Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:06:16 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý  (Đọc 60775 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 17 Tháng Ba, 2009, 10:04:56 pm »


Tên sách: Lý Thường Kiệt-Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
Tác giả: Hoàng Xuân Hãn
Nhà xuất bản: Hà Nội
Năm xuất bản: 1996
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



TỰA

Từ đời Tần, mỗi lúc có một họ thống nhất Trung Hoa, họ ấy liền nghĩ đến việc chiếm các nước nhỏ xung quanh. Tần có Nhâm Hiêu, Triệu Đà; Hán có Lộ Bác Đức đều đã đạt mục đích là diệt họ đang cầm quyền ở đất Việt.

Sau trong khoảng độc lập hoàn toàn trở lại ở nước ta, những cuộc xâm lăng bắt đầu từ đời Tống, dưới triều Tống Thái Tông, tướng Tống tưởng lấy nước ta dễ, đã khinh cử, nên thất bại hoàn toàn bởi tay Lê Hoàn.

Lần thứ hai, dưới triều Tống Thần Tông, thế vua Tống và tể tướng Vương An Thạch rất to, nên sự xuất quân được dự bị một cách cẩn thận và đầy đủ: Quân hơn mười vạn, sửa soạn một năm, tướng tá tinh nhuệ, kế hoạch định rõ từng chi tiết.

Đáng lẽ nước ta lúc ấy bị đổi thành châu quận của Tống. May! Đương thời, có một vĩ nhân cầm quyền, có đủ óc chính trị, biết kết thúc nhân tâm, có cao tài lợi dụng thời cơ, có kinh nghiệm điều binh, khiển tướng.

Bậc ấy là Lý Thường Kiệt.

Bằng mót trận tấn công chớp nhoáng, Thường Kiệt phá các căn cứ địch, trước khi Tống khởi việc động binh, rồi rút về, cương quyết cố thủ trên sông, ngăn cản xâm lăng xuống đồng bằng. Khí hậu nóng, lam chướng độc, địa thế hiểm, thêm vào sự bất lực của tướng Tống, sự bất hòa giữa các kẻ cầm quyền chung quanh Tống Thần Tông, đã khiến cho trận tấn công vĩ đại của Tống đã phải ngừng trước cửa Thăng Long, gần nơi lăng tẩm nhà Lý và trước cánh đồng phì nhiêu ở trung nguyên nước ta.

Thường Kiệt hiểu thời cơ, chịu tạm nhường về thể diện, khiến Tống lui quân và ta bảo toàn binh lực. Sau đó Thường Kiệt biết dùng ngoại giao dựa vào binh lực ấy làm hậu thuẫn, mà đòi được đất đã mất. Cuối cùng không những Tống không dám dòm ngó cõi ta, mà bắc thùy nước Việt lại được khuếch trương và củng cố.

Đó là kỳ công của Lý Thường Kiệt.

Nhưng còn một kỳ công khác, đương thời không kém việc trên, mà đối với vận mệnh tương lai nước ta, lại còn to hơn nữa. Ấy là việc đánh Chiêm Thành.

Tuy trước thế kỷ XI, Chiêm Thành đã bị quân Trung Quốc hay quân ta đánh thua nhiều trận, nhưng dân Chiêm vẫn là dân thiện chiến và hiếu chiến. Vùng Thanh, Nghệ nước ta luôn luôn bị đe dọa, và Thăng Long cũng dễ bị phục kích từ bể đánh vào. Cho nên Lý Thánh Tông đã có cuộc đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt làm nguyên soái.

Đặc điểm là, không phải như mọi lần, chiến tranh chỉ có mục đích phá thành, giết chúa. Trái lại vua Chiêm được tha mà ta được ba châu cực bắc của Chiêm. Bước đầu của cuộc nam tiến của dân tộc ta là từ đó. Ta lại đẩy xa, về phương nam, những căn cứ khởi công của Chiêm; khiến cho đời sau, lúc thế nước ta suy, quân Chiêm không đủ sức thôn tính nước ta được.

Khuếch trương và củng cố biên thùy miền Nam, miền Bắc đã rồi. Thường Kiệt còn phủ phủ dụ dân miền thượng du ở vùng Thanh Hóa; khiến cho thanh thế nước ta trong triều Lý Thánh Tông và Nhân Tông đã đến tột bực và các đời sau được yên ở mặt tây.

Đối với một anh hùng dân tộc bậc nhất trong lịch sử nước ta, sử sách ta tuy có ghi công, nhưng chép sự nghiệp một cách sơ sài và sai lạc. Lại thêm các nhà văn phụ họa, làm cho ngày nay chúng ta rất mơ hồ về đoạn sử oanh liệt nhất của tiền nhân.



*
*   *

Trong hồi năm 1943, vì tránh máy bay oanh tạc Hà Nôi, tôi đã phải theo trường học vào Thanh Hóa. Trong khi nhàn rỗi, tôi đã để ý tìm tòi cổ tích, mà tôi biết có nhiều ở trong vùng. Tôi đã may mắn tìm thấy bốn tấm bia còn rõ chữ, trong đó có ba bia ghi công Lý Thường Kiệt đối với các chùa. Tôi đã sắp công bố sự phát giác kia liền. Nhưng tôi nghĩ đối với các vũ công của Lý Thường Kiệt, sử sách há lại không có đâu chép kỹ càng, để ta có thể soạn một sách kể lại toàn sự nghiệp sao?

Sau khi tìm tòi cẩn thận, tôi đã thấy một bộ sách đời Tống để lại, là Tục tư trị thông giám trường biên. Tuy nay đã mất lỗ mỗi vài phần, nhưng trong năm trăm hai mươi quyển còn nguyên, ta có thể lượm lặt những sự có liên quan đến việc bang giao Tống Lý.

Nhờ đó ta biết được một cách tường tận việc Lý Thường Kiệt đánh Tống, việc Tống xâm lăng nước ta, việc ta điều đình đòi đất. Những chi tiết vụn vặt rất nhiều, khiến ta có thể sống lại, hàng ngày, những phút vua tôi nhà Tống lo việc đánh nước ta, và nhờ đó, biết công lao của Lý Thường Kiệt.

Tham khảo với các sách cũ khác, soạn bởi người Tống hay người ta, tôi đã dọn xong quyển sách này. Tuy nhan đề Lý Thường Kiệt, nhưng thật ra là sử bang giao với Tống của nước ta về thế kỷ thứ XI, trong triều Lý.

Chắc có độc giả sẽ trách sự chênh lệch trong cách chép chuyện Tống và chuyện Lý: chuyện Tống kỹ càng; mà chuyện Lý đơn sơ. Tác giả cũng lấy điều ấy làm ân hận. Nhưng lỗi là tại dân tộc ta, hoặc đã ít biên chép việc đương thời để di truyền lại đời sau, hoặc không biết giữ những vết tích xưa; cho nên nay rất hiếm tài liệu của ta về việc ta. Tôi cũng biết rằng, muốn tránh sự chênh lệch, còn có thể bớt phần nói đến các việc Tống. Nhưng những việc vụn vặt ấy, trải qua chín trăm năm còn truyền lại, khiến ta như còn thấy trước mắt; há ta lại bỏ qua mà không công bố sao? Vả chăng, tôi đã ước lược đi nhiều. Và chỉ giữ đại cương hay chọn những chi tiết, nó càng rõ ràng bao nhiêu. Lại làm ta, đoán bấy nhiêu hành động của người nước ta, mà sử ta không biết bảo tồn.

Những việc tôi kể trong sách, hoàn toàn có chứng và được dẫn chứng. Cũng trong các hạng chứng, tôi chỉ để ý đến chứng chính xác mà thôi.

Không bịa đặt, không thiên vị, hết sức rõ ràng: đó là những chuẩn thằng1 tôi đã theo, trong khi viết cuốn sách này.

Tuy sách chưa được hoàn bị, vì cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc ta, không cho tôi những phương tiện khảo cứu thêm, nhưng chính cuộc tranh đấu ấy đã giục tôi đưa bản thảo hiến độc giả.

Mong ai nấy thấy rằng lòng dũng cảm, chí quật cường của dân tộc ta ngày nay có cội rễ rất xa xăm.

Mong ai nấy thấy một cách rõ ràng, cụ thể, sự nguy hiểm của một cuộc ngoại xâm, nhận thấy sự lo việc nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hy sinh, trí sáng suốt để xếp đặt, tính toán.

Đọc xong đoạn sử này, độc giả sẽ thấy, cách đây ngót nghìn năm, cha ông ta đã đủ tài năng, nghị lực để gây dựng, tổ chức và giữ gìn khoảnh đất gốc cỗi của Tổ quốc ta ngày nay, độc giả sẽ nhận thấy huyết quản của chiến sĩ bây giờ vẫn chan hòa máu nóng của tổ tiên, máu nóng mà không lẽ có người không mang một giọt. Dẫu trong nhất thời, có kẻ lỡ lầm làm hại nước, hoặc con dân một nước có ý tưởng dị đồng, trước nạn bại vong, giọt máu ấy cũng đủ gây nên chí quật cường, lòng tương ái.

Vẫn biết sống về tương lai, nhưng dĩ vãng là gương nên ngắm lại.

Vẫn biết tương lai là thế giới đại đồng, nhưng trước lúc ấy, nước mình phải là một nước thật.

Vẫn biết chớ vin vào phân tranh đời trước mà gây oán thù đời sau, nhưng biết rõ sự tranh đấu đời xưa, sẽ làm cho các nước càng kính nể nhau thêm, và mới hiểu vì sao mà phải cộng tác ngang hàng.

Đó là những ý tưởng và nguyện vọng của tác giả, trong khi viết bài tựa này. Tưởng cũng không lạc đề đối với vấn đề Lý Thường Kiệt.


                                                                                                              Viết tại Hà Nội tháng 5
                                                                                                                 Năm Kỷ Sửu (1949)
                                                                                                                  HOÀNG XUÂN HÃN

__________________________________
1. Chuẩn thằng (từ cổ): ý nói dây thừng lấy làm chuẩn (Căng dây làm chuẩn).

« Sửa lần cuối: 25 Tháng Giêng, 2021, 02:31:51 pm gửi bởi ptlinh » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2009, 10:17:16 pm »


Dẫn.
TÀI LIỆU

I. Tài liệu Việt Nam
II. Tài liệu Trung Quốc
III. Tục tư trị thông giám trường biên
IV. Các tên đất [/i]

Tài liệu dùng để viết sách này có thể chia ra hai thứ: tài liệu Việt Nam và tài liệu Trung Quốc.

I- TÀI LIỆU VIỆT NAM

Loại này ít và sơ sài. Ngoài những bia xưa, phần lớn là phỏng theo tài liệu cũ nay không còn, cho nên không thể nhận là đúng hay không. Tôi chỉ dùng những tài liệu xưa nhất và bỏ những tài liệu chép theo tài liệu cũ, trừ khi nào có một chi tiết không thấy trong tài liệu xưa. Nhưng những chi tiết ấy phần lớn không hoàn toàn tin được

A- Cũ nhất có các bia nhà Lý, phần lớn tôi phát giác ra.

1. Bia chùa Báo Ân ở núi An Hoạch làng An Hoạch, dựng năm Hội phong thứ 9, Canh Thìn 1100, kể khá rõ sự nghiệp Lý Thường Kiệt về khoảng ông cai trị Thanh Hóa.

2. Bia chùa Sùng Nghiêm diên thánh ở làng Duy Tinh, dựng năm Hội trường đại khánh thứ 9, Mậu Tuất 1110, kể công một vị nối chức Lý Thường Kiệt, đối với chùa ấy.

3. Bia tháp Sùng Thiện diên linh ở núi Long Đội, dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 2, Tân Sửu 1121, kể rõ các đức tính và sự nghiệp Lý Nhân Tông.

4. Bia chùa Hương Nghiêm ở núi Càn Nê làng Phủ Lý, dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 5, Giáp Thìn 1124, kể công Lý Thường Kiệt đối với chùa này.

5. Bia chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng Sơn làng Ngọ Xá dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 7, Bính Ngọ 1126, kể qua sự nghiệp Lý Thường Kiệt và công ông dựng chùa này.

6. Bia đền Ngọ Xá là đền thờ Lý Thường Kiệt, tuy mới dựng năm Tự Đức thứ 29, năm Bính Tý 1876, nhưng cũng là thần tích.


B- Sách Việt có nói đến Lý Thường Kiệt chỉ chừng bốn quyển cũ.
 
1. Trước hết, có Đại Việt sử ký, Lê Văn Hưu soạn đời Trần Nhân Tông, năm Nhâm Thân 1272; và Ngô Sĩ Liên đời Lê Thánh Tông có sửa chữa ít nhiều (năm Kỷ Hợi 1479, theo lời tựa của Ngô Sĩ Liên). Bản nay còn, là do sử thần đời Lê đính khảo hai lần (đời Huyền Tông năm Ất Tỵ 1665, và đời Hy Tông năm Đinh Sửu 1697). Bản in này còn gọi là Đại Việt sử ký toàn thư (Viết tắt TT). Tên Ngô Sĩ Liên đặt; nhưng khắc lại đời Nguyễn, và có sửa chữa thêm. Sự sửa chữa, thường bỏ những điều cho là vụn vặt quá, hay trái với tư tưởng luân lý và chính trị đương thời. Không biết rằng đoạn sử đời Lý do Lê Văn Hưu soạn, có bị đính khảo nhiều không? Tôi ngờ rằng có, như sau đây tôi sẽ chứng minh. Một sự chắc chắn là, theo bản TT còn nay, việc Lý Tống chiến tranh chép rất sơ lược và điều lầm.

Đời Nguyễn Tây Sơn, có khắc bản Đại Việt sử ký (1800), do sử thần dọn lại bản TT và có tham khảo sử Trung Quốc. Về Lý thường Kiệt bản này chính xác hơn. Nhưng tôi không dùng, vì sách ấy lấy gốc ở bản TT, và phần tham khảo Tống sử còn sơ lược. Tôi cũng không dùng bản Khâm định Việt sử thông giám cương mục trừ một vài chi tiết nhỏ, vì sách ấy cũng do các sách trên mà ra và không thêm gì chắc chắn hơn.

2. Trái lại tôi đã dùng nhiều một bộ sách nhỏ, sách Việt sử lược (viết tắt VSL) soạn đời nhà Trần, nay còn ở bộ Tứ khố toàn thư và đã nhiều nhà xuất bản Trung Quốc khắc. Sách này đổi họ Lý ra họ Nguyễn (theo phép húy đời Trần) và cuối có đề “Kim vương Xương phù” nghĩa là “vua nay hiệu Xương phù”, tức Trần Đế Nghiện (1377). Sách VSL chép đoạn Hùng Vương rất sơ sài, và không nói đến Lạc Long, đến các chuyện hoang đường; và tuy có nói đến Thục An Dương Vương, nhưng không kê thành Hồng Bàng kỷThục Kỷ như ở TT. Nay xét lời tựa của Ngô Sĩ Liên, và phàm lệ của sách TT, ta thấy rằng “Lê Văn Hưu trùng tu từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng”. Ta lại thấy chính VSL cũng chỉ có đoạn sử ấy. Ta có thể đoán rằng VSL là do một tác giả, cuối đời Trần, lược lại Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Riêng về Lý Kỷ, sách VSL chép nhiều chi tiết hơn TT, tuy lại có đoạn lược hơn. Bởi đó ta biết rằng Ngô Sĩ Liên đã dọn bớt tác phẩm của Lê Văn Hưu nhiều. TT còn nói tác phẩm ấy có ba mươi quyển. Thế mà nay nội dung thấy sơ sài. Đó là một chứng thứ hai sự bị ước giản ấy.

Sách VSL đã cho ta biết nhiều chi tiết về Lý Thường Kiệt, lúc đánh Chiêm và lúc Lý Nhân Tông mới lên ngôi.

3. Ngoài loại sử, còn có sách Việt Điện U linh, (viết tắt VĐUL), là một tập thần tích, Lý Tế Xuyên soạn đời Trần (1329). Nay còn bản viết. Trong sách này có chuyện Lý Thường Kiệt, chép khá kỹ, nhưng chỉ ghi những sự tích lớn và các chức tước lần lượt được phong. Sách này có lẽ đồng thời với Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, vì các sắc thần nói trong sách đều phong trước năm 1313. Nhưng tài liệu dùng, có thế có từ đời Lý, và chung với tài liệu dùng bởi Lê Văn Hưu.1

Dẫu rằng sách VĐUL chỉ còn sao chép, nhưng chuyện Lý Thường Kiệt có thể coi là chính xác và cho biết thêm một vài điều không thấy ở TT.

4. Cuối cùng, có sách Thiền Uyển Tập Anh ngự lục, (viết tắt TUTA) là chuyện các vị cao tăng ở nước ta từ đời thuộc Đường đến đời Trần. Cũng có một vài chi tiết nói đến Lý Thường Kiệt đối với các sư. Sách này cũng viết đời Trần, vì bản in cũ nay còn (năm 1715) đều đổi họ Lý ra họ Nguyễn, theo lệ húy đời Trần.
_______________________________________
1. Tựa sách VĐUL có niên hiệu: “ Hoàng triều Khai Hữu nguyên niên” tức là đời Trần Hiến Tông (1329). Nhưng họ tác giả là họ Lý. Biết rằng tất cả họ Lý bấy giờ đã đổi ra Nguyễn, ta có thể nghi rằng Lý Tế Xuyên ở đời Lý. Chức của Lý Tế Xuyên (giữ kinh Địa tạng, thư hỏa chính chưởng trung phẩm phụng ngư, chuyển vận sử ở An Tiêm lộ) rất có thể là chức đời Lý. Nếu thật như vậy thì đến đời Trần có kẻ sao lại, thêm và chữa sách VĐUL.

« Sửa lần cuối: 17 Tháng Ba, 2009, 10:19:10 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2009, 10:20:45 pm »


II- TÀI LIỆU TRUNG QUỐC

Tài liệu Trung Quốc về sử rất nhiều, tôi chỉ dùng những sách soạn dưới triều Tống hay với nguyên liệu Tống.

1. Sách căn bản tôi đã dùng là Tục Tư trị thông giám trường biên (viết tắt TB) của Lý Đào viết trong đời Nam Tống (thế kỷ thứ 12). Sau sẽ có một mục nói kỹ về sách ấy

2. Sách Tống sử (viết tắt TS) soạn đời Nguyên, với nguyên liệu đời Tống cho ta biết một ít việc không có trong TB. Tống sử gồm nhiều phần. Phần bản kỷ chép chuyện từng vị vua, chỉ cho ta biết một vài chi tiết thuộc lịch sử bang giao Lý Tống mà thôi.

Phần liệt truyện cho nhiều tài liệu hơn, hoặc là trong chuyện những nhân vật có liên quan đến nước ta, hoặc trong chuyện các ngoại quốc, như Giao Chỉ truyện, Quảng Nguyên châu man truyện, Chiêm Thành truyện.
 
Đáng lẽ Giao Chỉ truyện cho ta biết khá đầy đủ về đoạn sử này. Nhưng không may cho ta, chính đoạn “Lý Tống chiến tranh” lại bị khuyết. Sự khuyết ấy có từ lâu, có lẽ từ đời Tống. Sách Sử vĩ nói: “bản của Nhị Ung đã thiếu đoạn ấy rồi”. Có lẽ người Tống đọc đoạn này, cho là nhục quốc thể mà xé đi chăng. Tôi nói “xé”, vì câu văn, còn lại sau khoảng khuyết, đã thiếu đầu.

Phần thứ ba, là phần chí; ta có thể lượm lặt một ít tài liệu trong quan chí, lễ chí, dư địa chí...

3. Sách Đông đô sự lược viết tắt (ĐĐSL), Vương Xưng soạn đời Tống. Nội dung như phần bản kỷ và liệt truyện trong Tống sử, nhưng sơ sài hơn.

4. Những việc xảy ra ở biên thùy Tống Lý rất lớn, nên các danh gia đời Tống từng đã nói đến trong các ký tải của họ. Nay ta còn lượm lặt một ít trong các Tống thư. Như Tốc thủy kỷ văn của Tư Mã Quang, Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt, Đông hiên bút lục của Ngụy Thái, Đàm phố của Tôn Thăng, Nhị trình di thư của Trình Hạo và Trình Di, Kê lặc của Trang Xước, Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, Quế hải Ngu hành chí của Phạm Thành Đại, Tống hội yếu, vân vân.


III- TỤC TƯ TRỊ THÔNG GIÁM TRƯỜNG BIÊN

Sách này soạn ra bởi Lý Đào trong đời Nam Tống. Sách chép những sự xẩy ra từ đời Tống Thái Tổ đến lúc dời đô xuống miền nam (960-1126). Việc chia theo ngày tháng, chứ không chia loại; cho nên gọi là “trường biên”. Lý Đào đã dùng rất nhiều tài liệu nguyên trước mà nay không còn, trích những việc xẩy ra từng ngày, biên vào một phiếu, rồi bỏ phiếu ấy vào một hòm riêng. Xong, sao lại thành sách. Như vậy được hơn 4.400 việc, thuộc chín đời vua Tống.

Những văn tự Lý Đào dùng có Thực lục của các đời vua Tống tức là theo công văn, giao cho sử quán chép, Thời chính lục, Nhật lục tức là lục chép lời nói, việc làm của vua, do viện Thời Chính, Nhật Lục ở cạnh vua chép hằng ngày, và ghi những cử chỉ, tư tưởng riêng của vua. Hai loại này rất quý mà nay không còn đủ hay đã mất.

Lý Đào lại dùng các mộ chi, tức là bài bia kể sự nghiệp để ở mộ các vị đại thần. Do các đại nho đương thời soạn. Mộ chí các tướng đánh ta như Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt đã được dùng.

Một loại văn nữa rất quý là các tư kỷ của các nhà chức trách, như tư kỷ của Vương An Thạch, Tư Mã Quang, Tăng Bố; như Chinh nam nhất Tống văn tự của Quách Quý.

Các văn tập của các đại nho đương thời, không có quyển nào Lý Đào không được đọc tới, và đã được trích lục vào trong sách TB. Một phần các văn ấy nay còn, ta có thể khảo thẳng và so sánh.

Nói tóm lại, sách TB là một kho tài liệu, cực đầy đủ; tuy chưa phải là sử, nhưng nhờ sách ấy mà ta có thể viết sử.

Lý Đào là ai? TS liệt truyện cho ta biết rõ ràng.

Ông người Mỵ Châu, đậu tiến sĩ năm Thiệu Hưng thứ 8 (1138). Xuất sĩ, ông làm các chức như tri huyện, tri châu. Trong lúc làm quan, ông thấy sách Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, nên muốn tiếp tục công việc ấy. Không ở sử quán, mà làm công việc sử rất khó. Muốn được vua để ý tới, ông bắt đầu soạn Bách quan công khanh biểu dâng lên. Năm Càn Đạo thứ 3 (1167) được vua triệu về kinh. Năm sau ông đã dâng lên phần đầu sách TB, từ đời Kiến Long đến đời Trị Bình (960-1067) gồm 108 quyển (cách chia quyển lúc đầu khác bây giờ).

Năm 1169, ông được bổ vào Bí thư cục, coi viện Khởi cư xá và kiêm chức kiểm thảo viện Thực Lục. Thế là ông đã được một chức thích hợp với xu hướng ông. Nhưng vì ông nói mất lòng tể thần, nên phải xuất ngoại.

Năm đầu Thuần Hy (1174) ông được về kinh, nhưng sau lại phải đi xa. Ít lâu, ông được về Sử quán, làm biên tu viện Thực Lục. Trong thời kỳ ấy, ông vẫn tiếp tục soạn nối sách TB. Cho nên sau, tuy phải xa kinh, ông cũng soạn xong phần Bắc Tống. Năm 1180, ông dâng toàn sách lên vua Tống Hiếu Tông, vua sai để sách tại bí các.

Tự xét sách mình, Lý Đào đã nói “thà chịu chê là bề bộn hơn bị chê là sơ lược”. Vua Tống cũng khen “sách này thật không thẹn với sách Tư Mã Thiên”, rồi bổ ông làm Phu văn lâu học sĩ và coi làm quốc sử.

Ông xin về hưu năm Thuần Hy thứ 11 (1184) và mất năm ấy.

Các danh nho được đọc sách TB, đều khen ngợi và thán phục.

Bây giờ đọc phần còn lại, ta không khỏi sửng sốt về công phu vĩ đại mà một viên quan bé, phải thuyên chuyển nay đây mai đó, mỗi lần phải mang theo tài liệu đi đến nghìn dặm, đã cố gắng trong 40 năm, để làm xong bộ sách khổng lồ!

Sách rất to, ít ai chép lại nổi; cho nên không mấy ai được đọc. Đến đời Minh Thành Tổ (1405-1424) sách được chép vào bộ Vĩnh Lạc đại điển; nhưng cũng chỉ để trong bí các mà thôi. Đến đời Thanh Thánh Tổ, niên hiệu Khang Hy (1662-1721) mới được sao lại vào bộ Tứ khố Toàn thư, và do đó mới được truyền bá.

Nhưng bấy giờ sách đã khuyết mất ba khoảng: khoảng đầu, 4 năm, từ tháng 4 năm Trị Bình thứ 4 đến tháng 3 năm Hy Ninh thứ 3 (1067-1070); khoảng thứ hai, gần 4 năm, từ tháng 7 năm Nguyên Hữu thứ 8 đến tháng 3 năm Thiệu Thánh thứ 4 (1067-1097); và đoạn cuối là hai đời Huy Tông (1101-1125) và Khâm Tông (1126). Phần còn lại chia làm 520 quyển.

Đời Quang Tự thứ 7 (1881), có viên tuần phủ tỉnh Chiết Giang là Đàm Chung Lân đem khắc in. Ông tìm được một bản khá đầy đủ như bản Tứ khố Toàn thư và hai bản đời Tống nhưng khuyết nhiều. Ông so sánh cẩn thận với bản để ở bí các và các bản sao khác, rồi sai khắc. Nhờ đó nay có bản in rất đẹp và ít sai lưu truyền. Tôi đã dùng bản ấy. Sau còn tội dẫn chứng, có biên rõ số quyển, số trương theo đó.

Thực ra sách TB khó dùng, vì to mà chép theo thứ tự thời gian. Đời Tống, đã có Dương Trọng Lương có ý sao lại nhưng xếp thành mục; được hơn 400 mục. Sách ấy gọi là Tục tư trị thông giám trường biên bản mạt (viết tắt BM). Sách này rất tiện cho việc kê cứu. Riêng về việc Tống Lý bang giao, sách BM có ba mục: Giao Chỉ nội phụ (quyển 12) chép chuyện Đinh, Lê về trước; Quảng nguyên man bạn (quyển 50) chép chuyện Nùng Trí Cao, và Thảo Giao Chỉ (quyển 87) chép chuyện Lý Thường Kiệt đánh Tống và Quách Quỳ đánh Lý.

Tuy sách BM dùng tiện, nhưng tôi xét thấy rằng Dương Trọng Lương lúc sao lại, đã bỏ nhiều chuyện, cho là không quan hệ. Tôi đã dò lại bản TB và chỉ dùng BM để kiểm soát mà thôi. Cũng may rằng bản TB còn gần đủ và nhất là sử các năm 1070-1093 còn vẹn, cho nên ta biết khá đủ rõ đoạn sử chiến tranh này.

Người xuất bản sách TB cũng đã khắc cả bản BM. Ông lại còn có ý hay, tìm cách lập lại đoạn mất trong TB, bằng tài liệu lấy lại trong BM; vì BM soạn khi TB còn toàn bích. Kết quả thành sách Tục Tư trị thông giám trường biên thập bổ. Đối với việc Lý Thường Kiệt, sách ấy không cho biết thêm một điều gì. Thế mà đọc phần TB còn lại, ta nhận rằng trong khoảng đã mất, chắc có chép một ít việc. Đó là thêm chứng cớ rằng Dương Trọng Lương đã bỏ bớt nhiều trong khi soạn BM.

Giá trị của các tài liệu kể trên không đều nhau, và cũng không tuyệt đối là hay. Trong khi dùng, tôi đã gắng so sánh cân nhắc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2009, 10:21:54 pm »


IV- TÊN ĐẤT

Các tên đất chép trong sách Lý Thường Kiệt, phần lớn tên có đời Lý. Tôi đã gắng công tìm tên mới để nhận ở địa đồ. Sự ấy rất khó. Tuy đã có nhiều sách cũ làm việc ấy, như sách CM, Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo, Đại Nam nhất thống chí, và rất nhiều sách Tầu. Nhưng sự phỏng đoán trong các sách ấy có nhiều chỗ chắc sai hay thiếu. Khu nào tên cũ nay còn, và phần đất theo địa thế hợp lý thì tôi nhận. Ngoài ra, lý luận phải lấy điều kiện nhân sự và địa thế hợp lý nhau làm chuẩn. Còn sự trùng tên, hay gần tên, chỉ là một chứng phụ mà thôi - nếu thật nó có thể dùng được.

Tôi tưởng rằng, sau khi đọc sách này, độc giả sẽ thấy rằng các tên quan trọng đất Tống hay ta, dọc biên thùy, và các chiến trường trên đất ta, nhận như trong sách này, có phần đúng lẽ.


PHÀM LỆ

1. Chép thời điểm. Thời điểm, gồm ngày, tháng, năm. Trong sách này, chép theo lịch dùng đương thời, ngày và năm theo lối Giáp Tý và niên hiệu. Khi có việc nào quan trọng, tôi có đổi ngày tháng ra dương lịch. Còn năm, thì khi nào cũng chú thích năm tây. Tôi đã dùng một phép riêng để đổi ngày mà tôi đã giải trong báo Khoa học số 19 và 20. Các chữ viết tắt như sau:

Về Can, có 10: G(giáp), A(ất), B(bính), Đ(đinh), M(mậu), K(kỷ), C(canh), T(tân), N(nhâm), Q(quý).

Về Chi, có 12: Ty(tí), Su(sửu), Da(dần), Ma(mão), Th(thìn), Ti(tị), Ng(ngọ), Vi(mùi hay vị), Ta(thân), Zu(dậu), Tu(tuất), Ho(hợi).

Về giáp Tý có 60: Ví dụ A.Ma(ất mão).

Về Thời điểm - Ví dụ: 20-12 năm A.Ma (Đ.Vi, DL28-1-1076) phải đọc ngày 20 tháng chạp năm Ất Mão, là ngày Đinh Mùi, dương lịch là 28 tháng giêng năm 1076.

2. Chép chứng: - Khi nào chứng là một sách, thì tên sách viết hoàn toàn hay viết tắt (theo bảng sau), bên cạnh có chữ số là số mục quyển trong sách ấy; nếu muốn biên số chương ở một bản nào thì sẽ có một sổ xiên rồi sau đề số tờ và theo sau có chữ a (là mặt trước) hay b (là mặt sau).

Chỉ có khi nào chứng dùng sách TB thì mới ghi chương như thế và lấy ở bản khắc của Đàm Chung Lân.

Ví dụ: TTh9: sách Tốc thủy kỷ văn quyển 9

TB 273/3a: Sách Tục Tư tri thông giám trường biên quyển 273, tờ 3, mặt trước.

Ts: Tống sử

Khi dẫn chứng bằng sách Toàn thư, Việt sử lược, tôi chỉ dẫn năm làm thôi. Vì biết năm thì tìm trong các sách ấy rất dễ. Thỉnh thoảng có dẫn số quyển và số chương trong sách TT (bản in đời Nguyễn ), nhưng cũng ít khi.

Khi dẫn chứng tự lấy trong sách Lý Thường Kiệt này, thì chỉ ghi số mục chương, số mục đoạn, hay số mục chú thích. Ví dụ:

(IV/3): chương IV, đoạn 3 trong sách này.

(V/cth2): chương V, chú thích 2.

3. Bản đồ các bản đồ đều ở cuối sách. Lúc giở bản đồ hiện ra ngoài, để tiện cho việc vừa đọc vừa tra.

4. Chữ nho xem các bảng chỉ ở cuối sách.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2009, 10:41:27 pm »


BẢNG VIẾT TẮT CÁC TÊN TÀI LIỆU

Dẫn chứng

Trong sách này mỗi lúc chép chuyện gì lấy ở một tài liệu nào thì cuối đoạn ấy, có dẫn chứng bằng cách viết tắt tên tài liệu ấy vào trong hai vòng đơn.

Trong bảng dưới này, cột đầu là tên viết tắt. Sau có tên tài liệu. Rồi, nếu biết tên tác giả, thì ghi tên bằng chữ xiên. Cuối là ghi tài liệu ấy viết vào thời đại nào.
ANC         An Nam chí lược. Lê Tắc (Trần)
ANCB       An Nam chí nguyên. Cao Hùng Trưng (Minh)
B             Lebouddhisme en An Nam. Trần Văn Giáp
BA           Bia chùa Báo Ân (Lý)
BM           Tục Tư trị thông giám trường biên bản mạt. Dương Trọng Lương (Tống)
CM           Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Nguyễn)
CN           Chinh nam nhất tông văn tự. Quách Quỳ (Tống)
ĐĐSL        Đông đô sự lược. Vương Xưng (Tống)
ĐHBL        Đông hiên bút lục. Ngụy Thái (Tống)
ĐKĐĐ
ĐNNTC     Đại Nam nhất thống chí (Nguyễn)
ĐP           Đàm phố. Tôn Thăng (Tống)
HN           Bia chùa Hương Nghiêm (Lý)
HVDĐC     Hoàng Việt dư địa chí. Phan Huy Chú (Nguyễn)
KL           Kê Tặc. Trang Xước (Tống)
LNĐĐ       Lĩnh ngoại đai đáp. Chu Khứ Phi (Tống)
LX           Bia chùa Linh Xứng. Hải chiếu đại sư Pháp Bảo (Lý)
MC          Mộ chí: Quách Qùy. Phạm Tổ Vũ (Tống)
              Triệu Tiết. Phạm Bách Lộc (Tống)
              Yên Đạt. Tăng Bố (Tống)
              Lưu Khánh Đàm (Lý) Lưu Khánh Ba (Lý)
MKBĐ       Mộng khê bút đàm. Thẩm Hoạt (Tống)
NB           Thần phổ Lý Thường Kiệt. Nhữ Bá Sĩ (Nguyễn)
NL           Nhật lục (Tống)
NTDT      Nhị Trinh di thư. Trình Di và Trình Hạo (Tống)
PBTL       Phủ biên tạp lục. Lê Quý Đôn (Lê)
QHNHC    Quế Hải Ngu hành chí. Phạm Thành Đại (Tống)
SK          Đại Việt sử ký (Nguyễn Tây Sơn)
SNDKT     Bia chùa Sùng nghiêm diên thánh. Hải chiếu đại sư Pháp Bảo (Lý)
STCT      Sở thụ chiếu trát tăng tu. Quách Quỳ (Tống)
STDL       Bia tháp Sùng thiên diên linh. Nguyễn Công Bật (Lý).
TB          Tục tư trị thông giám trường biên. Lý Đào (Tống)
TCK        Thời chính kỷ (Tống)
THY        Tống Hội yếu (Tống)
TL          Thực tục: Tống Thần Tông (Chu bản và Mặc bản)
             Tống Triết Tông (Tống)
TNDĐC    Thiên Nam dư địa chí (Lê)
TNTC      Thiên Nam tứ chi (Lê)
TS          Tống sử (Nguyên)
TS          14, 15 Thần Tông kỷ.
TS 290    Quách Quỳ truyện. Định Thanh truyện.
TS 235    Dư Tĩnh truyện.
TS 332    Triệu Tiết truyện... Lý Sư Trung truyện. Lục Sắn truyện.
TS 334    Thẩm Khỉ truyện. Lưu Di truyện. Tiêu Chú truyện.
              Hùng Bản truyện. Đào Bật truyện.
TS 349    Yên Đạt truyện. Diêu Tự truyện.
TS 350    Hòa Mân truyện. Khúc Chẩn truyện.
TS 446    Tô Giảm truyện.
TS 488    Giao chỉ truyện.
TS 489    Chiêm Thành truyện.
TS 495    Quảng Nguyên châu man truyện: Nùng thị.
TT          Đại việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên (Lê)
TTH        Tốc thủy kỷ văn. Tư Mã Quang (Tống)
TUTA      Thiền tuyển tập Anh ngự lục (Trần).
ƯTDĐC     Ức Trai dư địa chí (Lê)
VĐLN       Vân Đài loại ngữ. Lê Quý Đôn (Lê)
VĐUL       Việt điện u linh. Lý Tế Xuyên (Trần)
VKT         Việt kiệu thư. Lý Văn Phương (Minh)
VSL         Việt sử lược (Trần)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2009, 06:59:08 pm »


PHẦN THỨ NHẤT
BẠI CHIÊM PHÁ TỐNG



CHƯƠNG NHẤT
GỐC TÍCH

1. Gốc tích - 2. Vào cấm dinh - 3. Kinh phỏng Thanh Nghệ



1. - Gốc tích

Lý Thường Kiệt quê phường Thái Hòa, ở trong thành Thăng Long, phía hữu (VĐUL) nghĩa là phía tây (HVDĐ). Thái Hòa cũng là tên một núi nhỏ ở phía tây trong thành Thăng Long, bây giờ, ở phía nam đê Bách Thảo, gần chỗ rẽ xuống trường đua ngựa, Lý Thường Kiệt có nhà ở gần núi ấy.

Tuy là họ Lý, nhưng ông không phải là người hoàng tộc. Theo bia NBS, có chỗ chép tên húy ông là Tuân, và nói Thường Kiệt chỉ là tự mà thôi. Nhữ Bà Sĩ bàn rằng có lẽ ngày xuất thân mới dùng tự làm tên.

Cha, tên An Ngữ, sung chức Sùng ban lang tướng1 ở triều Lý. (VĐUL)

Mẹ, họ Hàn. Năm hai mươi tuổi sinh Thường Kiệt. Ấy vào năm Thuận thiên thứ 10 (1019) đời Lý Thái Tổ. Sau lại sinh Lý Thường Hiến, mà có chỗ cũng gọi là Thường Hiển. (NBS)

Khoảng niên hiệu Thiên thành, đời Lý Thái Tông, cha đi tuần biên địa, ở Tượng Châu thuộc Thanh Hóa, bị bệnh rồi mất vào năm Tân Mùi (1031). Thường Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. (NBS). 

Chồng cô, Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng. Ông trả lời: “Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ2, lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện”. Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.

Thường Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng thành tài.

Đoạn trên này, chép theo bia NBS, là một bia mới dựng đời Tự Đức. Chắc rằng Nhữ Bá Sĩ chép theo thần phổ. Thần phổ phần nhiều là lời chép tục truyền hay lời bịa đặt, ta không thể hoàn toàn tin những chi tiết quá rõ ràng chép trong thần phổ. Nhưng sự giáo dục Thường Kiệt kể trên đây là hợp với những điều ta còn biết về đời nhà Lý.

Từ lúc nhà Đinh mở nước, các vua đều lấy vũ công mà gây dựng cơ đồ. Đến Lý Công Uẩn, xuất thân cũng là tay vũ-tường. Cho nên triều đình và xã hội bấy giờ chuộng vũ. Thanh niên thì lấy nghề làm tướng là vinh. Hễ mỗi khi có giặc-dã nổi lên, tuy tại nơi rất xa lánh, vua cũng thân chinh, hoặc sai hoàng tử đi cầm quân. Lý Thường Kiệt con một vũ tướng, được dạy nghề vũ, thích nghề vũ; sự ấy là lẽ dĩ nhiên.

Còn về nho học, bấy giờ chưa thịnh. Phần vì óc thượng vũ, phần vì tục mộ phật và dị-đoan rất mạnh ở dân gian cũng như trong cung điện, cho nên nho học, từ đời Hán đưa vào, tuy bấy giờ vẫn được duy trì, nhưng phải đợi đến năm 1070 mới dựng văn miếu, và năm 1075 mới có khoa thi nho3. Trước năm 1040, Lý Thường Kiệt học sách nho, là một việc đáng được chú ý và ghi chép.

Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống tang. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. (NBST) lúc hết tang, nhờ phụ ấm, Thường Kiệt được bổ chức Kỵ mã hiệu úy, tức là một sĩ quan nhỏ về đội quần cưỡi ngựa.
__________________________________
1. Theo (ANCL), trong quan chế đời Lý có hai tên Sùng ban và Lang tướng, nhưng sách ANCL chép hai tên ấy rời nhau. Sùng ban và Lang tướng là hàm lang tướng thuộc ban Sùng ban, chăng? ANCL có chép hàm Vũ nội lang tướng, thì chắc rằng hàm Sùng ban lang tướng có thật.
2. Vệ Thanh là một danh tướng đời Hán, bảy lần đánh Hung nô. Hoắc Khứ tức Hoắc Khứ Bệnh, con em gái Vệ Thanh, cũng là một tướng tài đời nhà Hán, đánh Hung nô nhiều lần.
3. Trước đó tuy chưa có đặt khoa cử, nhưng nho gia đã được trọng dụng. Trong việc bang giao với Tống phải cần đến nho thần biết ứng đối: biết làm thơ. Năm 1043 vua Lý Thái Tông du ngoạn ở núi Vũ Ninh, có nho thần đi theo làm thơ (TT).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2009, 07:59:43 pm »


2- Vào cấm đình

Năm lên 23 tuổi, là năm Tân Tị (1041), niên hiệu Can phù hữu đạo đời Lý Thái Tông, ông được bổ vào ngạch thi vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng môn chỉ hậu. Chức này là một chức hoạn quan.

Như trên đã nói, ông cưới vợ mấy năm về trước. Thế thì, vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm quan hoạn?

Về việc này có nhiều thuyết.

Bia LX, dựng đời Lý, chỉ nói tóm tắt rằng: “Lúc ông còn nhược quán, được cử vào cấm thát hầu vua Thái Tông hoàng đế”. Hai chữ nhược quán nghĩa là tuổi vào khoảng hai mươi, gần đúng như lời bia NBS. Sách VĐUL, đời Trần, chép rằng: “Vì ông có dáng mặt đẹp, nên mới tĩnh thân mà sung vào chức Hoàng môn chỉ hậu”. Theo hai sử liệu xưa trên, thì ông tự yếm mà làm quan hoạn.

Nhưng bia NBS có kể lại rằng: “Về việc này, có hai thuyết. Một thuyết: Lúc vua Lý Thái Tông đánh bắt được Nùng Trí Cao rồi thả ra (1041), ông nhất thiết can; vua cho là thất lễ, bèn phạt bắt tĩnh thân. Sau khi ông trở về nhà, vua lại triệu vào hầu cận”. Thuyết thứ hai là thuyết đã thấy ở sách VĐUL; rằng: Vua thấy mặt mũi đẹp đẽ cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm.

Lý Thường Kiệt đã tự yếm; đó là một sự thật, vì tuy thần tích có nói ông đã lấy vợ, mà sau, sử ta cũng như sách Mộng khê bút đàm của người Tống đều nói ông là một hoạn quan. Thuyết nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt và tha Nùng Trí Cao là vào tháng 11 năm Tân Tị, 1041. Và cũng năm ấy ông được vào cấm thát. Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông bị phạt nặng rồi được cất lên cao như thế. Vả không lẽ vua vừa tha và phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm một người tôi trung, trẻ tuổi.

Thuyết sau có lý hơn. Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày được ở cạnh vua. Nhất là từ đời Đường, hoạn quan lại càng được thế. Khi trước, tuy được vua tin nghe, nhưng hoạn quan cũng thường chỉ hành động trong cung thất. Từ đời Đường, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tĩnh thân để được chọn. Đối với Lý Thường Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm. Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi. Không biết bà vợ ra sao, hay là lúc ấy đã mất rồi. Không sách nào nói đến.

Ông vào cầm thát. “Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình” (Bia LX). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (VĐUL và bia NBS)

Năm Lý Thánh Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi) vì đã có công phù-dực, ông được thăng chức Bổng hành quân hiệu úy, tức là một chức vũ quan cao cấp.
 
“Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm hiệu thái bảo (Bia LX), tức là một chức tại triều rất cao1.


3. Kinh Phỏng Thanh Nghệ

Sách VĐUL (NBS cũng chép theo) chép rằng: “gặp lúc trong nước, ở cõi tây nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy rối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vào trao quyền tiện nghi hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều qui phục và được yên ổn”.

Ấy là lần thứ nhất ông lập vũ công.

Về việc loạn này, trong sách TT không thấy chép duy chỉ sách VSL có viết rằng: “năm 1061, Ngũ Huyện Giang ở Ái châu2 nổi loạn”. Ngũ Huyện Giang là tên một vùng thuộc lộ Thanh Hóa. Đời Tiền Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví dụ Bắc Giang lộ, Đà Giang Lộ. Theo hai bia đời Lý, bia HN và mộ chí Lưu Khanh Đàm3, Ngũ Huyện Giang chắc ở Thanh Hóa, là sông Mã ngày nay. Vả TT chép đời Lê và Lý dân Lữ Long nổi loạn, tức là dân Mường vùng Cẩm Thủy ngày nay. Ý chừng Lý Thường Kiệt vào kinh phỏng Ái Châu là để dẹp loạn Mường và đúng vào năm 1061 ấy. Bấy giờ ông 43 tuổi.
__________________________________
1. Sách VĐUL cũng chép như vậy, Kiểm hiệu nguyên là một chức giám sát. Đến đời Tống, chỉ là một hàm, dùng để ban gia cho các quan vào hàng cao nhất. Những hàm ấy, ở đời Lý kể từ cao xuống thấp, có: Thái sư, Thái úy, Thái phó, Thái bảo, Phụ quốc, Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu phó, Thiếu bảo. (ANCL).
2. Sách VĐUL nói: “Năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động”. Có lẽ muốn nói vùng thượng du Thanh Nghệ.
3. Bia HN chép: “vua Lê Đại Hành đi tuần du Ngũ Huyện Giang nhân tới thăm chùa Hương Nghiêm”. Chùa này ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (XV/1)
      Bia LKĐ chép: Lưu Khánh Đàm người thôn Yên Lang, thuộc Ngũ Huyện Giang, quận Cửu Chân (XV/1).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2009, 06:31:07 pm »


CHƯƠNG II
ĐÁNH CHIÊM THÀNH


1. Duyên cớ - 2. Sửa soạn - 3. Xuất quân: trận Nhật Lệ - 4. Trận Tu Mao - 5. Bắt vua Chiêm - 6. Khải hoàn. Tha vua Chiêm - 7. Kết quả


1 - Duyên cớ

Đầu đời Lý, Chiêm Thành là một nước phồn thịnh, địa giới từ vùng Bình Thuận đến vùng Quảng Bình ngày nay. Ở cực bắc có châu Bố Chánh, ở phía nam núi Hoành Sơn, giáp địa phận Hoan Châu thuộc nước ta.

Vùng biên giới ấy không khi nào được yên hẳn. Châu Hoan và Châu Ái bị quân Chiêm quấy nhiễu luôn. Các vua ta thông thường phải sai quân đi chinh phạt.

Ngay sau khi Đinh Tiên Hoàng mới nhất thống sơn hà, mà nước đã bị quấy. Nguyên là, Đinh Bộ Lĩnh đã diệt mười hai sứ quân, mà trong số ấy có Ngô Nhật Khánh. Nhật Khánh là dòng dõi Ngô Quyền. Bấy giờ y còn trẻ. Vua Đinh lấy mẹ y làm hậu, đem em gái y gả cho con trai mình là Liễn, và gả con gái mình cho Nhật Khánh. Tuy vậy, Nhật Khánh vẫn oán; bèn chạy vào Chiêm Thành. Cuối năm Kỷ Mão (979), Nhật Khánh đưa hơn nghìn thuyền Chiêm về đánh kinh đô Hoa Lư. Chẳng may, khi vào cửa bể Đại Ác và Tiểu Khang (thuộc hải phận Ninh Bình Nam Định ngày nay. Đại Ác nay là Đại An, tức là cửa Đáy, Tiểu Khang thuộc huyện Yên Mô), thuyền bị bão chìm. Quân Chiêm tan và Nhật Khánh cũng bị chết. (TT)

Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, sai sứ sang giao hiếu với Chiêm Thành (982). Hai sứ là Từ Mục và Ngô Tử Canh đều bị Chiêm giữ lại. Vua Lê mang quân vào đánh, phá thành trì, hủy tông miếu, giết chúa và bắt vô số dân đưa về. (TT)

Đó là cuộc nam phạt đầu tiên trong lịch sử độc lập của các vua ta. Chiêm Thành, vì đó, phải kinh sợ, nhún nhường. Có lúc vua Lê không chịu nhận sứ Chiêm, chúa Chiêm phải sai cháu là Chế Cai sang cống để tạ tội (994). Tuy vậy, năm 997 Chiêm lại ngấp nghé ở biên thùy. (TT)

Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, Chiêm Thành chịu cống. Năm 1011, có cống sư tử (có lẽ là tên cá sấu, xem II/4), nhưng năm 1020, vua Lý Thái Tổ đã phải sai con là Khai Thiên Vương và tướng Đào Thạc Phụ vào đánh đất Bố Chánh. (TT)

Chiêm Thành qua một hồi nội loạn: các con cháu hoàng tộc tranh ngôi nhau. Cho nên nam thùy ta cũng được tạm yên. Thỉnh thoảng phái nào thua lại còn đem đồ đảng sang nước ta xin phụ, như con vua Chiêm sang năm 1039, và năm 1040 dân Bố Chánh kéo nhau hàng trăm tới ở nước ta.(TS 489)

Trong khoảng 16 năm, Chiêm Thành không hề cống hiến gì ta nữa. Mùa hè năm 1043, lại còn tới quấy ở ven bể. Vì thế, năm 1044, vua Lý Thái Tông mới có cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 30 voi, 5.000 người, và chém giết đến ba vạn người. Tháng bảy năm ấy, vua Lý kéo quân vào kinh đô, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều. (TT)

Sau cuộc đại bại này, Chiêm Thành rất kính nể ta; và theo lệ cống hiến đều đều. Lúc hiến voi trắng, lúc hiến tê trắng, lúc sang mừng vua Thánh Tông mới lên ngôi. Sách TT và nhất là sách VSL chép rất rõ ràng1.

Sau khi cống vua ta một con tê trắng vào năm 1065 (VSL), Chiêm Thành không sai sứ sang ta nữa. Thật ra, sách TT có chép rằng “năm 1068, Chiêm Thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới”. Nhưng chắc TT lầm, vì một lẽ việc ấy không thấy chép ở VSL là sách chép rất đầy đủ về các việc Chiêm Thành cống vua ta, và lẽ nữa là còn có nhiều chứng cớ khác tỏ rằng từ năm 1065, Chiêm Thành tuyệt giao với ta2. Nhưng chừng ấy, sau sẽ rõ.

Chứng đầu là lời bia LX nói rõ rằng: “kịp đến khi nước Phật Thệ (tức là Chiêm Thành) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh”. Chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng: “Chiêm Thành đã lâu không tới cống tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về” (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065 - 1069) Chiêm Thành không tới cống vua Lý, và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy.

Nguyên nhân sự chiến tranh Chiêm-Việt là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi.

Một mặt, Lý Thánh Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại Việt (1054), tôn các vua trước là Thái Tổ, Thái Tông, (TS 488 và LNDV 2), coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm Thành thuần phục Tống.

Một mặt, Chiêm Thành trước bị Lý Thánh Tông đánh phá kinh đô, giết chúa, bắt dân, tự nhiên đã trở nên thâm thù với ta. Chiêm Thành lẩn lút sang thuần phục Tống và tìm cách dựa thế Tống để trả thù ta. Năm Tống Hoàng Hựu thứ 7 (1055), Quảng Tây an vũ sứ tâu rằng: “Chiêm Thành vốn không hay tập binh. Ở gần Giao Chỉ, thường hay bị lấn. Nay Chiêm Thành soạn sửa quân bị để chống Giao Chỉ.” (TS 489)

Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi là Chế Củ, (TT) hay là Đệ Củ (VSL), lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061, chí báo thù của Chiêm lại càng mạnh. TS 489 chép rằng “vừa mới lên ngôi, Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đê-ba (Yan Pu Cry Rudrarmandra, theo Le Roy yaume du Champa của Maspéro) tổ chức vũ bị, luyên tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng Châu”.

Xem thế thì ta cũng không lấy làm gì lạ rằng Rudravarman III không chịu cống vua Lý nữa, và vua Lý Thánh Tông nhân đó đánh Chiêm Thành. Xét chính sách triều Lý, sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm Thành hèn yếu hơn Tống vạn bội, chắc rằng vua Lý Thánh Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai.
___________________________________
1. Chiêm Thành tới cống những năm: 1057, 1059, 1060, 1063 (VSL).
2. TT chép năm ấy, châu Chân Đằng hiến voi trắng; cho nên vua đổi niên hiệu ra Thiên huống báu tượng, nghĩa là trời cho voi qúi. TT lại chép thêm: “Chiêm Thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới”. VSL cũng chép rằng: “Tháng giêng châu Chân Đằng hiến voi trắng. Châu Kỷ Lang (chắc là Quang Lang, VSL lầm chữ Quang là sáng ra chữ Kỷ là ghế, vì hai chữ tự dạng gần nhau) cũng hiến voi trắng. Tháng hai, huyện Đô Lập hiến voi trắng và công trắng”. Xem vậy, VSL không hề chép việc Chiêm Thành hiến voi trắng năm ấy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2009, 06:34:06 pm »


2- Sửa soạn

Đối với một cuộc hành binh vĩ đại như cuộc này, sử ta chép rất sơ lược. Hình như, đời Lê Thánh Tông, đoạn sử này, của Lê Văn Hưu để lại, đã bị thiếu sót, hay là Ngô Sĩ Liên biên Đại Việt sử ký toàn thư tự ý ước lược đi? Sách TT chỉ nói qua một vài câu, không ghi chi tiết gì cả. May còn có sách Việt sử lược từ đời Trần y nguyên còn lại, chép khá rõ ràng.

Theo TT, quân ta có 5 vạn. Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn huy động dân thường.

Theo Chu Khứ Phi (LNĐĐ 2) và Ngô Thì Sĩ (SK 3), khoảng đầu đời Lý, binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân cấm sương đời Tống. Mục đích đầu là bảo vệ nhà vua ở kinh đô, chống những việc đảo chính cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là thân quân, tên riêng là thắng quân hoặc cấm-quân. Cấm quân họp thành một vệ, gọi là cấm vệ. Cấm vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gần 200 người. Cả thảy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành, thường ngày túc trực. Lúc vua đi đâu xa, thì đi theo. Theo lệ nhà Lê, cấm quân đều có khắc ba chữ Thiên tử binh trên trán. Năm 1028, đời Lý Thánh Tông, có 10 quân cấm vệ, đặt tên là Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật, Đằng Hải, mỗi hiệu đều có tả quân, hữu quân. Đời Lý Thánh Tông, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm vệ bấy giờ gồm 16 quân, cộng 3.200 tên. Tên quân cũng đặt lại như sau (1059): Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiếp; mỗi hiệu cũng chia làm tả hữu.

Vì lần này, vua Thánh Tông thân chinh, nên 3.200 cấm binh này chắc ở trong số 5 vạn nói trên.

Mục đích thứ hai của lính là giữ cuộc trị an trong nước và chống cuộc ngoại xâm. Về việc này, dùng lính hạng nhì như loại sương quân ở Tống. Quân này không có số nhất định (ANCL). Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ở nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn. “Lúc chinh phạt, thì cất quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Việc xong rồi quay trở về cày ruộng”(SK). Trong khi phải đi phen, sương quân đóng ở các châu, huyện, để phòng bị khi có dụng binh. Hạng lính này, ngày thường, ít tập tành. Nhưng được số đông. Chắc trong số 5 vạn quân kia, sương quân chiếm phần lớn. Số 5 vạn chép ở TT có thật không? Nước ta dân số bấy giờ bao nhiêu, không thể biết được. Nhưng theo sự ta có thể chống lại 10 vạn quân Tống mấy năm về sau, thì ta chắc ta có hơn 5 vạn quân. Và phép kiểm điểm dân đinh bấy giờ rất ngặt, cách nuôi lính bấy giờ tiết kiệm. Dân không trốn được, nuôi lính không tốn; cho nên cất một đạo quân năm vạn chắc là dễ dàng1.

Đường giao thông bằng bộ vào Chiêm Thành gặp trở ngại. Theo sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao Chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi (TS489). Cho nên cuộc hành quân này chắc chắn chỉ dùng đường thủy. Mà thủy quân ta, từ trận Bạch Đằng đời Ngô Quyền, đã lập được nhiều chiến công.

Bắt đầu từ tháng năm năm trước, Mậu Thìn (1068), vua Lý sai sửa chữa và đóng thêm chiến hạm (VSL).

Tục ta đời xưa rất tin về điềm lành dữ, nhận đó là ý trời tỏ cho biết trước sự thắng lợi hay thất bại của việc mình dự bị làm; hay nó tỏ ý trời muốn xui hay ngăn mình làm một việc gì. Nhất về đời Lý, óc dị đoan lại càng mạnh. Sử gia để ý đến tất cả những sự vụn vặt, nhưng khác thường. Sử nhà Lý trong VSL, sách không bị đời Lê sửa bỏ bằng các nho hóa theo khổng giáo, còn chép rất nhiều những việc như voi trắng, sẻ trắng, rùa sáu chân, cau chín buồng. Chuyện rồng hiện nay nhiều lắm. Không biết bấy giờ có con vật gì (kỳ đà chăng?) người ta cho là rồng, mà sử chép rồng hiện khắp nơi.

Tháng tám năm Mậu Thìn (1068), Long Chu (thuyền vua), đậu ở bến, vô cố dời đi ba thước (VSL). Đó là điềm vua sắp đi đánh xa, và là điềm hay. Tháng chín, rồng vàng hiện ở chiếc thuyền bể lớn là Vĩnh Xuân và Thanh Lãn. (VSL)
______________________________________
1. LNĐĐ, quyển 2, chép rõ về binh chế đời Lý, như sau: binh lính một tháng đi phen một kỳ. Lúc rỗi thì cầy cấy tự cấp. Mỗi năm, ngày mồng 7 tháng giêng, mỗi tên lính được phát 300 đồng tiền và một tấm vải quyến. Mỗi tháng, mỗi người lính được cấp 10 bó lúa. Ngày đầu năm lại phát cơm nếp và cá mắm để khao quân.
      Trong sách SK, Ngô Thì Sĩ cũng chép tương tự như trên. ANCL chép: quân số không định trước. Tuyển dân tráng mà dùng. Lúc vội thì ra lính, lúc rỗi thì về cày ruộng.
      Về việc tuyển binh, đời Lý kiểm điểm rất cẩn thận. Phan Huy Chú trong sách LTHC viết: dân đinh lên 18 tuổi, phải đăng tên vào sổ. Sổ đóng bìa vàng. Cho nên hạng đinh này gọi là hoàng nam. Đinh trên 20 tuổi gọi là đại nam. Các đại nam đều có thể sung vào lính. Các nhà quan chức chỉ có quyền nuôi một đại nam mà thôi để hầu hạ. Mỗi quân có ba người bảo lĩnh; nếu ai giấu đại nam, thì cả bốn người đều phải tội.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2009, 06:46:33 pm »


3 - Xuất quân. Trận Nhật Lệ

Cuối năm Mậu Thìn (1068), thủy quân đã dự bị sẵn sàng. Đợi ra giêng, thuận gió bắc, sẽ xuất quân. Đến tháng hè, thuận gió nồm, quân sẽ trở về. Vua thân chinh sẽ chừng trong năm tháng.

Ngày Mậu Tuất tháng hai năm Kỷ Dần là ngày dương lịch 24 tháng hai 10691 vua Lý Thánh Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm Thành (VSL). Quân có 5 vạn (TT). Lý Thường Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong (VĐUL và bia NBS), kiêm chức nguyên soái (VSL). Ông xin cho em, là Thường Hiến đi theo; Hiến được trao chức tán kỵ vũ úy (bia NBS).

Số quân năm vạn kia chắc hoàn toàn đi đường thủy. Nếu mỗi mành chở được 250 quân và lương thực, thì phải chừng 200 chiếc. Lúc Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành (1044), đã sai đóng vài trăm chiếc. Vậy, chuyến này chắc cũng có số thuyền ấy.

Từ đời Lý Thái Tông, có đặt lệ tuyên thệ. Mỗi đầu năm, hay mỗi lúc có việc quan hệ, các triều thần hội lại, hoặc ở đền thờ vọng thần Đồng Cổ, hoặc ở sân Long Trì, rồi cùng phát lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết2. Lần này, vua sắp đi vắng kinh đô lâu. Sự biến rất có thể xảy ra trong nước. Kẻ có lòng tranh ngôi, sẽ có cơ hội rất thuận tiện. Vì vậy, ngày Đinh Mùi (DL 5-3) quân thần phải hội tại Long Trì để tuyên thệ.

Ba ngày sau, ngày Canh Tuất (DL 8-3 VSL chép Canh Dần, chắc lầm), vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền binh lại cho Ỷ Lan nguyên phi (TT) và Thái sư Lý Đạo Thành3.

Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị Hà), qua Lý Nhân hành cung (vùng Nam Xương), rẽ xuống phía nam, rồi ra cửa Đại An nay trên sông Đáy, cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần Liêu, huyện Đại An, tỉnh Nam Định. Cửa ấy hồi cận đại cũng có tên cửa Liêu Hải. Từ Lý về trước, cửa này là chỗ các thuyền mành qua lại để đi từ các sông nước ta ra bể vào Nam4.

Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long, thuyền đến Nghệ An; vào ngày Đinh Tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam Giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam Giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng Lĩnh, thuộc phủ Thạch Hạ, tỉnh Hà Tĩnh. Bờ nam cửa có núi, nay có tên núi Nam Giới. Từ Lý về trước, cửa này là cửa bể lớn cuối cùng ở miền nam nước ta, trước các cửa nước Chiêm Thành. Có lẽ tên Nam Giới (bờ cõi phía Nam) lấy nghĩa ở sự ấy. Cửa này can hệ, vì lẽ, lúc bấy giờ quân Chiêm thường vào nước ta bằng chỗ đó, và từ Nghệ An đi vào có con sông nhỏ dọc theo phía tây núi Hồng Lĩnh rồi ra cửa ấy. Đời sau lúc lên Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành cũng qua sông ấy5. Có lẽ Lý Thánh Tông cũng dùng đường này. Thật ra thuyền thường đi khoảng này, dài chừng 50 cây số, chỉ mất một ngày. Nhưng sông hẹp, chiến thuyền lớn, đi chậm hơn. Vả chắc quân có đóng nghỉ lại Nghệ An. Sách VSL chép: “Lúc tới Nghệ An, rồng vàng hiện ở thuyền kim phượng”, một thuyền riêng của Lý Thánh Tông. Ngày Canh Thân (DL 18-3), tới Nam Giới, “rồng” lại hiện ở thuyền ấy.
________________________________
1. TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vi tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. VSL chép ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không biết phép lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chỉ dùng phép đổi ra ngày dương lịch mà thôi (xem phép đổi trong báo Khoa học số 19 và 20). Nhờ sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy.
2. Lời thề: Vì tử bất hiếu, vì thần bất trung, thần minh cực chi (TT 2/15a).
3. Lý Đạo Thành làm Thái sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà Nguyên phi coi chính quyền. Nguyên phi tức là Ỷ Lan. Ỷ Lan chỉ là phi. Bấy giờ còn có hoàng hậu Thượng Dương. Vả sau khi Thánh Tông mất, quyền về tay hoàng hậu. Cho nên có thể nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho Dương hậu. Vua Tự đức đã phê và trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy giờ Ỷ Lan mới sinh hoàng tử, được vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm quyền. Còn sau này, hình như Thánh Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo Thành đề cử Dương hậu chấp chính. Xem vậy, sự Thánh Tông giao quyền cho Ỷ Lan trong lúc đi đánh Chiêm Thành, không phải là vô lý.
4. Tuy các sách không chép rõ đoạn đường này, nhưng đó là đường Thái Tông theo 25 năm về trước, và sau này cũng thường theo. Cửa Đại An trước có tên là Đại Ác hay Đại Á. Lúc Thái Tông qua đó, bể không sóng, cho nên mới đổi tên Đại Ác ra Đại An (TT). Nay huyện sở tại còn tên Đại An.
5. Xem thơ: Lê Thánh Tông trong Thiên nam dư hạ tập. Đoạn sông này có tên Sông Nghèn.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM