Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 04:42:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước  (Đọc 33961 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 30 Tháng Ba, 2009, 07:03:19 am »

CHƯƠNG IX
Ở MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ

Vận dụng “học thuyết" do tự mình đề xuất, Ních-xơn đã đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh", tăng cường và hiện đại hóa quân đội Sài Gòn để thay thế dần quân Mỹ rút về nước, dùng người Việt đánh người Việt.
Cuối năm 1969, Mỹ tổ chức và chỉ đạo cuộc hành quân lớn đánh chiếm vùng giải phóng Lào. Tháng 3 năm 1970, chúng tổ chức đảo chính ở Phnôm Pênh lật đổ chính phủ của Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc; cho quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn xâm lược Cam-pu-chia nhằm mở rộng chiến tranh ra khắp Đông Dương. Tháng 1 năm 1970, chúng huy động hơn 45 ngàn quân, trong đó có mười ngàn quân Mỹ, hơn một ngàn năm trăm máy bay chiến đấu, trên tám trăm máy bay lên thẳng, gần sáu trăm xe tăng , xe bọc thép, ba trăm khẩu pháo, mở cuộc hành quân lớn mang tên “Lam Sơn 719" ra đường số 9 - Nam Lào hòng cắt đứt đường chi viện của ta từ hậu phương ra tiền tuyến, đồng thời rèn luyện khả năng chiến đấu của quân đội Sài Gòn để thay thế quân Mỹ. Nhưng mọi ý đồ của chúng đều thất bại thảm hại.
Sau này, trong hồi ức của mình, trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh kiêm Chính ủy của Quân khu Trị Thiên, cho biết:
“Thắng lợi chiến dịch đường 9 - Nam Lào đã mở ra khả năng thực tế đánh bại hoàn toàn âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh"của Mỹ. Nhận định lực lượng cách mạng ba nước Đông Dương ngày một lớn mạnh, diễn biến tình hình trong đó có lợi cho ta, Trung ương đề ra nhiệm vụ tập trung triển khai cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Mục tiêu làm tiêu hao phần lớn sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới. Đối với "B" (chiến trường miền Nam) thì mục tiêu lớn nhất: nếu điều kiện cho phép, sẽ giải phóng toàn bộ Trị Thiên - Huế. Quân ủy Trung ương thành lập một Bộ Tư lệnh chiến dịch đủ mạnh.
11 giờ 30 ngày 30 tháng 3 năm 1972, tiếng súng chiến dịch bắt đầu. Đến ngày 4 tháng 4 năm 1972, một loạt đồn bốt thuộc hệ thống phòng ngự từ đông sang tây mà địch xây dựng trên hai mươi năm đã bị đập nát. Địch thua đau co cụm cố thủ ở Đông Hà, Ái Tử. Ngày 27 tháng 4 năm 1972, quân ta mở cuộc tấn công thứ hai tiêu diệt Đông Hà, Ái Tử. Cánh Nam đánh xuống cắt đường số 1. Cánh Đông cho cơ giới vượt sông Cửa Việt đánh vào. Ngày 2 tháng 5 năm 1972, Quảng Trị giải phóng. Địch chạy sang phía Nam cầu Mỹ Chánh, phá sập cầu, cố thủ. Quân ta đã thấm mệt, tạm dừng. Cánh Nam trở thành tiền phương của Bộ tư lệnh chiến dịch. Đợt tiến công thứ ba bắt đầu từ ngày 20 tháng 6 năm 1972. Lúc này địch phản công quyết liệt. Sức tấn công của ta lại không đủ mạnh. Sau sáu ngày, cuộc tấn công phải chững lại".
(1)
Riêng tôi, sau khi ở  Liên khu 5 ra Hà Nội được bảy ngày, thì được bổ nhiệm làm sư đoàn trưởng Sư đoàn 325C với nhiệm vụ ban đầu là huấn luyện quân tăng cường, bổ sung cho miền Nam.
Từ tháng 5 năm 1970 cho đến tháng 10 năm 1971, dưới sự lãnh đạo chung của Bộ, đơn vị chúng tôi đã huấn luyện được 12 tiểu đoàn bổ sung cho Nam Bộ và chiến trường Liên khu 5.
Ngày 20 tháng 10 năm 1971, nhận được lệnh của Bộ Quốc phòng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, gửi Sư đoàn 325 chuyển nhiệm vụ từ huấn luyện quân tăng cường, quân bổ sung cho miền Nam, huấn luyện xây dựng thành sư đoàn cơ động thuộc lực lượng dự bị của Bộ ...
Bộ Quốc phòng đã cử một phái đoàn do đồng chi Trần Sâm, thiếu tướng làm trưởng đoàn, cùng các Cục Quân huấn, Cục Nhà trường đến đơn vị để triển khai lệnh của Bộ.
Tôi rất phấn khởi, vì từ nay lại sẽ được ra chiến trường. Lúc đó, theo yêu cầu chiến trường, trong vòng ba tháng phải huấn luyện chiến đấu đến cấp trung đoàn. Công việc thật gay go, nhưng chúng tôi thực hiện vượt mức kế hoạch đề ra.

(1) Phan Hoàng - PHỎNG VẤN TƯỚNG LĨNH VIỆT NAM  tuyển tập, Nhà xuất bản Trẻ năm 1999, trang 138 –139.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Tư, 2012, 08:38:36 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 30 Tháng Ba, 2009, 07:06:20 am »

Đầu năm 1972, lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 325C có tôi làm tư lệnh; Nguyễn Công Trang, chính ủy; Nguyễn Duy Sơn, phó tư lệnh (các đồng chí này về sau đều mang quân hàm thiếu tướng). Ngoài ra còn có các đồng chí khác cũng giữ vai trò phó tư lệnh như: Nguyễn Cao Long, Nguyễn Hòe, Mạc Đình Vịnh. Như vậy tất cả có bốn phó tư lệnh.
Giáp tết năm Nhâm Tý (1972), tình hình Quảng Trị sau giải phóng rất gay go căng thẳng. Chấp hành lệnh cấp trên, sư đoàn tôi lần lượt lên đường, bắt đầu từ Trung đoàn 18. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 18 là đồng chí Lê Dũng, sau đó là Lý Long Quân rồi Huỳnh Lan.
Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên những ngày giáp tết năm ấy ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Nhân dân ở đây, đặc biệt là xã Kỳ Nam - giáp đèo Ngang, đời sống rất khó khăn. Tôi rất thương bà con nhưng không biết tính  sao khi bộ đội ta gạo cơm cũng chẳng dư dật gì. Cuối cùng, tôi bàn với các đồng chí chỉ huy sư đoàn “góp gạo thổi cơm chung” với dân, nhường một ít thịt và gạo cho bà con ăn tết.
Trong bài báo “Nắm cơm chiều giáp Tết", tác giả Trần Thế Tuyển có ghi lại câu chuyện cảm động này:
“Đó là một buổi chiều giáp tết năm 1972, khi đơn vị của Phạm Trung Kiên vừa hành quân đến một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Là chiến sĩ cơ yếu, Phạm Trung Kiên luôn được đi sát sư đoàn trưởng. Đang hí hoáy chuẩn bị chỗ ở, Phạm Trung Kiên thấy sư đoàn trưởng Lê Kích từ đâu về, vỗ vai anh, bảo rằng:
- Đồng chí xuống ngay nhà bếp, nói anh em nấu cho tôi một nồi quân dụng cơm và luộc 15 ki-lo-gam thịt lợn ...
Lúc đó, cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, nên Kiên không dám hỏi lại mà đi ngay xuống truyền đạt mệnh lệnh của sư đoàn trưởng. Anh nghĩ  rằng, đêm nay lại hành quân gấp, nên sư đoàn trưởng cho chuẩn bị thức ăn đêm.
Khi nồi quân dụng cơm đã chín và số thịt lợn luộc đã được thái nhỏ, sư đoàn trưởng mới bảo Kiên và anh em phục vụ nắm ra từng nắm nhỏ; mỗi nắm kèm theo một miếng thịt rồi gọi tất cả trẻ con trong làng đến phân phát.
Giữa lúc chiến tranh ác liệt, đời sống khó khăn, có được nắm cơm và miếng thịt như thế thật là một món quà "mơ cũng không thấy" của lũ trẻ. Bọn trẻ reo mừng truyền tin nhau. Chả mấy chốc nồi cơm có đến cả mấy chục người ăn và mâm thịt luộc đã hết.
Đêm ấy, sư đoàn trưởng không ngủ. Ông thả bộ đến từng nhà thăm hỏi bà con nơi đóng quân. Khuya, trở về, ông tâm sự với Kiên:
- Tết đến nơi rồi, mà bà con chẳng có gì đón Xuân. Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân ở đây cũng như đồng bào miền Bắc đã dốc sức người, sức của cho chiến trường. Sớm mai, đồng chí truyền đạt ý kiến của sư đoàn, mỗi cán bộ, chiến sĩ nhường tiền ăn hai ngày để lo tết cho nhân dân khu vực đóng quân.
Ý kiến của sư đoàn trưởng được toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn hưởng ứng. Tết năm ấy, bà con Kỳ Anh, nơi đơn vị đóng quân, được đón Xuân, vừa đậm đà tình nghĩa quân dân vừa vui vẻ, ấm cúng vì có gạo, thực phẩm do bộ đội ủng hộ"
.
Rời Kỳ Anh, đơn vị chúng tôi lên đường vào mặt trận Quảng Trị.
Mặt trận Quảng Trị trong những ngày mùa hè năm 1972 hết sức căng thẳng. Trung tướng Lê Tự Đồng sau này còn kể lại những gì khó khăn xảy ra trong giai đoạn đó:
“Cái khoảng cách giữa đợt tấn công thứ hai và ba, nó có mấy vấn đề cơ bản như sau: Khó nhất là vượt sông bằng cơ giới. Khi đánh du kích thì tất cả đều trên vai chiến sĩ, giờ đánh lớn, nếu không có xe chở vũ khí, lương thực thì đừng hòng đánh chác gì. Cái khó thứ hai là đường sá cho cơ giới. Đường không có thì xẻ đường bạt núi mà đi, không có cầu, phà. Bắc cầu phao, bị máy bay bắn hỏng. Do đó phải tìm bến vượt, đắp ngầm, mưa như thác đổ, nước sông dâng cao lênh láng. Con đường 15 N mở sau giải phóng Quảng Trị, chủ yếu dựa vào lòng khe suối, đã bị nước tràn, tắc nghẽn. Trong lúc đó, quân trang quân dụng chuẩn bị chỉ nhỏ giọt. Bộ đội đối mặt với nhiều khó khăn, vất vả. Lợi dụng thời gian, địch ra sức củng cố lực lượng để đối phó, đặc biệt chúng dùng phi pháo để ngăn chặn, gây khó khăn cho ta. Tôi nghĩ, sau khi giải phóng Quảng Trị, khoảng sáu đến mười ngày mà không tiếp tục tiến công, thì thời cơ đã mất. Nếu như thấy mở cuộc tấn công vào sâu chưa thể được, thì chuyển hẳn sang chiếm lĩnh địa bàn, bố trí lại lực lượng, xây dựng công sự... tạo thế đứng vững chắc. Sau đó, mới chuẩn bị đợt tấn công mới cũng không muộn. Nhưng tiếc là ta đã không làm thế!
Tám mươi mốt ngày đêm. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, địch mở cuộc phản công bằng hai sư đoàn cơ động chiến lược. Sư dù tiến ra theo phía tây đường 1. Sư đoàn thủy quân lực chiến tiến dọc phía đông. Chủ yếu chúng dùng bom, pháo đánh mạnh vào các trận địa của ta. Theo số liệu thống kê, mỗi ngày chúng giội vào đây 24 tấn bom đạn hết sức ác liệt, trước khi chúng tôi rời thành cổ Quảng Trị lui về phía bắc sông Thạch Hãn. Tuy nhiên, phần lớn đất đai được giải phóng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của ta"
.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 30 Tháng Ba, 2009, 07:10:59 am »

Ngày 20 tháng 9 năm 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có điện gửi cho các sư đoàn hỏi về việc tổ chức phòng ngự ở Quảng Trị như thế nào.
Thế trận của ta ở mặt trận Quảng Trị được bố trí như sau:
Phía đông thành cổ Quảng Trị có Sư đoàn 320 do đồng chí Sùng Lãm làm tư lệnh.
Phía tây bắc, gồm Ái Tử, Thạch Hãn. Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà có Sư đoàn 325 do tôi phụ trách.
Phía tây nam có Sư đoàn 304 do đồng chí Hoàng Đan chỉ huy. Sư đoàn này đã để mất điểm cao 501 ở khu vực Tây Nam Quảng Trị.
Ngoài ra, còn có các đơn vị khác tham gia như: một trung đoàn xe tăng, một trung đoàn pháo binh nòng dài, một trung đoàn cao xạ 57 ly và 37 ly, một trung đoàn tên lửa ... Lúc ấy, lực lượng của ta khá mạnh.
Sư đoàn 325 còn được phối thuộc ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh, 11 tiểu đoàn trực thuộc khác, Trung đoàn 66 của Sư đoàn 312; một trung đoàn của Sư đoàn 304; một trung đoàn của Sư đoàn 308. Tư lệnh sư đoàn trực tiếp hạ lệnh bắn cho trung đoàn pháo binh. Như vậy trong tay tôi, lực lượng không phải là một sư mà là hơn thế nhiều.
Ở Quảng Trị,  giữa ta và địch là sự tranh chấp ác liệt. Tôi đã tám lần trực tiếp đưa các tiểu đoàn vào thành cổ Quảng Trị, với một tinh thần quyết chiến cao độ trong điều kiện hết sức khốc liệt. Đơn vị tôi cứ tám đến mười ngày lại phải một lần thay quân. Tổn thất không phải ít. Lương thực, thực phẩm vô cùng khó khăn; một phần lớn nguồn cung cấp là bằng cách đón gạo, thịt thả từ ngoài biển dạt vào hoặc từ tàu thủy Trung Quốc thả xuống biển.
Sau này, Sư đoàn 325 sử dụng Trung đoàn 1 bám sát chợ Sãi, đồng thời có trách nhiệm cùng với Cửa Việt. Trung đoàn 95 phòng ngự bờ tây sông Thạch Hãn và Trung đoàn 18 làm nhiệm vụ dự bị.
Cuộc giằng co thật sự căng thẳng. Ta không thể giữ được thành cổ Quảng Trị vì sức ép hỏa lực của địch mạnh và vì thiên tai. Địch còn kết hợp đánh lấn, trong lúc đó ta chưa có cách giải quyết có hiệu quả thủ đoạn này của chúng. Nguyên nhân chính nữa là ta không mở rộng được phía sau lưng địch ở Thừa Thiên - Huế.
Ngày 25 tháng 9 năm 1972 ta về giữ bờ sông Thạch Hãn. Chỉ huy sư đoàn hoan nghênh đồng chí Mạc Đình Vịnh luôn có mặt ở sở chỉ huy tiền phương. Tôi thì bám sát các trung đoàn ở tuyến sông Thạch Hãn.
Cuối cùng, sau khi ta lui khỏi thành cổ thì Trung đoàn 101 lại chiếm được Cửa Việt. Ta thu được 12 xe bọc thép, địch tháo chạy tán loạn. Cờ cách mạng miền Nam tung bay giữa mùa thu gió lộng sát biển Đông sau gần 17 năm vắng bóng.
Qua những ngày chiến đấu ác liệt ở Quảng Trị, việc chúng ta không tận dụng thời cơ thọc sâu vào Phong Điền, Quảng Điền của tỉnh Thừa Thiên - Huế là điều đáng tiếc. Việc mất thành cổ là tổn thất  lớn. Tuy nhiên, được Cửa Việt và vùng tự do còn lại đã góp phần làm nên thắng lợi Hiệp định Pa-ri năm 1973.
Mấy chục năm đã qua nhưng tôi vẫn nhớ những cán bộ trong Bộ chỉ huy mặt trận. Các anh Giáp Văn Cương, phó chỉ huy mặt trận; Cao Văn Khánh, Nguyễn Hữu An, Hồng Sơn... đều thường xuyên bám sát chiến trường và có những ý kiến kịp thời giúp cho cấp dưới giữ vững bình tĩnh, sáng suốt, làm nên những thắng lợi.
Ở chiến  trường Quảng Trị nóng bỏng 1972,  tôi đã ghi nhật ký rất tỉ mỉ đều đặn và còn giữ đến hôm nay. Nó vừa là kỷ niệm vừa là dấu ấn của  cuộc  đời.
“Ngày 22 tháng 8 năm 1972
Từ bốn giờ sáng, ta đánh địch ở phường Đệ Ngũ, Tri Bưu và Long Hưng. Trong ngày, địch oanh tạc bằng phi pháo mật độ ngày càng cao so với những ngày trước, chủ yếu vào thị xã Quảng Trị.
Lúc 16 giờ chiều cùng ngày, máy bay B52 oanh tạc gần chỉ huy sở sư đoàn, vào gần trung đoàn xe tăng, tổng đài 300.
Trung đoàn 209 Sư đoàn 312 di chuyển hết quân vào Như Lệ, phối thuộc chiến đấu cho Sư đoàn 325.
Ngay từ đêm trước, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 101, trong lúc đi lấy 60 tấn gạo gần Cam Lộ chuyển về, đã có bốn đồng chí hy sinh và hai đồng chí khác bị thương.
Trong đêm này, Trung đoàn 48 đã đưa vào thị xã được 510 quả đạn cối 82 ly; 120 quả đạn B40, một tấn rưỡi gạo; 99 ki-lô-gam thịt. Trung đoàn 95 đưa vào được bảy tấn gạo.
Ngày 23 tháng 8 năm 1972:
Địch tiếp tục oanh tạc vào chung quanh sở chỉ huy sư đoàn. Hôm nay ban  chỉ huy Trung đoàn 141, Sư đoàn 312 đến nhận nhiệm vụ. Trung đoàn trưởng là đồng chí Khê, chính ủy là đồng chí Dĩ. Quân số của trung đoàn là một nghìn bảy trăm người, trang bị đầy đủ quân trang quân dụng, khí thế bộ đội hừng hực, lương thực có đủ để chiến đấu đến ngày 30 tháng 8 năm 1972.
Chúng ta tăng cường thêm tiểu đoàn 7 vào thị xã. Và ngay trong đêm 23 tháng 8, rạng sáng ngày 24 tháng 8, toàn chiến trường Quảng Trị đã phân công đợt 1 đánh chủ yếu vào các tiểu đoàn 6, 7, 9 dù và tiểu đoàn 2 thủy quân lục chiến của Mỹ ngụy.
Ngày 24 tháng 8 năm 1972:
Lúc 20 giờ, tôi gọi điện cho đồng chí Thúy, phó chính ủy sư đoàn 320 yêu cầu không được xé lẻ các tiểu đoàn để tăng cường vào các tiểu đoàn khác, tổ chức đưa 100 quân cho tiểu đoàn 5; giải quyết việc bổ sung quân số chiến đấu thường xuyên cho thị xã; kiểm tra việc sử dụng tân binh. Chỉ thị kiểm điểm đồng chí Mỹ về việc thu súng B40 và B41 của hai đại  đội  tiểu  đoàn 7.

Điện tôi gửi đồng chí Thúy và đồng chí Thiện, còn lưu lại:
“Đồng chí dùng tiểu đoàn 7 tập trung đánh phản kích; không được xé nát tiểu đoàn này để bổ sung cho đơn vị khác. Cần kiên quyết điều chỉnh đội hình các tiểu đoàn để có sự lãnh đạo chỉ huy tập trung của cấp ủy và chỉ huy các tiểu đoàn ở trên một hướng, trừ những chỗ chưa thể giải quyết được, hoặc do điều chỉnh có ảnh hưởng. Những bộ phận lẻ còn lại của các đơn vị đang giữ các chốt quan trọng thì phối thuộc cho tiểu đoàn trên hướng đó. Đồng chí chỉ thị cho phía sau chấp hành nghiêm, đưa quân bổ sung chiến đấu thường xuyên cho các đơn vị. Cho ngay tiểu đoàn 4, Trung đoàn 95 ra củng cố để kịp cho kế hoạch tiếp. Tám Du" (tức Lê Kích).
Tình hình chiến sự trong ngày 24 tháng 8 năm 1972 cho đến 10 giờ sáng ngày hôm sau, diễn biến như sau:
Ta đánh chiếm và giữ ngã ba Long Hưng, địch dùng tiểu đoàn 3 thủy quân lục chiến phản kích. Ở đây ta diệt 100 tên. Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 165 đã vào chiến đấu ở khu trường Bồ Đề, bệnh viện. Ta chiếm được khu bệnh viện và đẩy địch lùi về phía nam khu trường Bồ Đề. Tới đây ta và địch giằng co. Ta diệt gần trăm tên địch, ba xe tăng và một xe bọc thép M113.
Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 165 tiếp vào chiến đấu ở ngã ba Long Hưng; tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 209 đã chiếm cao điểm 105, diệt một đại đội địch.
Sư đoàn 325 do tôi phụ trách trong cuộc kháng chiến chống  Mỹ, cứu nước đã lập nhiều chiến công lớn, nổi bật là trận chiến đấu liên tục 64 ngày đêm ở mặt trận Quảng Trị. Sư đoàn này trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sau này cũng làm nên những chiến công hiển hách, và được thưởng 2 huân chương Quân công; có 2 trung đoàn, 3 tiểu đoàn được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 07:49:04 am »

Tháng 5 năm 1974, tôi được điều về làm chủ nhiệm lớp K1 của Học viện Quân sự, đào tạo, hướng dẫn cán bộ cao cấp chuẩn bị vào chiến trường làm nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong lễ duyệt binh chào mừng sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng ngày 2 tháng 9 năm 1975 tổ chức tại thủ đô Hà Nội, tôi là người vinh dự được cầm cờ “Quyết chiến, quyết thắng" của quân đội ta, đứng trên xe diễu qua lễ đài, sau xe của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng chỉ huy dẫn đầu cuộc diễu binh trong ngày lễ trọng đại này.
Thủ đô Hà Nội rộn ràng hân hoan và tràn ngập cờ hoa, biểu ngữ. Cả nước bắt nhịp kết đoàn, hát bài ca: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Bài hát ra đời đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 ấy, cho đến bây giờ vẫn vang lên giục giã, tự hào.
Ngày 20 tháng 2 năm 1976, Học viện Quân sự chuyển vào Đà Lạt, tôi đưa toàn bộ gia đình vào thành phố bốn mùa hoa nở này để định cư.
Đây là một thành phố nghỉ mát lý tưởng, mà ngay từ thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã chọn nơi đây làm khu an dưỡng. Kể từ ngày 21 tháng 6 năm 1893, bác sĩ A-lếch-xăng Y-éc-sanh, người Thụy sĩ, quốc tịch Pháp, đã thám hiểm và lên được cao nguyên Lang Bian. Ông đã từng  kể lại trong hồi ký của mình:
“Cảm tưởng của tôi thật sống động, khi từ rừng thông ra, tôi đặt chân lên bờ cao nguyên rộng lớn trơ trụi và mấp mô, chế ngự bởi ba đỉnh núi Lang Bian. Những ngọn sóng của nó làm tôi nhớ lại mặt biển bị dày vò do một đợt sóng vĩ đại như  người ta thường thấy ở duyên hải An Nam tiếp theo sau một trận bão lớn.
Sự mát lạnh của khí trời làm tôi quên đi sự mệt nhọc và tôi nhớ lại sự vui mừng mà tôi đã cảm thấy khi chạy hết tốc lực lên xuống những quả đồi y như một cậu học sinh trẻ trung học”.

Đà Lạt trở thành Hoàng Triều Cương Thổ của triều đình Huế, là nơi diễn ra hội nghị trù bị từ ngày 17 tháng 4 năm 1946 đến ngày 12 tháng 5 năm 1946 do hai đoàn Việt Nam và Pháp tham dự.
Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ có 13 người, do ông Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn, ông Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn . Đoàn chính phủ Pháp cũng có 13 thành viên do Max André làm trưởng đoàn, Rê-nê Pi-ông (René Pignon) làm phó đoàn. Hội  nghị  kéo  dài  ba  tuần lễ, nhưng những vấn đề chính lại không giải  quyết  được  bao  nhiêu.
Đà Lạt mãi mãi là vùng đất rợp bóng thông xanh, là những mảnh đồi nối nhau tít tắp với khí hậu trong lành. Cảnh quan Đà Lạt thật quyến rũ. Vì vậy, khi đặt chân lên mảnh đất này tôi không làm sao kìm được những cảm xúc của mình.
Tôi đã có một chùm thơ viết về Đà Lạt. Ví như bài thơ “Cảnh đẹp Hồ Xuân Hương”
Sương mai lướt nhẹ như hơi,
Xuân Hương in bóng mây trời ngàn thông.
Mặt hồ sóng gợn nước trong,
Chiếc thuyền câu nhỏ thong dong kéo dài

Vầng hồng sưởi ấm ban mai,
Từng đàn cò trắng nhớ ai bay về.
Nước non, non nước câu thề,
Gìn non, giữ nước vẹn bề hiếu trung.
Khi đến Đà Lạt, ngoài việc ổn định gia đình, tôi còn được giao trực tiếp quản lý khu Học viện. Sau khi đồng chí Tôn Long qua đời, từ tháng 8 năm 1976 cho đến năm 1980, tôi được bổ nhiệm làm Phó cục trưởng Cục Huấn luyện tác chiến cho đến ngày nghỉ hưu.
*   *
*
Như vậy, tôi đã tham gia quân đội liên tục trong 37 năm, kể từ tháng 4 năm 1945, có mặt hầu hết các chiến trường nóng bỏng ác liệt ở Đông Dương.
Trong suốt chặng đường dài liên tục đi theo cách mạng ấy, về công tác Đảng, tôi đã được giao đảm nhiệm các vị trí như: bí thư chi bộ, bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, thường vụ Đảng ủy sư đoàn, ủy viên Đảng ủy Quân khu...
Về chính quyền, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đảm trách các cương vị: Tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 17,26,53; chỉ huy trưởng Mặt trận phía bắc thành phố Nha Trang; cán bộ tham mưu khu Hạ Lào; chỉ huy trưởng mặt trận tỉnh Sa-ra-van; trung đoàn phó Trung đoàn 101 Sư đoàn 325, đơn vị thọc sâu chiến lược của Bộ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và trong chiến dịch Điện Biên Phủ; cố vấn quân sự cho Bộ Tổng Tham mưu Pha-thét Lào, đoàn trưởng đoàn 165 chỉ huy cuộc tổng tiến công và giải phóng Cánh đồng Chum; chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9, khai thông đường Tây Trường Sơn; Tư lệnh Sư đoàn 2 bộ binh của Khu 5; Tư lệnh Sư đoàn 325C ở Quảng Trị; cố  vấn quân sự  khu Hạ Lào, đoàn phó đoàn 565; chủ nhiệm lớp bổ túc cán bộ cao cấp Học viện Quân sự và lớp K1 chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh xuân 1975.
Về hưu năm 1981, tôi tiếp tục tham  gia các hoạt động các đoàn thể ở địa phương; tham gia Hội Y học cổ truyền dân tộc thành phố Đà Lạt với cương vị là chủ tịch cho đến năm 2001.
Với những cố gắng nỗ lực không ngừng của bản thân, với sự đồng tâm hiệp lực của bao cán bộ, chiến sĩ, nhân dân, bè bạn, đã trải qua gần nửa thế kỷ đấu tranh của toàn dân tộc, tôi đã được Đảng và Nhà nước trao tặng: Huân chương Độc lập hạng 2, Quân công hạng nhì, Huân chương quân kỳ Quyết thắng, 3 Huân chương chiến công hạng nhất, nhì, ba; Huân chương chiến thắng hạng hai; Huân chương chống Mỹ hạng nhất; 3 Huân chương vẻ vang 1,2,3.  Được Đảng trao các huy hiệu : 40 tuổi Đảng, 50 tuổi Đảng, huy chương cựu chiến binh, huy chương Điện Biên Phủ, huy hiệu Xuân 1968,  Xuân 1975. Được Đảng và chính phủ Lào trao tặng huân chương các loại: Huân chương Vàng Lain - khăn, Huân chương Tự do hạng nhất, Huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và nhiều bằng khen, giấy khen.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 07:56:42 am »

Phụ lục: Những bài viết về đại tá Lê Kích

Trần Ngọc Trác
ĐẦU XUÂN GẶP ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
Những người trẻ tuổi chúng tôi hôm nay luôn ao ước sẽ có một ngày được gặp và nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể chuyện. Nếu diễm phúc có một tấm hình chụp chung với Đại tướng thì thật quý hoá biết bao.
Tiếng tăm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lừng lẫy khắp năm châu  đã  làm  cho kẻ thù kinh sợ, nhân dân kính phục. Hình ảnh ngày đầu tiên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời, Cách mạng tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng thủ đô, cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ và thống nhất Nam Bắc ..., tất cả đều có sự đóng góp không nhỏ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Và điều ấy luôn ở mãi trong tâm thức của chúng tôi. Đối với lực lượng vũ trang, trí thức thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trở thành người anh Cả tuyệt vời.
Năm 1996, trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường Quốc học Huế, tôi hy vọng sẽ được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì ông là một trong những học sinh của trường. Ngày hội trường năm đó, tôi vinh dự được gặp và chụp hình kỷ niệm với nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân, nhà thơ Tố Hữu, viện sĩ Viện hàn lâm thế giới về thơ Cù Huy Cận, bác sĩ, nhà điêu khắc, viện sĩ thông tấn Châu Âu Điềm Phùng Thị, và những nhạc sĩ, chính khách nổi tiếng khác mà tôi luôn kính trọng. Nhưng rất tiếc, dịp ấy Đại tướng không về dự được vì sức khỏe, nhưng ông vẫn có thư và lẵng hoa gửi từ Hà Nội vào tặng thầy cô giáo, học sinh của trường Quốc học Huế.
Năm 2000, trong lễ kỷ niệm 55 năm ngày Khánh Hoà - Nha Trang kháng chiến (23 tháng 10 năm 1945 - 23 tháng 10 năm 2000), chúng tôi lại hy vọng được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì ông là một trong những tướng lĩnh cao nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có mặt tại Tháp Bà, Nha Trang trong những ngày đất nước dầu sôi lửa bỏng ấy, để giao nhiệm vụ cho các đạo quân tham gia chiến dịch ở đây. Nhưng rồi một lần nữa lại bị hẫng hụt, vì Đại tướng cũng không vào được.
Tháng 2 năm sau, nhân kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ về nước, Đại tướng và phu nhân đã vào thăm một số cơ quan, đơn vị và nhân dân ở miền Tây. Dạo đó, chúng tôi đang thực hiện ghi hình một số phát biểu của các tướng lĩnh từng tham gia chiến đấu với đại tá Lê Kích; một người đã làm nên những huyền thoại trong chiến đấu.
Chiều hôm đó, chúng tôi ai ai cũng lo lắng hồi hộp. Ngay cả đại tá Lê Kích - người đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao nhiệm vụ nhiều lần mà lòng vẫn nôn nao. Tôi thấy ông cứ đi vào, đi ra; có khi thì vân vê bộ quân phục ; có khi thì bần thần, vui buồn lẫn lộn. Tâm trạng của ông càng làm cho chúng tôi thêm băn khoăn, lo lắng. Qua thiếu tướng Minh Long, đại tá Hoàng Minh Phương - nguyên thư ký riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng tôi đã có cuộc hẹn tại nhà khách T78 ở  thành phố Hồ Chí Minh.
Khi chúng tôi đến với máy quay phim, đồ nghề lỉnh kỉnh, thì được gặp bà Đặng Thị Bích Hà - phu nhân Đại tướng và các cán bộ Hội Cựu chiến binh thành phố  Hồ Chí Minh đến thăm và chúc thọ Đại tướng chín mươi tuổi.
Khoảng chừng năm phút sau, Đại tướng đi từ trên lầu xuống. Các cán bộ quân đội đã nghỉ hưu và đại tá Lê Kích vui mừng dìu Đại tướng vào đi văng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chậm rãi bắt tay từng người một với ánh nhìn thân thiết. Phóng viên quay phim Nam Quan nhanh nhẹn ghi hình. Còn tôi thì chụp một số hình ảnh. Đại diện Hội cựu chiến binh thành phố tặng tướng Giáp lẵng hoa, với lời chúc mừng đại thọ trăm tuổi.
Đại tướng nói vui: “Tôi xin chấp hành”. Rồi mời mọi người cùng vỗ tay.
Đại tướng kể về những khó khăn buổi đầu của chính quyền cách mạng còn non trẻ, những chủ trương đúng đắn của Đảng và Bác Hồ đã dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nói về Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp  tâm sự: Bác là một vị lãnh tụ vĩ đại. Bác Hồ thường nói làm cách mạng trước hết là đạo đức, dĩ công vi thượng; chỉ có dân, có nước, không vì cá nhân mình; phải dựa vào dân thì có tất cả. Câu nói ấy của Bác đã bao nhiêu năm vẫn còn nguyên giá trị.
Hôm nay chúng ta gặp nhau, cựu mà phải mới; phải đổi mới, đổi mới; đổi mới càng đổi mới; và càng phải có lý luận đúng. Muốn tiên phong thì phải có Đảng tiên phong. Vì thế cho nên phải học tập trong thực tế, trên báo chí; đặc biệt cựu chiến binh ta phải học tập, học tập suốt đời, học tập đến hơi thở cuối cùng như Bác Hồ từng nói: Nếu chúng ta không phân biệt được đúng sai là không được . Thế giới đã tổng kết: Thắng lợi Việt Nam là thắng lợi của tinh thần yêu nước Việt Nam và trí tuệ thông minh Việt Nam.
Đại tướng cũng khẳng định rằng: Nếu không có Bác Hồ về nước, thì nhất định chúng ta không thể đánh đổ được thực dân, đế quốc, phong kiến; và không có thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
Sau khi chúc Hội Cựu chiến binh cần phải quyết tâm đổi mới, trí tuệ và đoàn kết tiến lên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn dành những tình cảm thân thương gởi đến các gia đình trong ngày xuân mới có thêm nhiều sức khoẻ và thực hiện tốt tinh thần nghị quyết Trung ương lần thứ IX đề ra.
Đại tá Lê Kích và chúng tôi được ở lại thêm nhiều giờ nữa để nghe Đại tướng nói chuyện và trực tiếp phỏng vấn.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Tôi nhớ Lê Kích luôn, nhưng không biết ở đâu. Gặp Lê Kích trí tuệ vẫn còn minh mẫn, nói năng rõ ràng. Nói đến Lê Kích, tôi nhớ nhất là 436. Lúc đó, vấn đề này có liên quan đến phân tán lực lượng của Na Va tập trung 40 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ; một trong hai hướng quan trọng là Trung Lào và Hạ Lào. Trung Lào đã có Trần Sâm, Hạ Lào thì có Lê Kích. Tôi gặp Lê Kích và bảo anh phải nắm chắc một tiểu đoàn, có máy liên lạc; nhưng không được phát sóng. Tôi chọn một tiểu đoàn;  tôi trực tiếp kiểm tra đến từng đại đội, trung đội, tiểu đội, chiến sĩ. Tất cả là những người kiên quyết và chọn Lê Kích làm chỉ huy. Anh là người biết xung trận lúc nào là thắng lợi nhất. Và tôi nói rằng hướng này địch hoàn toàn bất ngờ. Ta có thể thắng lợi được, trong điều kiện địch bị hoàn toàn bất ngờ. Ta đánh địch trong thế địch không chuẩn bị. Đến lúc tôi nhận được điện của Lê Kích là đơn vị đã đánh và giải phóng Mường Mày, một tỉnh lỵ lớn của Nam Lào. Tôi  dự định đúng,  địch hoàn toàn bất ngờ, ta có thể giành thắng lợi lớn. Bản thân tôi cũng chưa nghĩ rằng giải phóng được hoàn toàn Mường  Mày và các tỉnh lỵ. Vì vậy tôi nhớ mãi Lê Kích cái điểm đó.
Nói đến Cánh đồng Chum, lúc đó trong Quân uỷ có hai ý kiến. Tôi đề nghị cử anh Chu Huy Mân sang Lào giúp bạn. Bác Hồ đồng ý. Anh  Chu  Huy  Mân sang giúp bạn về mặt chính trị, và Quân uỷ cử đồng chí Lê Kích giúp bạn về mặt quân sự và chỉ trong thời gian rất ngắn  sau  khi thành lập Chính phủ Liên hiệp dân tộc Lào - 15 giờ chiều ngày 28 tháng 12 năm 1960, lễ xuất quân tiến về Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng được cử hành trọng thể tại thị trấn Văng Viêng. Và chỉ trong  vòng ba ngày đêm tấn công địch trong hành tiến trên quãng đường dài 300 ki-lô-mét, đúng 1 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1961 ta đã đập tan căn cứ quân sự  lớn nhất ở Bắc Lào, giải phóng tỉnh Xiêng  Khoảng, khai thông đường số 7. Cánh đồng Chum là căn cứ địa lớn nhất của Pháp ở Lào.  Sự kiện này làm chấn động cả châu Á. Do đó, tôi cho rằng Lê Kích là một con người kiên cường, có quyết tâm lớn, không lùi bước trước khó khăn nào; là một con người hoàn thành tốt nhiệm vụ trong những điều kiện khó khăn nhất. Dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những việc mà chúng ta cho là không làm được, coi như là huyền thoại. Anh là một trong những con người của dân tộc Việt Nam làm được những việc khó khăn cho là không làm được”.

Không những dành những tình cảm sâu đậm cho đại tá Lê Kích, Đại tướng và phu nhân còn quan tâm và hỏi thăm chúng tôi rất cụ thể về gia đình, công việc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bước sang tuổi 91, nhưng ông vẫn minh mẫn. Tôi nhớ hôm đó, khi phỏng vấn xong, Đại tướng muốn đứng dậy, tôi dìu ông, thì ông bảo rằng: Tôi còn khỏe lắm, và gỡ tay tôi ra. Một  chi  tiết  nhỏ  nhưng  rất  ấn tượng đối với tôi.
Đầu xuân được gặp và nghe Đại tướng kể cho nghe nhiều câu chuyện,  lòng  cảm  thấy  hạnh phúc làm sao. Những ao ước đợi chờ hàng  chục năm qua, nay chúng tôi đã toại nguyện. Những gì tốt đẹp chúng  tôi  nghĩ  về ông,  hôm  nay  đã  thành  hiện thực.
Vui Xuân mới này, chúng tôi càng hiểu hơn những gì mà các vị lãnh đạo tiền bối của cách mạng Việt Nam đã phải chịu đựng biết bao gian nan, khó nhọc để cho các thế hệ hôm nay được sống trong một đất nước hoàn toàn được độc lập, tự do, hoà bình trọn vẹn.
Bài đăng trên tạp chí
NGƯỜI LÀM BÁO LÂM ĐỒNG
Số Xuân Nhâm Ngọ 2002
« Sửa lần cuối: 31 Tháng Ba, 2009, 07:58:33 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 08:01:56 am »

Trần Thế Tuyển
NẮM CƠM GIÁP TẾT

Đó là một buổi chiều giáp tết năm 1972, khi đơn vị của Phạm Trung Kiên vừa hành quân đến một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Là chiến sĩ cơ yếu, Phạm Trung Kiên luôn được đi sát sư đoàn trưởng. Đang hý hoáy chuẩn bị chỗ ở, Phạm Trung Kiên thấy sư đoàn trưởng Lê Kích từ đâu về, vỗ vai anh bảo rằng:
- Đồng chí xuống ngay nhà bếp, nói anh em nấu cho tôi một nồi quân dụng cơm  và luộc 15 ki-lô-gam thịt lợn ...
Lúc đó cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, nên Kiên không dám hỏi lại mà đi ngay xuống truyền đạt mệnh lệnh của sư đoàn trưởng. Anh nghĩ rằng, đêm nay lại hành quân gấp, nên sư đoàn trưởng cho chuẩn bị thức ăn đêm.
Khi nồi quân dụng cơm đã chín và số thịt luộc đã được thái nhỏ, sư đoàn trưởng nói Kiên và anh em phục vụ nắm ra từng nắm nhỏ; mỗi nắm kèm theo một miếng thịt rồi gọi tất cả trẻ con trong làng đến phân phát.
Giữa lúc chiến trường ác liệt, đời sống khó khăn, có được nắm cơm và miếng thịt như thế thật là một món quà “mơ cũng không thấy” của lũ trẻ. Bọn trẻ vui mừng truyền tin nhau. Chả mấy chốc nồi cơm có đến cả chục người ăn và mâm thịt luộc đã hết.
Đêm ấy, sư đoàn trưởng không ngủ. Ông thả bộ đến từng nhà thăm hỏi bà con nơi đóng quân. Khuya, trở về ông tâm sự với Kiên:
- Tết đến nơi rồi, mà bà con chẳng có gì đón xuân. Tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân ở đây cũng như đồng bào miền Bắc đã dốc sức người, sức của cho chiến trường. Sớm mai, đồng chí truyền đạt ý kiến của sư đoàn, mỗi cán bộ, chiến sĩ nhường tiền và gạo ăn hai ngày để lo tết cho nhân dân khu vực đóng quân.
Ý định của sư đoàn trưởng được toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn hưởng ứng. Tết năm ấy, bà con Kỳ Anh, nơi đơn vị đóng quân, được đón xuân vừa đậm đà tình nghĩa quân dân vừa vui vẻ, ấm cúng vì có gạo, thực phẩm do bộ đội ủng hộ.
Chuyện ấy cách đây đã hơn 30 năm rồi mà Phạm Trung Kiên vẫn còn nhớ như in. Bây giờ với cương vị đại tá, Cục trưởng Cục Hậu cần của  một cơ quan Bộ Quốc phòng, Phạm Trung Kiên không quên được câu  chuyện bình thường của người lính bộ đội Cụ Hồ nhưng vô cùng cảm  động  ấy.  Bên  cạnh việc tham mưu với cấp uỷ và thủ trưởng biện pháp  nâng cao đời sống bộ đội, anh luôn đề xuất phương án góp phần chăm lo đời sống nhân dân nơi đơn vị đóng quân, đặc biệt các bà mẹ Việt Nam anh hùng và các gia đình thuộc diện chính sách. Nghe câu chuyện nắm cơm chiều giáp tết của sư đoàn trưởng Lê Kích do Phạm Trung Kiên kể, tôi bỗng nhớ đến lời tâm sự của anh Ba Bé, Giám đốc Xí nghiệp in tổng hợp Cần Thơ. Anh Ba kể rằng, sau giải phóng miền Nam (30 –4 -1975) anh có mặt tại thủ đô Hà Nội. Là người Nam bộ, nhưng anh rất thích ăn phở Hà Nội. Vừa đặt chân đến thủ đô, anh đã tìm đến hàng phở. Anh thật ngạc nhiên khi bát phở bưng lên nghi ngút khói mà chỉ toàn bánh và nước dùng, không thấy thịt đâu. Hỏi ra mới biết, phở không người lái, bởi vì trong chiến tranh, chăn nuôi kém phát triển, hơn nữa còn phải ưu tiên chi viện cho chiến trường. Anh Ba Bé ăn tô phở không người lái vừa thấy ngon lại vừa thấy mặn - sự mặn mòi từ những giọt nước mắt của anh.
Chuyện nắm cơm chiều giáp tết của đại tá Phạm Trung Kiên và bát phở không người lái của anh Ba Bé tưởng đâu không ăn nhập gì với nhau, mà sao gắn bó, xúc động đến thế. Tình cảm của những người lính Bộ đội Cụ Hồ với nhân dân và tình cảm của nhân dân với người lính Bộ đội Cụ Hồ như thế đấy.

Bài đăng trong tạp chí “Sự kiện và nhân chứng” Báo QĐND Xuân Tân Tỵ 2001 trang 36.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 08:07:21 am »

Trần Nguyên Trang
VẸN NGUYÊN NGƯỜI LÍNH CỤ HỒ

Đoàn Minh Tuấn đạp xe hơn ba chục cây số từ Đức Hoà lên thăm tôi. Anh mang lỉnh kỉnh nào xoài, rượu nếp và cả đậu phụng mới rang gói bằng giấy báo còn thơm mùi cát. Tuấn nói:
- Tất cả những thứ này bà xã tôi chuẩn bị từ  sáng sớm. Cây nhà lá vườn cả đấy.
Tôi đón nhận quà đồng quê từ tay người bạn chiến đấu cũ. Nhìn cái dáng gầy gò, tong teo và mái tóc hoa râm tuổi ngũ tuần của anh, lòng tôi rưng rưng xúc động.
- Ôi! Ông lên thăm được rồi. Còn mang chi mấy thứ  này cho nhọc xác. Không phải bây giờ Tuấn mới nhọc xác vì bạn bè, đồng đội, mà mấy chục năm nay quen biết nhau từ còn ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, chúng tôi đã biết Tuấn luôn luôn sống như thế.
Ngày ấy, chúng tôi còn trẻ lắm, lớp Đảng viên Hồ Chí Minh của những năm đầu thập kỷ bảy mươi đến nay hầu hết đều sống xứng đáng với sự tin yêu của tổ chức và đồng đội. Bây giờ là thương binh nặng, mất sức gần 90 phần trăm, dưới chục lần lên bàn mổ vì vết thương cũ tái phát, nhưng phẩm chất người lính Bộ đội Cụ Hồ trong Tuấn vẫn không phai. Ngôi nhà tình nghĩa do Công ty 32 Tổng Cục hậu Cần  làm tặng gia đình anh cách đây hơn một năm được sắp xếp như một doanh trại quân đội. Có lẽ nếp sống người lính đã hoà lẫn vào dòng máu của anh, nên khi nghỉ mất sức, Tuấn muốn tổ chức gia đình như cách sinh hoạt của người lính. Lần trước xuống thăm anh, nhìn giường chiếu, giá mũ, giá quần áo, nơi treo khăn mặt, nơi để giày dép... đều  ngăn nắp, có tên từng người, tôi lấy làm lạ, nhưng lòng thì vui lắm.
Tuấn nói:
- Lúc đầu, mẹ các cháu và cả nhà hơi khó chịu, nhưng sau quen dần, thành nếp, thấy hay hay, bây giờ thì bỏ không được.
Đoàn Minh Tuấn không chỉ ngăn nắp, chỉnh chu trong việc sắp xếp gia đình, giờ nào việc nấy, mà ngay trong cách sống, cái chất lính “Bộ đội Cụ Hồ” trong anh cũng thể hiện rất rõ. Một người hàng xóm của anh kể rằng, có lần anh suýt bị khai trừ ra khỏi Đảng vì tố giác một số cán bộ làm công tác chính sách ở địa phương có biểu hiện tham nhũng. Lúc đó, thế của những người tiêu  cực ấy rất mạnh, họ có đường dây từ trên xuống dưới, nên ỷ vào số đông, biểu quyết khai trừ anh ra khỏi Đảng. Một đoàn kiểm tra của cấp trên được cử đến, mọi việc sáng tỏ, anh không bị khai trừ khỏi Đảng mà ngược lại những kẻ tiêu cực kia, sau này, kẻ vào tù, kẻ mất chức, nghỉ việc.
Mới đây đứa con trai lớn của anh, sau khi tốt nghiệp trường an ninh về làm cảnh sát kinh tế trên tỉnh. Cảnh sát kinh tế nên rất dễ bị người ta mua chuộc, ví dụ một vài vụ án kinh tế, con trai anh được đương sự biếu phong bì quá mức tình cảm, nhưng con trai người lính bộ đội Cụ Hồ ấy kiên quyết từ chối. Nghe con kể lại chuyển đó, anh vỗ vai con động viên:
- Ba là Bộ đội Cụ Hồ, con là con của người lính bộ đội Cụ Hồ, là Công an Nhân dân, phải sống như thế!
Sắp đến ngày kỷ niệm chiến thắng 30 tháng 4, vết thương trên người Đoàn Minh Tuấn lại tái phát phải đi viện truyền nước biển. Đau yếu thế mà anh vẫn đạp xe mấy chục cây số từ vùng căn cứ kháng chiến cũ lên thăm chúng tôi. Tôi thấy mình có lỗi.
2.
Có người ái ngại cho hoàn cảnh của ông. Nhưng tôi thấy bao giờ ông cũng lạc quan và tin tưởng vào cuộc sống. Chúng tôi đến thăm ông khi tiết trời Đà Lạt, hàn thử biểu chỉ dưới 15 độ C. Trong căn nhà được xây dựng cách đây hơn nửa thế kỷ, dường như không có vật nào đáng giá lắm. Nhưng đối với ông, cái gì cũng vô giá. Ông nói: Vô giá là ở chỗ tiền bạc không thể mua nó được.
So với tuổi trên tám mươi, ông thuộc lớp các cụ cao niên, nhưng vẫn còn tráng kiện, minh mẫn. Ở tuổi ấy, đáng lẽ ra người ta phải được an nhàn dưỡng lão sau những tháng ngày chiến đấu ác liệt vất vả. Nhưng ông vẫn còn cực nhọc, có khi còn cực nhọc hơn ở thời bộ đội. Bởi, ông phải nuôi người vợ bị tàn phế, tật nguyền sau một cơn tai biến cách đây gần ba mươi năm.
Người lính Bộ đội Cụ Hồ ấy đi theo Đảng từ khi thành lập nước, thành lập quân đội. Trong mấy cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, hầu như chiến trường nào cũng có dấu chân ông. Là một trong những chiến sĩ du kích Ba Tơ vào bộ đội, ngọn lửa nhiệt tình cách mạng lúc nào cũng ngùn ngụt trong ông.
Tập kết ra Bắc, sau 1954, ông vinh dự mấy lần được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ: Khi thì sang giúp bạn Lào tiễu phỉ, giải phóng Cánh đồng Chum, khi thì làm chỉ huy Mặt trận đường số 9, cùng tướng Võ Bẩm mở đường Trường Sơn, con đường huyết mạch chiến lược góp phần rất to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hai lần làm sư đoàn trưởng, mấy lần làm tư lệnh pháo binh, tư lệnh mặt trận, cục trưởng... Nhưng khi về hưu, đại tá Lê (tên của ông) vẫn “hai bàn tay trắng”. Có người nói với ông thế, nhưng đại tá Lê đính chính ngay:
- Sao lại nói hai bàn tay trắng được? Ngược lại tôi giàu hơn ai hết, bởi tôi có rất nhiều đồng đội, rất nhiều anh em, đi đâu cũng được người ta quý mến, giúp đỡ.
Đúng là, do phẩm chất sống của ông với đồng đội, nhất là lúc ông đang giữ cương vị chỉ huy, nên bây giờ về hưu ông được mọi người quý trọng.
Mới đây, tôi được chứng kiến buổi gặp mặt cảm động của ông với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp mừng thọ Đại tướng 90 tuổi. Tôi không thể ngờ được tuổi cao như thế, mà Đại tướng vẫn nhớ đến ông - một người lính già, và dành cho ông nhiều tình cảm đến  thế.
Mọi đoàn đến chúc thọ, Đại tướng chỉ có thể tiếp được chừng 10 đến 20 phút, nhưng khi Đại tá Lê đến, người anh Cả của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và cả người vợ thân yêu của mình đã ngồi tiếp ông đến gần ba tiếng đồng hồ. Hai người lính già bạc đầu - một vị Đại tướng lừng danh và một vị Đại tá mà kẻ thù gọi là Hổ Xám chiến trường ôm nhau thân thiết khiến mọi người có mặt không sao cầm được nước mắt.
Vốn là người nhân hậu, lại là người trực tiếp theo dõi những bước đi của Đại tá Lê, có lẽ thế, Đại tướng hiểu được phẩm chất người lính của mình. Đó là những thiệt thòi, những điều trắc trở mà người lính già bạc đầu ấy đã trải qua để hoàn thành nhiệm vụ, nên Đại tướng đã dành cho Đại tá Lê sự ưu ái đặc biệt.
Đêm ấy, sau khi được Đại tướng tiếp chuyện và nói những điều tâm sự đầy tình nghĩa, đồng chí, đồng đội, Đại tá Lê không sao ngủ được. Tôi đã thấy những giọt nước mắt chảy ra từ đôi mắt thẳm sâu trên khuôn mặt đầy “đường gian khổ” của người lính bộ đội Cụ Hồ đã trên tám mươi tuổi.
Đại tá Lê không chỉ xúc động rơi nước mắt trước những lời an ủi chia sẻ, chúc mừng của Đại tướng - vị tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân một thời, mà ông còn khóc với cả những người cùng thời và những người dưới quyền mình.
Tôi cũng đã được chứng kiến cuộc gặp gỡ đó. Ấy là lúc mà cuộc gặp mặt chuyên đề những người đồng đội nói về ông được tổ chức nhân đài truyền hình và phát thanh Lâm Đồng thực hiện một cuốn phim về Đại tá Lê. Trước những lời nhận xét mặt ưu, mặt khuyết trong đó có những người là chỉ huy và cấp dưới của ông, ông đã khóc. Những người có trái tim cứng rắn nhất có lẽ cũng không thể cầm lòng được trước giọt nước mắt của người lính già đầu đã bạc, trên tuổi tám mươi.
Tràn nước mắt nhưng miệng ông vẫn cười: “Hạnh phúc lắm. Cái quý giá nhất trên đời này không phải là nhiều tiền, nhiều của, mà là nhiều tình, nhiều nghĩa. Tôi có nhiều đồng đội, hạnh phúc lắm!”
Anh sĩ quan trẻ chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa tôi và thương binh nặng Đoàn Minh Tuấn, khi nghe tôi kể lại chuyện tình cảm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Đại tá Lê không kìm được xúc động.
- Thế hệ của các bác, các chú tuyệt vời quá. Làm sao để thế hệ chúng cháu bây giờ có được tình đồng đội như thế.
Tôi hoàn toàn thông cảm và chia sẻ với Phan - chàng trung uý vừa từ một trường sĩ quan về nhận nhiệm vụ ở đơn vị mới. Tôi nói với Phan:
- Thế hệ các cháu, tình đồng đội vẫn có thể có được như thời các bác, các chú thôi. Chỉ có điều, con người phải sống thực sự thương yêu nhau, hy sinh cái tôi của mình thật nhiều vì người khác mới có có được những điều tốt đẹp ấy.
Bài đăng trên Báo Hải Quan số 34- 35 ( 138+ 139) thứ hai ngày 30.04..2001
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 08:15:22 am »

Trần Thế Tuyển
CHUYỆN GỪNG CAY MUỐI MẶN
   
Bước sang năm thứ hai của thế kỷ hai mươi mốt mà có chuyện kể ra tưởng như đùa. Ấy là nhận xét của anh bạn tôi khi chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa tôi và Tuấn – người anh em kết nghĩa, người đồng đội cũ cùng tôi đánh giặc cách đây đã gần ba mươi năm. Giữa phố Sào Gòn tráng lệ, hầm hập nắng nóng, hầm hập không khí làm ăn, giữa những làn xe đủ loại du nhập từ khắp nơi trên thế giới và cả những xe sản xuất trong nước, thường xuyên gây ranạn kẹt đường mà vẫn có một anh thương binh người gầy như cây sậy, đạp xe hai bánh hiệu con nai vàng từ thời còn ở rừng qua hai chục cây số đến thăm người đồng đội cũ - đúng là chuyện thật như đùa.
Bước vào phòng làm việc của tôi, chưa kịp uống nước, Tuấn đã lấy từ túi xách đưa cho tôi hai tờ giấy:
- Em tìm mãi mới thấy hai bưc thư này của anh. Một do chính tay anh viết, một em phục chế lại, ép plastic giữ  tặng anh làm kỷ niệm.
Tôi nhận ra nét chữ của mình cách đây ba mươi năm. Ngay cả bức thư mà Tuấn gọi là phục chế ấy nét chữ cũng là nét chữ của tôi. Đọc lướt qua, tôi nhận ra đó là những bức thư tôi gửi cho Tuấn vào cuối năm 1972 khi tôi ở tiểu đoàn 31 (sư đoàn 5) được điều về trung đoàn 2 (đoàn Cao Bắc Lạng) đang chiến đấu ở vùng Đồng Tháp Mười.
Hóa ra năm tháng qua đi người ta cứ tưởng những gì cũ thì bị lãng quên, hoặc người ta cố tình quên lãng, nhưng ở đây, cái cũ cứ sáng mãi lên, mới y nguyên trong tâm trí con người. Việc Tuấn lưu giữ và phục chế các bức thư của đồng đội từ thời chiến tranh cách đây hơn một phần ba thế kỷ làm tôi nhớ lại lời nhận xét của một nhà văn, đại ý: con người ta có nhiều nối quan hệ như hai sợi chỉ đỏ nổi bật lên, bền vững mãi trong cuộn cáp vô số sợi ấy, đó là tình đồng đội và tình bạn học. Có những cách lý giải cho sự nổi bật và bền vững đó, nhưng theo tôi, cái chính vẫn là từ nền gian khổ, thậm chí phải bằng mồ hôi và xương máu.
Đối với Tuấn, người đồng đội cũ của tôi, chắc anh chẳng nghĩ lòng thòng như vậy. Nhưng anh nói: «Bây giờ, người ta lo làm giàu quá, lo chạy theo dòng chảy của thị trường quá, có lúc quên hết kỷ niệm đẹp một thời chiến tranh. Nhưng với em, mỗi lần nghĩ đến ngày đó cứ thương đến trào nước mắt». Nước mắt về một thời đẹp đẽ đã qua, không chỉ xuất hiện ở anh thương binh - cựu chiến binh tuổi năm mươi như Đoàn Minh Tuấn, mà mới đây tôi đã chứng kiến những giọt nước mắt từ trên khuôn mặt của một vị lão thành cách mạng, một chiến sĩ du kích Ba Tơ thời kỳ đầu chống Pháp.
Xuất thân từ Quảng Ngãi, ông theo cách mạng ngay từ khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập giữa vườn hoa Ba Đình. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, là trung đoàn phó, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao xuống Nam Lào, làm tiểu đoàn trưởng một đơn vị thọc sâu chiến lược để chia lửa với mặt trận Điện Biên Phủ. Sau này, ông lại vinh dự được Đại tướng giao nhiệm vụ làm trưởng đoàn chuyên gia quân sự giúp bạn Lào, rồi làm tư lệnh mặt trận đường số 9. Hai lần làm tư lệnh sư đoàn, bàn chân in đậm khắp các chiến trường ba nước Đông Dương, nhưng khi về nghỉ hưu ông chỉ mang quân hàm đại tá. Thôi thì, đại tá cũng là quý lắm, vinh dự lắm rồi.
“So với nhiều đồng đội, bạn bè, mình còn là người may mắn”, ông nghĩ thế, cho nên luôn dặn lòng hãy sống thanh thản, sống tốt như phẩm chất bộ đội Cụ Hồ mà ông đã rèn luyện, tu dưỡng gần hơn nửa thế kỷ nay. Nhưng có một điều, mỗi lần nhắc lại thì ông lại thấy nhói tim, ấy là một lần trong chiến tranh, ông bị cấp trên hiểu lầm, cho là nhụt ý chí chiến đấu. Qua kiểm điểm, phân tích, cuối cùng ông không bị kỷ luật. Nhưng cái kỷ luật lớn nhất trong cuộc đời làm lính Cụ Hồ của ông là bị cấp trên, đồng đội coi mình là người sa sút ý chí chiến đấu, là vô tổ chức kỷ luật.
Vào mùa xuân năm nay, nhân ngày chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp chín mươi tuổi, ông được đại tướng tiếp gần ba tiếng đồng hồ. Có nhiều chuyện để nói giữa một người là Tổng tư lệnh tối cao của quân đội ta một thời, một người là cán bộ cấp cao đã có mặt khắp các chiến dịch, khắp mọi nẻo đường đất nước và mấy lần trong điều kiện cực kỳ phức tạp, khó khăn và cấp bách, Đại tướng đã trực tiếp giao nhiệm vụ. Nhân lúc ít khách ông gợi lại chuyện đó (chuyện ông bị cấp trên coi là nhụt ý chí chiến đấu), Đại tướng mới ôm lấy ông mà nói rằng:
-Tôi chưa bao giờ nghĩ đồng chí như thế. Bằng quá trình phấn đấu của mình, đồng chí chính là một trong những người lính làm nên huyền thoại cho quân đội ta, đất nước ta.
Nghe Đại tướng nói bấy nhiêu, người lính già tóc bạc lơ thơ đã gục vào ngực Đại tướng mà khóc. Tôi chưa bao giờ thấy giọt nước mắt của ông già trên tám mươi tuổi mà lại tràn trề, trào dâng như thế! Nhìn ông khóc, tôi có cảm giác như ông trẻ ra, người ông nhanh nhẹn, hoạt bát, hồn nhiên hẳn lên. Thế mới biết, những giọt nước mắt như những đám mưa mùa hạ, gội rửa đi những phiền muộn trong lòng và làm sáng trong cả tâm hồn.
Tôi có may mắn, do công việc nghề nghiệp được tiếp xúc với nhiều loại người, đủ mọi tầng lớp xã hội. Trước thềm năm 2002, tôi được dự lễ 20 năm thành lập và đón nhận danh hiệu Anh hùng lao động lần thứ hai của Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt - Xô.  Không chỉ có ngày này, dường như suốt hai mươi năm qua, những ngày trọng đại của xí nghiệp liên doanh này, tôi đều có mặt.Đó là ngày 26 tháng 6 năm 1985, tấn dầu đầu tiên được khia thác ở giàn khoan MSP-1 tại mỏ Bạch Hổ; đó là ngày 20 tháng 10 năm 1997, tấn dầu thứ  50 triệu  được khai thácvà sau dự kiến này, Xí nghiệp liên doanh được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.
Và mới đây, ngày 21 tháng 11 năm 2001, Xí nghiệp liên doanh đã khai thác tấn dầu thô thứ 100 triệu và đưa vào bờ trên 6 tỷ mét khối khí cho ngành điện từ mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng. Với thành tích ấy, một lần nữa Xí nghiệp liên doanh lại được Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động lần thứ hai.
Ở đây tôi đã gặp những người lao động Việt Nam và Liên Xô (cũ), Liên Bang Nga hôm nay, đó là những công nhân bình thường và kỹ sư của ngành kinh tế mũi nhọn. Tôi mới hiểu, việc khai phá tài nguyên làm giàu cho đất nước là việc trước mắt cần làm và phải có để đất nước chúng ta ngang tầm, sánh vai cùng với các nước thuộc khối ASEAN và quốc tế! Nhưng điều đọng lại, sâu lắng nhất vẫn là tình đồng chí, đồng đội, tình người.  Ngài Ivanov-Victorltrovic, phó chủ nhiệm văn phòng tổng thống Liên bang Nga, thay mặt chính phủ Liên Bang Nga tại lễ kỷ niệm 20 năm liên doanh Vietsovpetro nói rằng: Nước Nga tự hào về niềm tin mà Việt Nam dành cho chúng tôi… Chúng tôi tự hào thấy rằng, khó có thể tìm thấy ở Việt Nam một công trình khác thực hiện trong khuôn khổ hợp tác quốc tế mà có ảnh hưởng mạnh như vậy.
Đối với công cuộc đổi mới đất nước, Vietsopetro trở thành cơ sở phát triển nhất của ngành dầu khí mà như các bạn Việt Nam thường nói là «mũi nhọn» phát triển kinh tế - Ivanov - Victorpltrovic còn nói nhiều điều, nhưng cái đọng lại trong ông là sức vươn lên của người Việt Nam. Người Việt Nam không chỉ có ý chí trong cuộc kháng chiến  giành độc lập dân tộc, mà còn cả trong lĩnh vực làm giàu, tự chủ về tài chính.
Ivanov nói thế rất chính xác, nhưng ông chỉ nói dược một nửa vấn đề. Người Việt Nam  còn có  một nửa khác ấy là cái nghĩa, cái tình, không bao giờ hòa tan vào những điều hòa nhập. Minh chứng điều ấy có biết bao nhiêu người nhưng tiêu biểu là giám đốc xí nghiệp khoan biển Đinh Văn Danh, một kỹ sư đầu đàn của ngành dầu khí, dù bận bao nhiêu công việc khai thác dầu dưới thềm lục địa nhưng ông vẫn dành cho mình những giờ phút thiêng liêng nhất để nói và viết về tình đồng đội, đồng chí. Bởi, theo ông, đó là cái nền của người Việt Nam. Ấy là cái nghĩa thủy chung như các cụ đã từng dạy: «ăn quả nhớ kẻ trồng cây».
Ngày 31 tháng 12 năm 2001, tôi có mặt trong buổi gặp mặt giữa bộ Tư lệnh Quân khu 7 và những người già trưởng bản tiêu biểu trên địa bàn quân khu. Trung tướng Phan Trung Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7 nói với tôi rằng: trên địa bàn quân khu có trên 50 dân tộc khác nhau, nhưng có chung một ý chí. Nơi đồng bào dân tộc ít người sống trước đây, thường là vùng căn cứ  kháng chiến cũ, là chỗ dựa của cách mạng. Nhưng quả thật, hơn hai mươi lăm năm nay, khi cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, do bận nhiều việc, có lúc chúng ta xao lãng các vùng quê kháng chiến ấy. Dù vậy, đồng bào các dân tộc vẫn hướng về cách mạng, hướng về Cụ Hồ. Trách nhiệm của chúng ta bây giờ là phải trở về nguồn, không chỉ xây dựng những thành phố, những khu đô thị mới ở vùng xuôi, mà phải xây dựng những thành phố mới, những khu đô thị mới, nơi vùng xa xôi, hẻo lánh, nơi đã che chở, nuôi dưỡng mình trong những năm kháng chiến…
Câu chuyện cuối năm của những người đứng đầu lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ tưởng như là chuyện thường ngày phải nói, nhưng đối với các già làng, trưởng bản lại có sứi cuốn thuyết phục kỳ lạ. Ông Điểu Oan, dân tộc Bmờu Nông, ở xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, bày tỏ rằng: Đồng bào dân tộc trước sau đi theo Cụ Hồ và cách mạng. Dù người ta có nói gì, đồng bào vẫn theo Đảng, theo Bác Hồ, xây dựng đất nước.
Ông Điểu Oan nói thế, kỹ sư dầu khí Đinh Văn Khanh nói thế và bạn chiến đấu cũ của tôi, thương binh Đoàn Minh Tuấn cũng nói thế. Điều đó gợi dậy trong tôi bao điều suy nghĩ. Đúng như các cụ ta dạy: «Ngày vui ăn trái lộc vừng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau».
Làm sao có thể quên được, việc nào ra việc đó, việc làm giàu cứ phải làm giàu. Nhưng chuyện tình, chuyện nghĩa thì như gừng cay, muối mặn, làm sao có thể quên được.
Đầu năm nói chuyện gừng cay muối mặn là thế.
Thành phố Hồ Chí Minh đêm 31.12.2001
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 08:21:26 am »

Trần Ngọc Trác
MỘT NGƯỜI LÍNH
LÀM NÊN HUYỀN THOẠI

Đó là một con người Việt Nam bình dị, thuỷ chung và tình nghĩa. Bây giờ ông đã qua tám mươi - cái tuổi cần được nghỉ ngơi, được đi đây đi đó, vui hưởng tuổi già Nhưng có ai biết đâu, hằng ngày trong căn nhà nhỏ của mình, ông giúp vợ những khi trái gió trở trời, chăm lo cho vợ từng miếng ăn thức uống; san sẻ những vui buồn với người bạn đời đã gắn bó với ông hơn nửa thế kỷ qua, vẫn nằm liệt trên giường.
Và có ai biết rằng đằng sau những công cuộc tưởng chừng giản đơn và rất đỗi bình thường ấy, là một con người, một cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, không quản ngại khó khăn, gian lao vất vả; không nề hà công việc được giao; không so đo tính toán, lợi lộc riêng tư cho mình mà chấp nhận mọi hy sinh tất cả cho lý tưởng cao đẹp là giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam sum hop một nhà; làm cho dân giàu nước mạnh.
Đã có biết bao câu chuyện huyền thoại kể về cuộc đời của đại tá Lê Kích - một cán bộ quân sự thông minh, dũng cảm, có những hành động rất táo bạo gắn liền với thực tế trên các chiến trường Đông Dương. Và đã có biết bao người bạn, người đồng chí và không ít tướng lĩnh ca ngợi ông là Sa-pa-ép Việt Nam; người chỉ huy chuyên mở vùng giải phóng đất đai; một con người sống có nghĩa có nhân, được nhân dân yêu thương, bạn bè quý mến...
Đó là một con người đã vào sinh ra tử trên khắp các chiến trường nóng bỏng của Đông Dương trong cuộc chiến tranh vì sự  tồn vong của Tổ quốc.
... Từ nhỏ, khi còn ở quê nhà - làng An Thạch xã Phổ An huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi, ông Lê Kích là người có chí khí, bản lĩnh và biết tập hợp những người đồng chí hướng về với mình.
Ông nhớ lại những ngày cùng thanh niên trong thôn vượt biển mò lấy sắt tàu Nhật bị đồng minh đánh đắm ngoài khơi, đem về rèn đao kiếm giết giặc; nhớ những ngày cùng với bạn bè mang cái chữ  xẻ chia cùng với đồng bào, để cho bọn thực dân phong kiến không thể đè đầu cưỡi cổ; nhớ lại những ngày bỏ nhà đi học võ để về đánh Nhật Tây; vận động và đi đầu trong việc tập hợp thanh niên trong thôn trong xã tham gia đội du kích Ba Tơ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ngày 14 tháng 8 năm 1945.
Đồng chí Lê Kích là đại đội trưởng đại đội mang tên đồng chí Phan Điệt - một chiến sĩ du kích Ba Tơ đã hy sinh anh dũng trong trận chạm trán với một trung đội lính Nhật ở Xuân Phổ.
Chiến công oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ của quân dân Quảng Ngãi trong Tổng khởi nghĩa đã in sâu trong tâm trí của các tầng lớp thanh niên và cũng là những ước mơ mà đồng chí Lê Kích hướng tới. Ghi đậm trong tâm tưởng ông còn có  những người anh hùng theo ông lên đường Nam tiến.
Ngày 23 tháng 10 năm 1945, chi đội Lê Trung Đình - Quảng Ngãi, do đồng chí Lê Kích chỉ huy đã ra lệnh cho nổ quả mìn đầu tiên làm tín hiệu mở đầu cho cuộc kháng chiến ở Nha Trang.
Và ngày 23 tháng 10 hằng năm trở thành ngày hội lớn của Đảng bộ và nhân dân Nha Trang - Khánh Hoà kháng chiến. Và cũng tại nơi đây, vào ngày 20 tháng 1 năm 1946, đại tá Lê Kích đã vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thời gian thì đi qua - mà dấu ấn một thời không làm sao quên được trong mỗi ký ức mọi người.  Đến thăm Bảo tàng 23 tháng 10 giữa Trung tâm thành phố, ông được nhìn lại những bức ảnh do nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản chụp đơn vị của ông, bạn bè, đồng chí của ông những ngày Nha Trang kháng chiến ấy. Trở lại Tháp Bà xóm Bóng - khu di tích Pô-na-ga  nơi ông từng đặt sở chỉ huy. Và chiếc cầu xóm Bóng ngày nào, đơn vị của ông đã cho nổ mìn phá sập vẫn còn đây.
Sau khi kìm chân địch suốt 101 ngày đêm ở mặt trận Nha Trang, ông được cấp trên điều động làm “tiếp phòng quân” ở mặt trận Đà Nẵng được giao trọng trách là Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7, Trung đoàn 96 thuộc Quân khu 5.
Và cũng ở nơi đây, hội nghị đã nhận được điện của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Chỉ huy quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp, ra lệnh: “Tổ quốc lâm nguy, giờ chiến đấu đã đến!” Sở chỉ huy ngày đó, bây giờ là trụ sở của Hội nông dân thành phố Đà Nẵng.
Trở lại chiến trường xưa, đại tá Lê Kích xúc động, lặng thầm, trầm ngâm rất lâu bên tấm bia đặt ở ngã tư Yên Khê - nơi đây từng là sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn 96; nơi từng diễn ra các trận đánh ác liệt không cân sức giữa ta và địch trong suốt thời gian từ ngày 24 tháng 12 năm 1946 cho đến ngày 7 tháng giêng năm 1947; ta đã tiêu diệt hơn 600 tên xâm lược Pháp;  kìm chặn địch, làm thất bại bước đầu chiếc lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng.
Trở về Đà Nẵng, ông lại có dịp đến thăm tấm bia ghi công trên đèo Đại La ở xã Hoà Sơn - nơi cách đây hơn 56 năm, quân địch đã bị tiểu đoàn 17 và quân dân địa phương chặn đánh quyết liệt; tiêu diệt 42 tên địch, đánh thiệt hại nặng một đại đội Âu Phi, thu một trung liên, một máy vô tuyến điện, 18 tiểu liên và súng trường và nhiều trang bị khác ...
Đồng chí Lê Kích thực sự bồi hồi khi trở lại Viện Bảo tàng Chàm ở bên sông Hàn - Đà Nẵng. Nơi đây, ông từng chọn làm sở chỉ huy trong những ngày đánh địch quyết liệt ấy.
Không chỉ là cán bộ chỉ huy ở mặt trận Đà Nẵng; năm 1948, đồng chí Lê Kích còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 53, Trung đoàn 120 ở Bình Định. Sau đó là tình nguyện quân của Liên khu 5 tại Hạ Lào; là trung đoàn phó Trung đoàn 101,  Đại đoàn 325.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch lớn nhằm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Cũng trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, quân và dân ta tiến công mãnh liệt, đều khắp trên các chiến trường. Tháng 12 năm 1954, liên quân Lào - Việt đánh mạnh ở Trung Lào, tiêu diệt và bức rút hàng loạt vị trí, giải phóng thị xã Thà Khẹt, cắt đứt đường số 9, tiến xuống Hạ Lào, tập kích thị xã Át-tô-pơ phát triển sang Xa-ra-van, giải phóng toàn bộ cao nguyên Bô-lô-ven. Đồng chí Lê Kích và đơn vị của ông đã góp phần to lớn trong chiến thắng này.
Tiểu đoàn 436 do đồng chí Lê Kích làm tiểu đoàn trưởng, đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi là đơn vị thọc sâu chiến lược của Bộ - mở ra một hướng quan trọng trong chiến cục Đông Xuân, góp phần cho bộ đội ta thắng lớn ở Điện Biên Phủ. Xứng đáng với sự  tin tưởng này, đồng chí Lê Kích đã chỉ huy đơn vị làm nên chiến thắng vẻ vang, tạo ra thế và lực mới cho chiến cuộc : Căng kéo địch, phối hợp cùng chiến trường Liên khu 5, Nam Bộ, giải phóng Hạ Lào, bốn tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia; tiêu diệt hoàn toàn sinh lực địch.
Không những được giao trọng trách to lớn và vinh dự ấy, đồng chí Lê Kích còn được tin cậy giao nhiều nhiệm vụ đặc biệt quan trọng như chủ nhiệm, tư  lệnh pháo binh Quân khu Tây Bắc, tư lệnh Quân khu Tả Ngạn; tư lệnh Sư đoàn 2 Quân khu 5 từ năm 1968 đến năm 1970; tư lệnh Sư đoàn 325 ở mặt trận Quảng Trị trong những ngày mùa hè đỏ lửa.
Ông từng giữ nhiều cương vị quan trọng giúp bạn Lào, là trưởng đoàn cố vấn quân sự các khu Hạ Lào, Trung Lào, Bộ Tham mưu Quân đội Lào; từng gần gũi và làm việc thường xuyên với các đồng chí lãnh đạo Đảng Cách mạng nhân dân Lào, làm việc với các đồng chí lãnh đạo quân đội nhân dân Lào. Ông từng là phó Cục trưởng Cục Huấn luyện tác chiến của Học viện Lục quân cho đến ngày về nghỉ hưu.
 Cả cuộc đời ông chịu bao gian nan vất vả, nhưng chưa bao giờ ông nản chí, đầu hàng. Chặng đường đời hơn tám mươi năm biết bao thăng trầm, nhưng không làm ông chùn bước.
Về với cuộc đời thường, ông luôn yêu thương vợ con, chăm sóc người vợ - người đồng chí ốm đau, nằm liệt giường đã hơn nửa thế kỷ qua.
Những ngày này, ông đã dành nhiều thời gian để ghi chép lại những chặng đường lịch sử đất nước trải qua trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ghi lại những trang sử oai hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam giúp đỡ bạn Lào chiến thắng kẻ thù. Những trang hồi ức đầy ắp những sự kiện cứ theo ông tuôn ra trên từng trang giấy.
Đồng chí Lê Kích là bộ đội cụ Hồ trong sáng; là tấm gương tuyệt vời về lòng dũng cảm, nhân hậu bao dung và ý chí quyết tâm không bao giờ nguội lạnh trong ông.
(Lời bình trong phim tài liệu truyền hình: «Một người lính làm nên huyền thoại» của Đài Phát thanh truyền hình Lâm Đồng).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2009, 08:25:22 am »

Trần Danh Lân
NHA TRANG 19 ĐẠO QUÂN
VÀ 101 NGÀY ĐÊM ANH DŨ̀NG

Hai tháng sau Cách mạng tháng Tám thành công và chỉ sau Nam bộ kháng chiến tròn một tháng, rạng sáng ngày 23 tháng 12 năm 1945, chiến sự chống quân xâm lược Pháp đã nổ  ra ở Nha Trang. Cuộc chiến đấu kéo dài dai dẳng suốt 101 ngày đêm; quyết liệt không chỉ trên từng đoạn phố, góc nhà, mà còn chuyển hoá cả một lớp người tại chỗ. Với lịch sử, đây là một trận đánh hơn trăm ngày mở đầu cho Nam Trung bộ kháng chiến, góp phần quyết định bảo đảm thông suốt quá trình Nam tiến chi viện cho Nam Bộ những ngày đầu kháng chiến.
Thuở đó, 19 đạo quân mang danh mấy chục địa phương trên cả nước đã dồn về đây, đồng lòng hiệp sức giữ lấy Nha Trang, Khánh Hòa. Nắm chặt tay và rưng rưng lệ, các bà, các chú cựu binh ở Nha Trang đã kể cho chúng tôi về 19 đơn vị bằng ngôn ngữ chân thành và máu thịt nhất. Đó là bộ đội Hà Tĩnh, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Nội. Chiến khu Đông Triều, Bắc - Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang), Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa,  Nghệ An, Quảng Bình, Thuận Hoá (Thừa Thiên - Huế). Thái Phiên (Quảng Nam - Đà Nẵng), Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) dồn vào các lực lượng Nam Bộ vừa đánh vừa rút ra, hiệp sức chống cự địch ở đây. Có thể nói cùng với con em Khánh Hoà, vùng Nha Trang - Vĩnh Xương - Diên Khánh ngày ấy, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, con em Việt Nam đã cầm chân quân xâm lược Pháp và bè lũ tay sai. Tôi luyện bằng cuộc chiến đấu này, về sau nhiều người đã trở thành những tướng lĩnh tài ba, như các trung tướng Nam Long, Lưu Giang, Hùng Sơn; các thiếu tướng Hà Vi Tùng, Nam Hồ, Hồ Xuân Anh, Nguyễn Trọng Vĩnh...
Nhiều cán bộ chỉ huy mặt trận thuở đó như Hà Văn Lâu, Nguyễn Minh Vỹ... sau này đã trở thành những nhà chính trị - ngoại giao tên tuổi. Trong trận đánh 101 ngày  đêm  có tính kết nối giữa Nam Bộ kháng chiến với toàn quốc kháng chiến, nhiều đồng chí lãnh đạo quan trọng như Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Sơn, Nguyễn Chánh, Lê Văn Hiến, Trương Quang Giao... đã vào tận đây ngay trong lửa đạn để chỉ huy chiến trường, chuyển hướng chiến lược, tổ chức bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên.
Đặc biệt, đồng bào, chiến sĩ Nha Trang giữa những tháng ngày bi tráng ấy, còn nhận được thư khen rất đặc biệt của Bác Hồ, ca ngợi Nha Trang “tấm gương anh dũng cho Tổ quốc” và “Tổ quốc biết ơn các bạn. Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”. Từ việc tập kích bảy cứ điểm địch ngay trong thành phố Nha Trang rạng sáng ngày 23 tháng 10 năm 1945, đến quá trình hình thành ba tuyến phòng ngự lùi dần về hướng Tây (gồm chợ Mới - Bơ-rơ-ten); Cây da, Quán Giếng; Cống Ba - Cầu Lùng) kéo dài đến hết ngày 1 tháng 2 năm 1946: quân và dân Nha Trang - Khánh Hoà, có sự dốc lòng tham gia của quân và dân cả nước, đã phá tan được chiến lược ban đầu “đánh nhanh, thắng nhanh” của đội quân xâm lược Lơ Cléc, Đác-giăng-li-ơ chỉ huy. Từ đó, ta có thêm thời gian chi viện Bắc - Nam, củng cố thêm hậu phương cả nước, chuyển kinh nghiệm đánh đô thị ra áp dụng vào việc kìm chân địch ở Hà Nội vào mấy tháng sau, nhất là chuyển lối đánh chiến tuyến cổ điển sang phương thức mới “du kích chiến”, “vận động chiến”, “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, để chín năm sau kết thúc cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Ở thị xã Quảng Ngãi hôm nay, có con đường Lê Kích. Đấy là con đường mang tên vị chỉ huy Bộ đội nam tiến Lê Trung Đình (Quảng Ngãi)  từng chiến đấu quyết liệt thời gian 1945 - 1946 ở Nha Trang.
Cách đây vài năm, vùng Lư Cấm còn có một số mộ liệt sĩ Nghệ An khuyết danh. Ở Nha Trang, từ lâu đã có vườn hoa, con đường mang tên Võ Văn Ký, người liệt sĩ quê Ninh Hoà ngã xuống đầu tiên trong cuộc chiến đấu giành  lấy ga Nha Trang sáng 23 tháng 10 và cả ba anh em ruột đều hy sinh khi kìm chân địch suốt tuần đầu cuộc chiến.
Con đường mới, rộng nhất, nối Nha Trang với Thành (Diên Khánh) rộng 38 mét, dài gần mười ki-lô-mét, cũng đã được mang tên “23 tháng 10“. Ngày 23 tháng 10 trở thành “Ngày Khánh Hòa kháng chiến”. Thành phố Nha Trang đã có hội 23 tháng 10. Một số sách báo về 23 tháng 10 Nha Trang đã xuất bản.
Xưởng quân giới Đồng Trăng đầu năm1946 từng được đổi tên từ Nguyễn Trường Tộ thành Đồng Tiến, vốn là tên hai cán bộ chỉ huy quê gốc Nghệ Tĩnh ghép lại, thời đó đã hy sinh khi chế lựu đạn “đập”cung ứng cho chiến trường Nam Bộ và Nha Trang.
Bác Cung Dữ  Hối (tức Nguyễn Văn Hùng, Lê Trung Kiên), một cán bộ hưu trí 50 năm tuổi Đảng, từng góp phần chỉ huy thông tin ngày ấy,xúc động kể cho chúng tôi nghe lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu tiên vào ngày 13 tháng 8 năm 1949 ở Suối Mít và được Bác tặng một tấm ảnh của Người. Bác Hối đã lưu giữ trong an - bum gia đình bức ảnh Bác Hồ trong gần nửa thế kỷ qua. Thiếu tướng Hồ Xuân Anh (quê ở Huế) gọi mặt trận Nha Trang 1945-1946 là “lễ thử lửa” trong đời binh nghiệp của ông. Nơi đó, ông đã kể lại một phần xương máu, tìm ra bạn đời chung thuỷ từ trong khói lửa, và con gái đầu lòng có tên Phước Hải, một địa danh thấm máu ở Nha Trang, mà ngày đó ông phải ghim địch trên từng tấc đất, góc nhà. Tiếc là không thể kể ra hết những gì đã đi qua một thế hệ.
Cũng chưa kể tiếp được vào đây các Trung đoàn 80, 83 - vốn hình thành từ các chiến sĩ Mặt trận Nha Trang dạo đó - về sau đã đánh tơi bời quân xâm lược Pháp trên đất khu 6 và Tây Nguyên ra sao. Song, ngọn lửa kháng chiến thể hiện bằng ý chí tiến công, tinh thần đoàn kết, đã liên tiếp được chuyển giao và cháy sáng qua nhiều thế hệ, mãi tận đến mai sau...
Bài  đăng trên báo NHÂN DÂN số 15149 ra ngày 13 –12 -1999

HẾT
« Sửa lần cuối: 31 Tháng Ba, 2009, 08:28:25 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM