Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:34:56 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý  (Đọc 60875 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:14:16 pm »


2- Bộ binh

Bộ binh phần lớn lấy ở các doanh trại đóng gần biên thùy Liêu, Hạ. Một phần là quân có sẵn, đã được tập luyện hẳn hoi. Một phần là quân mới mộ ở các lộ Hà Bắc, Kinh đông, lại thêm quân mộ dọc đường từ kinh tới Ung Châu và quân khê động. Tổng số hơn mười vạn, chia ra chín đạo. Quân tuy nhiều, nhưng giá trị chiến đấu không đều. Lại là ô hợp, ngôn ngữ bất đồng; cho nên hiệu lệnh khó thông tri, làm thêm khó điều khiển.

Từ ngày 27 tháng chạp năm Ất Mão (G, Dn, DL 25-2-1076), đặt An Nam hành doanh và giao cho Triệu Tiết, thì đã định chuẩn bị mười vạn quân, tự Biện Kinh đến Ung Châu, và hai vạn quân từ Biện Kinh đến Quảng Châu. Lại sai biện một tháng lương, hẹn đến tháng giêng năm sau phải có đủ (TB 271/17a)

Vua Tống sai đình chỉ các công việc không gấp, như việc đào sông Câu Hà, để lấy phu dùng vào việc nam chinh (TB 271/18a).

Viên coi Quảng Châu, là Lưu Cẩn xin mộ các xạ sinh và lính dũng lực ở các châu, để sung vào việc ấy (13-1, C, Ng, DL 20-2; TB 272/4a).

Ý triều đình là tùy tiện đâu mộ động binh ở đó (lời chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây ngày 28 tháng giêng; TB 272/12a). Còn binh, nghĩa là lính chính thức, thì phải mộ ở vùng bắc; Thiểm Tây, Hà Đông; vì đó là nơi kỵ binh rất giỏi (theo chiếu ngày 13-2, TB 273/8a).

Đến lúc Quách Quì xin đem hết quân sĩ mình cai quản ở Phù Diên theo xuống miền nam (20 tháng 2) vua bằng lòng ngay, và hỏi: “Quân, cần chừng bao nhiêu?”. Quì tâu: “Cần nhiều, miễn sao cho đủ dùng, chứ nói ra không hết” (TL và TB 273/11b)

Cho nên ở các lộ gần miền nam đều phải mộ quân: Quảng Tây, Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến (TB 273/14b). Trong khi mộ quân, vua Tống sợ quân ta lẩn vào làm gián điệp. Ngày mồng 5 tháng 3 có chiếu dặn các lộ ở ven bể, như Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến phải coi chừng sự ấy, vua lại nói: “Tại Quảng Đông ít người khỏe mạnh, phải chọn người Quảng Châu. Họp 500 người thành một chỉ huy, đặt tên là Tân Đằng Hải như ở Quảng Tây” (TB 273/14b)

Ngoài các quân tuyển mộ, còn có các tướng tự ý tình nguyện đem quân mình theo, để lập công. Đổng Việt xin mộ 1000 quân nghĩa dũng ở các châu Thi và Kiềm; Lưu Vĩnh An có tội xin tòng quân chuộc tội.

Theo lời Quách Quì chép, bộ binh có mười vạn người và một vạn ngựa (CN và TB 274a). Quân miền bắc đưa xuống có chín tướng. Mỗi tướng quản chừng 5.000 quân. Vậy có 45.000 quân chính thức; còn dư là quân tuyển mộ ở miền nam, động đinh và quân tình nguyện.



3- Thủy binh

Trong cuộc xuất quân lần này, Tống ít chú ý về thủy quân. Các tướng thường quen trận địa miền tây bắc, là vùng cao nguyên và sa mạc, cho nên ít nghĩ đến cách lợi dụng đến chiến lược thủy quân.

Ban đầu, lúc định sai Triệu Tiết cầm quân, Vương An Thạch chỉ định sai Hứa Ngạn TiênLưu Sơ đem 35 người qua Chiêm Thành, Chân Lạp, xui các nước ấy đánh biên thùy phương nam nước ta (25-12 năm Ất Mão; TB 271/16b)

Sau khi Ung Châu mất và quân ta đã rút về nước. Tống mới có ý dùng đường biển đánh tập hậu. Ngày 18 tháng 3 theo lời thỉnh cầu của mình, Dương Tùng Tiên được bổ làm chức Chiến trạo đô giám thuộc An Nam đạo hành doanh (Q.Ma, DL 23-4; TB 273/20b)

Trước đó, Tùng Tiên tâu: “Xin mạo hiểm đại dương vào sâu tới góc tây nam, quanh sau lưng giặc đánh chỗ không hư, và nhân đó đem binh bảo Chiêm Thành, Chân Lạp cùng giúp đánh.” Vua Tống khen kế hay, bổ Tùng Tiên chức ấy và sai mộ thủy binh (TB 273/20b theo công văn gửi cho Quách Quì).

Nhưng hình như Tùng Tiên thi hành chậm chạp. Ngày mồng một tháng sáu, viên chuyển vận sứ Quảng Đông là Trần Sảnh xin triều đình chọn các viên chức có kinh nghiệm về thủy chiến để tuyển quân thủy. Vì ngặt ngày quá, vua ban rằng: “Sắp đến ngày xuất quân rồi. Nếu triều đình tự chọn, thì không kịp nữa. Vậy ti chiêu thảo cứ chọn và tìm cho rõ chỗ lợi hại mà thi hành”
(A. Zu, DL 4-7; TB 276/1a).

Con Tô Giàm là Tô Tử Nguyên được bổ làm tuần kiểm coi dọc bờ biển miền nam. Ngày mồng bẩy tháng sáu, Tử Nguyên bắt các dân thuyền chài phải theo lệnh các chủ hộ kiểm điểm, rồi chực sẵn, để khi nào đại binh phát thì đi theo thủy quân (TB 276/6b)

Thủy quân có bao nhiêu, ta không được rõ. Nhưng ta sẽ thấy quân ấy yếu và tướng bất tài sau này bị thủy quân ta đánh đại bại, và sẽ không giúp cho lục quân được một việc gì.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:16:13 pm »


4- Lương thực

Trong việc viễn chinh này, quân phải qua nhiều miền hoang mãng, không thể trông cậy vào tiếp tế ở chỗ đi qua, cho nên việc lương thực là việc hệ trọng bậc nhất. Tống lo sao có đủ gạo cho mười vạn lính, đủ cỏ cho một vạn ngựa. Lương ấy, cỏ ấy cần nhiều phu tải. Các phu ấy lại phải có lương riêng. Vậy không những phải cung cấp cho mười vạn người ăn, mà thật ra phải gấp bội.

Tống đã hiểu rõ sự quan trọng ấy, cho nên trong khi sửa soạn nam chinh, việc lương thảo rất được chăm nom. Ngày 21 tháng 2, vua đã ủy riêng Triệu Tiết coi về việc ấy (TB 273/12b). Và chính Tiết cũng tự tình nguyện phụ trách (MC Tiết và TB 283/16b). Trong lời tâu ngày 5 tháng ba, Tiết nói: “Việc lương thảo rất quan hệ, xin cho tuyển người tài cán giúp việc”. (DL 10-4; TB 273/14b)

Lúc đầu, trong thời kỳ phòng thủ, Tống đã dự bị một tháng lương dự trữ dọc đường từ Biện Kinh đến Ung Quảng (TB 271/17a). Nhưng sau, Tống định sang đánh đất ta cho nên ti An Nam chinh thảo tâu rằng: “Sẽ phát binh tám vạn, thì phải dự bị mười tháng lương khô, tức là 8000 cân. Xin giao cho ti chuyển vận biện được bao nhiêu thì làm, còn thiếu bao nhiêu, giao cho hai châu Quế và Tuyền biện”. Vua chiếu cho tam ti, tức bộ tài chánh, lấy hai mươi vạn quan tiền; giao cho lái buôn mua lương thực ở Quảng Đông (26-1, Q. Mu).

Không những các lộ gần biên thùy nước ta phải biện lương, mà Hồ Nam, Phúc Kiến cũng nhận được lệnh phải mua lương giúp. Ngày 25-5, vua chiếu: “Nếu Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông không thể biện đủ lương, thì tâu lên để tìm ở các lộ khác” (C, Th, DL 29-6; TB 275/14a)

Còn kỵ binh mộ từ miền Phu Diên (Thiểm Tây) chúng phải tự mang theo lấy cỏ, Triệu Tiết ra lệnh phải mua cỏ tươi và khô ở vùng ấy (9-2, A. Ho, DL 16-3, TB 273/7a)

Trong việc mua lương thực, kẻ tùy hành quấy nhiễu dân gian. Ngay lúc đầu, vua Tống hạ chiếu cấm không được nhiễu dân (28-1, A.Zu, DL 6-3; TB 272/12b). Sau vua bảo phải đem tiền, vải để mua lương, cỏ cho đắt ở các châu, động. Viên coi việc thị dịch tính thấy phải chi 6000 lượng vàng mới đủ tiêu vào việc chiến tranh (8-4, Q. Ti, DL 13-5; TB 274/6a)

Tuy vậy, việc biện lương không dễ dàng và bị chậm trễ. Phần vì có nhiều nơi bị mất mùa, phần vì sự chuyên chở khó khăn. Cho nên lúc quân đã xuống đến Đàm Châu (Tràng Sa), mà Quảng Tây chưa nhận được số lương đã hứa. Ti chuyển vận lộ ấy xin hơn 46 vạn quan, để mua 36 vạn thạch thóc (mỗi thạch bằng 10 bát), 44.800 thạch đậu, hơn 36 vạn bó cỏ, và trâu, dê, lợn, rượu. Vua sai Lý Bình Nhất, Châu Ốc, Thái Dục cấp cho đủ số (9-7, Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b)

Lúc quân sắp tiến vào đất ta, nhiều nơi chưa nộp đủ số lương dự định. Ti chiêu thảo phải dọa. Ngày 12 tháng 10 (A.Vi, DL 11-11; TB 278/6a), nói rằng: “Nếu ai thiếu tiền, lúa, cỏ về việc đánh quân An Nam, thì lúc quân trở về sẽ thu gấp đôi”. Và ngày 28 tháng 10, để bù số thiếu, vua Tống cấp 150.000 quan, giao cho Quảng Đông mua lương thảo (TB 278/13b)



5- Chuyên chở

Các số lương dự bị được chở tới Quảng Tây, trữ tại những nơi căn cứ, để đợi ngày phân phát cho quân.

Sau khi quân ta rút lui, việc làm trước nhất của các viên chức Tống là sửa chữa các nơi căn cứ ấy.

Ngày 11-2, Quảng Đông xin 5 vạn quân để sửa chữa thành hào. Ấy vì bấy giờ còn sợ quân ta đến đánh Quảng Châu nữa (Đ, Zu, DL 18-3; TB 273/7b)

Ung Châu là nơi căn cứ quan hệ nhất. Cho nên viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Lý Bình Nhất muốn tu bổ gấp. Y xin bắt cả dân phu Quảng Đông tới đắp lại thành. Nhưng vua bảo không nên (8-3 Q. Ho, DL 13-4; TB 273/16a). Đến tháng 4, thành Ung cũng chưa đắp xong, vả đường vận lương cũng chưa thông, vì sông Ung trước bị ta đổ đá lấp (theo chiếu ngày 19-4, G.Th, DL 24-5; TB 274/9a)

Đến tháng 6, lương đã được tải xuống. Ngày mồng 1 có lệnh đắp các thành, trại can hệ ở vùng Ung Châu để chứa lương (A.Zu, DL 4-7; TB 276/1a)

Còn cách chuyên chở, thì dùng đủ mọi phương tiện. Trong địa phận Trung Quốc, có thể dùng thuyền theo các sông đến các nơi căn cứ. Đi lại trong vùng Lưỡng Quảng, có sông Tây Giang, và các sông nhánh như Quế Giang, Bắc Giang.

Từ đồng bằng ở triền sông Dương Tử tới Lưỡng Quảng, có sông đào Linh Cừ, nối sông Tương ở Hồ Nam đến sông Quế. Từ đời Tần đã xây nhiều cửa cống để thuyền con có thể xuyên qua núi. Vào đất nước ta bằng thuyền thì không có đường sông mà chỉ có đường bể mà thôi. Nhưng, như ta đã thấy trên, bấy giờ Tống không dùng đường bể một cách khẩn thiết, cho nên chỉ dùng đường bộ để chở lương theo quân mà thôi.

Ngày 21 tháng 4, chuyển vận sứ Quảng Tây là Lý Bình Nhất yêu cầu các lộ Hồ Nam và Quảng Đông cho 1000 thuyền bằng đáy để chở tiền và lương trên các sông cạn ở Ung Châu (B.Ng, DL 26-5; TB 274/9b)

Ngày mồng 4 tháng ấy, vua Tống hạ chiếu cho lộ Tây Kinh phải lấy ở vùng Khai phong 1000 cỗ xe, để đưa xuống Quảng Tây chở lương thực. Xe phải đi hàng nghìn cây số mới đến nơi (K. Su, DL 9-5; TB 274/4a)

Thuyền và xe chỉ dùng được trong nối địa Tống. Muốn sang qua núi non hiểm trở đến cõi nước ta, thì phải cần tới người hay súc vật. Từ ngày mồng 1 tháng 2, ti chuyển vận Quảng Tây đã bắt phu rất nhiều. Tại chín huyện thuộc Quế Châu, bắt 8.500 bảo đinh, 91.200 các hạng khác. Bảo đinh được cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo đinh có thể dùng làm chiến binh (Đ. Ho, DL 8-3; TB 273/1a)

Chừng ấy cũng không đủ, viên chuyển vận sứ Lý Bình Nhất tính cần có 40 vạn phu cả thảy. Ngày mồng 1 tháng 4 (B. Tu, DL 6-5), vua Tống sai Quách Qùi xét lại, và dặn nên làm cho khỏi náo động nhân tâm. Quì nói: “Theo Bình Nhất, lương khẩu cần cho mười vạn quân và một vạn ngựa ăn trong một tháng phải có 40 vạn phu chuyên chở. Một tháng đã vậy, huống chi, từ nay đến lúc tới sào huyệt giặc, không phải chỉ một tháng mà thôi. Nay tính cho rộng rãi, trừ phần quân và ngựa tự chở lấy, trừ phần có thể lấy ở các địa phương sản xuất; còn dư, ta sẽ mua trâu bò mà chở. Dọc đường, ta lại làm thịt trâu bò ấy cho quân ăn. Nếu ăn còn thừa, sẽ cấp cho các đồn điền cày. Làm như thế ta có thể giảm bớt phu. Ta lại bỏ bớt những đồ không cần gấp. Ta sẽ dùng xe lừa kéo; cho đi đi, lại lại mà chở. Nói tóm lại, ta có thể bớt số phu đi một nửa, còn 20 vạn mà thôi” (lời tâu vào tháng 11, CN, theo TB 274/1a)

Cũng vì thiếu phu khiêng vác, mà ti An Nam chiêu thảo đã phải xin bỏ bớt một nửa mũi tên bằng sắt, chỉ mang theo 32.400 cái mà thôi (9-2, TB 273/6b)



6 - Y dược

Miền nam, khí hậu nóng nực; mà quân, phần đông từ miền cực bắc kéo xuống. Lại phải đi qua các vùng rừng núi, thường đầy lam chướng. Từ xưa, nước ta đã có tiếng là xứ độc. Mã Viện đã tả cảnh nước lụt mùa hè, khí độc xông lên, đến nỗi chim trên trời phải sa xuống nước. Vì vậy vua Tống Thần Tông, trong cuộc nam chinh này, rất chú ý về việc thuốc thang cho quân sĩ.

Ngay ban đầu, lúc nghe Khâm Liêm bị mất vua Tống sai viện binh xuống Ung Châu, mà đã chiếu cho hàn lâm y quan viện chọn 57 bài thuốc trị lam chướng; và sai sở hạp dược chế thành tễ, rồi mang theo quân (23-12 năm Ất Mão, DL 31-1-1076; TB 271/13b)

Đến lúc quân đã ra ngoài Lĩnh, vào Quảng Tây, người đau ốm càng nhiều. Ngày 17 tháng 5, có chiếu dụ rằng: “Sau khi qua Lĩnh, hễ quân có ai đau, thì lưu lại, bảo địa phương đó chọn thầy thuốc mà cứu chữa. Ai chữa được nhiều, sẽ có thưởng” (N Ta, DL 21-6, TB 275/10b). Vua lại dặn các tướng phải thân hành vỗ về lính ốm, và săn sóc thuốc thang, rồi phải tâu số lính bị bệnh tật chết (chiếu mồng 3 tháng 6, Đ.Ho, DL 6-7; TB 276/16)

Không những chỉ dự bị thuốc thang, cứu chữa người ốm, phủ dụ bệnh nhân vua Tống còn lưu ý đến cách phòng ngừa, đến phép vệ sinh. Ngày mồng 5 tháng 8 (M. Ty, DL 5-9; TB 277/7b), được tin quân xuống miền nam có nhiều người ốm, vua đã hạ chiếu rằng: “Nghe nói quân đi đánh An Nam đã qua Lĩnh; nhiều người bị tật bệnh. Truyền cho ti tuyên phủ phải hiểu cáo cho binh lính đừng ăn đồ sống, đồ lạnh và cấm uống rượu” (M. Ty, DL 5-9; TB 277/7b). Lúc nghe tin quân đến Ung Châu, nhiều người bị chết, vua Tống liền quở “các tướng tá đã không ngăn cấm binh lính ăn những thứ mà người miền bắc phải kiêng” và vua dặn “nay phải hết sức điều trị” (14-10, Đ. Zu, DL 13-11; TB 278/6b)

Rồi vua sai thái y cục chế 30 bài thuốc chữa lam chướng, bảo sứ đem giao cho ti An Nam hành doanh tổng quản. Vua Tống lại bảo chọn dăm bảy lương y chuyên trị bệnh lam chướng, gửi gấp theo quân (21-10, G, Th, DL 20-11; TB 278/9a)

Khi thấy thuốc thang cũng không ngăn nổi quân chết bệnh, vua Tống sai lập đàn cúng nhương. Ngày 21 tháng 11, có chiếu: “Quân bị tật bệnh nhiều. Vậy sai viên tri lễ phải cầu thần Nam Nhạc ở Hành Dương, và sai trung sứ lập đàn cầu phúc một tháng” (Q. Zu, DL 19-12; TB 279/5b)

Tuy vua Tống lo lắng thuốc thang, cầu cúng như vậy, nhưng khí hậu ẩm thấp miền nam, bệnh sốt rét ở miền rừng núi, làm cho quân Tống chết dọc đường rất nhiều. Những quân được yên lành, lúc đến cõi nước ta, cũng bị yếu ớt đi nhiều. Cho nên quân ta càng dễ đánh bại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:19:26 pm »


CHƯƠNG IX
KẾ HOẠCH ĐÁNH ĐẠI VIỆT

1. Mục đích - 2. Liên minh và ngoại viện -3. Phòng thủ - 4. Trinh sát và phản trinh sát - 5. An ủi nạn dân - 6. Chiêu dụ Khê Động - 7. Dùng lục quân - 8. Dùng thủy quân - 9. Chỉ thị đại cương - 10. Dư luận - 11. Ý kiến Triệu Bổ Chi - 12. Ý kiến Trương Phương Bình.



1 - Mục đích

Trong hai chương trên đã nói, phản động Tống có thể chia làm hai thời kỳ. Lúc mới nghe Khâm, Liêm bị mất và Ung bị vây Tống Thần Tông và Vương An Thạch muốn lập tức sai đại quân xuống miền nam, trước là ngăn cản sức bành trướng của quân ta tới vùng Quảng Châu và Quế Châu, sau là đánh thẳng vào nước ta làm cho ta phải thả Ung Châu. Nhưng Ung lại bị mất trước khi Tống sắp đặt quân xong. Cho nên vua tôi An Thạch định lại kế hoạch, là sửa soạn lại kỹ càng để đến mùa nóng nực, có thể kéo toàn lực chinh phục hẳn đất nước ta.

Tống sửa soạn kỹ càng về mọi phương diện vật chất, như ta đã thấy ở trong chương VIII trên. Sau đây, ta sẽ thấy rằng kế hoạch chiến lược, tướng Tống cũng rất có định kiến, ít ra là trong lý trí.

Mục đích cuộc xuất quân lần này, là đánh lấy hẳn đất ta, rồi sáp nhập vào nước Tống.

Ngay lúc đầu, sau khi Quách Quì, được cử làm tướng, Tống Thần Tông hạ chiếu dặn rằng: “Sau khi bình được Giao Châu, ta sẽ đặt châu huyện như nội địa” (28-2, G. Dn, DL 4-4; TB 273/13b)

Nhân cơ hội, Tống muốn đặt quan cai trị các vùng Khê Động thay các tù trưởng mà đến bấy giờ vẫn tự lập. Nhất là vùng Quảng Nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, Tống lại càng muốn chiếm lấy. Ngày mồng 5 tháng 7, Quách Quì nhận được chiếu về việc ấy. Chiếu rằng: “Nghe nói vùng Khê Động có nhiều của quý. Sau khi Giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận, huyện mà cai trị và hãy sung công của cải”. (K. Vi, DL 7-8; CN, theo TB 277/1a)



2- Liên minh và ngoại viện

Muốn chia lực lượng quân ta, quan Tống là Hứa Ngạn Tiên, tâu xin xui các nước Chiêm Thành và Chân Lạp đem quân đánh miền nam nước Việt. Chiêm Thành bị ta đánh đại bại sáu năm về trước, chắc sẽ thừa cơ hội này để trả thù. Vua Tống hạ chiếu nói rằng: “Chiêm Thành, Chân Lạp vốn là huyết thù của Giao Chỉ. Vậy sai Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sơ mộ dăm ba người buôn bể, đi dụ các quốc trưởng nước ấy dự vào việc đánh Giao Chỉ. Khi nào bình định xong, sẽ có thưởng” (25-12 năm Ất Mão, Q Su, DL 3-2; TB 271/16b)

Không biết vì lẽ gì Hứa Ngạn Tiên không đi. Sau khi Ung Châu mất, lại có chiếu sai Lý BộtLa Xương Hạo mang sắc thư, thuốc khí dụng, lụa sang Chiêm Thành và Chân Lạp để dụ các nước ấy đánh ta. Lời chiếu rằng: “Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sư sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nước ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong, Trẫm sẽ ban thưởng cho. Trẫm lại nghe nói rằng nhiều dân nước ấy đã bị Giao Chỉ bắt về. Trong số ấy có cựu vương Chiêm Thành1, khó lòng trở về nước (vì có sự bất hòa với vua hiện ở ngôi). Nên triệu y sang chầu. Trẫm sẽ gia ân cho” (2-2, M Ty, DL 9-3; TB 273/2a)

Sau này ta sẽ thấy rằng kế dùng Chiêm Thành, Chân Lạp có được thực hiện ít nhiều, nhưng bị Lý Thường Kiệt đón trước. Trong tháng tám năm ấy, Thường Kiệt đem quân vào tuần tra các châu vừa lấy được của Chiêm, chỉnh đốn việc cai trị, cho dân vào ở thêm và tăng sự phòng bị (TT) Mà bên Tống cũng không có sức gì uy hiếp Chiêm Thành, Chân Lạp. Cho nên Chiêm Thành có đưa ít quân lên đóng ở biên giới nước ta, nhưng không dám gây sự.
_______________________________________
1. Cựu vương Chiêm Thành nói đây là vua Chiêm bị kẻ khác tranh ngôi, nay đã chạy sang nước ta. Sử ta không chép việc này. Nhưng TB 252/22b và TS 489 đều có chép: ngày C.Dn tháng 4 năm G.Dn 1074, Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức dâng biểu nói: “Tháng 10 năm ngoái, trại Định phiên thuộc nam giới trình rằng quốc vương Chiêm Thành đem hơn ba nghìn lính và vợ con, cưỡi thuyền đến xin hàng. Tháng giêng năm nay đã đến đạo tôi (nước tôi), cúi đầu xin phục” vua Tống trả lời bảo bằng lòng nhận hàng. TS chép sơ lược hơn một chút.
    Theo Maspéro trong sách Le Royaume du Champa, bia Chàm ở đền Ponagar (Nha Trang) có nói đến chuyện ấy, và vua chạy sang hàng vua Lý, chính là Chế Củ hay là Rudravarman III bị Lý Thường Kiệt bắt được rồi tha, năm năm về trước.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:22:10 pm »


3- Phòng thủ

Trước lúc đánh vào nước ta, theo đường từ Ung Châu đến Lạng Châu, Tống sợ quân ta hoặc từ khê động tràn vào quấy hậu phương, hoặc từ Khâm châu đánh quật vào, chiếm các nơi căn cứ. Cho nên Tống đã phải dự bị phòng thủ phía sau, theo như lời Dương Hội (VIII/1) dẫn sách quân chí: nên giữ chỗ tưởng không đánh tới.

Vua Tống sai xây gấp lại thành Ung. Ngày 8-3 Lý Bình Nhất xin đem cả phu Quảng Đông sang giúp vào việc ấy (Q.Ho, DL 13-4; TB 273/16a). Rồi ti tuyên phủ lập tức phái tướng cầm đạo quân Hữu đệ nhất xuống đóng ở Ung Châu để phòng bị. Vua Tống cho rằng một tướng giữ không đủ; lời chiếu nói: “Thành Ung Châu đắp chưa xong. Đường chở lương cũng chưa sẵn. Nay vào mùa mưa dầm, khí độc nhiều. Nếu giặc trở lại, thì một tướng không đương nổi. Phải xét lại”. (chiếu 19-4 G. Th, DL 24-5; TB 274/9a)

Ngày 25-6. vua Tống lại chiếu rằng: “Trong việc nam chinh, Ung Châu rất can hệ. Đó là căn bản. Tiền, lương, quân nhu đều để đó. Nếu giặc cùng kế mà từ hải khẩu (có lẽ chỉ cửa Bạch Đằng) theo đường châu Vĩnh An lấy Khâm, Liêm, rồi từ đó tới Ung Châu thì chỉ mất vài ngày. Tuy thành Ung vững chắc, nó không lấy được, nhưng ta há lại không nên đo đường vận lương bị đứt hay sao? Bị đứt, thì lòng dân bị lay động. Mà bấy giờ, dẫu muốn trở về cứu Ung Châu, trước sau đều có giặc! Phải nói ti chiêu thảo nên lo liệu thế nào, rồi mật tâu về” (K. Zu, DL 28-7; TB 276/12a)

Tống lại sợ các phiên quốc miền tây nam nhân cơ hội quấy rối và giao kết với ta để cùng chống Tống. Viên coi Bành Châu (Tứ Xuyên) và Lữ Đào có tâu rằng: “Nếu Giao Chỉ đánh Quảng Tây, mà lại kết đảng với Nam Chiếu (vùng Vân Nam), thì ta rất đáng lo. Vậy xin sai các châu Lê, Nhã, Nhung, Lô, Thi, Kiềm, thuộc lộ Thành đô, phủ Chàng và lộ Quì Châu (giáp vùng Vân Nam) phải đề phòng cẩn thận” (21-4, B. Ng, DL 26-5, TB 274/9b)

Tống rất sợ các nước Hạ, Liêu nhân khi Tống bận việc ở phương nam, sẽ gây sự ở phương bắc. Cho nên vua Tống căn dặn Quách Quì phải đánh cho chóng thắng (IX, 9)

Tháng 5, sứ Liêu đến Biện Kinh. Nghe tin Tống soạn sửa đánh Lý, sứ hỏi Chu Ôn Kỳ là viên tiếp sứ rằng: “Nam Man có việc gì?”

Nam Man tức là Giao Chỉ. Ôn Kỳ trả lời:

“Nam Man cướp. Triều đình đã sai người dẹp”

Binh dùng có đến một vài vạn chăng?

Không đến vài nghìn

Ai làm tướng?

Quách Quì và Triệu Tiết.

Ôn Kỳ trả lời như vậy, giấu giếm sự hành quân vĩ đại, tưởng thế đã là khôn. Nhưng vì nói hở tên những tướng quan trọng đóng miền bắc, triều đình cách chức Ôn Kỳ, lấy lẽ rằng Ôn Kỳ không bẩm tin sứ Liêu hỏi đó. (1-5, B. Th, DL 5-6; TB 275/1b).



4 - Trinh sát và phản trinh sát.

Thời bấy giờ, Lý Thường Kiệt triệt để lợi dựng mọi phương tiện để dò hành động của quân Tống, và để địch vận, chiêu dụ người Tống theo và giúp mình.

Vua Tống dặn các lộ Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến rằng: “Lúc mộ quân hiệu dụng, phải coi chừng, kẻo tụi gian lẫn vào” (5-3 C.Ta, DL 10-4; TB 273/14b). Lại bao Tô Tử Nguyên: “Coi chừng tụi dân thuyền chài dọc bờ bể, thường làm nghề đánh cá, mò châu. Chỉ cho chúng ở các vũng bể. Nếu chúng ra vào thì phải xét chúng đi đâu; kẻo sợ chúng làm trinh thám cho Giao Chỉ” (7-6, T.Ma, DL 10-7; TB 276/6b)

Tống phòng bị như thế không phải không có lý. Lý Thường Kiệt đã sai nhiều thám tử vào Lưỡng Quảng. Ngày 12-4, vua Tống hạ chiếu nói: “Nghe Giao Chỉ sai nhiều kẻ gian tới thám Lưỡng Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến, thoái của ta” (Đ Zu, DL 27-5; TB 274/6b)

Lúc trước, khi ta đánh Khâm, Liêm, có bắt hơn trăm nhà sư. Ta lấy bằng mà quan Tống đã cấp cho các sư ấy, rồi giao cho gián điệp mang vào đất Tống, giả làm sư để dò thăm tình hình. Cho nên ngày 28-8 vua Tống hạ chiếu cho lộ Quảng Tây đình việc cấp bằng cho các sư (T. Ho, DL 28-9; TB 277/12a)

Tuy đề phòng cẩn thận như thế, nhưng dọc bờ bể, thám tử ta vẫn vào nhiều. Ngày 11-10, vua Tống sai các lộ Duyên Hải mộ quân, nói: “Để bắt quân Giao trốn vào trong sứ để trinh thám” (G.Ng, DL 10-11; TB 278/5a)

Đời Lý, nước ta dùng nhiều người Trung Quốc. Theo lời Từ Bá Tường, họ Lý vốn người Mân, cho nên những người Phúc Kiến hay được dùng1. Vua Tống muốn chiêu dụ những kẻ ấy trở về, mới hạ chiếu rằng: “Nghe nói Phúc Kiến, Quảng Nam có người sang buôn bán ở Giao Chỉ, nay lại ở đó để Giao Chỉ sử dụng. Vậy chiếu cho người nhà những người ấy phải khai rõ, để chiêu dụ chúng về. Ai về sẽ được bổ dụng” (8-3, Q. Ho, DL 13-4 TB 273/16b)

Một mặt khác, Tống muốn sai thám tử hoặc để dò la, hoặc làm nội ứng, hoặc làm hướng đạo. Đối với những dân Khê Động theo ta lúc quân ta vào đánh Tống, vua Tống bảo: “Dụ chúng cứ tạm theo giặc để cho được yên; nhưng khi đại binh tới, thì sẽ làm nội ứng; sau khi thắng trận, sẽ có trọng thưởng” (19-4, G. Th, DL 24-5; TB 274/9a). Đối với tù binh ta, vua Tống dặn: “Nếu có bắt được giặc Giao mà chưa giết, thì dùng chúng làm hướng đạo” (2-3, DL 7-4; TB 273/14a).

Tống tổ chức gián điệp ở nước ta, hình như không có kết quả. Vua Tống phải chú ý đến việc lấy hư danh, chức tước để chiêu hàng (IX 6)
_____________________________________
1. Xem chú thích 1 ở chương VII và lời tâu của Trương Phương Bình (IX/12). Vả trong các triều đại nước ta, sau này cũng thường hay dùng những người Trung Quốc giúp; những người ấy phần lớn là cựu thần một triều đại ở Trung Quốc đã bị diệt, không chịu được ở dưới triều đại mới, bèn trốn sang nước ta. Vì lẽ ấy, phần nhiều họ là những người giỏi và giúp được việc. Đời Trần có người Tống giúp, đời Lê có người Minh giúp. Vậy đời Lý, rất có thế có những người thuộc các nước bị Tống diệt chạy sang nước ta, rồi tự mình hay con cháu giúp vua Lý. Như tôi đã nói, họ Lý rất có thể là một họ như vậy, và đã giúp vua Đinh, vua Lê ở nước ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:28:06 pm »


5 - An ủi nạn nhân

Ta đã thấy rằng Lý Thường Kiệt đã tấn công vào đất Tống, cố ý tiêu hủy các căn cứ của Tống ở Ung Châu, đốt phá hết các quân nhu lương thực, phá phách hết doanh trại mà Tống có thể dùng để tập trung quân uy hiếp nước ta. Nhất là lúc rút về, quân ta đã áp dụng chiến thuật thanh dã, làm cho quân địch không thể dùng Khê Động vào quân sự được nữa (TB 273/9a)

Công việc đầu tiên của Tống bấy giờ, là vỗ về dân bị nạn, để chúng sống trở lại.

Liền sau khi được tin Khâm, Liêm mất, vua Tống ban chiếu hẹn thưởng, cho quân hiệu dũng nào giết được giặc và cho những kẻ có biệt công (2-1, K. Vi, DL 9-3; TB 272/1a). Các quan văn, võ chết ở hai châu ấy, đều được tặng mười tư1 (26-1, Q.Vi, DL 4-3; TB 272/9b). Các người hoặc có công hoặc tử trận đều được thưởng hay tặng (4-2, C. Dn 11-3, TB 273/4b, 5a, b, 6a). Riêng về Tô Giàm, tử tiết ở Ung Châu, vua ban tặng rất hậu, thăng chức cho con và sai lập đền thờ (VII/cth 11). Cũng vì binh lính Ung Châu theo gương Giàm, chống giữ đến chết không chịu hàng, cho nên những kẻ chết ở Ung Châu được tặng hậu hơn mọi nơi khác (7-3, N. Tu, DL 12-4 TB 273/15a). Các viên tri châu, như Nùng Văn Phú coi châu Thất Nguyên, bị quân ta giết, đều được tăng chức. (TB 274/3b)

Sau trận tấn công của ta, dân sự xiêu dạt, người chết không ai táng. Ngày 6 tháng 3, vua Tống hạ chiếu cho các châu Ung, Khâm, Liêm phải chôn cất hài cốt các tử sĩ, và bảo chùa phải lập đàn thủy lục đạo tràng để làm chay cho những kẻ thiệt mạng. Các nơi đều tuân mệnh, lập những đàn rất long trọng, dùng đến một nghìn vị sư (TB 273/14b). Đối với kẻ bị hại ở Quảng Tây mà không con, vua Tống sai lấy người bà con lập hậu; người ấy cũng được thưởng như con thật (9-7. Q.Ho, DL 11-8 TB 277/2b)

Đối với dân sống sót, vua Tống tỏ lượng khoan hồng: tha thuế, thứ lỗi. Vua lại giục các quan địa phương điều tra sự thiệt hại và liệu cách cứu tế2.

Ngày 9 tháng 7, viên coi Liêm, Châu tâu rằng: “Ở Ung và Liêm, các trị sở đã được làm lại. Ở Ung Châu đã có cường binh giúp. Xin cho dân Khâm và Liêm khỏi phải đi vận tải lương thực, và chỉ phải làm việc ở châu nhà mà thôi” (Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b)

Đối với thân sĩ các nơi bị hại, vua Tống cũng biệt đãi. Ngày mồng 8 tháng 3, có chiếu lục bổ cho những người học giỏi ở ba châu ấy, chứ không bắt thi (Q.Ho, DL 11-8, TB 273/15b). Ta còn nhớ rằng chính vì lẽ học giỏi mà không được dùng, nên Từ Bá Tường đã phản Tống, xin theo vua Lý. Nhưng bấy giờ, mưu gian ấy chưa tiết lộ, cho nên Bá Tường cũng được bổ làm tuần kiểm các châu Khâm, Liêm, Bạch (VII/cth2)
_____________________________________
1. là một thứ điểm dùng để tưởng lục cho các quan. Khi vị nào đáng thưởng, vua ban cho một hay nhiều . Cuối khóa (hạn 3 năm hay 6 năm), sẽ cộng số thưởng và trừ những phạt; còn bao nhiêu, thì theo đó mà thăng giáng.
2. Ngày 6 tháng 3 (T.Zu, DL 11-4), miễn thuế trong hai năm cho những nơi bị phá, và cho những người tản cư (TB 273/14b)
    Ngày 5 tháng 3 (C.Ta, DL 10-4), tha lỗi cho những người đã bỏ chạy lúc quân ta lấy Khâm, Liêm và Ung (TB 273/14b)
    Ngày 13 tháng 3 (M.Dn, DL 18-4) tha cho thổ binh bị hại ở ba châu ấy khỏi phải nạp tiền trợ dịch (TB 273/17b)
    Ngày 18 tháng 4 (Q.Ma, DL 23-5) hỏi các quan địa phương về số nhà bị phá và hỏi đã liệu cách gì cứu chữa chưa (TB 274/8b)
    Ngày 3 tháng 7 (Đ.Ti, DL 5-8) tha thuế cho thổ đinh bị hại (TB 277/1a).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:29:36 pm »


6- Chiêu dụ khê động

Về đời Tống, phần tây Quảng Tây và Quí Châu bấy giờ còn là đất cơ mì, nghĩa là không bị chính phủ trung ương đặt quan cai trị. Vùng ấy chia ra từng khoảng rộng như một châu, một huyện, dân cư ở dọc những khe hoặc thung lũng. Những khoảng ấy gọi là khê hay động. Cho nên gọi tên chung là vùng khê động. Mỗi động có tù trưởng là người thổ dân, tự cai quản như một chúa nhỏ. Tù trưởng ấy nhìn nhận quyền trung ương bằng cách nạp thuế, cống, chịu phục dịch và chịu ban chức tước. Vùng khê động giáp nước ta là Tả Giang và Hữu Giang (IV/2)

Lúc quân Lý Thường Kiệt sang đánh Tống, đạo quân Tông Đản và Lưu Kỷ đã đánh vào các khê động ấy. Phần lớn tù trưởng hàng phục, theo ta nổi lên đánh quân Tống. Sau khi quân Lý rút về nước, vùng Tả Giang và Hữu Giang hầu như hoàn toàn tự lập, nhưng sợ vía quân ta.

Vì vậy, trong kế hoạch đánh Lý, trước hết Tống phải tìm cách kiểm soát lại vùng khê động. Trong các chỉ thị của vua Tống, ta thấy rõ ràng những phương tiện Tống dùng để đạt mục đích ấy. Hoặc lấy lợi mà nhử, hoặc lấy uy mà hiếp, Tống ép các khê động bỏ Lý theo Tống. Xong rồi, các quan Tống mộ quân trong các khê động, để đem sang đánh ta; hoặc là đoàn kết các khê động, lập đồn bảo để ngăn ta không tập hậu quân được. Đối với các tướng coi khê động trung thành theo ta, Tống sẽ dùng võ lực đánh tỉa dần dần.

Ngày 15 tháng 2 (T. Su, DL 22-3), lúc Triệu Tiết vào bái từ, để xuống miền nam tước Quách Qùi, vua Tống Thần Tông dặn dò căn dặn: “Hễ dùng thổ dân, có đưa thực lợi mới sai được chúng. Chớ nên chỉ dừng lời ngọt mà thôi. Ngươi sẽ mộ vài nghìn thổ dân mạnh bạo; chọn tướng dữ tợn để cai quản, rồi sai chúng đi ép các dân động. Bảo những dân ấy rằng: đại binh ta sắp tới qua vùng chúng; đứa nào theo ta thì được thưởng, không theo thì sẽ bị giết. Nếu chúng quả không theo, hãy giết đi vài ba họ để thị uy. Lúc binh uy đã có, ta sẽ bắt đầu ép Hữu Giang, rồi ép Tả Giang. Sau khi hai đạo ấy theo ta rồi, ta sẽ đánh sào huyệt Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, không khó nữa” (T. Su, DL 22-3; TB 273/8b)

Tống chú ý đến Lưu Kỷ như vậy, vì Kỷ là một kiện tướng giữ vùng Quảng Nguyên, sau khi Nùng Trí Cao chạy sang đất Tống. Ta đã thấy rằng trước lúc đại quân Lý vào đất Ung, Lưu Kỷ đã xung đột với con Trí Cao là Nùng Trí Hội (VI/5). Theo Tống sử (TS 495), trong đời Lý Thánh Tông, Lưu Kỷ đã có hiềm khích với Nùng Tông Đán. Tuy sử ta không hề còn ghi tên Lưu Kỷ, nhưng ta cũng thấy rằng Kỷ cũng giữ một trọng chức lúc bấy giờ. Kỷ có 5000 quân, luôn luôn uy hiếp hữu dực quân Tống. Không diệt được Kỷ, thì đường thông lộ Ung Châu đến Lạng Châu, còn bị uy hiếp đường tiếp tế quân viễn chinh Tống sẽ bị đe dọa luôn luôn, và quân ấy sẽ bị tập kích.

Ngày mồng 8 tháng 5, khu mật viện Tống tâu rằng: “Tụi Lưu Kỷ, ở Quảng Nguyên, trước theo Giao Chỉ vào cướp đất ta. Nay sẵn có lòng hiệu thuận. Nhưng bị Giao Chỉ ép, nên không thể đổi chí hướng được. Y ở đó, thám báo cho Giao Chỉ để lo tự thủ yên thân. Vậy lúc đại quân tới vùng y đóng, phải trừ tụi ấy đi”.

Vua Tống muốn dùng lối ôn hòa, bảo Quì và Tiết nên dụ Lưu Kỷ, và hứa sẽ trọng thưởng cho y, ban chức tước, vàng, lụa, ruộng đất. Nhân đó, vua Tống lại bảo phải đoàn kết dân các động, để dự bị việc đánh Lý. Dân động, hễ ai già thì để ở nhà cày, ai mạnh thì sung làm lính; cấp cho một ngày một thăng gạo, hai mươi đồng tiền. Vua dặn phải lập trại, rào chắn các nơi hiểm yếu, luyện tập dân đinh, xem ai giỏi thì thưởng, ai đói thì giúp (Q. Ho, DL 12-6; TB 275/5a)

Ngày 23 tháng ấy (M. Dn, DL 21-6), vua Tống lại có chiếu nhắc ti An Nam tuyên phủ rằng: “Phải đoàn kết Lưỡng Giang (Tả và Hữu). Hàng ngày cấp tiến ăn cho cường tráng, sai huấn luyện vũ nghệ. Nếu lương khó chở vào, thì lấy tiền bạc trả thay. Ở Tả Giang trước đây có những động theo giặc, nay nên dùng đủ cách chiêu dụ trở lại. Nếu chúng không chịu nghe thì nên liệu cách mà dẹp. Nếu có thể kết ước được các khe động ở đất giặc gần biên thùy, thì nên làm. Rồi thừa hư mà đánh; tùy tiện thi hành. Phải tuyển gấp binh lính, mộ cường tráng cho được năm, sáu nghìn người và sai Lưỡng Giang đoàn kết binh lực giúp nhau”. (M.Dn, DL 21-6; TB 275/12b)

Vua Tống đã có ý lấy phẩm hàm chiêu dụ các tướng ta giữ biên thùy, từ lúc ban đầu định xuất quân. Ngày 14 tháng Giêng, định cấp 40 bằng trống tên cho các ti chiêu thảo; và ban riêng: hàm cung bị khố phó sứ cho các tri châu Vi Thủ An ở Tô Mậu, Hoàng Sầm MãnNùng Thịnh Linh ở Môn Châu; hàm tả tàng khố phó sứ cho Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, và hàm lộ điện sùng ban cho Sầm Khánh Tân (T.Vi, DL 21-2; TB 272/4b)

Lại ngày 19 tháng 4, cấp cho ti chiêu thảo 92 đạo bằng sắc trống tên, để thưởng công và chiêu hàng (G. Th, DL 24-5; TB 274/9a)

Lúc Quì đã xuống Đàm Châu rồi, còn nhận được chiếu nhắc: “Phải yết bảng chiêu dụ thổ tù để chia thế giặc” (5-7, K. Vi, DL 7-8; CN, theo TB 277/1b)

Về việc chiêu dụ khê động, các tướng không đồng ý với nhau. Cho nên vua Tống Thần Tông và Vương An Thạch có cuộc tranh biện, mà sử còn chép (2-6, Đ.Ho, DL 6-7, TB 276/1b). Cuộc tranh biện ấy làm cho ta hiểu rõ tình trạng khê động bấy giờ.

Nguyên là ti tuyên phủ sai Khúc Chẩn, là phó tướng đạo quân Tả đệ nhị, coi việc đoàn kết và huấn luyện dân khê động. An Thạch không bằng lòng và muốn cử Ôn Cảo.

An Thạch nói: “Chẩn người miền tây, không quen dân tình khê động. Nên dùng Ôn Cảo”

Vua Tống không bằng lòng, nói: “Trước, Ôn Cảo đã nói: “Dân khê động Lưỡng Giang theo giặc, ta không thể dụ chúng được nữa”. Việc đó, nói vậy không đúng”

An Thạch cãi: “Lúc quan quân chưa tới, thì cấm chúng theo giặc sao được. Đã không cấm chúng được thì phải nói thật rằng chúng theo giặc. Vả, hoặc có kẻ theo giặc để làm nội ứng, đó cũng là hay”

Vua bẻ: “Đã theo giặc, thì chúng phải làm con tin cho giặc, và đến kẻ già hèn cũng bị giặc dùng”

An Thạch nói: “Sức giặc mạnh như vậy, Quí Hồ ta không xui dân khê động hàng giặc; còn ra, can sao được chúng”

Vua không bằng lòng, nói dỗi rằng: “Nếu ta không xui chúng, thì chúng không dám theo giặc hết”

An Thạch nhắc lại: “Sức Giao Chỉ có thể uy thế nổi Lưỡng Giang, mà quân ta đã không tới cứu khê động. Vì cớ gì chúng nó không theo giặc?”

Vua kết luận: “Thế thì, chi bằng nay ta đoàn kết chúng đi!”

An Thạch trả lời: “Tôi đã bảo làm rồi”

Vua chê Ôn Cảo: “Ti tuyên phủ tự xin đoàn kết chúng; thế mà Ôn Cảo đã cho là không thể làm. Chẩn, tuy người miền tây, nhưng cho sự tới Lưỡng Giang có thể làm; còn Cảo quen với Lưỡng Giang nhiều, lại không giám vào đó”

An Thạch bênh Cảo: “Cảo, khi trước, đã xin vào đó, và đã vào sâu để đánh Giao Chỉ”

Vua hỏi: “Sao, sau không chịu đi?”

An Thạch trả lời: “Vì sau Ung Châu mất, Cảo tưởng chưa nên đi”

Vua hỏi lại: “Vì sao Cảo lại cho rằng đoàn kết không được?”

An Thạch trả lời: “Cảo nói rằng dân động cày bừa mà không đủ ăn, cho nên khó lòng đoàn kết chúng. Còn như sau này, Triều đình sẽ giúp đỡ, chẩn cấp cho chúng. Nếu bấy giờ, Cảo còn bảo không thể đoàn kết được thì sẽ mang tội. Chứ khi xưa, không có điều kiện thuận tiện như thế. Vậy, tuy Cảo có nói không thể đoàn kết được, nhưng có tội gì đâu”

Vua nói: “Nay ti tuyên phủ đã xin cho khê động tiền và gạo”

An Thạch nhắc lại: “Lúc Cảo nói không thể đoàn kết được thì chưa hề nghe nói có chi tiền gạo cho không gì cả”

Xét câu chuyện cãi nhau trên, ta thấy vua tôi Tống cũng đồng ý phải lấy tiền gạo cho dân khê động, thì mới dụ chúng theo và đăng lính giúp Tống. Dẫu tốn bao nhiêu cũng phải làm, y như lời vua Tống dặn Triệu Tiết: “Quách Quì tính hà tiện. Khanh nên dụ y rằng triều đình không sợ tổn phí đâu” (15-2, T. Su, DL 22-3; TB 273/8b)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:32:11 pm »


7- Dùng lục quân

Chủ lực Tống là bộ binh, Quách Quì và Triệu Tiết đều là tướng giữ bắc thùy, quen với lính cỡi ngựa vùng cao nguyên và sa mạc. Vả hai mươi lăm năm về trước, sở dĩ Địch Thanh thắng Nùng Trí Cao ở phía nam ải Côn Lôn, chính là nhờ kỵ binh đưa từ miền bắc xuống, đột xuất chỗ đất bằng rồi đánh kẹp vào hai bên quân Trí Cao. Thấy mình thua vì thiếu ngựa, cho nên Trí Cao đã có ý chạy về đạo Đặc Ma tìm mua ngựa (IV/3)

Vì hai lẽ ấy, trong cuộc nam chinh lần này, Quách Qùi đã đem theo một vạn ngựa.

Đại binh sẽ kéo xuống, tập trung tại Ung Châu, phân phối ra các trại trên đường thông lộ sang Quảng Nguyên, Lạng Châu, Tô Mậu và Vĩnh An, để chắn đường quân ta tập hậu. Xong, sẽ đưa đại quân theo đường chính vào Lạng Châu, qua các sông Đào Hoa (sông Thương), sông Nam Định (sông Cầu), sông Lô (Nhị Hà), đến tận kinh thành Thăng Long (X/1)

Phần tinh nhuệ quân Tống là kỵ binh, kỵ binh là quân xung phong chọc thẳng hàng ngũ địch, dẫn đường cho bộ binh. Kỵ binh lại là “kì binh”, nghĩa là quân đánh những chỗ bất ngờ. Dùng sức ngựa chạy nhanh, và qua những gai góc, đá sỏi dễ, kỵ binh có thể, lúc vướng chỗ này, chạy quanh chỗ khác, để bọc hai bên hông quân địch.

Nhưng muốn lợi dụng kỵ binh để phá địch, thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, để cho ngựa xông xáo dễ dàng.

Bên ta thì thiện chiến về voi. Trong trận Ung Châu, ta đã đem voi theo được (VII/2), huống chi trên trận địa nước nhà. Thế thủ của ta lại dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu! Từ trại Vĩnh Bình vào Lạng Châu, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đồng Mỏ ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc Ôn Châu1. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không pha đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm; đó là ải Giáp Khẩu, tức ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Bắc Giang ngày nay. Cuối đời Đinh, Hầu Nhân Bảo, là tướng Tống đã bị chết ở đó; và đời sau, Liễu Thăng là tướng Minh cũng bỏ mình ở chốn ấy.

Đèo ải tuy hiểm, nhưng có thể dùng kỵ binh hoặc vượt qua, hoặc len lỏi qua rừng để tránh. Còn sông sâu rộng, thì ngựa khó lòng qua nổi. Phòng thủ sông khá dễ; đóng cọc và dùng rào giậu ở bờ nam, cũng đủ ngăn quân địch. Vả chăng, thủy binh ta từ đời Ngô, đã lập nhiều chiến công lừng lẫy. Thế sông ở Trung Nguyên lại rất tiện cho thủy chiến. Sáu ngành sông châu về Vạn Xuân (Vạn Kiếp). Đó là căn cứ tự nhiên của thủy quân ta. Hoặc phải ra cửa Bạnh Đằng chắn quân thủy địch, hoặc phải vào sông Đào Hoa (sông Thương), hoặc phải vào sông Nam Định (sông Cầu), hoặc phải vào sông Thiên Đức (sông Đống), để chắn địch qua sông; ta chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.

Vì vậy, tướng Tống cũng đã nghĩ đến dùng thủy quân giúp sức bộ binh để qua sông.


8- Dùng thủy quân

Tống không có thủy binh sẵn. Chưa hề phải vượt bể, binh lính Tống không có chiến hạm. Lúc hữu sự, mới sung công hay chế tạo thuyền mành, và chiêu nạp hay cưỡng bách dân chài dọc bể tòng quân.

Từ đầu năm, có Dương Tùng Tiên dâng sớ tâu rằng: “Xuất quân đường bể là tiện. Tôi muốn mạo hiểm qua đại dương, vào sâu tới góc tây nam, quanh sau lưng giặc, đánh vào chỗ bỏ trống. Nhân đó, tôi xin đem binh bảo Chiêm Thành, Chân Lạp cùng ta đánh Giao Chỉ”. Ngày 18 tháng 3, vua bằng lòng và bổ Tùng Tiên làm chiến trạo đô giám, thuộc An Nam đạo hành doanh. (Q. Vi, DL 23-4; STCT, theo TB 273/20b).

Nhưng Tùng Tiên bất lực. Đến tháng 6 cũng chưa sửa soạn được gì. Ngày mồng 1 tháng ấy chuyển vận sứ Quảng Đông là Trần Xảnh còn xin “chọn quan có kinh nghiệm về thủy chiến để soạn thủy quân” (A.Zu, DL 4-7; TB 276/1a)

Đến hạ tuần tháng 6, cũng chưa quyết định kế hoạch về thủy quân một cách rõ ràng. Các người phụ trách vẫn bàn cãi mà không hợp ý. Ngày 17 tháng 6 (T.Su, DL 20-7; TB 276/10a), ti An Nam chiêu thảo tâu rằng: “Theo lời Tô Tử Nguyên, triều đình định sai tướng tới Chiêm Thành, Chân Lạp, bảo chúng đánh Giao Chỉ. Quảng Đông đã dự bị chiến thuyền xong. Nhưng gió bể chưa nhất định. Cho nên khó đi đến nơi được. Vả Chiêm Thành sợ Giao Chỉ. Còn Chân Lạp, dân chưa hề tới buôn bán ở Quảng Châu; cho nên ta chưa hề dò được tình hình nước ấy. Nếu khi thủy quân ta tới các nước ấy, mà chúng nghi sợ điều gì, thì sẽ nguy cho ta. Vậy xin bảo Tùng Tiên đình việc tiến thủy binh từ các châu Khâm, Liêm. Tử Nguyên lại có bàn thêm rằng: trên đường bộ, tiến binh đến kinh thành giặc còn bị cách sông lớn. Người Giao lại giỏi thủy chiến. Sợ thuyền giặc giữ các chỗ hiểm; đại binh ta khó lòng qua được. Rồi đêm đến, giặc xông tới đánh, thì việc ta hỏng mất...” (T.Su, DL 20-7; TB 276/10a)

Theo ý Tử Nguyên, nên thôi đừng dùng kế xui Chiêm Thành và Chân Lạp đánh biên thùy miền nam nước ta. Trái lại, nên đem thủy quân vào trong cõi nước ta, để hợp chiến với lục quân, và nhất là để giúp lục quân qua các sông. Vẫn lời ti chiêu thảo tâu: “Vậy xin hạ lệnh cho các ti kinh lược, chuyển vận Quảng Đông phải tuyển thủy binh, chọn những người dũng cảm rồi dạy thủy chiến cho chúng. Sau này, sẽ từ Quảng Châu, theo bờ bể, chỉ tiến tới Liêm, Khâm mà thôi, rồi đậu thuyền đợi đó. Lúc nào đại binh tiến, sẽ hẹn ngày sai thủy quân cùng vào Giao Châu đánh giặc. Thủy quân sẽ tách ra một phần thuyền, ghé vào bờ bắc sông, để chở đại quân qua”

Ti chiêu thảo lại dẫn lời Tùng Tiên bàn: “Theo Dương Tùng Tiên tâu, đường thủy quân và lục quân tiến vào Giao Chỉ là: lục quân chẳng qua từ Ung Châu đến Tả Giang, Hữu Giang, đi các đường qua các trại Hoành Sơn, đến biên giới gần động Giáp và Quảng Nguyên; thủy quân chẳng qua tiến từ Khâm, Liêm. Nhưng thế nào Giao Chỉ cũng phòng bị cẩn thận. Nếu ta không dùng quân dấu kín để đánh chỗ bất ngờ, sao tính được ngày thắng chúng? Theo lý ấy, nên định vào tháng chín, sẽ phát thuyền từ Quảng Châu, nhân gió bắc, vượt bể tắt qua Chiêm Thành, Chân Lạp. Rồi từ đó, hẹn ngày cùng ti chiêu thảo mà tiến vào nước Giao Chỉ”. Ý Tùng Tiên trái với ý Tử Nguyên. Tùng Tiên chỉ muốn vào dụ các nước ở phương nam nước ta, hẹn ngày vào đánh ta cùng một lúc với quân Tống thì bất tiện cho nước đó. Nên cẩn thận!” (16-8, K. Ho, DL 16-9; CN, theo TB 277/9b)
___________________________________
1. Xem V/1. Tên các con sông lớn chắn các con đường từ trại Vĩnh Bình đến Thăng Long là: sông Ô Bì, Đào Hoa, Nam Định cũng gọi là Phú Lương (LNĐĐ) và sông Lô sau này (X/2), ta sẽ thấy rằng sông Phú Lương chắc chắn là khúc sông Cầu ngày nay thuộc địa phận Thái Nguyên và Phúc Yên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:35:08 pm »


10- Dư luận

Kẻ muốn chiến tranh là vua Tống, kẻ mưu chiến tranh là An Thạch. Tuy An Thạch được trở về ngôi tể tướng, nhưng thế lực cũng kém dần. Về nội trị hay ngoại giao, thường bị chỉ trích gay gắt.

Lễ bộ thị lang Vương Thiều đã tranh biện kịch liệt, chủ trương những muốn gây việc binh đao, muốn nuôi dân lực và bớt phí tổn cho nước. Vì thế, Thiều đã sinh hiềm khích với An Thạch (TB 280/14a)

Cho đến lão thần Phú Bật đã về hưu, cũng còn lo ngại. Tháng 6 năm ấy, ông dâng sớ tỏ lòng thắc mắc. Lời tâu như sau: “Tôi về ở chốn cỏ gianh, không biết đến nhân sự. Mới đây, nghe Man Lào (nói quân ta) phạm cõi, gieo họa cho Lưỡng Quảng.

“Mà nay, dân mất mùa. Nên tha thuế, giúp đỡ dân. Đợi lúc Lĩnh Nam yên ổn, mùa màng khá rồi lại lo việc đánh Giao Chỉ, thế cũng chưa muộn...

“Người ta lại đồn rằng: giặt Man cướp rất nhiều, rồi đã lập tức trốn về. Như thế thì không cần đánh vội. Nhưng vương sư đã ra đi, ắt là để đánh chúng. Quân thủy lục đã tiến, uy đức đã ban. Bệ hạ nên hạ chiếu cho Quách Qùi tới Lưỡng Quảng, xét định kỹ càng về việc công thủ thế nào, rồi tâu về. Nếu có thể đánh được thì đi. Nếu không, thì nên liệu cánh khác để cho toàn danh vọng của vương sư” (TB 276/14b)

Lời tâu ấy, hình như không được vua chú ý tới.

Vương Sung một tể thần ở triều, cũng không bằng lòng cuộc nam chinh, nhưng cũng phải gượng theo vua và An Thạch. An Thạch bảo: “Đánh Giao Chỉ chắc được” Mà Sung nói: “Đánh được cũng vô ích”.

An Thạch muốn cho Triệu Tiết làm thống soái, vua theo ý Ngô Sung, lại cử Quách Qùi (VIII/1). Tiết đã miễn cưỡng cử Quì và xin làm phó. Cho nên hai tướng bất hòa, đến nỗi hiệu lệnh bất nhất. Tiếng vang về đến triều đình. Đến lúc đại quân Tống sắp vào nước ta mà hai tướng vẫn còn cãi cọ (X/5). Khi tin ấy báo về triều, vua Tống phê rằng: “Quì Tiết phải biết rằng triều đình đã giao cho trọng trách. Thế mà ta nghe rằng các ngươi bàn luận, thường không ăn ý nhau. Vậy, phàm việc gì, cũng phải theo lệnh trên; trong khi thương nghị, chớ có giằng co nhau” (21-10, G. Th, DL 20-11; TB 278/9a)

Sách TB chép lại chuyện này có thêm rằng: “Nguyên Quì với Tiết vẫn thích nhau, cho nên Tiết mới cử Quì. Nhưng lúc gặp nhau, bàn nhiều chuyện, Quì bị Tiết cãi. Lại có hoạn quan Lý Thuấn Cử tức Tiết đã gạt bỏ hoạn quan Lý Hiến, cho nên cũng ghét Tiết”

Các đại thần khác, thấy vua không hỏi ý kiến triều đình, đều lấy làm bất mãn. Chúng nhao nhao bàn bạc, dâng sớ, hoặc để can gián, hoặc để hiến mưu. Đến nay còn vài bài luận về việc chinh nam, trong đó có hai bài rất dài bàn đủ mọi lẽ: một bài của tiến sĩ Triệu Bổ Chi (VKT9), và một bài của đại thần Trương Phương Bình (VKT9 và TB 276/18b). Sau đây sẽ lược ý hai bài ấy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2009, 09:36:22 pm »


11- Ý kiến Triệu Bổ Chi

Triệu Bổ Chi là một văn thần; thấy dư luận xôn xao, ai cũng muốn dâng mưu kế, nên cũng dâng sớ. Tuy lời văn sáo, lý luận suông, nhưng sớ ấy cũng cho ta biết một vài điều về tình hình binh bị Tống. Triệu Bổ Chi lại là người độc nhất bàn đến những cớ có thể làm cho quân Tống có thể thất bại. Những cớ ấy sau này sẽ thành sự thật. Bài sớ rất dài. Sau đây chỉ lấy đại ý mà thôi.

Bổ Chi muốn chứng rằng xuất quân chắc được, mà cũng có thể không thành công. Mặt nào, y cũng viện ra lý; mà mặt nào cũng tìm vừa đủ năm lý.

A- Đánh chắc được, vì những lẽ sau:

    1) Giao Chỉ đã cướp đất Tống, Tống đem quân đi hỏi tội là có danh nghĩa.

    2) Bầy tôi Tống đều trung thành và có nghĩa khí. Xem chuyện Tô Giàm thì rõ (VII/8)

    3) Từ khi Tống Thần Tông lên ngôi, vũ bị được chấn hưng. Nay binh mạnh, khí giới nhiều.

    4) Giao Chỉ là một nước nhỏ. Chỉ cần biên tướng cũng đủ phá. Thế mà nay phát đại binh đi đánh.

    5) Các tướng Tống có nhiều mưu, và đã bàn cùng vua kỹ càng. Còn Giao Chỉ kiêu căng nhưng ngu muội.

B- Có thể không thành công vì những lẽ sau:

    1) Đến lúc cùng túng quá, Giao Chỉ sinh gian giảo. Có thể giả tỏ vẻ hèn để lừa quân Tống.

    2) Đất Giao Chỉ nóng nực, nhiều lam chướng, nhiều rắn rết

    3) Quân Tống phải đi đánh xa, lương thực rất khó liệu đủ. Mà nếu muốn lấy lương địch để nuôi quân mình, thì đất Giao Chỉ nhỏ bé, vốn không đủ nuôi dân chúng.

    4) Đất Giao Chỉ nhiều rừng núi, khe ngòi. Quân Tống chỉ quen dùng xe ngựa, là lợi khí đồng bằng. Quân địch lại quen đường lối. Quân Tống dễ bị du kích.

    5) Quân Tống mộ ở Hà Bắc, Kinh Đông, gồm một nửa lính mới. Ấy toàn những lũ dân du đãng, nay cùng thế, mới đăng lính. Chúng rất ô hợp, khó điều khiển và không có dũng khí.

Kết luận đoạn này, Bổ Chi khuyên không nên đem đại quân đi đánh, mà chỉ nên lập đồn giữ biên thùy và bờ biển mà thôi.

Nhưng y vẫn bàn đến chuyện đánh. Đoán kế hoạch của địch, Bổ Chi nói:

“Giao Chỉ dùng không ra ngoài ba kế sau:

“Một là Giao Chỉ cố thủ các cửa quan không chịu ra, để làm cho quân Tống đóng lâu, bị mỏi. Nếu quân Tống rút quân Giao sẽ tiến. Nếu quân Tống quay trở lại, quân Giao lại về giữ cửa quan. Làm như thế, vùng biên thùy sẽ rất khổ. Đó là thượng sách của địch.

“Hai là Giao Chỉ bỏ hở các cửa quan để khiêu chiến, nhử quân Tống vào chỗ đặt phục binh. Quân Tống sẽ không tiến lui được. Đó là trung sách.

“Ba là Giao Chỉ bỏ các cửa quan, xông ra chiếm đồn trại của Tống. Chúng sẽ bị đánh tan. Đó là hạ sách”

Bổ Chi, ức đoán hành động quân ta, và đề nghị cách đối phó. Y nói tiếp:

“Giao Chỉ không thể thi hành thượng sách được, vì cần phải có ngoại viện. Vậy nên sai sứ tới biên thùy dụ dỗ các man dân theo Tống, để cắt chân, tay của địch

“Nhưng Giao Chỉ có thể vừa dùng thượng và trung sách. Bổ Chi khuyên nên đem đại quân tới gần các cửa quan. Hoặc trương bày cho địch thấy, rồi sai quân tinh nhuệ đi đường tắt đánh quanh. Làm như thế để đối phó với thượng sách địch. Hoặc dấu đại quân, rồi sai quân kỵ giả cách trúng kế khiêu khích của địch, chia ra hai cách đánh vào địch. Nếu địch lui thật, thì cứ đuổi theo, nếu địch xông ra đánh lại, thì cứ giả cách rút lui nhử địch vào chỗ phục binh của Tống. Làm thế để đối phó với trung sách địch.

“Khi Giao Chỉ dùng thượng và trung sách đều thất bại, cùng túng, chúng sẽ xông ra đánh. Đó là hạ sách của chúng. Giao Chỉ sẽ tan”.

Bổ Chi vẫn đuổi theo lý luận:

“Bị thua, Giao Chỉ chạy trốn. Tống nên đóng binh lại chớ đuổi theo xa, hoặc Giao Chỉ chạy vào chỗ hang cùng; theo vào đánh thì như chuột ngoài vào cắn chuột trong hang, chuột trong chắc được. Hoặc Giao Chỉ chạy ra bể; theo thì quân Tống nhát sóng, hơi có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến đấu làm sao? Vả người Giao giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy bể năm mươi dặm mà không thở (!). Vả nay, thuyền buôn thường gặp giặc bể, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền”.

Đó là chứng cớ rõ ràng, quân Tống sợ thủy quân của ta.

Giấc mộng nhà nho vẫn kéo dài. Tuy Bổ Chi nói nước Tống đất rộng của nhiều, cần gì lấy đất và của báu Giao Chỉ, chỉ cần phạt tội cho nó hiệu thuận mà thôi, nhưng y vẫn bàn đến sự tổ chức sau khi bình định. Y khuyên nên theo cũ, chọn tướng súy tốt và giỏi, đặt làm thứ sử và thái thú, mộ thổ binh để tự vệ, mộ những kẻ hoặc ham công danh, hoặc muốn báo thù, hoặc muốn chuộc tội, hoặc bất đắc chí tới ở đó. Rồi Bổ Chi kết luận:

“Đó là kế lo cho trăm đời”.

Kể ra lý luận chính trị Triệu Bổ Chi đã rất cao, mà óc thực dân y đã mạnh!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2009, 08:48:49 pm »


12 - Ý kiến Trương Phương Bình.

Sau đây, sẽ tóm tắt bài thứ hai, mà Trương Phương Bình đã dâng vua hồi tháng sáu, trước khi quân Tống tập trung tại Ung Châu. Bài này tóm tắt mọi phương diện của cuộc chiến tranh Lý Tống bấy giờ: cớ ta đánh Tống, việc ta tấn công Quảng Tây, kế hoạch Tống báo thù, và dư luận của phái phản đối Vương An Thạch.

Trong khoảng đầu, Phương Bình nói về việc Lý đánh Tống:

“Từ đời Lý Nhật Tôn, Giao Chỉ bỏ việc cống. Triều đình đã rộng lượng tha cho, không hỏi tội. Biên thần đã cẩu thả sao nhãng sự canh phòng. Tụi hung hãn, trộm cướp, có kẻ bị giam dày mà bỏ trốn. Binh cũng có đứa ngoan ngạnh, bỏ trốn sang giúp giặc. Cho nên Càn Đức mới dám trái vương mệnh, dùng nhiều người Hoa.

“Vả, ngày trước (đời Lê Hoàn), triều đình sai sứ (Lý Cảo) đến Giao Chỉ. Sứ đã thấy trong thành chúng không có dân cư; chỉ có phủ xá ẩm thấp, vài trăm khu nhà gianh để lính ở. Binh khí chỉ dùng cung nỏ, còn mộc, bài, thuẫn, thương, trúc thương, chúng hèn không dùng nổi. Thế lực chúng không đáng làm cho Trung Quốc sợ. Cho nên ta đã khinh dẻ.

“Trong đời Cảnh Đức (Tống Chân Tông 1004-1008) họ Lý trộm chiếm bờ cõi (thật ra Lý lên ngôi năm 1010). Từ đó đến nay đã hơn bảy mươi năm. Người dân nước ta lâu ngày không đến đó, nên không biết tình hình hư thực thế nào. Nay nghe nói kinh đô chúng có thành, hào mấy từng; binh lực, dân chúng sung túc. Chúng lại đánh được các nước nhỏ lân bang. Thế lực chúng, so với trước thì mạnh hơn nhiều.

“Thế mà, biên lại quen thói cũ, vẫn khinh thường, không lo. Cho nên mới sinh sự. Man dân có đứa hung hãn, làm cho Giao Chỉ không chịu nổi. Giao Chỉ tố cáo thì không nghe; gửi thư kêu thì không chịu nhận. Sự tình ủng tắc, chứa thành oán giận.

“Đến lúc chiến hãm chúng tới bờ bể ta, đại quân tới gần thành ta, thì như là đến chỗ không người. Quân ta không lo dự bị chống lại chút nào. Quân giặc đến đâu, thành ấp đều bị vét sạch. Cướp của cải, bắt con gái đàn bà. Chúng tham lam rất mực, tha hồ làm khốc hại. Tôi nghe chuyện mà đau lòng...”

Đoạn thứ hai rất dài, bàn về tương lai, và việc sửa soạn đánh ta. Sau đây, sẽ rút đại ý mà thôi:

“Nhưng đó là chuyện cũ. Về tương lai tôi xin hiến chín điều:

1) Nay các vùng Hoài, Điện (Kinh), Lưỡng Chiết, Giang Đông, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đều bị đói kém. Vậy nên dùng mẹo mà chế giặc, chớ nên dùng binh. Nên chọn hai thù thần rất giỏi để trấn thủ hai nơi Quảng Châu và Quế Châu, hãy chọn lọc kẻ giúp việc cho kỹ để trị dân. Đem cấm binh giữ các lộ Kinh Hồ. Mộ thổ đinh để giữ thành ấp gần biên thùy. Đóng trại ở các chỗ yếu hại, để cứu lẫn nhau. Làm như thế, thì giặc thôi không dám nhòm ngó nước ta nữa.

“Đó là thượng sách. Nhưng nếu nghĩ rằng đã cất quân đi thì không lui được, tôi cũng xin hiến những điều sau gọi là Trung sách”

2) Giặc vào cướp, đã trở về sào huyệt được mấy tháng rồi. Tuy triều đình đã thưởng công, suy ân, nhưng còn thiếu. Nên ban lời an ủi xuống Kinh Hồ, Quảng Nam để tỏ lòng thương xót của bệ hạ. Nên tha thứ cho kẻ có tội để cho lại tốt không có lòng phản trắc. Nên thưởng các tù trưởng để chiêu dụ khê động. Nên chôn cất tàn cốt, tế tiếu vong hồn.

3) Sáu lộ đông nam bị đói. Quan không có tiền cứu giúp. Lại thêm các phép thanh miêu, trợ dịch, thị dịch, làm dân khốn khổ vì việc đài tải. Trước hết, xin bỏ phép trợ dịch ở bốn lộ Kinh Hồ nam và bắc, Quảng Nam đông và tây, và quay lại cựu chế, để gọi là tuyên bố Đức Trạch.

4) Giặc không đông và không đủ mưu trí bằng Trung Quốc. Sở dĩ chúng dám phạm đất ta, là vì chúng ỷ thế núi bể hiểm; rừng bụi rậm. Nhân ta không phòng bị, chúng mới được mãn ý. Nay tôi nghe rằng đất Giao Chỉ hiểm trở, đường rừng khó qua. Năm trước, chúng đem voi vào cống, có dọn đường cho voi đi, nhưng đi xong, cây cỏ lại mọc đầy. Đường vào nước chúng coi chừng rất khó, chỉ có chúng biết rõ mà thôi. Nay, chúng đã kéo về hết. Sự ta đánh chúng không gấp nữa. Ta phải lo sao toàn thắng. Nay ta đem đi mười vạn quân, mỗi ngày tốn ngàn lượng vàng. Nhưng binh không giỏi nên đưa vào đất độc, ngựa hay không nên ruổi trên đường hẹp. Doanh trại không chỗ đóng, đường tải lương không chỗ thông. Binh nhiều không chỗ dàn, xe cộ không thể dùng được. Như vậy, đến lúc của hết, lực kiệt, sẽ rất hại cho uy nước. Nếu ta sang đánh bây giờ, mà mùa đông này giặc chưa tan, thì mùa xuân sau, quân ta ắt phải lui, rồi lại soạn sửa tiến một lần nữa. Tôi cho rằng làm như vậy khó thành công.

“Vả bây giờ, Lĩnh Nam đã có vạn quân, giặc sao giám vào quấy. Huống cho các vùng Hoài, Chiết Giang, Kinh Hồ bị đói kém. Ta nên đóng quân lại vùng Tương Đăng (Tương Dương và Nam Dương hai chỗ này đều ở Kinh tây nam lộ, hay Hà Nam bây giờ) là hai vùng được mùa. Làm như vậy, dân khỏi phải đi đài tải, mà binh no, ngựa béo. Đến cuối thu, ta lại phát binh. Như thế thì nhuệ khí rất nhiều. Ta chắc thắng.

5) Tôi xét việc đánh Man, có thể dùng mẹo, chứ không dùng sức. Huống chi Giao Chỉ tục không giống Man khác. Các Man khác từ trước đến sau, đều phục tùng một họ qui chủng mà thôi. Còn ở Giao Chỉ thì từ khi Quốc triều lập nên, thủ lĩnh đã đổi đến bốn họ (Ngô, Đinh, Lê, Lý) mà đều là đại tướng lên cướp ngôi chúa. Đó là thói quen của các phiên trấn cuối đời Đường. Vì vậy, thế Giao Chỉ dễ lật đổ. Càn Đức còn nhỏ. Những kẻ giúp việc đều theo ba người. Năm nay, khi chúng vào cướp đất ta, chúng lấy được nhiều vàng, lụa, con gái. Chắc chúng sẽ tranh giành nhau khi chia của. Chúng sẽ chia thành ba bộ, do ba tù trưởng cầm đầu. Rồi chúng sẽ khai hấn lẫn nhau. Bấy giờ ta đánh càng dễ.

6) Lâm ấp ở phía nam Giao Chỉ từ đời Đường, tới cống ta luôn. Đời Quốc Triều ta vì bị Giao Chỉ chia cách nó mới đình cống. Đời Tấn, Tống, Lâm ấp thường xâm vùng Nhật Nam, Cửu Chân. Cuối Đường, hợp với Lào (Nam chiếu), nó lại hãm Giao Chỉ, và gây mối lo cho Trung Quốc.

“Vậy nay, Lâm ấp rất có thể làm hao tổn Giao Chỉ. Vả lại Lâm ấp cách kinh đô Giao Chỉ 1000 dặm, lại chung với Giao Chỉ đất Tượng (ba châu mới nhường cho ta). Nay từ Quế Châu tới Ung Châu còn hơn 14 ngày đường; như thế thì Lâm ấp tới Giao Châu còn gần hơn. Vậy ta nên mộ sứ tới dụ Lâm ấp diệt Giao Chỉ, ta sẽ cho nó Nhật Nam (Quảng Bình trở vào), Cửu Đức (Hà Tĩnh). Man di tham lợi. Cứ hẹn như thế, chắc nó sẽ gắng sức làm.

7) Hậu quân đi nam chinh, nay còn ở phủ này (kinh), đợi ngày xuất quân. Ngoài quân của tướng nam kinh, lại có chừng 2500 kỵ binh ở châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng. Các quân đã hẹn đến tháng 7 sẽ tới đây. Mùa hạ và mùa thu nóng nực. Mà đến Quế Châu đã phải đi vạn dặm rồi. Vả ở Giao Chỉ như trên đã nói, núi rừng rất hiểm; người không qua lại được, ngựa khó dùng. Trước kia, khi Nùng Trí Cao nổi loạn, Địch Thanh phá giặc ở vùng tây bắc Ung Châu. Đó là chỗ ngoài núi, địa thế rộng phẳng. Ngựa có chỗ thi sức, cho nên mã quân đã có công to. Nay thì khác, Trí Cao chỉ là một thủ lĩnh khê động, vào đất ta mà cướp. Còn Giao Chỉ là một nước, lại có đất đai xa mà hiểm.

“Quân ta lấy ở Tần, Vĩ và quân cung tiến thủ (bắn cung) vốn để phòng ngự các rợ Khương, Nhung ở mặt bắc. Quân ấy tốt, ngựa ấy hay, tới kinh sư mà còn chưa chịu được thủy thổ, huống chi xua chúng vào nơi hiểm độc. Đã không dùng chúng ở đó được, mà khi trở về, sẽ còn sống được bao nhiêu? Huống chi giặc Nhung ở mặt bắc, chăm chắm rình ta. Ví bằng nhân đưa số quân kỵ ta xuống phương xa, chúng đột nhiên vào quấy, thì vì đường xa, quân ấy về cứu sao kịp?

“Vậy xin đem kỵ binh trở lại. Chỉ nên chọn đinh tráng ở các lộ Kinh Hồ, thêm vào với thổ quân mà dùng. Tướng thì chọn người am hiểu sơn xuyên, địa lợi. Còn nếu muốn dùng kỵ binh, chỉ nên dùng ngựa miền nam, vì nó quen thuỷ thổ và quen đi lại chỗ hiểm ải.

Cool Ti An Nam chiêu thảo hẹn đến trung tuần tháng bảy sẽ tới Đàm Châu (Tràng Sa). Đàm Châu cách Quế Châu 14 ngày đường mà ở ngoài Lĩnh, tháng 8, tháng 9 rất nhiều lam chướng; từ tháng 10 trở đi mới bớt. Nếu quân chưa ra ngoài Lĩnh, còn đóng đợi lại ở Đàm Châu, thì vì Hồ Nam đã bị đói, lương thảo sẽ khó lòng biện; ở đó lâu sự vận tải rất tốn. Nhưng nếu cứ tiến ra ngoài Lĩnh, thì sợ chướng độc làm cho người và ngựa, chưa dùng đã ốm.

9) Từ trước, mỗi lúc bản triều có việc biên phòng, từng sai quần thần bàn bạc một cách rộng rãi. Nay, muốn đi đánh Giao Chỉ ta đem mười vạn quân đi, phải trải qua nhiều nguy hiểm. Lợi hại như thế rất lớn. Thế mà bệ hạ tự định trước một mình. Tuy quốc luận cũng đồng ý, nhưng xin cứ hỏi ý kiến các quan trong ngoài, các cận, chức, để cho rộng lời bình luận. Làm như thế không những sẽ biết được ai hay giỏi, và sẽ làm yên lòng quân, lòng dân, mà lại còn có thể tìm được những kế hoạch hay nữa”

Lời bàn của Trương Phương Bình rất là xác đáng, trừ sự mong đợi dân ta chia bè đảng là sai. Sự thi hành phần lớn cũng hợp với lời bàn. Duy chỉ về việc dùng quân miền bắc, việc hoãn kỳ xuất quân, thì không thay đổi ý đã định. Vả các tướng sẽ rất phân vân về việc nên đánh chóng hay không. Quánh Quì chù chừ, do dự. Triệu Tiết biện lương không đủ. Lại thêm lam chướng giết quân Tống và quân ta chống cự dũng cảm. Cho nên, tuy soạn sửa chu đáo, kế hoạch hợp lý, nhưng cuối cùng cùng khiến quân Tống xuất trận phải thất bại chua cay.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM