Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:20:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý  (Đọc 60767 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2009, 06:49:13 pm »


Năm ngày sau (A.Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật Lệ. Cửa Nhật Lệ là của Đông Hải ngày nay. Đây cửa bể thứ ba của Chiêm Thành, kể từ núi Hoàng Sơn vào. Cửa đầu nhỏ, là cửa Di Luân hay cửa Ròn. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn, là cửa Bố Chánh hay cửa Giang, hai cửa này không quan hệ lắm về việc phòng thủ.

Địa thế nước Chiêm Thành rất đặc biệt: một dải đất hẹp và dài, chẹt giữa bể đại dương và núi cao ngất. Phía bắc, có núi Hoàng Sơn và sông Bố Chánh (sông Gianh) ngăn cản đường từ Giao Chỉ vào. Dải đất hẹp ấy lại bị nhiều dãy núi chắn ngang đến bờ bể. Ngoài núi Hoàng Sơn ở cực bắc, có núi Hải Vân ở phía nam Thuận Hóa, núi Thạch Tân ở phía nam Quảng Ngãi, núi Đại Lãnh ở phía nam Phú Yên. Các dãy núi “xương sườn” ấy ngăn thành mấy cánh đồng: Bình Trị Huế, Nam Ngãi, Bình Phú, Khánh Thuận. Dân Chàm chỉ ở các đồng bằng ấy, và hình như giao thông với nhau chỉ toàn đường bể. Đường Thiên Lý bấy giờ chưa có. Vì thế, vua Chiêm chỉ để ít quân phòng thủ ở Bố Chánh, và thủy quân tập trung ở cửa Nhật Lệ, Đại quân đóng giữ kinh đô và cánh đồng Bình Định ngày nay.

Lúc thuyền quân ta tới Nhật Lệ, thủy quân Chàm, chặn đánh. Lý Thánh Tông sai tướng đại liêu ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua. Sánh VSL chép việc ấy, không nói gì thêm. Nhưng thấy sau này, quân tiến xuống miền nam không bị ai ngăn cản, thì ta đoán rằng thủy quân Chiêm bị tan vỡ ở đây.

Quân ta không đổ bộ ở Nhật Lệ, vì mục đích vua Lý là phá Kinh thành và bắt chúa. Cho nên thuyền quân lại thẳng xuống phương nam. Thuyền dọc theo bờ bể, vượt khỏi những đồi cát trắng mà ta còn thấy ngày nay. Bốn ngày sau qua khỏi khoảng cát Đại Tràng Sa1. Ấy vào ngày Kỷ Tị tháng hai (DL 27-3).

Ngày hôm sau (C.Ng, DL 28-3), thuyền đến cửa Tư Dung. Cửa này gọi là Tư Hiền. Xưa cửa rất sâu (ĐNNTC), thông với phá Hà Trung (Cầu Hải ở đại đồ Đông Dương), và là cửa vào các phá và sông thuộc xứ Ô Lý (Thuận Hòa), vì bây giờ chưa có cửa Thuận An. Phá Hà Trung sâu kín2.

Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư Dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.

Thuyền đi được ba ngày, có “rồng” hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh Thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư Dung, quân ta tới cửa Cri Bonei (Sơ li po nai) nhằm vào ngày Bính Tí 3 đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ li po nai ở đâu? Maspéro (Le Royaume du champa) diễn ra Cri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng Hán tự đọc theo tiếng ta là Thi lị bì nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui Nhân tên xưa là Thi Nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắc là phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi lị bì nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi lị bì nại thành ra cửa Thi Nại. Và tính ngày đường thì từ Tư Dung đi sáu ngày đến Qui Nhân là phải. Từ Thăng Long đến Cri Bonei, đã đi hết 26 ngày4.

VSL chép rằng lúc ngự thuyền tới đó, có hai con chim cùng bay theo, trông như muốn dẫn đường. Những điềm dọc đường đều là điềm tốt.
___________________________________
1. Theo Lê Quí Đôn trong sách Phủ biên tạp lục: từ cửa Nhật Lệ đến cửa Minh Linh (cửa Tùng) có bãi Đại Tràng Sa; từ cửa Việt đến cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay) có bãi Tiểu Tràng Sa. Bấy giờ cửa Thuận An chưa có.
2. Cửa Tư Dung hẹp và sâu, là một cửa rất can hệ trong sự hàng hải ngày xưa. Trong các đời Lý, Trần, Lê, mỗi lúc thủy quân xuống đánh Chiêm Thành, đều nghỉ ở đó. Chữ Dung húy đời Mạc, đã bị đổi ra chữ Khách, tự dạng gần nhau. Vào khỏi cửa, có một vũng rất lớn, nay gọi là phá Hà Trung, thông với sông Hương, và phá Tam Giang.
3. VSL chép B.Ng. Nhưng tháng ba năm K.Zu không có ngày ấy. Chữ Ngọ và chữ Tý gần giống nhau; vả lại tháng ba lại có ngày B.Ty, mà ngày B.Ty này lại cách tới cửa Tư Dung (C.Ng) sáu ngày. Vậy theo lịch, cũng như theo hành trình, ta có thể chữa chữ Ngọ ra chữ Tý một cách hợp lý.
4. Nay còn một vài sách chép nhật trình đi từ Thăng Long đến các cửa bể miền nam. Góp nhặt lại, ta có thể kể ra như sau:
      Từ Thăng Long đến cửa Đại An: 1 ngày (Lý Thái Tông đánh Chiêm. TT).
      Từ cửa Đại An đến cửa Hội ở Nghệ An: 3 ngày (Lê Cảnh Hưng. PBTL).
      Từ cửa Sót đến cửa Nhật Lệ: 3 ngày. (PBTL)
      Từ cửa Nhật Lệ đến cửa Tư Dung: 3 ngày. (PBTL. Sách này chỉ chép hải trình đến cửa Châu Ổ, chỗ giáp hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi).
      Từ cửa Tư Dung đến cửa Châu Ổ: 4 ngày.
      Từ cửa Châu Ổ đến cửa Nước Mặn (cửa Thi Nại): 3 ngày. (theo sách Càn khôn Nhất lãm của Phạm Đình Hổ chép hải trình năm M.Tu, 1778, của quan đốc thị Nguyễn Thưởng. Cộng hai đoạn sau, để so sánh với hải trình đời Lý Thánh Tông, ta thấy: từ cửa Tư Dung đến cửa Thi Nại mất 7 ngày.
      Hải trình nên chỉ hợp với khi thuận gió, thuyền đi ban ngày theo ven bể mà thôi.
      Sách Thiên nam Tứ chí lộ đồ, đời Lê, chép rằng: thuyền vượt qua bể, đi cả đêm ngày, nếu thuận gió bắc mùa đông và mùa xuân), thì hành trình như sau: từ cửa Lạc (phía bắc cửa Đại An, đi nửa ngày đến Biện Sơn (một đảo gần chỗ giáp giới Thanh và Nghệ, rồi đi nửa ngày đến cửa Hội thống (cửa Hội ở Nghệ An), rồi đi 1 ngày đến cửa Bố Chánh (sông Gianh); rồi đi 1 ngày đến cửa Tư Khánh (tư-dung, phía nam Thuận Hóa); rồi đi 1 ngày đến Đại Chiêm (phía đông thành Quảng Nam); rồi đi 1 ngày đến cửa Ô Lộ (?); rồi đến cửa Phố Đại (?) thuộc Chiêm
      So sánh hành trình này với hành trình Lý Thánh Tông, ta thấy rằng Lý Thánh Tông đã đi theo ven bể. Dọc đường chắc có dừng nghỉ nhiều.
      Sách TS (quyển 489) nói: thuyền thuận gió, đi từ Chiêm Thành đến Giao Châu mất 2 ngày. Chắc là nói đi từ hải phận Chiêm đến cửa cực nam của Giao Chỉ tức là cửa Nam Giới.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2009, 06:56:31 pm »


4. Trận Tu Mao

Thành Phật thệ, kinh đô Chiêm Thành đời bấy giờ, ở vào địa phận tỉnh Bình Định ngày nay. Tên Chàm là Vijaya; sau đó Chà Bàn ta thường chép lầm ra Đồ Bàn1. Vijaya ở phía bắc thành Bình Định bấy giờ, bên nam sông Khu Cương hay Hà Giao (Bản đồ họa vụ Đông Dương), ở chính giữa một cánh đồng phì nhiêu hình thoi mỗi đường nối góc dài chừng 30 cây số. Ba phía, bắc, tây, nam, đều có núi cao che chở. Chỉ miền Đông là trực tiếp với nước, tại vũng Nước Mặn (vịnh Qui Nhân ngày nay). Vũng chạy dài từ bắc chí nam dài 20 cây số và thông với bể bằng cửa Thi Nại, hẹp và sâu. Muốn tới thành Vijaya, chỉ có do phía đông là dễ dàng. Sông Khu Cương chảy vào vũng Nước Mặn, góc cực bắc. Nhưng sông cạn, thuyền lớn khó vào. Vì thế mỗi lúc quân ta tới đánh Vijaya, đều đưa thuyền vào cửa Thi Nại rồi đổ bộ ven bờ vũng Nước Mặn.

VSL chép rằng quân ta đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu Mao, thấy tướng Chàm là Bố bì đà la bày trận trên bờ sông. Quân ta xông tới đánh, giết tướng Bố bì đà la. “Quân Chàm chết nhiều không kể xiết”. Sông Tu Mao nói trên là sông nào? Theo địa thế mà đoán ta có thể ngờ là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam Huyện, mà sánh ĐKĐD gọi là sông Tân An. Có ba dòng sông chắn ngang đường tới Đồ Bàn; sông này ở trước nhất. Theo bia NBS, khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường Kiệt và Thường Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang; chém được ba vạn người. Có lẽ đó cũng là trận sông Tu Mao, mà công trong trận đầu tiên này thật về Thường Kiệt.

Trong Ức trai dư địa chí, có kể chuyện rằng “LýThường Kiệt kéo đại quân tới sông Phan Định. Sông Phan Định tiếp với phủ Hoài Nhân (gồm địa hạt thuộc tỉnh Bình Định từ Quảng Ngãi đến sông Khu Cương). Sông có nhiều sư tử (tức cá sấu), “sư tử” khuất phục được các thứ khác; tê, tượng đều phải sợ. Sông Phan Định có ba đoàn sư tử. Nó ở dưới nước, vẫy đuôi làm dợn sóng đổ thuyền. Lúc Lý Thường Kiệt đánh Chiêm, đại quân kéo đến sông ấy, vì sợ “sư tử”, quân không qua sông dễ dàng được”. Theo đó, sông Phan Định có thể cũng là sông Tu Mao2.

Qua khỏi sông Tu Mao, còn phải hai sông khác mới tới Vijaya.

Nghe tin quân mình thua ở sông Tu Mao, Rudra varman III, đang đêm, đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam (VSL). Cũng đêm ấy quân ta kéo tới gần thành Vijaya. Lúc quân ta đến bến Đồng La, (có lẽ trên sông Thạnh Yển là sông chắn thứ ba, gần phía nam thành), người trong thành ra hàng. (VSL) Vua Lý Thánh Tông vào thành nhưng vua Chiêm đã chạy chốn thoát.
_______________________________________
1. Dấu tích thành Vijaya, nay còn, và chắc chắn là nhận được.
      Ấy là thành Trà Bàn trong sử chiến tranh giữa hai họ Nguyễn:
      Thuận Hóa và Tây Sơn. Trà Bàn là kinh đô của vua Thái Đức, tức Nguyễn Nhạc. Võ Tánh tự thi u trong thành. Nay có mộ và đền trong thành.
      Sách TNTCĐ có vẽ bản đồ thành, và chú thích: “Xã Phú Đa xưa có thành xây bằng gạch, tên là Trà Bàn (Sách ta đều chép lầm ra Đồ Bàn, vì hai chữ Trà là chè và Đồ là một thứ rau đắng rất giống nhau). Thành vuông, mỗi bề dài một dặm. Có bốn cửa. Trong có điện, có tháp. Nay điện đã bị đổ. Tháp còn 12 tòa. Tục gọi là tháp Con Gái hay tháp Cánh Tiên”. Trên đây là tả thành Trà Bàn đời cuối Lê.
      Sách ĐNNTC chép: “Thành Trà Bàn ở trên sông Phú Gia Đa. Hai tên Phú Đa và Phú Gia Đa chắc là một. Có lẽ là tên Chàm phiên âm ra Phú Gia Đa. Sau rút ngắn tên mà gọi tên làng. Bản đồ trong TNDĐC vẽ sông ấy chảy ra phía bắc thành.
      Sách ĐNNTC chép: “Thành Trà Bàn ở chỗ giáp giới hai huyện Tuy Viễn và Phú Cát. Chu vi dài hơn 60 dặm. Trước là kinh thành của chúa Chàm. Nguyễn Nhạc chiếm và lấy đá ong xây thành. Trong thành có tháp xưa, có tượng nghê đá, voi đá; đều là của người Chàm xưa. Sau Đại binh thu phục, đổi tên là thành Bình Định, và đặt tỉnh lị ở đây. Sau (1808) dời tỉnh lị đến chỗ ngày nay.”
      Ngày nay, cách phía bắc thành Bình Định 10 cây số, trên đường thiên lý, còn thấy di tích một thành cổ ở địa phận ba làng An Nghĩa, Nam An và Thuận Chánh. Thành đất, bọc bằng đá ong. Hình chữ nhật, các mặt rồng đúng hướng. Mặt Đông và Tây rộng 1.400 mét; mặt Nam và Bắc rộng 1.100 mét. Phía bắc thành có sông Khu Cương đường quan lộ xiên qua góc đông bắc thành. Trong thành còn nhiều cồn đất, hình như ngày xưa có những lâu đài hay tháp dựng trên Thành nay đã đổ hết. Trong thành là ruộng. Còn vết một đường đi từ cửa đông sang cửa tây. Chính giữa, còn có một tháp lớn, tức là tháp Con Gái, hay là tháp Canh Tiên, đã nói trên. Ở phần phía tây thành có mộ và đền thờ Võ Tánh. Trong thành còn có nhiều đá chạm, như hai con sư tử (nghê) trước mộ Võ Tánh, hai con voi đá lớn ở trong vườn đến. (Phỏng theo Parmentier; inventaire descriptif des Monuments Cam de l’Annam). Xung quanh thành đá ấy còn nhiều tháp. Các tọa tác ấy chắc là thuộc thành Vijaya. Thành chu vi hơn 60 dặm, nói trong ĐNNTC, chắc là một thứ la thành bọc chung quanh các tháp nói trên. Thành vuông mỗi bề một dặm nói trong TNTCĐ là thành đá ở trong.

2. Sách ƯTDĐC chép thêm rằng: “Lý Thường Kiệt phong cho ba đoàn sư tử ấy chức Hiệu thuận lam thần bá. Ngày tuyên sắc, sư tử nổi lên mặt sông để nghe. Nhờ đó, quân ta qua sông không bị trở ngại”.
      Ở Phan Rang (tên Chàm là Panduranga), có sông tên là Kron Biyuh nghĩa là sông Cá Sấu (theo Cbaton). Chắc rằng xưa sông này có nhiều cá sấu hơn các sông khác. Hoặc giả, sông Phan Định của ƯTDĐC là sông này. Nếu thật vậy, thì sự Lý Thường Kiệt bị cá sấu trở ngại là vào lúc ông đuổi vua Chàm tới biên giới Chân Lạp.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 10:21:51 am »


5- Bắt Vua Chiêm

Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo xuống miền nam. Tháng tư quân ta đuổi đến biên giới nước Chân Lạp (VSL). Bấy giờ Chiêm Thành gồm có vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay. Phan Rang, tên Chàm là Pandurango lại là một thành phố lớn. Có lẽ vua Chiêm đã chạy đến đó. Chân Lạp vốn là một cừu quốc với Chiêm (LNĐV). Vua Chiêm không dám chạy qua đó; cùng thế phải ra đầu hàng. “Lý Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp” (VSL) và cầm tù cả thảy 5 vạn quân (NBS).

Cuộc đuổi bắt vua Chiêm kéo dài ngót một tháng, từ đầu tháng ba đến tháng tư.

Thế là Chiêm Thành bị đại bại. Tuy Lý Thánh Tông tự cầm quân, nhưng công chiến thắng hoàn toàn về Lý Thường Kiệt, từ trận đầu đến trận cuối. Việc Hành quân kể lại trên đây, phần lớn lấy ở sách VSL. Còn sách chính sử ta là Đại Việt sử ký toàn thư thì không những không chép những chi tiết trên, mà lại chép chuyện hoàn toàn khác. Sách ấy nói rằng: “Vua đánh Chiêm lâu không thắng, bèn quay trở về. Về tới châu Cư liên, nghe nói ở trong nước, bà Nguyên Phi (Ỷ Lan) coi nội trị giỏi, khiến dân tâm hòa hiệp, cõi nước yên lặng. Vua tự than rằng: “Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, há lại vụng về sao?” Rồi vua quay trở lại đánh; bèn thắng”. Trong đoạn trên, có hai việc: một là thất lợi đầu tiên của quân ta, hai là vua Lý Thánh Tông rút quân về rồi trở lại.

Về việc đầu, hình như có sự thiệt. Hoặc đó là vì tướng Chiêm, Bố bì đà la, cản quân ta trên sông Tu Mao, hoặc là sóng nhiều cá sấu mà quân ta không dám qua. Lẽ hợp hơn cả là vì vua Chiêm trốn thoát, chạy xa vào miền nam hiểm trở, quân ta khó lòng đuổi kịp và bắt được; vua ta cho là chưa đạt được chủ đích. Rồi sử gia cho là “đánh lâu không thắng”. Còn việc thứ hai cũng có thể xảy ra. Nhưng không rõ châu Cư Liên ở đâu, thuộc nước ta hay nước Chiêm? Và nếu vua Lý có trở về thật, thì chắc về đường thủy. Sử nói vua về đến châu Cư Liên, ấy muốn nói vua về đến hải phận châu ấy. Hiểu như thế, ta có thể nghĩ rằng hoặc giả sau khi lấy Vijaya, vua Lý Thánh Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi thấy chưa bắt được. Sợ vắng mặt lâu, trong nước nhà, dân sự không yên, nên đưa một phần quân về trước. Nhưng về dọc đường, được tin bà Nguyên Phi trị dân yên ổn, vua lại trở lại, đợi bắt được vua Chiêm. Nếu sự có thật, thì ta không hiểu vì lẽ gì VSL, là sách chép kỹ về việc đánh Chiêm Thành lần này, lại không chép chuyện ấy.



6 -Khải Hoàn. Tha vua Chiêm

Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm. Bấy giờ là tháng năm. Muốn tỏ sự hân hoan “vua thân hành múa khiên và đánh cầu1 trước bệ”. (VSL)

Vua lại sai kiểm sổ tất cả các nhà trong và ngoài thành. Cả thấy có hơn 2.560 khu. Đều sai đốt hết. (VSL)
__________________________________
1. Múa khiên và đánh cầu là hai quân lễ để ăn mừng trong các hội lớn. Môn múa khiên có lẽ đời sau còn hình dung trong các bài “đi võ”. Còn môn đánh cầu là thế nào?
      Chữ Hán chép “kích cầu”. Cầu là một đồ chơi làm bằng da, hình tròn, trong nén đầy lông. Nói tóm lại, tức là quả bóng ngày nay, nhưng ruột đặc và đầy lông để cho nhẹ. Tuy về đời sau, như đời Lê có chuyện một viên quan “đá cầu chúc thọ” chúa Trịnh, nhưng trò chơi này là lấy chân đá cái cầu làm bằng một vật có chắp đuôi, như cầu trẻ con chơi ngày nay bằng đồng tiền có đuôi giấy.
      Môn đánh cầu trong quân khác hẳn thế. Đó là trò chơi mà Âu Mỹ gọi là Polo. Ở Ấn độ cũng có từ đời xưa.
      Tống sử, (Q.121, lễ chí, chép Đá cầu) còn chép rõ cách thức chơi của nhà vua. Sân chơi là sân chính điện, dưới thềm ngai vua, ở phía Nam ngai. Hai bên tả hữu (đông và tây) dựng hai cửa bằng gỗ, gọi là cầu môn cao hơn một trượng, trên chạm rồng, dưới đặt tòa sen bằng đá dùng vải vóc trải trên. Chỉ có các bậc vương và đại thần được dự chơi ở trước bệ; họ chia ra làm hai phe. Ở hai cầu môn có treo cờ nhật và nguyệt, dưới cờ đặt nhạc. Hai phe mặc áo vóc, màu khác nhau; bên tả (đông) mầu vàng, bên hữu mầu tí. Trước thềm cũng bày hai giá cờ; hễ bên nào được, thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ.
      Lúc bắt đầu đánh, sở tầu ngựa vua đem ngựa và yên cương ra. Vua lên ngựa. Ban nhạc gẩy khúc Lương Châu. Vua gọi từng người lần lượt lên ngựa. Đuôi ngựa gióc thắt theo mầu phe vàng hay tía. Các quan bắt đầu sắp hàng phía tây; vua đứng ở góc tây nam.
      Quan nội thị mở một hộp vàng, lấy quả cầu sơn đỏ, ném xuống trước điện, viễn thông sự xá nhân tấu: “phe vua đánh vào cửa đông”. Vua tiến ngựa đánh cầu. Nhạc nổi. Lúc cầu vào cửa, thì cờ phất, chiêng rền, trống dóng. Vua quay ngựa trở về chỗ. Các quan chúc mừng, rồi vua ban rượu. Xong vua lại lên ngựa, lại đánh. Bây giờ mới sai các quan ruổi ngựa tranh cầu. Trống đánh rậy khi cầu tới cửa, trống giục càng mau. Lúc cầu qua cửa thì trống dóng ba hồi. Rút cờ để sẵn bên cửa phe được, rồi cắm vào giá phe mình để trước hè. Như thế gọi là được một thẻ. Khi nào vua được thẻ, thì nhạc đánh nhẹ bớt, để các quan hô “Vạn tuế”; khi nào một quan được thẻ, thì hô “hảo”, kẻ được thẻ, xuống ngựa để tạ. Xong ba thẻ, vua lại mời các quan uống. Mỗi phe có 24 cờ. Có lẽ bên nào được 24 thẻ trước thì được.
      Trên đây là cuộc đánh cầu bằng ngựa. Cũng có lúc đánh cầu không cưỡi ngựa. Tuy TS không nói rõ, nhưng ta cũng hiểu rằng, người ngồi trên ngựa, cầm cương một tay; tay kia cầm cái trượng dài, mà đưa đẩy quả cầu, hoặc đánh mạnh vào cầu để chuyền cho kẻ đồng phe, hay để cho vào cửa. Hình dạng cái trượng ấy chắc như còn thấy trên một bức chạm bằng đá của dân Chàm, Na còn ở bảo tàng Đà Nẵng. Bức chạm nổi ấy gồm hai người Chàm cưỡi ngựa, tay phải cầm cương ta trái cầm trượng dài mà đầu cuối cong và bẹt. Ngựa đeo đạc, mang yên, đuôi gióc như trong TS tả. Bức chạm này rất linh động, người sau vừa đánh vào cầu, người trước kéo gò ngựa quay đầu lại rồi vắt tay ra sau mà chặn cầu. Dáng điệu ngựa và người làm ta tưởng tượng như còn thấy cuộc đánh cầu của vua Lý Thánh Tông còn diễn trước mắt ta. Biết đâu trong cuộc đánh cầu này, vua Lý lại không bắt các quan Chàm bị cầm tù ra đánh làm trò vui? Nếu có vậy thì bức chạm này lại nhắc được một hình ảnh của huy hoàng của tiệc mừng thắng trận.
      Trò chơi ấy ở triều Lý có. TT chép: “Năm B.Ng (1126), mồng một tháng hai, vua Lý Nhân Tông tới điện Thiên An xem các vương hầu chạy theo cầu mà đánh (ở đây TT chép: xúc cầu, xúc là chạy theo, xúc cầu nghĩa là chạy theo cầu mà đánh). Năm C.Tu (1139) tháng chạp, vua Lý Thần Tông đánh cầu (chép kích cầu) ở sân Long Trì; vua bảo xứ Chiêm vào xem.”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 10:24:00 am »


Tháng ấy (tháng năm), vua kéo quân về, đem theo Rudravarman III. Ngày Quí Tị (DL 19-6), thuyền về đến cửa Tư Minh1. VSL chép rằng đêm ấy “rồng” hiện ở ngự thuyền. Bấy giờ là mùa hè, gió nồm thổi mạnh, thuyền về rất thuận. Ngày Kỷ Tị tháng sáu (có lẽ là Kỷ Hợi, DL 25-6) quân vượt bể, “rồng vàng hiện ở thuyền Kim phượng”. Ngày Mậu Thân (DL 4-7) qua các núi Lỗ-lỗi lớn và bé ở ngoài cửa bể Bố Chánh (cửa bể sông Gianh, ở phía bắc Quảng Bình) thuyền vua đụng phải đã bị vỡ2.

Ngày Tân Dậu (DL 17-7) vua về đến Thăng Long, dừng thuyền ở bến Triều Đông, trên sông Lô (Nhị Hà).

Cuộc rước vua về cung rất long trọng. VSL còn ghi những chi tiết nhắc cho ta biết sự huy hoàng xán lạn của cuộc tiếp rước một vị vua viễn chinh khải hoàn. Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bờ, ngự trên chiếc báu xa (xe nạm ngọc). Quần thần đều cưỡi ngựa. Dắt vua Chiêm Thành theo sau. Vua Chiêm Thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có giầy vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ đô dắt đi, Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau. Tháng bảy, vua làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái Miếu (VSL)

Cuối năm, sai Quách Sĩ An và Đào Tông Nguyên sang sứ Tống, để báo tin thắng trận. Lời biểu có câu: “Nước Chiêm Thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh, đã bắt được chúa nó về”. Vua Tống tuy không bằng lòng, nhưng cũng phải nhận sự Chiêm Thành là một phiên quốc của ta. Bèn ban cho chánh sứ Sĩ An chức lục trạch và phó sứ Tông Nguyên chức nội điện sùng ban (TS 488)

Thế là vua Lý Thánh Tông đã thỏa lòng tự lập: sau khi xưng đế, lập được vũ công xứng đáng với danh hiệu ấy. Vua bèn đổi niên hiệu Thiên huống báu tượng (trời cho voi quí) ra Thần vũ để ghi vũ công lớn lao ấy.

Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng Bình và phía bắc Quang Trị3.

Rudravarman III được tha về nước.

Vua Lý bèn thưởng quân công cho tướng sĩ. Ban cho Lý Thường Kiệt chức tước sau này: Phụ quốc Thái phó, dao thụ Nam Bình tiết độ sứ, Phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (bia NBS và VĐUL). Chức thái phó là thứ ba trong hàng tể chấp (I,cth4); Tiết độ sứ là thứ hai trong hàng tướng; tước là Thượng trụ quốc Khai quốc công. Đặc biệt là vua nhận ông làm con nuôi, tức là vào hàng vương; và tuy ông ở triều, nhưng được giao cho coi binh lính ở vùng Nam Bình, có lẽ là ba châu mới giành được. Ông bấy giờ 51 tuổi.

Chẳng bao lâu, vua lại trao ông chức Thái úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự4 là chức thứ hai trong triều. Ông giúp vua trông nom quốc chính. “Dân sự vì đó được nhờ”. (bia LX)

Đứng đầu triều có Thái sư Lý Đạo Thành, đã giữ chức ấy từ năm Thánh Tông lên ngôi (1054). Đạo Thành và Thường Kiệt giúp vua trong hai năm. Trong nước rất được yên ổn. Mùa hè năm Canh Tuất (1070) gặp trời đại hạn, lấy lúa, tiền, vải ở kho phát chẩn cho dân nghèo. Về hình luật, định số tiền cho tội nhân có thể nạp để chuộc tội (năm Tân Hợi 1071). Về tạo tác, mùa xuân năm Canh Tuất (1070), dựng điện Tử thần. Về tôn giáo và giáo dục, bây giờ là lúc Nho giáo được chính thức tôn sùng: tháng tám năm ấy, vua sai dựng Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng 72 hiền để thờ trong miếu; lại cho Hoàng Thái tử tới đó học tập (TT). Có lẽ, ấy cũng có ảnh hưởng ít nhiều của Thường Kiệt khi bé có đọc sánh nho.

Tuy vậy, Phật giáo cũng không bị sao lãng. Tháng chín năm ấy, dựng chùa Nhị thiên vương ở góc đông nam thành, vua viết bia chữ Phật5 cao một trượng sáu thước, để lại tại chùa Tiên Du (Phật Tích, Bắc Ninh ngày nay).
 
Thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm Thành, thì kính sợ và thần phục, năm Tân Hợi (1071), sứ Chiêm tới cống (TT).
______________________________________
1. Cửa Tư Minh có phải là cửa Tư Dung không? Trong sử đời Lý, sách VSL có chép Tư Minh hai lần: lần này (Thánh Tông trở về) và lần trước, khi Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành (1044). Nay so với TT ta thấy cũng chép việc Thái Tông, TT có nói: “Vua tới cửa Tư Khánh, cá trắng nhảy vào thuyền”, mà VSL lại chép: “Vua tới cửa Tư Minh, cá trắng nhảy vào thuyền”. Vậy Tư Minh tức Tư Khánh hay Tư Dung. Nhưng không hiểu vì cớ gì, mà lúc Thánh Tông đi và lúc về cách nhau có bốn tháng mà VSL lại gọi, một chỗ đất bằng hai tên khác nhau: Tư Dung và Tư Minh?
2. Sách Ô châu cận lục (đời Mạc) chép tên núi Lỗi Lôi. Núi ở châu Bố Chánh, gần cửa bể Di Luân (cửa Ròn). Núi Hoành Sơn chạy ra bể đến đó là hết.
      Sách ĐNNTC nói rõ là một hải đảo. Trên đảo có chùa, cho nên gọi là đảo Chùa. Vũng bể này có tên là Vũng Chùa, là vì cớ ấy.
      Sách VSL chép: ở gần cửa Bố Chánh, tức là cửa sông Gianh. Cửa sông Gianh và cửa sông Ròn cũng cách nhau không bao nhiêu. Huống chi sông Gianh là sông lớn, cho nên VSL chép như vậy.

3. Theo HVDĐC, và các sách địa chí khác: Các châu ấy chiếm địa phận theo như sau. 1/ Địa lý: đời Lý đổi ra Lâm Bình. Trần đổi ra Tân Bình. Lê Trung Hưng đổi ra Tiên Bình. Nay thuộc Quảng Bình, gồm các huyện Lệ Thủy, Phong Phú, Phong Lộc. 2/ Ma Linh: Lý đổi ra Minh Linh. Minh đổi ra Nam Linh. Lê lập lại Minh Linh. Nay thuộc Quang Trị, gồm hai huyện Minh Linh và Do Linh. 3/ Bố Chánh: Minh đổi ra Trấn Bình. Lê đổi lại Bố Chánh. Nay thuộc Quảng Bình, gồm các Bình Chánh, Bố Trạch và Tuyến Chánh.
4. Vũ chức đời Lý có: Độ nguyên soái, Tiết độ sứ, Đại tướng quân, Phó nguyên soái, Phó tiết độ, Phó tướng quân. Nội điện chỉ huy sứ, Chiêu thảo sứ, Thiên tướng, thần tướng, chức đầu, chọn kẻ Tông thất bổ nhậm. (ANCL).
      Sách LNĐD chép: “binh quan, thì đứng đầu có Khu mật sứ, Kim Ngô Thái úy đô lĩnh binh.” Đại loại các chức cũng theo Đường chế.

5. Nay ở trước cửa chùa làng Bạch Á, huyện Nga Sơn, còn có một tấm bia lớn, rộng 1,12m và cao 1,67m. Trên khắc chữ Phật rất lớn. Chung quanh chạm rồng và hoa cỏ rất tỉ mỉ và đẹp. Bia không còn chữ gì khác nữa, ngoài bi ngạch “TRÙNG TU DIÊN LINH CHÂN BẢO TỰ BI”. Lê Quí Đôn có nói đó là bia khắc chữ Phật của Lý Thánh Tông viết. Tuy theo cách chạm trổ, thì biết là bia rất xưa, có lẽ đời Lý, nhưng không biết Lê Quí Đôn có lầm bia này với bia chùa Tiên Du chăng?
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 10:27:31 am »


7- Kết quả

Về việc đánh Chiêm Thành, bia chùa Linh xứng chỉ chép rằng: “Kịp đến lúc Phật thệ1 hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ sang đánh. Ông có tài thao lược hơn người đời, vào trong cung giúp vua lo toan mưu kế, đặt binh luật để đi đánh dẹp, Hoàn vương (tức vua Chiêm) bỏ thành chạy trốn, nhưng lại tự mình hiến thân chịu chém. Ông bèn bắt lấy, rồi đem quân khải hoàn. Vua luận công, gia thưởng và ban trật cho ông”.

Tuy tóm tắt nhưng đó cũng đủ chứng rằng trong cuộc nam phạt, Lý Thường Kiệt vừa làm tham mưu, vừa làm thống soái. Ông đã có công lấy thành, bắt chúa Chiêm, cho nên nước ta mới được nhường khoảnh đất ba châu phía nam dãy Hoành Sơn. Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau. Trước đó, tuy Lê Đại Hành, Lý Thái Tông cũng đánh chiếm Chiêm Thành, nhưng mỗi lúc chỉ bắt người, lấy của rồi về, chứ không hề nghĩ tới mở mang bờ cõi.2
_________________________________
1. Phật thệ là tên Chiêm Thành, Hoàn vương là tên Chiêm Thành mà người đời Đường đặt ra khoảng năm 756-757 (Tân Đường thư và LNĐĐ). Các tên chỉ nước này là: Lâm ấp, Phật thệ, Hoàn vương, Chiêm Thành. Ở nước ta còn có tên Lồi (như nói thành Lồi, chúa lồi) và tên Chàm.
2. Trong lúc Lý Thánh Tông vượt bể, hình như gặp sóng gió to. Sách VĐTTL còn chép chuyện thần Hậu thổ địa kỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau: Khi Lý Thánh Tông đến cửa bể Hoàn (?), thình lình bão to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quân lục, nói với vua: “Tôi là tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến. Giúp vua không chỉ đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ”. Nói xong, biến mất. Tỉnh dậy, vua sợ. Đem việc hỏi chung quanh. Có sư Huệ Sinh nói nên tìm cây gỗ có thần ẩn. Quân lên núi, thấy một cây gỗ hình người. Đem xuống thuyền. Vua sai đem làm tượng, mặc áo quần như thấy trong mộng và ban hiệu Hậu thổ phu nhân, và đặt ở thuyền vua. Thuyền bèn êm không lắc nữa. Lúc được trận về đến chỗ cũ, vua sai lập đền thờ. Nhưng tối đến, mưa gió nổi lên. Sư Huệ xin đem tượng về kinh vua sai lập đền thờ ở làng Yên Lãng.
   Chuyện trên này đời sau viết, cho nên có sự lầm. Ví như: vị sư Huệ Sinh, thì các bản sao viết Huệ Lâm Sinh hay là Huệ Lâm. Sách TUTA/57b có chép chuyện tăng thống Huệ Sinh hộ Lâm chắc là vị ấy. Nhưng Huệ Sinh mất năm 1064, trước năm Thánh Tông đánh Chiêm Thành.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 10:45:13 am »


CHƯƠNG III
CẦM QUYỀN BÍNH

1. Văn võ phân tranh - 2. Liên kết nhân-tâm.


1- Văn võ phân tranh

Tháng giêng năm Nhâm Tý, Thần Vũ thứ tư, vua Lý Thánh Tông mất. Ấy vào ngày Canh Dần (DL 1-2-1072), thọ 50 tuổi. Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi. Tức là Lý Nhân Tông.

Càn Đức là con Ỷ Lan nguyên phi. Sinh năm Bính Ngọ vào tháng giêng (1066). Bấy giờ mới bảy tuổi. Quyền binh ở trong tay thái sư Lý Đạo Thành và Hoàng Thái hậu Thượng Dương họ Dương.

Mẹ Càn Đức, tuy được phong làm Hoàng thái phi, nhưng không được tham dự chính quyền. Thái phi là Ỷ Lan phu nhân, một cô gái nhà quê. Nhân khi vua Thánh Tông hiếm con, đi cầu tự ở chùa làng Siêu Loại, gặp Ỷ Lan trong vườn dâu, vua để ý tới, đem về cung1. Vì sau khi sinh con trai, nên được tôn làm nguyên phi. Khi Thánh Tông vắng mặt ở kinh (1069), Thái phi đã được thay vua cầm quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần. Nhưng sử không chép vua Thánh Tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó, nghĩ rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng: tháng chạp năm trước, vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng để đề phòng sự cướp quyền.

Phe Thượng Dương thái hậu được Lý Đạo Thành ủng hộ, nên Thái hậu được cầm quyền và Lý Đạo Thành làm phụ chánh. (TT và VSL)

Lý Đạo Thành là một bậc lão thần. Vua Thái Tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là một nhà nho học; ông theo lẽ thường, tôn Thượng Dương thái hậu lên chấp chính. Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ Lan thái phi. Là một văn quan, mộ Nho, mộ Phật, chắc ông chuộng hòa bình, trái với Lý Thường Kiệt là một vũ tướng đương tuổi còn hăng hái (54 tuổi).

Thường Kiệt vẫn giữ chức thái úy, cầm binh quyền, nhưng đứng sau thái sư Đạo Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao lâu ắt có cuộc biến.

VSL chép rằng: “ngày mồng 8 tháng tư năm ấy, (TT chép năm ấy là Thái Ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần Vũ) sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân Tông chọn quan đại liêu Nguyễn Thường Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật Thành làm binh bộ thị lang”. Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà đổi ra. Nhật Thành chắc là Đạo Thành. Chứ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng thay đổi (XV/1).

Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi, phe Thường Kiệt đắc thắng. Thường Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo Thành bị giáng xuống chức thị lang.

Đó là kết quả của sự Nguyên thái phi vận động ở trong. Cho nên ta không lấy làm lạ rằng năm sau có cuộc Thái phi tính hay ghen, thấy mình là sinh mẫu mà không được dự chính, bèn nói với vua rằng “Mẹ già đã khó nhọc nuôi nấng con, mới có ngày nay. Bây giờ đã được phú quý, thì người khác giành mất chỗ. Họ sẽ đặt mẹ già vào chỗ nào?” Vua bèn giam Thái hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng Dương (cung riêng của Thái hậu), rồi ép phải chết theo vua Lý Thánh Tông. (VSL chép 72 người, TT chép 76. Tục truyền cũng 72, và nói vì vậy, sau này Ỷ Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội).

Còn Lý Đạo Thành phải giáng chức, làm tả gián nghị đại phu, ra coi châu Nghệ An (TT). Đạo Thành ra đó lập viện Địa tạng, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh Tông để thờ. Lý Thường Kiệt chuyền cầm quyền binh cùng Thái phi, mà bấy giờ cũng tôn lên làm Linh nhân, Hoàng thái hậu. (TT)

Tuy các sử không đâu chép, nhưng trong việc Khuynh đảo Thượng Dương thái hậu, chắc Thường Kiệt có một phần trách nhiệm. Sử chỉ đổ lỗi cho Ỷ Lan xui con, và cho Nhân Tông, vì nhỏ tuổi, nghe lời mẹ. Nhưng thật ra, vua mới tám tuổi; Thượng Dương lại cầm quyền. Nếu không có một đại thần, cầm quân đội trong tay, giúp, thì làm sao ép được Thái hậu tự tử? Còn Lý Đạo Thành, theo như lời bàn của Ngô Sĩ Liên (TT), chắc đã phản kháng việc ấy, nên mới bị biếm ra Nghệ An, và mới ôm hận, mang theo thần vị vua Thánh Tông để thờ. Đạo Thành làm thế để tỏ lòng uất ức.

Một sự đáng làm ta chú ý đến, là trong TT không hề nói đến Thường Kiệt trong khoảng đầu đời Nhân Tông. Nhưng nhiều sách khác của người Tống nói rõ địa vị của ông; và, như ta thấy trên, VSL, là sách viết tự đời Trần, và chưa từng bị sửa chữa lại, cũng nói rõ ông được làm thủ tướng. Chính bia LX cũng nói rõ rằng: “Lúc đầu đời Thái Ninh, vua ta nay là Minh hiếu Hoàng đế, cầm vận nước lên ngôi. Vì ông (Thường Kiệt) có tài, văn ngang Y Doãn, vũ sách Hoắc Quang, nên vua giao coi việc đại chính và phó xã tắc cho ông”2. VĐUL cũng nói: “Lúc Nhân Tông lên ngôi, trao cho ông chức Phụ quốc Thái úy”, ấy cũng hợp với VSL. Các sách Tống nói rõ ràng hơn. Sách MKBĐ (Quyển 2) rằng: “Nhật Tôn (Thánh Tông) mất, Càn Đức lên, lấy hoạn quan Lý Thường Cát và mẹ Lê Thị Yến Loan Thái phi cùng coi việc nước”. Người Tống chép theo âm, như ta cũng nhận thấy tên Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan thái hậu. Sách LNĐĐ cũng nói: “Nhật Tôn mất, con là Càn Đức lên, tự gọi là Minh Vương. Quyền về tay bầy tôi. Đại thần Thượng Cát cầm đầu.” Sách TB (279/11a) cũng chép tên Lý Thượng Cát ấy. Cho đến bia NBS, của Nhữ Bá Sĩ dựng đời Tự Đức, mà cũng chép: “Lúc Nhân Tông lên ngôi, Lý Thượng Cát dự chính”. NBS tưởng Thượng Cát và Thường Kiệt là hai người.

Những chứng cớ trên làm ta không thể nghi ngờ rằng, hoặc trước, hoặc sau khi Thượng Dương Thái hậu mất, Thường Kiệt cầm hết quyền binh trong tay: văn và vũ. Vả, vì đó, Thường Kiệt đã phụ Ỷ Lan trong việc tranh giành ngôi thứ với Hoàng Thái hậu, và trong việc bức tử 73 nhân mạng.

Đó là một vết đen trong trang sử xán lạn của Lý Thường Kiệt. Nhưng ông là võ tướng; trong trận đánh Chiêm, cũng như sau này, trong các trận đánh Tống, ông còn hi sinh biết bao nhiêu là nhân mạng nữa, gấp trăm ngàn lần sự bức sát này.

Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ Lan, và có lẽ cho ông, ta nhận rằng đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ Lan mất (1117), có ba thị nữ chết theo, (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân Tông mất (1127) cũng có cung nữ lên dàn lửa để chết theo vua. (TT)

Trên kia đã nói, sách TT không hề nói đến chuyện Lý Thường Kiệt cầm quyền tể tướng. Chắc rằng, đời sau, khi Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên viết sử, Khổng học đã thịnh, kẻ họ đã dùng sử học làm một khoa luân lý; cho nên tự sửa chữa các việc cũ theo ý ấy. Thường Kiệt là một hoạn thần, mà hoạn thần xưa nay không được nho thần trọng. Nho thần lấy khoa cử xuất thân, coi hoạn thần như là đầy tớ trong cung. Vả từ cuối đời Hán về sau, các hoạn thần đã lạm dụng sự gần gũi cung cấm mà tiếm quyền, cho nên đời sau rất ghét hoạn quan cầm quyền bính. Có lẽ Lý Thường Kiệt cũng bị ghét lây. Sử gia cho ông không đáng chức tể tướng, cho nên tước khử sự ấy trong sử cũ mà không chép lại.
_____________________________________
1. Làng là bởi chữ hương mà dịch ra. Nhưng hương không phải một làng nhỏ như bây giờ. Từ đời Tần, nước Trung Quốc chia ra từng quận. Quận chia thành huyện. Huyện chia thành hương. Hương chia thành đình. Đình chia thành lý. Tuy đời sau có đổi chế độ ít nhiều. Nhưng hương vẫn là phần của huyện. Lúc nước ta thuộc Bắc, nước thành quận, cũng bị chia ra châu hay huyện. Vậy chế-độ hương có từ đời ấy. Mà hương là lớn như một tổng lớn đời sau.
   Về chuyện Ỷ Lan, xem lời dẫn tường tận ở sách Chuyện Ỷ Lan, (nhà xuất bản Sông Nhị).

2. Y Doãn làm quan đời Thương. Trước ở ẩn, vua Thang ba lần đến mời, mới chịu ra. Ông có công giúp vua Thang đánh vua Hạ Kiệt. Sau vua Thang mất, có phó thác cháu là Thái Giáp cho ông. Thái Giáp còn trẻ, tính hư. Y Doãn truất đi, bèn hối qua.
   Hoắc Quang, tướng đời Hán, là em Hoắc Khứ Bệnh (I, Cth 2) Quang giúp vua Hán Vũ đế rất có công, Vua mất, giao ông phò vua Chiêu đế. Quyền hoàn toàn trong tay ông. Chiêu đế chết, ông lập xương ấp vương tên Hạ. Vì Hạ dâm loạn, ông lại bỏ đi, lập vua Tuyên đế. Nói tóm lại Y Doãn và Hoắc Quang là hai bầy tôi, được vua phó thác hoàng tử còn bé. Tuy cầm hết quyền binh trong tay, hai người đều trung thành với chúa, và không nhân cơ hội đoạt ngôi vua. Lời bia so sánh Lý Thường Kiệt với Y Doãn, Hoắc Quang đủ tỏ rằng Lý Thường Kiệt đã làm tể tướng cầm hết quyền trong nước, trong khi Lý Nhân Tông còn nhỏ.
   Bia BA có câu: “Vua nhỏ có thể phó thác cho ông”. Đó là thêm một chứng nữa rằng Thường Kiệt được sung chức phụ chính.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 10:48:28 am »


2- Liên-kết nhân-tâm

Vua gia phong cho ông chức Đôn quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ và ban cho hiệu Thượng phụ công. Thế là ông coi việc văn, việc vũ, và kiêm cả chức cầm quan. “Ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn” (NBS). Bấy giờ ông 55 tuổi (năm 1073).

Sự yên ổn ấy chỉ có bề ngoài. Thật ra, ở biên thùy có nhiều triệu chứng chiến tranh. Năm sau (Giáp Dần 1074) Chiêm Thành lại bắt đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh.

Có lẽ, vì thế, Lý Thường Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng Dương thái hậu. Năm ấy (Giáp Dần 1074), mời Lý Đạo Thành từ Nghệ An trở về, giữ chức Thái phó, bình chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thường Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để cho Thường Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân.

Lý Đạo Thành là một bậc lão thành, được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ An chắc đã gây mầm chia rẽ lớn ở triều.

Bây giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh. Tân và cựu, không phải chỉ trong phương pháp (VI/3), nhưng ở cả cá nhân. Phái tân có thủ lĩnh Vương An Thạch; trong phái ấy, người đều còn trẻ. Phái cựu gồm hầu hết các lão thần. Thấy Vương An Thạch và đồng phái đều còn ít tuổi mà lên cầm quyền, phái cũ không bằng lòng, cho nên sự xung đột về chủ nghĩa lại tăng kịch liệt.

Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng mới hơn 50 tuổi. Thêm là một hoạn quan, Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái ấy, Thường Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý Đạo Thành trở về dự chính, và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80 tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế. (TT)

Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, để chiêu dụ hiền tài. Từ trước, tuy có lập Văn miếu (1071), tuy có dùng nho quan, nhưng chưa hề có mở khoa thi để khuyến khích và tuyển nhân tài. Năm Ất Mão (1075), vào tháng hai, vua hạ chiếu tuyển các nhà Minh kinh bác học, chọn kẻ hiểu sách Kinh, học rộng; và mở khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Lê Văn Thịnh đậu khoa ấy, và được vào dạy vua Nhân Tông bấy giờ lên 10 tuổi. Trong các việc này, chắc Lý Đạo Thành có ảnh hưởng lớn. Thế cũng đủ tỏ rằng hai nhà họ Lý kia đã thành thật đồng tâm cộng sự. Nhờ sự hòa hảo trong triều, mà sau này, tuy Tống tìm phương chia rẽ các đại thần để dễ bại quân ta. Nhưng Tống sẽ hoàn toàn thất bại.

Ta sẽ thấy vũ công của Lý Thường Kiệt trong năm sắp tới rất to. Mà xem việc trên đây, ta cũng thấy về chính trị, ông cũng là tay rất giỏi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 11:13:02 am »


CHƯƠNG IV
CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ

1. Cương vực Đại Việt - 2. Dân vùng biên giới
3. Họ Nùng và Châu Quảng Nguyên - 4. Phủ dụ - 5. Chinh phạt.


1 - Cương vực Đại Việt

Đời Lý ở nước ta là đồng thời với nhà Tống bên Trung Quốc.

Nhân bên Trung Quốc, có cuộc phân tranh đời Ngũ đại cho nên ở miền Nam, dân Giao Chỉ đã có cơ Tự Lập. Từ khi Khúc Thừa Mỹ (919), Ngô Quyền (939) chiếm cứ được đất, đánh lui quan Nam Hán, thì trung nguyên xứ Bắc kỳ bây giờ, đã do tay người Giao Chỉ tự quản trị. Nhưng công ấy không bởi một người, cho nên quyền chưa tập trung. Kịp khi Ngô Xương Văn mất, các tướng tá tranh giành nhau. Nhưng sự tranh giành ấy cũng không ra ngoài trung nguyên.

Đến khi nhà Đinh nhất thống sơn hà (986), thì bên bắc, nhà Tống cũng vừa mới lập (963). Hai nước còn bận việc trị an những nơi gần căn cứ mình, cho nên chưa nghĩ đến việc biên thùy. Nhưng khi nghe tướng Tống đã vượt xuống Lĩnh Nam vào vùng Lưỡng Quảng (970), thì Đinh liền sai sứ sang Tống xin giao hiếu (973, TB 14/6a), và Tống cũng nhận cho ta tự trị và phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm An nam quận vương. Tiếng rằng tự trị, thật thì Tống chẳng có quyền thực tế gì ở nước ta. Chỉ có điều là ta thỉnh thoảng phải sang cống phương vật và chịu Tống phong cho chức tước theo lệ chư hầu.

Sở dĩ Tống chưa muốn chiếm lại nước ta như đời Đường là vì còn bận việc nơi khác (VI/1). Cuối đời Đinh, cha con vua Đinh bị nạn (979), tướng là Lê Hoàn có ý chiếm ngôi. Tống bấy giờ trong nước đã gần yên, nhân cơ hội định chiếm lại Giao Chỉ. Lấy cớ đánh Hoàn, Tống sai quân sang xâm lấn nước ta. Đó là mở cuộc bang giao khó khăn ở hai nước (980). Nhờ Hoàn đánh bại thủy quân Tống ở sông Bạch Đằng, giết chết đại tướng Hầu Nhân Bảo ở Chi Lăng (giáp giới Bắc Giang và Lạng Sơn) và phá tan lục quân của Thẩm Khâm Tộ ở Tây Kết (tháng ba năm Tân Tị 981), nước ta tránh khỏi ách Tống. Vua Tống phải nhận Lê Hoàn làm chủ ở nước ta (986).

Phía Bắc, Lê Hoàn đánh lui quân Tống, phía nam đại phá quân Chiêm. Nước ta nhờ đó có cơ đồ khá vững vàng. Nhưng khoảng đất Hoàn cai trị không quá vùng trung nguyên1. Còn miền thượng du thì hình như chưa ràng buộc gì cả. Tuy nhiên, biên giới miền đông bắc đã rõ ràng; và trên hai đường thông lộ lớn, từ châu Vĩnh An ở vùng Hải Ninh, Móng Cái, đến Khâm Châu (kintcheou) và từ huyện Quang Lan, là Ôn Châu, ở phía nam Lạng Sơn, đến Ung Châu (Nanning), thì hai nước kiểm soát cẩn thận2. Biên thần Tống thường thám thính tình hình nước ta, nhưng Tống còn bận việc bắc cương đối với Liêu (vùng Bắc Bình và Mãn Châu), Hạ (vùng Thiểm Tây), cho nên chưa muốn gây hấn với ta. Dẫu có khi dân ta sang quấy (995) mà Tống cũng làm ngơ3. Đến lúc Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi, quan Tống xin đem quân sang đánh ta (1006). Nhưng vua Chân Tông vẫn không bằng lòng. Vua nói rằng: “Hoàn đã trung thành, ta không nên nhân y chết mà đánh. Vả núi sông Giao Chi hiểm trở, thủy thổ độc dữ. Có lấy được cũng vô ích”4 (TS. 488 và TB 63/8b).

Sau đó, vua Tống lại bằng lòng cho Lý Công Uẩn nối nhà Lê. Tính rộng rãi của Tống Chân Tông đã tỏ trong câu trả lời cho tả hữu về việc Công Uẩn tranh ngôi Lê: “Lê Hoàn bất nghĩa mà được nước. Lý Công Uẩn bắt chước, rất là đáng ghét. Nhưng man tục như thế, không nên trách.” (TS 488)
_____________________________________
1. Lê Hoàn chia đất cho các con cai trị như sau: 1/ Khai Minh Vương LONG ĐĨNH coi Đằng Châu (vùng Kim Động). 2/ Ngự man vương LONG ĐINH coi Phong Châu (vùng Sơn Tây, Phú Thọ). 3/ Ngự bắc vương LONG CÂN coi Phú Lan (vùng Văn Lâm, Mỹ Hào). 4/ Định phiên vương LONG TÚNG coi Ngũ huyện Giang (Thanh Hóa). 5/ Tư doanh thành phó vương LONG TƯƠNG coi Đỗ động ( vùng Thanh Oai, Thượng Phúc). 6/ Trung quốc vương LONG CÁNH coi Mạt Tên (Tiên L). 7/ Nam quốc vương LONG MANG coi Vũ Long (Thanh Hóa). 8/ Hành quân vương LONG ĐẾ coi Cổ Lãm (Quế Dương, Đông Ngạn). 9/ Phù Đái vương (?) coi Phú Đái (vùng Vĩnh Bảo, Vĩnh Lại).
   Trên đây, phần lớn theo CM mà nhận đất, trừ Ngũ Huyện Giang mà CM cho là sông Cà Lồ ngày nay. Xét các đất trên ta thấy các vương chỉ cai quản vùng đồng bằng mà thôi. Có lẽ các vùng khác tù trưởng coi, nhưng các sách không thấy nói.

2. Sách sử ta chép sơ lược đến nỗi bây giờ ta không biết hết tên các thành phần nước ta đời Lý. Sách LNĐĐ (Tống) chép: Giao Chỉ chia làm 4 phủ, 13 châu, 3 trại, Phủ có Đô Hộ, Đại Thông, Thanh Hóa, Phú Lương. Châu có Vĩnh An, Vĩnh Thái, Vạn Xuân, Phong Đạo, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Già Phong, Trà Lô, Yên Phong, Tô Châu, Mậu Châu (sách TB chép châu Tô Mậu), Lạng Châu. Trại có Hòa Ninh, Đại Bàn, Tân Yên. Đại để thì Thanh Hóa, Già Phong, Nghệ An, Vĩnh An đều kề bể. Mà Vĩnh An giáp Khâm Châu, Trà Lô giáp Chiêm Thành, Tô Châu, Mậu Châu giáp Ung Châu. Phía đông Giao Chỉ có sông nhỏ, vượt qua đến Khâm, Liêm. Phía tây có lục bộ đi nước Mán áo trắng (Thái, Sơn La, Lai Châu). Lục đó đi về nam đến Chiêm Thành, đi về bắc đến Ung Châu.
   Tuy LĐĐ chép sơ sài, và chưa chắc đã đúng hết, nhưng những tài liệu ấy cũng khiến ta biết ít nhiều về sự phân hạt ở nước ta hồi Lý.

3. Năm 995, việt coi trấn Như Hồng, phía tây Khâm châu, là Trương Quan, tâu với vua Tống rằng: Giao Chỉ cướp châu Như Hồng và biên giới Ung Châu. Y lại nói Lê Hoàn đã bị họ Đinh đuổi ra ở ngoài hải đảo và đã chết rồi. Vua Tống sai xét lại, thấy lời tâu ấy sai: bèn đem giả cho ta những dân đã trốn sang đất Tống (TS 488).
4. Ngày mồng 1 tháng 3 năm Q.Ma (1003), viên coi Khâm châu nói có bọn Hoàng Khánh Tập đem hơn 450 người vào xin phụ. Hoàng Khánh Tập là một viên chức ở Vĩnh An. Vua Tống bảo ủy dụ chúng và bảo chúng trở về nước (TB 54/15a). Viên chuyển vận xứ Quảng Tây tuân mệnh bảo Hoàng Khánh Tập trở về Vĩnh An (TB 54/15b). Năm sau, Lê Hoàn sai con là Minh Đề vào nước Tống cống. Minh Đề chưa về, Lê Hoàn đã mất (1005). Các con tranh giành ngôi thứ. Trong nước loạn. Minh Đề phải lưu lại ở Quảng Châu (TB 62/7b).
   Vua Tống giao cho viên coi Quảng Châu là Lăng Sách, và viên an phủ sứ dọc bể là Thiệu Dục xét về việc Giao Chỉ. Tháng 6 năm B.Ng (1006), Lăng Sách tâu: “Các con Lê Hoàn tranh nhau ngôi. Đền nhóm đồ đảng đóng ở các trại. Việc công bỏ bễ, dân tình lo sợ. Tụi Hoàng Khánh Tập, Hoàng Tú Man với hơn nghìn người không chịu theo, nên bị đe dọa. Chúng đưa thân thuộc chạy tới Liêm Châu, xin tính việc đem binh mã đánh Giao Chỉ. Tụi Khánh Tập tình nguyện đi tiên phong. Chắc thế nào cũng lấy được. Chúng tôi đã hội bàn. Nếu triều đình nhận lời xin, chỉ đem quân ở đạo chúng tôi và thêm vài ba nghìn quân vùng Kinh Hồ (Hồ Nam), theo hai đường thủy bộ cùng tiến. Lập tức bình định được”. Vua nói: “Lê Hoàn tiếp tục cống hiến, lại từng sai con sang chầu. Khiến cho góc bể miền Nam yên ổn, chưa hề trái đạo làm tôi. Nay nghe Hoàn chết. Chưa điếu-tuất nó mà đã nhân tang nó để vội đánh. Kẻ vương giả há lại làm việc ấy ư?”. Vua Tống ban chiếu: “Sai Lăng Sách an ủi tụi Khánh Tập, cấp cho ăn mặc, cho ruộng, ban chức một cách ưu hậu”. Thiệu Dục vâng chiếu, viết thư cho Giao Chỉ, dụ rằng: “Nếu anh em còn giết hại lẫn nhau, quân nhà vua sẽ trị tội; thì họ Lê không còn dòng giống nữa đâu”, Lê Minh Hộ sợ, lập tức tôn Lê Long Đĩnh làm chúa. Rồi vua Tống sai Dục lấy lễ vật trước định cho Lê Hoàn, đem cho Long Đĩnh. Nhưng Dục tâu: “Vỗ về dân ngoài, cốt nêu lòng thành tín của nó. Chi bằng đợi Long Đĩnh tới cống rồi sẽ phong tước, để hậu đãi nó.” Vua Tống khen là phải (TB 63/8b).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 11:15:09 am »


Từ lúc Lý lập nước (1009), ngoài việc có các vương toan cướp ngôi Thái Tông, bên trong không có sự cạnh tranh khác. Cho nên các vua Lý rất chú ý đến việc biên cương phương nam và phương bắc.

Về phương nam, địa giới đã rõ ràng, vì có dãy núi Hoành Sơn ngăn đôi hai nước Chiêm và Việt. Dân Chàm cũng như dân ta, sinh nhai về cày cấy. Gần biên giới chung, dân ta và dân Chàm sống trên hai đồng bằng Châu Hoan và Bố Chánh cách xa nhau, nên ít sinh sự xâm lấn lẫn nhau, trừ phi những vụ giặc bể Chàm vào cướp ven bể rồi bỏ đi mà thôi.

Còn về phương bắc, ngoài hai dân tộc Hoa và Việt, có nhiều dân tộc khác mà cả hai nước đều gọi là Man (Thổ, Nùng, Mán...), chiếm miền rừng núi rất rộng ở giữa hai bình nguyên lớn: Triền sông Lô (Nhị Hà) ở ta và triền sông Uất chảy xuống châu Ung (Nanning) ở Tống. Từ miền Cao Bằng bây giờ sang đông, biên giới đã khá rõ ràng. Theo LNĐĐ và các sử, ta có thể nhận thấy như sau. So với ngày nay, thì đến vùng Đông Khê, không khác lắm. Từ đó ra biển, bắc ngạn sông Kỳ Cùng thuộc về Tống, gồm có châu Tây Bình, Lộc Châu và huyện Thanh Viễn. Rồi tới chỗ gần bể, phần đất nước ta còn ăn vào tỉnh Quảng Đông đến gần vịnh Châu Khâm1. Còn về phía tây Cao Bằng, dân man ở thành từng động, không hẳn thuộc về ai; cho nên biên giới có thể nói là chưa có. Nhưng ảnh hưởng Lý cũng tới vùng Bảo Lạc và miền Yên Bái ngày nay.

Biên hạt Tống giáp nước ta gồm có các đất sau:

Đất KHÂM CHÂU giáp với châu Vĩnh An (tên cũ là Triều Dương, năm 1023 mới đổi), tức là vùng Hải Ninh, Móng Cái bây giờ.

Từ đó sang phía tây, hai nước cách nhau một con sông nhỏ, là sông Kỳ Cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại: Thiên Long, Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn. Năm trại ấy đều thuộc Ưng Châu.

Trại THIÊN LONG giáp giới Khâm Châu, và có lẽ với phần tây châu Vĩnh An. Trại CỔ VẠN gồm đất TƯ LĂNG và giáp châu Tô Mậu ở nước ta.

Trại VĨNH BÌNH gồm phần đất các châu TƯ MINH, BẰNG TƯỜNG, một phần TƯ LĂNG và phần đất ở bắc ngạn sông Ô Bi (Kỳ Cùng thuộc Lạng Sơn), Đất gần sông có châu TÂY BÌNH (vùng Đồng Đăng và phố Lạng Sơn) và Châu Lộc (vùng Lộc Bình ngày nay). Trại Vĩnh Bình tiếp đất với các châu sau này ở nước ta: Tô Mậu (vùng Na Dương, Đình Lập, An Châu), huyện Quang Lang (vùng Ôn Châu ngày nay), và châu Văn (vùng nam châu Văn Uyên và châu Văn Quan, tức phố Bình Gia trong địa đồ Đông Dương). Huyện Quang Lang và châu Văn thuộc châu Lạng.

Trại THÁI BÌNH, địa phận đất rộng, gồm có đất châu An Bình, châu Đống (Thượng đống và Hạ đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu Thất Nguyên, châu Môn (Đông Khê), châu Tư Lang (Thượng và Hạ Lang) và châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân Tông, châu Thái Nguyên (Thất Khê ngày nay) tùy thuộc quyền Lý, nhưng thỉnh thoảng cũng còn theo Tống (VII/3).

Trại HOÀNH SƠN gồm phần đất giữa biên thùy Cao Bằng ngày nay và hữu giang. Những động giáp châu Quảng Nguyên ở đất ta là Hạ Lôi, Ôn Nhuận (bây giờ là Hồ Nhuận).

Nhìn biên giới Tống Việt trên bản đồ, ta sẽ thấy chỉ chừng một phần tư biên giới Trung Việt ngày nay là khá định; nghĩa là ảnh hưởng Lý và Tống tiếp xúc thực sự. Còn dư, về phía tây, đều thuộc những bộ lạc hầu như độc lập. Ai mạnh, kẻ nấy cai quản.

Đường biên giới hình một đường cung, một phần tư vòng tròn, tâm ở Ung Châu, một bán kính chỉ xuống phía nam, một bán kính chỉ sang phía tây. Cái địa thế đất ta ôm đất Ung Châu là cớ quan trọng trong việc biên dân thuộc quận Ung Châu, và giúp thắng lợi cho cuộc tấn công vào thành Ung Châu của Lý Thường Kiệt sau này.
_____________________________________
1. Nay ở gần phía đông thành Lạng Sơn có trang Bình Tây (ĐKĐD), có lẽ là Tây Bình mà đổi ra. Vả theo TS quyển 488, châu Tây Bình có huyện Như Ngao. Nay còn làng Như Ngao ở phái tây Lộc Bình. Suy đó mà đoán, Tây Bình là vùng gồm tỉnh lị Lạng Sơn và Lộc Châu là vùng gồm Lộc Bình ngày nay,
   Lại theo Quảng Đông Chí, ở biên giới Khâm Việt có sông tên An Nam. Xét bản đồ, thấy sông ấy nay ở địa phận Khâm Châu. Vả trong các sách địa chí ta, Bạch Long Vĩ thuộc nước ta. Nay thuộc Trung Quốc. Sử lại ghi rằng đời Mạc, Mặc Đăng Dung đem các động Tư Lẫm, Cổ Sum, Liễu Cát, La Phù, Kim Lặc, thuộc hai đô (như tổng) Như Tích và Chiêm Lãng, hiện cho vua Minh. Sách Khâm Châu Chí chép rõ ràng hơn: Mấy châu ấy đời Tống là đất riêng của họ Hoàng coi; gần như độc lập, tuy rằng vua Tống ban chức trại chúa. Đầu đời Minh, Trung Quốc thu ấn của trại chúa. Rồi chỉ coi các đắt ấy như những động, và cho Hoàng làm động trưởng. Đời Minh Tuyên Đức, tức là lúc Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, các động ấy về Lê. Đến đời Minh Gia Tĩnh, Mạc Đăng Dung đem biếu vua Minh để cầu phong.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2009, 11:26:29 am »


2- Dân vùng biên-giới

Hai bên biên giới, từ Bảo Lạc đến châu Vĩnh An, giáp Khám Châu, sinh tụ nhiều dân tộc riêng biệt, không phải Việt mà cũng không phải Trung Hoa. Cả hai nước Tầu và ta đều gọi chúng bằng tên chung: Man-dân.

Thật ra, Man dân gồm nhiều giống khác, có lẽ từ đời Tống, Lý, đến nay không thay đổi mấy. Theo các sách và sử, ta sẽ phân biệt các dân ấy bằng họ.

Ở cực đông, có họ Hoàng ở hai mé biên giới, tại động Như Tích và châu Vĩnh An. Họ Hoàng nhỏ nhưng đã từng làm châu mục ở Vĩnh An.

Họ Vi là một họ lớn, chiếm vùng Tư Lăng, Lộc Châu, Tây Bình ở Tống và châu Tô Mậu ở ta. Các động trưởng ở vùng này đều họ Vi. Họ Vi có ba họ khác nhau, Nùng, Hoàng, Chu, mà bốn họ mà Tống sử (TS 495), nhận là dân Khê Động vùng Tả Giang và Hữu Giang.

Tả Giang và Hữu Giang là hai nguồn sông Tây Giang ở Lưỡng Quảng. Hữu Giang phát nguyên từ Vân Nam, chảy xuống qua Quảng Tây, theo hướng đông nam. Tả Giang phát nguyên từ chỗ giáp giới tỉnh Cao Bằng và Vân Nam, chảy qua Cao Bằng, rồi theo chiều đông bắc, qua Quảng Tây và hợp với Hữu Giang ở phía thành Ung Châu. Sông Ô Bì (Kỳ Cùng) là một nhánh của Tả Giang.

Các họ Nùng, Hoàng, Chu vân vân, ở trong triền hai sông ấy. Họ Nùng phần lớn ở bốn châu: An Bình, Vũ Lặc, Tư Lãng, Thất Nguyên thuộc Tả Giang và ở Quảng Nguyên, tức là trên đất Cao Bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu Giang, nhất là ở bốn châu An Đức, Qui Lạc, Lộ Thành, Điền Châu, tức là phía bắc và tây bắc biên giới Cao Bằng. (LNĐĐ và QHNHC)

Sự phân biệt bằng địa điểm như thế không tuyệt đối đúng. Thật ra, các họ ở lẫn nhau. Họ Nùng ở các châu phía tây đạo Đắc Ma (thuộc Vân Nam), và họ Hoàng cũng ở phía đông đất Quảng Nguyên.

Hai đạo Tả và Hữu Giang gồm 50 đến 60 động (TS, QHNHC). Tù trưởng các động ấy khi trước đều tự lập. Đời Đường có viên kinh lược Ung Châu, là Từ Thân Hậu, chiêu dụ; nên mới theo Đường.

Từ khi Tống lập nước, quan Tống coi Quế Châu, hay là coi Ung Châu, đã tìm cách thu phục các khê động ấy. Nhưng thật ra cũng chỉ có các động, gần các đồn binh Tống theo. Còn các động ở xa, thì hoặc tự lập, hoặc chỉ nạp cống ít nhiều lấy lệ, hoặc đã theo Lý. Các châu Vạn Nhai (Vũ Nhai ở Thái Nguyên ngày nay) Vũ Lặc (ở Cao Bằng) Quảng Nguyên, đều nộp cống cho vua Lý.

Nước ta nhỏ, nên đường đất từ kinh đô đến các khê động ấy không xa. Lý kiểm soát vùng tây tả giang dễ dàng hơn quan Tống đóng ở Ung Châu. Sử ta còn chép rõ các việc vua Lý hay các hoàng tử dẹp loạn ở vùng ấy1. Nhưng cũng có bộ lạc, thỉnh thoảng bất bình vì một việc gì, đều bỏ đất này qua đất khác. Vì thế, cương giơi ở vùng này còn lưu động. Vua Lý rất quan tâm mở cõi về vùng ấy.

Còn quan Tống, thì giữ thế thủ. Ấy bởi vì đối với Tống, đất nào cũng đã cho là thuộc mình rồi. Cho nên, quí hồ dân khê động không quấy rối vùng đồng ruộng dọc sông, quan Tống không cần hỏi đến. Muốn gìn giữ đất vùng xuôi, quan Tống đã đặt ra những trại, tức là đồn ở biên giới chia dân khê động và Hán dân. Đối với tả, hữu giang và nước ta, Tống đã đặt năm trại thuộc Ung Châu: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long, và hai trại thuộc Khâm Châu: Như Tích và Để Trạo.

Sau này ta sẽ thấy rằng, tất cả các việc lôi thôi giữa Lý và Tống đều bởi những cuộc xung đột giữa các dân khê động, hoặc tự ý tranh giành, hoặc tự triều đình Lý xui giục.

Nội trong các dân khê động trên đất Lý, họ Thân chiếm một địa vị đặc biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng Châu.

Họ Thân ba đời làm phò mã dưới triều Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra Thân; chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.

Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay và phía nam ải Chi Lăng2. Đất này là chỗ rất quan yếu. Nó chặn con đường lớn nhất từ Ung đến nước ta. Mà đối với trại Vĩnh Bình của Tống thì có các đèo ải rất hiểm thuộc huyện Quang Lang che chở. Muốn qua huyện ấy phải qua hai ải rất hiểm: ải Quyết Lý kề phía bắc Ôn Châu ngày nay và ải Giáp Khẩu, tức Chi Lăng ở phía nam Ôn Châu. Trong cuộc Lý Tống chiến tranh sau này, hai ải ấy sẽ có công dụng rất lớn.
______________________________________
1. Sau đây, kể những việc dẹp loạn can hệ trong đời Lý Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông.
    Năm 1013, Lý Thái Tổ thân chinh giặc Hạc Xác (Vân Nam) ở Kim HoaVĩ Long (huyện Kim Anh và châu Chiêm Hóa ngày nay).
    Năm 1014. Dực thánh vương đánh Dương Trường Huệ cũng ở vùng ấy.
    Năm 1015, Dực thánh vương và Vũ đức vương đánh Hà Trắc Tuân ở các Đô Kim (huyện Hàm Yên), Vĩ Long (Châu Chiêm Hóa), Thường Lân (?), Bình Nguyên (Châu Vĩ Xuyên), thuộc vùng Tuyên Quang, Hà Giang bây giờ.
    Năm 1022, Dực Thánh Vương đánh Đại quang lịch, đốt kho tàng ở trại Như Hồng (khoảng giữa Mông Cái và Khâm Châu).
    Năm 1021, Thái tử (sau là Lý Thánh Tông) đánh châu Phong Luân (?) và Khai quốc vương đánh châu Đô Kim (xem trên, 1015)
    Năm 1029, Thái tử (sau là Lý Thánh Tông) đánh châu Thất Nguyên (châu Thất Khê), Đông chinh vương đánh châu Văn (châu Văn Uyên, Văn Quan vùng tây nam Lạng Sơn).
    Năm 1033, Lý Thái Tông than chinh châu Đinh Nguyên (có lẽ vùng Yên Bái) rồi thân chinh châu Trễ Nguyên (?).
    Năm 1036, Khai hoàng vương đánh dẹp các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên (xem trên. 1015) Quảng Nguyên (Cao Bằng), Lạng (nam Lạng Sơn và bắc Bắc Giang), Tô Mậu (phía đông Bắc Giang), vì dân các châu này đánh Tống. Về việc này, chắc là chính vua Lý sai các châu ấy đánh Tống. Vì Tống trách, nên giả vờ sai quân dẹp.
    Cũng năm ấy, Thái Tông thân chinh Lâm lây (vùng Hưng Hóa, Thanh Sơn ).
    Năm 1039, Thái Tông thân chinh Nùng Tồn Phúc ở Quảng Nguyên (Cao Bằng).
    Năm 1041, vua sai tướng đánh Nùng Trí Cao cũng ở đó.
    Năm 1042, Khai hoàng vương đánh châu Văn (xem 1029)
    Năm 1048, Vũ uy hầu và Quách Thịnh Di đánh Nùng Trí Cao ở Quảng Nguyên (Cao Bằng).
    Năm 1061, Thánh Tông thân chinh động Sa Đảng (?)
    Năm 1064, Thánh Tông thân hành động Ma Sa (Đà Bắc, Hòa Bình ).
    Năm 1065, Thánh Tông thân chinh châu Mường Quán (vùng Sơn La).

2. Các sách TS và TB chép nhiều lần họ Thân kéo quân vào đánh trại Vĩnh Bình ở Tống. Vậy động Giáp, tức là quê họ Thân không xa biên giới Vĩnh Bình. Ta lại biết rằng họ Thân từng làm châu mục Lạng Châu (VSL: Thân Thiệu Thái làm châu mục Lạng Châu năm 1060). Động Giáp thuộc Lạng Châu. Lạng Châu gồm tỉnh Bắc Giang (Phủ Lạng Thương ngày nay) và phần nam tỉnh Lạng Sơn, Động Giáp ở về phần nào?
    Sách VSL có phép: năm 1059, vua Lý Thánh Tông đi săn vùng sông Nam Bình, thuộc Lạng Châu; nhân đó tới chơi nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên. Ta biết rằng Cảnh Nguyên là con Thiếu Thái và công chúa Bình Dương: lấy công chúa Thiên Thành năm 1066 (VSL). Vả lại, nhờ chuyện Trương Hống, Trương Hát chép ở sách VĐUL, ta cùng biết rằng sông Nam Bình là sông Thương ngày nay (xem phụ lục ở cuối). Với những điều tham khảo trên, ta thấy rằng: năm 1059, Lý Thánh Tông đi săn vùng Bắc Giang, gần sông Thương lắm, và nhân đó vua tới nhà Thân Cảnh Nguyên ở động Giáp. Ta có thể kết luận rằng động Giáp không xa sông Thương lắm, và chắc ở trong hạt tỉnh Bắc Giang ngày nay. Vả phía bắc ải Chi Lăng, có huyện Quang Lang, đất đai rất hiểm trở, và ít ruộng đất cày cấy được; một cự tộc như họ Thân chắc cai quản địa hạt giàu có hơn.
    Ngày nay, trong vùng Lạng Giang, còn có nhiều làng có tên Kép, như phố Kép trên đường xe lửa Phủ Lạng Thương đi Lạng Sơn là một, Kép chắc là bởi chữ Giáp mà ra và đó là những làng họ Giáp ở ngày xưa, theo TB, ta có thể đoán (XI/1) rằng ải Chi Lăng có tên là Giáp Khẩu. Tuy chữ Giáp đây là gần nhau, khác chữ giáp là họ Giáp, nhưng ta cũng có thể ngờ rằng động Giáp ở kề phía nam ải ấy.
    Về đời sau, còn có họ giáp, như Giáp Hải đậu trạng nguyên đời Mạc, họ Giáp này người huyện Phượng Nhãn cũng ở Bắc Giang. Cho đến các họ Thân hiển đạt đời Lê Thánh Tông (Thân Nhân Trung) cũng vậy.
    Phụ Lục. - VĐUL chép chuyện Trương Hống và Trương Hát hiện lên giúp vua Ngô Nam Tấn. “Hai thần hội quân ở cửa hù Lan (Lục đầu) Anh (Hống) đóng binh trên sông Vũ Binh, kéo tới sông Như Nguyệt, rồi lên nguồn sông Phú Lương (mấy khúc sông Cầu). Em (Hát) đóng binh ở sông Lạng, kéo vào sông Nam Bình.
    Nay Hát có đền thờ ở “cửa sông Như Nguyệt” tại làng Như Nguyệt ở Nam Ngạn sông Cầu; và Hống có đền thờ ở “cửa sông Nam Bình”, ở làng Phượng Nhãn ở Bắc Ngạn sông Thương.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM