Hai người bí mật vượt mặt Laird, vẫn với lý do cũ, Laird không ủng hộ. Một bí mật đặc biệt nhạy cảm là lúc này FBI vẫn đang tiến hành nghe trộm văn phòng và nhà riêng của trợ lý quân sự của Laird, tướng Robert E. Pursley, để biết ông Bộ trưởng nắm được những thông tin gì về các chiến dịch và ông ta có tiết lộ điều gì cho quốc hội. Cần nhớ Laird đã từ bỏ Quốc hội để chuyển sang làm việc cho chính quyền.

     Thêm vào đó, Quốc hội, cơ quan cấp ngân sách cho các chiến dịch, được nhận những thông tin mật hoàn toàn giả mạo về mục tiêu ném bom. Hàng trăm nhân viên làm việc tại trụ sở của MACV và CINCPAC đêm ngày bận rộn làm giả các kế hoạch ném bom mật và các bản báo cáo hậu chiến sự, làm giả toạ độ các mục tiêu bị ném bom, để mọi người tưởng rằng họ đang ở Nam Việt Nam chứ không phải là ở Campuchia. Vào năm 1971, khi Nixon ra lệnh ném bom Cánh đồng Chum ở Lào (một địa điểm không hề liên quan đến các tuyến đường lấn chiếm của miền Bắc), ông ta đã dùng đến cơ cấu ghi sổ kép như đã từng dùng để che đậy vụ ném bom Campuchia. Có những trường hợp đến cả các phi công cũng không được biết đích xác toạ độ ném bom của họ. Song chủ yếu mục đích của Nixon vẫn là che giấu Quốc hội và dư luận (và ở một mức nào đó, cả Laird và Rogers, về qui mô và tần suất các chiến dịch). Tổng thống không có ý định và kế hoạch này cũng không nhằm đánh lừa các nước Cộng sản - mục tiêu ném bom của ông ta, hay các đồng minh của họ.

     Những người trên mặt đất không thể nhầm lẫn và cũng không ai nghĩ họ nhầm lẫn về kẻ đang dội bom B-52 xuống đầu mình.

     Một hệ thống bí mật như vậy đã được chính quyền này giữ kín trong gần bốn năm - cho đến khi một trung sĩ (một trong số hàng trăm người liên quan đến hoạt động giả mạo này) đột nhiên băn khoăn rằng có thể Tổng thống cũng không được biết về các mục tiêu ném bom thực sự. Anh ta đã đem những tài liệu này trao cho Thượng nghị sỹ Harold E. Hughes. Khả năng thực tế của vị Tổng thống đương nhiệm có thể bí mật thả hàng trăm nghìn tấn bom xuống một đất nước không hề có chiến tranh với chúng ta chính là minh chứng hùng hồn nhất cho hiệu quả của một hệ thống hậu chiến bí mật. Nó cho phép Tổng thống bí mật phát động cuộc chiến, leo thang chiến tranh. Điều đó không thể thấy ở các vị vương chúa ngày trước.
Logged

Để gió cuốn đi...
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM