Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:37:46 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý  (Đọc 60879 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #30 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2009, 11:03:19 am »


6 - Việc động Tư-lẫm

Lý Thánh Tông biết rõ ý định của Chú, đã phản ứng lại một cách mạnh bạo. Nhiều việc bất hòa xảy ra ở vùng biên thùy, có tính cách quyết liệt hơn trước. Sau đây sẽ kể vài ba.

Năm 1057, sứ ta là Mai Nguyên Thanh (VSL) đem hai “kỳ lân” qua Quảng Châu, định cống vua Tống. Nói đến kỳ lân, đời xưa ở Á Đông, là một việc rất quan hệ. Người Trung Quốc tin rằng chỉ khi có thánh nhân ra đời và gặp vận thì kỳ lân mới hiện. Đến như Khổng Tử ra đời không gặp vận, kỳ lân có hiện cũng chỉ là kỳ lân quèn! Vì lẽ ấy, các quan Tống cãi nhau sôi nổi về việc kỳ lân của Giao Chỉ cống. Sánh TB còn chép rõ hình dáng con vật ấy: “Hình như trâu, mình có da dày từng mảnh như giáp, đầu mũi có sừng; hay ăn cỏ, quả, dưa. Cho ăn thì phải lấy gậy đánh nó mới ăn”. Ta đoán đó là con tê giác. Nhưng triều đình Tống bàn nhau mãi. Sau Tư Mã Quang phải nói nửa chừng rằng: “Giả sử đó là kỳ lân thật, thì hiện không gặp thời là điềm dở; mà nếu đó không phải là lân mà ta nhận, thì các phương xa sẽ cười ta”. (TT và TTh). Vua Tống bèn bảo gọi vật ấy là “thú lạ” mà thôi (TB 187) và để lại Quảng Châu.

Chắc rằng việc Tống từ khước “kỳ lân” này không làm cho vua Lý hài lòng. Vả Tiêu Chú đem quân đi tuần các khê đông gần biên giới ta, có ý đe dọa. Vua Tống phải hạ chiếu răn cấm (tháng 7 năm M.Tu 1058). Lý Sư Trung, làm đề điểm hình ngục Quảng Tây cũng lo toan chỉnh đốn hành chính, binh lương và giao thông ở miền Ung Châu. Sư Trung nói: “Vùng Linh Nam không tiện phải lính thú đến đó. Xin mộ thổ đinh, nhà nào bốn năm đinh thì chọn một, mà cắt phiên nhau, tới lúc ngoài mùa làm ruộng, họp lại tập tành”. Trong vùng Quảng Tây mộ được hơn bốn vạn người. Sư Trung lại cho thông thương buôn bán, lập lại cái chợ Ung Châu, đào sâu kênh Linh Cừ nối Hồ Nam với Quảng Tây.

Được những tin ấy, tháng hai năm sau (K.Zu 1059,theo TS và TB 188; TT chép tháng ba) vua Lý Thánh Tông sai quân đóng miền đông bắc, từ châu Vĩnh An vào địa phận Khâm Châu, và từ châu Tô Mậu vào trại Cổ Vạn (TB 118/4b và 190/1a). Sử ta chỉ nói qua rằng:

“Ta diễu quân rồi rút về. Làm thế vì người Tống tráo trở” (TT). Các sách Tống chép rõ quân ta đánh Cổ Vạn, giết viên quản câu Lý Duy Tân (TB 190/1a), và đánh động Tư Lẫm ở phía tây thành Khâm Châu. (TB 188/4b)

Ngày G.Tu, Tiêu Chú trình: “Giao Chỉ cướp các động Tư lẫm, Cổ Vạn, Chiêm Lãng, bắt dân và gia súc mười bảy thôn, nhiều không kể xiết. Tôi muốn hạ lệnh cho Quảng Châu giữ sứ giả Giao Chỉ, không cho nó đem tiến thú lạ, đợi đòi chúng trả người và vật bị cướp đã. Nếu chúng không nghe, tôi muốn lập tức đưa quân đánh sâu vào đất chúng”.

Vua Tống sai Tiêu Cố, Tống Hàm và Lý Sư Trung, là ba quan coi lộ Quảng Tây, cùng Tiêu Chú xét việc mà xử trí (TB 189/5b). Tháng 9 năm ấy, Sư Trung tâu: “Viên coi Ung Châu là Tiêu Chú muốn đánh Giao Chỉ. Sợ người nước ấy nghe mà không yên. Xin cấm Chú không được sinh biên sự”. Vua Tống nghe lời tâu, nên chuyện ta đánh Tư Lẫm không thành chuyện to.


7 - Việc châu Tây Bình. Thân Thiệu-thái

Trong lúc ấy, lại xảy ra một việc khác ở châu Tây Bình, giáp Lạng Châu. Nguyên có dân ta chạy trốn đến đó. Viên cai quản ở đó, là Vi Huệ Chính, dấu đi. Vua Lý Thánh Tông sai quân vào đòi lại. Quân ta do Châu Mục Lạng châu phò mã Thân Thiệu Thái, dẫn từ động Giáp kéo vào huyện Như Ngao, thuộc châu Tây Bình (TS). Vua Tống hạ lệnh cho Ung Châu đem quân dẹp (TB 191/16a). Viên đô giám tuần kiểm Tống Sĩ Nghiêu đem quân cự lại. Quân ta rút lui. Sĩ Nghiêu đem quân vượt biên giới động Giáp, bị quân ta đánh, giết và bắt được nhiều tên. Việc này xảy ra năm 1059, có lẽ đồng thời với việc Tư Lẫm nói trên. Sang năm sau (1060, TB 192/16a) Thân Thiện Thái lại kéo quân vào đánh, giết Tống Sĩ Nghiêu và vài tướng nhỏ: Lý Đức Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật (TB 194/10a). Việc tâu về triều. Vua Tống hạ chiếu sai Tiêu Cố đem quân tới Ung Châu, họp cùng Tống Hàm, Lý Sư Trung ngăn đánh.

Quân Thiệu Thái đã qua châu Tây Bình và đánh vào trại Vĩnh Bình (TB 192/2b); làm chấn động cả Ung Châu (theo lời Dư Tĩnh). Ti chuyển vận Quảng Tây xin đem các quân lộ Kinh Hồ bắc, chừng 3.000 tên, giỏi nghề thương và mộc, đến đánh. Vua Tống lại bảo phải kiểm điểm quân mà thay kẻ già yếu; ý chừng muốn đánh to.

Quân ta vẫn tiến, bắt chỉ huy sứ Dương Lữ Tài (VSL, còn TT chép Dương Bảo Tài), dân đinh và gia súc nhiều vô kể.

Viên coi Quế Châu là Tiêu Cố, và viên coi Ung Châu, là Tiêu Chú, đều bị cách chức, vì đình thần kết tội “đã không xét công việc các biên lại, để chúng gây sự, làm hại cho quan quân”. (Tháng 11, TB 192/12b)

Tháng Chạp năm ấy (1060) quân Lý cũng chưa lui. Lại thêm quân vùng châu Tô Mậu cũng kéo vào Ung Châu họp cùng quân động Giáp. (TB 192/17b, 18b)

Tống bèn sai viên lại bộ thị lang Dư Tĩnh làm an phủ sứ, xuống họp cùng Lý Sư Trung mà bàn việc đánh dẹp. (TS 320)

Dư Tĩnh muốn xui Chiêm Thành họp sức, rồi đem quân Quảng Nam tây lộ tấn công (TS 488). Nhưng có lẽ chưa thi hành được. Sử ta chép: Dư Tĩnh đánh không được, bèn dùng phép ôn hòa mà điều đình. (TT)

Một mặt, Lý Sư Trung tâu về triều kể tội Tiêu Chú đã hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng riêng cho mình, để đến nỗi mất lòng dân. Một mặt, Dư Tĩnh nhận rằng lỗi bởi các viên coi biên trại tham công, sinh sự, và hẹn với quan ta họp nhau để thương nghị. Trong Tống sử (T 320 và ĐĐ SL 75) nói Dư Tĩnh đến nơi, gọi viên dụng sự Giao Chỉ, Phí Gia Hữu, mà trách hỏi. Nhưng theo lời Dư Tĩnh tâu vua Tống, thì chính Tĩnh đã dùng chước bàn hòa trước. (TB 193/7a).

Vua Lý Thánh Tông sai Phí Gia Hữu (TS và TT; còn VSL chép lầm ra họ Bùi) tới thương nghị, Tĩnh yêu cầu trả lại Dương Lữ Tài và dân đinh mà Thân Thiệu Thái đã bắt. Gia Hữu cùng bàn hòa, và trả lời: “Việc này xẩy ra là vì dân gần biên giới cướp nhau, rồi vô ý phạm đến quan quân. Tôi sẽ đòi chúng để tra hỏi, và sẽ trừng trị. Còn những kẻ chúng bắt, tôi sẽ trả lại” (TS). Sách ĐĐSL quyển 75 chép Gia Hữu nói: “Tội chúng đáng chết, tôi xin về bắt những đứa thủ phạm đến nộp”.

Được lời Tĩnh rất mừng, bèn hậu tạ Gia Hữu (TS). Sử ta nói Dư Tĩnh hối lộ Gia Hữu rất nhiều để xin lại tướng Lữ Tài. Cuối cùng, vua Lý không bằng lòng trả (TT, VSL). Nhưng cũng bắt năm người giải tới biên giới Khâm Châu mà chém. (ĐĐSL 75)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #31 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2009, 11:06:39 am »


8 - Việc động Lôi-hỏa. Nùng Tông-Đán

Sau khi Nùng Trí Cao bị bại trận. Họ Nùng còn có bọn Nùng Tôn Đán là kiệt hiệt hơn cả. Tông Đán coi vùng động Lôi hỏa về phía tây bắc Cao Bằng ngày nay (TB 185/8b chép Hỏa động), Tông Đán tụ họp con là Nhật Tân và dư đảng của Nùng Trí Cao, căn cứ vào chỗ hiểm mà chống với quân Tống. Đối với vua Lý, Tông Đán vẫn được coi như là phiên thần nối dòng Trí Cao.

Trong đời Lý Thánh Tông, vào năm 1057, Tông Đán đem quân vào đánh đất Tống thuộc Ung Châu. Tiêu Chú, coi Ung Châu, muốn đưa quân động đinh đánh. Nhưng quan trên là Tiêu Cố, coi Quế Châu, không ưng và muốn chiêu hàng. Viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Vương Hãn cũng bàn rằng: “Tông Đán giữ vùng núi rậm, nếu có đặt phục binh đón quân ta, thì quân ta chưa chắc đã thắng nổi. Đánh sẽ chỉ làm tăng biên hoạn mà thôi”. Hãn bèn một mình đem quân tới gần động Lôi Hỏa; sai người triệu con Tông Đán là Nhật Tân mà khuyên rằng: “Cha mày, trong thì bị Giao Chỉ thù, ngoài thì bị các quan biên thần ít thưởng cho. Mày về bảo cha mày nên chọn đường có lợi mà đi”. Sách TB (185/8b) chép luôn: “Sau đó, hai cha con Tông Đán hàng. Việc ở miền nam mới yên”. Tông Đán được ban chức trung vũ tướng quân, Nhật Tân chức tam ban tá chức và được coi châu Ôn Nhuận (TB ở đây chép Ôn mẫn, vì tự dạng hai chữ Nhuận, mẫn, gần nhau). Tuy sách Thần Tông Thực lục cho công chiêu dụ Tông Đán là của vương Hãn, nhưng Tống sửmộ chí Tiêu Cố (do Vương An Thạch viết) thì nói đó là công của Tiêu Cố.

Tuy vậy, Tông Đán vẫn không theo Tống. Cho nên, năm 1060, lúc quân ta do Thân Thiệu Thái Lĩnh, kéo vào châu Tây Bình đánh quân Tống, Vương Hãn bấy giờ coi Đàm Châu, lại khuyên nên dè Nùng Tông Đán và nên chiêu dụ nó. (TB 192/12b)

Năm 1062, Tông Đán và con đem các động thuộc mình, là Lôi Hỏa và Kế Thành, nộp cho Tống, và xin tới ở Lạc Châu. Tống nhận đất, bổ Tông Đán coi châu Thuận An (là vùng Lôi Hỏa, Kế thành mới được đổi ra tên ấy) và bổ Nhật Tân coi việc thuế ở Ung Châu. (TS495).

Như vậy, cha con Tông Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi là thuộc ta. Cho nên chúng không lấy làm yên tâm, vì sợ vua Lý Thánh Tông đánh. Vả chăng động Lôi Hỏa bên cạnh Quảng Nguyên, mà bấy giờ Lưu Kỷ quản. Lưu Kỷ cũng là một tướng kiệt hiệt, lại làm chức quan sát cho vua Lý. Tông Đán lại càng lo.
“Năm Trị Bình (1064), Tông Đán có sự hiềm khích với Lý Nhật Tôn (Thánh Tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng đe dọa. Viên coi Quế Châu là Lục Sằn biết vậy, sai người đến dụ. Tông Đán bèn bỏ châu minh vào nội địa, và được ban chức hữu thiên ngưu vệ tướng quân”. (TS 495)

Sự phản bội của tụi Nùng Tông Đán lần này làm Lý mất một vùng đất khá lớn ở phía tây bắc châu Quảng Nguyên. Những tên đất mà Tông Đán nộp Tống, mỗi sách chép một khác; vả trong một sách, cũng mỗi nơi chép một khác. Nhưng có lẽ đất ấy gồm nhiều động. Vả lúc nhận đất rồi, Tống lại đặt tên mới. Nhưng động hay châu ấy có thể tóm tắt như sau; động Lôi hỏa (hay hỏa), động Kế thành, châu Ôn nhuận. Có lẽ các đất này thành châu Thuận An. Về sau, lúc vua Lý xin Tống trả đất đã bị thổ tù nộp Tống, lại nói đến các động Vật Ác, mà TB (349/7b) nói là Tông Đán đã nộp và Tống đổi ra làm châu Thuận An.

Vua Lý Thánh Tông sai sứ sang đòi đất và dân (TS 488). Sứ giả là Lê Thuận Tông(TS 332), nguyên châu mục Phong Châu, được kén phò mã đời Lý Thái Tông. (1036, IV/4) lấy công chúa Kim Thành. Sứ tới Quế Châu, gặp Lục Sằn. Tỏ thái độ quả quyết, Thuận Tông đòi Sằn trả Tông Đán và các động.

Lục Sằn cũng là một viên xuất thân tiến sĩ như Tiêu Chú, và cũng am hiểu việc biên giới giữa Tống và ta. Trước đó Sằn coi Qui Châu, đã tình nguyện xin tới Quế, vì nhận thấy rằng Ung chỉ cách Quế có 18 trạm, mà vũ bị ở đó không sẵn sàng. Vua Tống bằng lòng. Tống sử (TS 332) chép nối: “Từ khi giặc Nùng yên, người Giao Chỉ càng kiêu căng, các thú thần thường chịu nhịn cho qua. Sằn tới Ung, họp động trưởng ở bốn mươi lăm động thuộc tả và hữu Giang, biên tên được năm vạn thổ đinh, đặt các tướng lại, cấp cho ấn. Thanh thế Tống nổi lại trong vùng khê động. Sứ Giao là Lê Thuận Tông tới, kiêu ngạo như cũ. Sằn nhún nhường mời tới, giảng dụ phải kính lẽ phải, làm sứ phải sợ mà trở về”.

Sự thật thì Sằn tâu về triều việc sứ ta tới. Vua Tống Anh Tông mới lên ngôi, hỏi ý kiến các đình thần. Tể tướng Hàn Kỳ bàn rằng: “Xứ Giao Châu, rằng núi hiểm trở, khí hậu ẩm độc. Nếu có lấy cũng không giữ được. Chỉ nên vỗ về chúng mà thôi” (TS Và TB 203/12a). Vua Tống Anh Tông bèn trả hai châu (Lôi Hỏa và Ôn Nhuận?) lại cho vua Lý. (TS 332).

Nhưng cha con Tông Đán vẫn theo Tống. Mười lăm năm sau (1073), viên chuyển vận sứ Quang Tây là Ôn Cảo xin gia hàm cho chúng. Tống Thần Tông ban cho hàm cung bị khố phó sứ. Tông Đán được làm đô giám Quế Châu. (TB 244/3b).

Về đại thể, Tống Lý vẫn giao hiếu cùng nhau. Lý vẫn cống hiến, Tống vẫn gia phong. Sứ Lý sang mừng Anh Tông lên ngôi (1064). Anh Tông sai sứ đem các di vật của Tống Nhân Tông sang tặng vua Lý, và gia phong chức đồng trung thư môn hạ bình chương sự. (TS hình pháp chí). Trong mười năm liền; không hề xảy ra biên sự



9 - Kết luận

Ở triều Tống, trong đời Chân Tông, Nhân Tông, và Anh Tông, có nhiều người chủ việc đánh ta. Nhưng bây giờ, vua Tống thích hòa bình, các đại thần đều là người nho học, không ham gây họa chiến tranh. Vả việc bắc thùy Tống cũng đã khó khăn lắm. Cho nên, với việc quân Tống bị nhục bởi tay Thân Thiệu Thái mà Tống cũng không gây sự; và đến việc Nùng Tông Đán, Tống cũng không làm già. Sau đó ta lấn dần đất Tống. Năm 1074 Thẩm Khỉ tâu rằng năm trước ta đã chiếm mất châu Thất Nguyên. (VI/7)

Tuy nhiên, phái chủ chiến vẫn không thôi. Năm 1064, khi sứ ta tới kinh đô Tống, có nội thị là Lý Kế Hòa, đe dọa sứ ta rằng: “Lúc Thân Thiệu Thái vào cướp Quảng Nam Tây lộ, ta đã nhiều lần xin đánh nước người. Nhưng triều đình cho rằng Thiệu Thái là đứa ngông cuồng. Vả nước người đã sai sứ tạ tội. Cho nên triều đình chưa cất quân mà thôi”. (TS 488)

Những người chủ chiến ấy sắp có cơ hội sau này. Chính là sau lúc Tống Thần Tông lên ngôi (1067), và Vương An Thạch được chấp chính (1069).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #32 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:07:02 pm »


CHƯƠNG VI
VƯƠNG AN THẠCH VỚI ĐẠI VIỆT

1. Chính sách tân pháp - 2. Phòng thủ nam thùy - 3. Chính sách kiềm chế - 4.Chính sách hòa hoãn. Tiêu Chú. - 5. Chính sách khiêu khích. Thẩm Khỉ - 6. Chính sách do dự - 7. Tình hình nghiêm trọng.


1 - Chính sách tân pháp

Tống là một nước từ địa vị nhỏ ở trung tâm nước Trung Hoa, đã trở nên một đế quốc, bằng cánh dùng vũ lực thôn tính các nước bày vai. Cuộc bành trướng bắt đầu năm 963 hướng về phương nam và tây, đánh lấy Kinh Nam (vùng Hồ Nam), Vũ Bình, Hậu Thục (Tứ Xuyên), Nam Hán (Quảng Đông); dụ hàng Nam Dường (Giang Tây), Ngô, Việt (Chiết Giang) và Mân (Phúc Kiến). Còn về mặt bắc, Tống gặp nhiều khó khăn, vì kề vạn lý trường thành có nước Liêu và Hạ rất mạnh1 không muốn để Tống lấn lên cạnh nước mình. Cho nên Tống Thái Tổ đã thất bại trong việc đánh bắc Hán (vùng Hà Bắc). Phải đợi đến khi Thái Tông lên ngôi, nước này mới bị nhập vào đất Tống (979).

Nước Tống gồm địa giới Trung Quốc bây giờ, trừ vùng Bắc Binh, Sơn Tây, Cam Túc, Tây Cương, Quí Châu, tây phần Quảng Tây và Vân Nam.

Thấy tiến về nam dễ, Thái Tông đã quyết định đánh ta, và đã bị thất bại hoàn toàn trong năm 981 (VI/1) vì tay Lê Hoàn. Từ đó về sau, tâm trí vua Tống phải luôn luôn quay về hai nước Liêu, Hạ ở miền bắc. Trong khoảng gần trăm năm, nước ta được khỏi họa xâm lăng.

Năm 1068, một vua trẻ lên ngôi nhà Tống. Ấy là Tống Thân Tông và Anh Tông nhu nhược, chỉ bo bo giữ khốn kinh kỳ yên ổn, chứ không quản gì đến quốc nhục ở các biên thùy; trong triều, các nho thần chỉ chăm về từ chương và chỉ bàn suông về đạo đức, lấy sự dân yên làm quí. Cho nên Thần Tông có chí quật cường.

Bấy giờ có một nho thần là Vương An Thạch cao tài kinh tế. Tuy chức tước còn nhỏ nhưng Thần Tông gọi về gần kinh để hỏi ý kiến (tháng 9 năm 1067) rồi cất lên làm tể tướng (1096). An Thạch lập kế hoạch làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc quỹ dồi dào làm binh lực nước mạnh. Các phương sách y đề cử và ban ra để thi hành đối với đương thời đều có tính cách đại cách mạng. Cho nên bấy giờ gọi là các phép ấy là tân pháp.

Làm tiện và lợi cho dân thì có phép mộ dịch, quân thâu, nông điền, thủy lợi. Mộ dịch là bỏ lệ bắt làm xâu, mà tùy theo nghèo, giàu nạp tiền để thuê người làm thay. Quân thâu là trong việc thuế cống, có thể lấy chỗ gần thay chỗ xa, lấy cái đắt thay cái rẻ, để thâu cho đều. Nông điền, thủy lợi là phép mở mang ruộng cày, lấy nước vào ruộng. Phép mộ dịch, cũng chép là miễn dịch, hay trợ dịch.

Làm lợi cho dân và cho công quỹ thì có các phép: Thanh miêu, thị dịch, phương quân điền. Thanh miêu là lúc lúa còn xanh, nhà nước cho dân vay tiền trước; đến lúc gặt phải trả vốn và lời 2 hoặc 3 phân (phần mười). Thị dịch là lập công vụ mua hàng khi rẻ, rồi phát cho các nhà buôn, bán lấy lãi; hoặc để cho dân gian lúc cần tiền có thể tới cầm cố đồ vật với một lợi tức phải chăng. Phương quân điền hay phương điền là đạc điền theo từng khoảnh vuông để định thế lệ.

Làm mạnh cho nước thì có phép bảo giáp và bảo mã. Bảo giáp là bỏ bớt cấm binh, tức là lính mộ phải trả tiền tốn, mà dùng dân binh. Họp mười nhà thành một bảo, có bảo trưởng coi; năm bảo là một đại bảo, có đại bảo trưởng coi; mười đại bảo thành một đô bảo có đô bảo trưởng coi. Nhà nào hai đinh, thì bắt một để vào bảo. Không cấm khi giới như trước; trái lại sai các bảo tập vũ nghệ. Phép bảo mã là phát ngựa cho các bảo và tư gia tình nguyện nuôi, hoặc nhận cấp tiến để tự mua lấy. Mỗi nhà được một hay hai con. Hàng năm có quan khám nghiệm. Lúc hữu sự thì bảo đinh phải ra lính và các ngựa phải nộp quan.

Đại để các phép ấy rất tài tình và gần như các phép mà ngày nay cả thế giới dùng. Bấy giờ thì rất mới, tuy bị phái cũ bài xích, các phép đều được thi hành, và chẳng bao lâu có ảnh hưởng rất khả quan.
__________________________________
1. Liêu là một nước ở vùng Mãn Châu, Hà Bắc bây giờ. Nguyên trước là Khiết đan. Chúa nước xưng vương năm 916. Đến năm 937, đổi tên ra Liêu. Rồi chiếm phần đất Hà Bắc, Sơn Tây và Chahar. Lúc Tống lên ngôi, hai nước Liêu Tống thành lân bang. Tống Thái Tông đánh Liêu, nhưng thất bại ở Cao Lương (979). Năm 982, Thái Tông lại nhân Liêu có tang, kéo quân tới đánh, nhưng bị đại bại. Năm 1004, Liêu tới đánh Tống, nhưng Liêu bị bại. Hai bên sức ngang nhau, nên định hòa hiếu với nhau và lập đàn thề nhân thiện ở Đàn uyên. Đến lúc nước Hạ, ở phía tây Liêu, trở nên một nước mạnh và bắt đầu quấy Tống, Liêu thừa cơ, yêu sách Tống nhiều điều: như đòi đất và tiền (1042 và 1074). Tống đều phải nhịn. Hạ là một nước có từ nhà Đường, chiếm vùng Cam Túc, Ninh Hạ ngày nay. Ban đầu, giúp Tống đánh Bắc Hán, nhưng sau lại theo Liêu chống Tống, và được Liêu phong cho chúa làm Hạ quốc vương (986). Hạ bắt đầu bức hiếp biên thừa tây bắc của Tống. Nhưng năm 1003, Hạ chúa lại cầu phong với Tống, và vua Tống phong chước Tây bình vương (đối với Nam bình vương phong cho vua Lý). Từ năm 1082, Hạ trở nên nước mạnh, mở mang bờ cõi miền tây. Lấn nước Thổ Phồn và tự xưng đế (1038). Từ đó đe dọa Tống luôn luôn. Các danh tướng đời Bắc Tống đều có cầm quân chống Hạ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #33 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:11:16 pm »


2. Phòng thủ nam thùy

Quảng Nam là vùng cực nam nước Tống; gồm hai lộ: Quảng Nam tây lộ và Quảng Nam đông lộ. Gọi tắt là Quảng Tây và Quảng Đông. Quảng Tây bấy giờ ra tận bờ biển; Liêm Châu và Khâm Châu đều thuộc Quảng Tây. Cho nên nước Đại Việt đời Lý hoàn toàn tiếp đất Quảng Tây.

Sau khi Nùng Trí Cao đánh phá Quảng Nam, Tống đã chia tây lộ làm bá: Ung, Nghi, Dung. Được ít lâu lại trở lại chế độ cũ (LNĐĐ/1).

Chức quan cai quản việc quân ở lộ là kinh lược an phủ sứ, đóng ở Quế Châu. Lệ thường là viên coi Quế Châu kiêm chức ấy: người ta gọi bằng quan tri Quế Châu hay quan kinh lược sứ. Về việc lương thực, tài chính, có chức chuyển vận sứ. Hai chức trên, không bên nào phụ thuộc bên nào, và đều theo mệnh lệnh trung ương.

Danh hiệu châu rất phức tạp. Vì từ đời Hán đặt ra danh hiệu ấy. Đời sau, lúc thì đổi ra quận, lúc lại đặt lại. Cho nên đời Tống, tiếng châu chỉ một khu vực hoặc to hoặc nhỏ; ví dụ: Quế Châu quản Liêm Châu mà Liêm Châu lại có lúc quản Khâm Châu.

UNG CHÂU là châu thuộc Quảng Tây và tiếp đất nước ta. Viên coi Ung Châu thuộc viên coi Quế Châu. Viên ấy kiêm chức an phủ đô giám, coi tất cả việc binh lương, luyện tập, phòng ngự ở biên thùy. Dọc theo các trại giữ những khê động, như năm trại giáp Đại Việt (IV/1), các chủ trại đều kiêm chức tuần kiểm để huấn luyện giáp đinh và bặt trộm cướp (LNĐĐ/1). Những chủ trại có chức tuần phong sứ hoặc là đô giám (LNĐĐ/3).

Về quân, thì Ung Châu gồm hai đoàn, gọi là hai “ tướng”. Mỗi tướng có 5.000 quân. Giữ biên thùy Đại Việt có một tướng, chí làm hai phần: 2.000 đóng ở Thành Ung, 3.000 chia đóng năm trại: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.

Về mặt KHÂM CHÂU, có đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân gọi là Đằng Hải, hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như tích giáp biên thùy châu Vĩnh An và Để trạo ở cửa sông Khâm Châu.

Trên đây chỉ nói đến “quan quân” nghĩa là quân chính qui thuộc triều đình tuyển. Ngoài ra, còn có nhiều thứ quân địa phương, tức là dân quân: thổ đinh (dân các châu), động đinh (dân các động). Theo thời, ở các trại, khi thì có quan quân, khi thì hoàn toàn để động đinh phòng thủ.

Dân các động thường hay có nhau. Vậy nên, chúng ta tự lập vũ nghệ để tự vệ: hạng trai tráng tự vệ ấy gọi là điền tử giáp, nghĩa là vừa cày vừa làm lính. (LNĐĐ/3)

Tất nhiên rằng khi các viên chức Tống không biết cai quản khê động, thì động đinh ấy trở thành những mối lo cho Tống ở biên thùy. Trái lại, lúc các viên coi Quế Châu, hay Ung Châu quan tâm đến sự kết thúc chúng, thì chúng lại trở nên những quân lính, không những giữ biên thùy có công hiệu, mà chúng có thể thành quân tiền phong uy hiếp nước ta.

Từ khi Nùng Trí Cao đã phá Quảng Nam, quân Tống đặt ra lệ cứ năm đinh bắt một để làm thổ đinh, và cứ hai đinh bắt một, để làm bảo đinh.

Đến đời Hi Ninh thứ 6 (1073), Vương An Thạch tổ chức lại, muốn theo lệ quân nghĩa dũng ở Hà Bắc; đặt cấm binh giao cho viên kinh lược hoàn toàn điều phát, và chỉ dành bảo đinh cho các châu huyện trông coi. (LNĐĐ/3)

Tống tổ chức quân khê động để toan vào đánh đất ta. Ta sẽ thấy rằng Tống sẽ thất bại trong các cuộc hành quân; mà lẽ chính là vì do dự không lợi dụng triệt để các quân khê động ấy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #34 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:14:11 pm »


3. Chính sách kiềm chế.

Lúc Thần Tông mới lên ngôi và lúc Vương An Thạch mới chấp chính, ý tưởng đối với ta thế nào? Sách TB nay đã mất khoảng ba năm đầu đời Hi Ninh (từ tháng 4 năm Đ.Zu 1067 đến tháng ba năm C.ty 1070), làm ta không thể biết rõ. Nhưng đoạn sau còn nhắc lại đoạn mất, khiến ta đoán rằng vua Tống và An Thạch đã bàn đến việc Giao Chỉ. (TB 216/6a).

Lúc quốc dụng được dồi dào, binh lực khá mạnh, vua Tống Thần Tông bèn nghĩ đến việc biên cương.

Ở phía bắc, hai nước Liêu, Hạ vẫn mạnh và thường thường uy hiếp biên giới. Quân và tướng giỏi phần lớn đóng ở Bắc thùy.

Tháng 11 năm M.Ta (1068), Vương Thiều hiến kế đánh nước Thổ Phồn ở phía tây nước Hạ, để cắt “cánh tay phải của nước này”. Vương An Thạch khen là kỳ mưu. Vua cũng bằng lòng. Cho nên việc binh bắt đầu phát ở đó. Tuy lấy được Hi Hà và Thần Tông khen An Thạch, nhưng sau này cũng là một mối lo cho Tống, dai dẳng đến năm 1073.

An Thạch làm nội chính cách mạnh, nên bị lắm kẻ thù oán, nhất là các lão thần. Cho nên kẻ đương thời cũng như các sử gia đời sau đều qui tội thất bại nội chính cũng như ngoại giao cho An Thạch. Vì thế xét đoán cho đích xác trách nhiệm vua Tống Thần Tông và Vương An Thạch trong việc đánh nhau với nước ta, không phải dễ. Sự chắc chắn là cả hai người đều để ý đến các man dân miền khê động châu Ung, và trong trí người Trung Quốc ở trung nguyên, thì dân ta cũng chỉ là một man dân mạnh mà thôi. Cả hai đều nghĩ sớm chầy gì cũng sẽ mở mang bờ cõi miền Nam; vì “nếu thắng thế, Tống sẽ tăng, và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.

Nhưng trong khi bàn bạc về thời cơ thuận tiện, có chỗ dị đồng: lúc vua muốn gây sự thì An Thạch lại can, lúc An Thạch muốn khởi binh thì vua lại dè dặt. Trong lúc ấy, các biên thần đều lo liệu sự kết thúc các an dân và tăng binh lực.

Tháng 7 năm C.Tu (1070), An Thạch bàn với vua việc lấy dân binh thay mộ binh, có nói: “Ở Quảng Nam thú binh chết nhiều, cần phải dùng gấp dân quân.” (TB 213/6b)

Bấy giờ ý Tống Thần Tông đã quyết. Nhưng binh lực chưa sẵn. Vả An Thạch cũng mới bắt đầu thí nghiệm các tân pháp, còn phải đối chọi với biết bao kẻ ghen ghét oán thù. Cho nên triều đình Tống chỉ tìm cách kiềm chế phương nam. Tống sợ thất bại, chưa dám gây sự. Tháng 10 năm ấy, viên coi Quế Châu là Phan Bội tâu: “Tưởng Thánh Du, coi việc văn tự về khê động Ung Châu, vừa tới nhậm chức mà đã lập tức nói muốn đánh lấy Giao Chỉ. Sợ sẽ sinh sự, xin đổi y”. Vua nghe theo (TB 216/6a).

Nhưng vua Tống vẫn muốn dời ty kinh lược từ Quế Châu xuống Ung Châu, để phòng bị sự “Giao Chỉ phản trắc”. Sau lại bảo đợi sứ vua Lý sang đến nơi sẽ hay (TB 216/6b). Tô Giàm, một viên có công trong cuộc chống Nùng Trí Cao và ở lâu vùng Lưỡng Quảng, rất am hiểu tình thế nước ta, được bổ coi Ung Châu (tháng 10 năm C.Tu 1070, Tb 216/6b). Tháng chạp, sứ ta là Lý Kê Nguyên tới, quan Tống ngăn không cho tới Biện kinh (kinh đô ở gần Khai phong tỉnh Hà Nam) và đòi ta phải trả trước dân Tống, mà ta đã bắt. (TB 218/12b).

Đồng thời, Tống tăng số quân ở Quảng Đông và Quảng Tây thêm 120 tên.

Cuối năm C.Tu (1070) tình thế giữa Tống với Lý coi chừng đã khá găng. Viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Đỗ Kỷ dâng sớ nói rất rõ ràng về nội tình nước ta, kể rõ núi sông, đường xá, binh dân. Vua đưa cho Vương An Thạch xem, và định giao cho viện khu mật giữ làm tài liệu. An Thạch hiểu ý Thần Tông muốn đánh Giao Chỉ, liền can. An Thạch nói: “... Vua đã ngỏ ý từ trước là phải làm nước giàu, dân yên. Đó là phúc cho dân. Còn việc ngoài vạn dặm, trước đã bàn rằng không thể không xét tới, như đã xét đến sự bọn Ôn Cảo lấy làm lo cho các châu Khâm, Liêm. Nhưng đến như sai biên thần đi dỗ Giao Chỉ, thì không nên. Làm như vậy, trước là sẽ trái với lời dặn của Bệ hạ từ trước, sau lại làm Giao Chỉ sinh nghi”.

Chữ dỗ mà An Thạch dùng đây nghĩa là đem binh tới ép. Rồi An Thạch dẫn tích nhà Tần dỗ Nghĩa Cừ mà thành ra Nghĩa Cừ biết mà làm phản. Y nói tiếp: “Tôi sợ nếu dùng Ôn Cảo, thì chẳng may Giao Chỉ biết, dự bị trước, sẽ có sự khó khăn ở biên”. An Thạch khuyên Thần Tông theo vua Anh Tông, lấy trí, dũng, nhân, nghĩa mà trị dân, thì không cần đánh cũng phục được.

Đọc qua lời tâu dài này, ta thấy An Thạch còn bị các triều thần khác bài xích. An Thạch sợ thất bại trongviệc mở biên cương, nên can vua: “Như vậy, việc chưa bắt đầu mà kẻ trí giả đã biết trước sẽ không thành”. Ý nhân đó ám chỉ những triều thần khác. Trong kết luận, có câu: “Sự đáng lo trong nước, không phải ở biên thùy, mà ở triều đình; không ở triều đình, mà ở lòng vua…” (tháng 11 năm C.Tu, 1070; TB 217/13b).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #35 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:17:39 pm »

4. Chính sách hòa hoãn Tiêu Chú

Tuy vậy, kẻ hiến kế đánh ta vẫn dâng thư về triều. Có kẻ nói rằng: “Giao Chỉ bị thua ở Chiêm Thành (muốn nói việc năm 1069, II), quân không còn nổi một vạn. Có thể tính ngày đánh lấy được”. Sách TB đoán rằng đó là lời Phan Bội, coi Quế Châu bấy giờ, vì tuy Bội đã hoặc người khác về việc muốn đánh nước ta, nhưng cũng đã bày tỏ ý kiến là có thể lấy nước ta được. (TB 219/4b ).

Vả chăng từ khi bị truất chức coi Ung Châu (tháng 11 năm C.ta 1060; V/5) vì đã khiêu khích nước ta, Tiêu Chú vẫn muốn lăm le phục chức.Theo lời Ngụy Thái, lúc Thần Tông lên ngôi và Vương An Thạch chấp chính, Chú đoán rằng triều đình vừa có ý mở biên cương; bèn đánh tiếng rằng: “Trước đây tôi đã ở Ung Châu lâu, tôi biết rằng Giao Chỉ có thể lấy được”. Triều đình lật đật gọi Chú, cho phục chức và bổ coi Quế Châu, lại sai kiêm các chức kinh lược, an phử sứ Quảng Tây. (ĐHBL 8.)

Thật ra, tháng giêng năm T.Ho (1071), Tiêu Chú1 có chỉ bổ coi việc quân mã ở vùng Hà Đông, là vùng còn đánh nhau với Hạ. Chú không muốn đi, bèn nói: “Tôi vốn là thư sinh, thạo nghề phủ dụ, nhưng kém nghề chiến đấu, sợ không cáng nổi viện ở đó”. Lại nhân có kẻ nói Giao Chỉ có thể lấy được, vua Tống sai Chú coi Quế Châu (TB 219/4b). Xem đó ta thấy rằng triều đình Tống càng ngày càng quan tâm đến nước ta.

Vùng nam Ngũ Lĩnh có tiếng là khí nóng, nước độc. Các quan lại bị chết nhiều, và ít kẻ bằng lòng nhận chức ở đó. Cho nên viện khu mật tâu xin hậu đãi những người đi Quảng Nam, “như thế thì người ta mới vui đi, và chốn xa không thiếu chính quan” (tháng 10 năm T.Ho 1071. TB 227/6b).Trái lại, Chú thích đi.

Lúc Chú tới Quế Châu, các tù trưởng xa gần, từ đạo Đặc Ma đến châu Điền đống đều kéo nhau tới yết kiến. Chú đều mời mọc ân cần, hỏi han hình thế sông núi, tình trạng nhân dân mà Chú đã từng quen biết mười năm trước. Ai nấy đều bằng lòng. “Cho nên Lý Càn Đức (Nhân Tông) động tĩnh thế nào, Chú đều biết rõ” (TB 242/13b và TS.334). Chú thấy trong khoảng mười năm, nước ta đã giàu mạnh lên nhiều, ta đã đại thắng Chiêm Thành và đã mở mang bờ cõi nam và bắc. Chú là một người rất thức thời nên đã hiểu rằng phải kiêng dè kính nể nước ta, và sợ ta đánh lại. Cho nên khi có kẻ hiến kế đánh Gia Châu, Chú đốt thư đi”. (TB 242/14a)

Trong lúc ấy, quân ta cũng không yên. Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên đem hơn 200 quân thổ đinh dẫn quân Lý vào châu Qui Hóa, tức đất Nùng Tông Đán và con mới nộp Tống (V/6). Ti kinh lược Quảng Tây tâu về triều. Tổng Thần Tông phê rằng: “Gần đây, đã nhiều lần thám báo rằng giặc Quảng Nguyên tụ tập. Cuối cùng tin đó không đúng. Khiến dân khe động ở không yên. Sợ tin là giặc Giảo hoạt cố ý hư truyền ra, để làm náo động nhÂn Tình, rồi nhân đó, hiếp bức dân chúng theo nó. Đó là việc mà bọn Hoàng Trọng Khanh, Lư Báo đã làm. Nếu để lâu không xử lý không tiện. Vậy, kịp sai Tiêu Chú tới đó mà xử trí, chớ để thành chuyện to lớn.” (tháng 11 T.Ho 1071; TB 288/1a)

Tháng 5 năm sau (N.Ty, 1072), Tiêu Chú xin nước thúc dân các khê động, và nói: “Mỗi khi nghe báo có giặc qua địa hạt mình, mà các tri Chú không lập tức tới đánh bắt, thì xin đem quân pháp trị tội”. Ý Tiêu Chú là cốt bắt buộc các quan địa phương canh phòng cẩn mật. Nhưng vua Tống nói với các phụ thần rằng: “ khi báo có giặc, chưa biết thật hay không, lại không biết giặc nhiều hay ít. Nếu thế lực các châu không đủ, thì đánh bắt làm sao được, mà lấy quan pháp trị tội người ta. Nên sai ti kinh lược xem kỹ và giảm tội”. (TB 233/21b)

Tiêu Chú ở Quế Châu hai năm, lăng nhăng không được việc gì (ĐHBL 8.).
_____________________________________
1. Tiêu Chú xuất thân tiến sĩ. Cóp đại chí thích bàn việc quân. Lúc làm tri huyện Phiên Ngu (cạnh Quảng Châu), bị Nùng Trí Cao vây thành (0). Chú thoát ra ngoài thành, kết thúc man động. Sau đem thổ đinh vào tận sào huyện Trí Cao. (TS 334).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #36 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:18:57 pm »

5. Chính sách khiêu khích Thẩm Khỉ

Sự thật là Tiêu Chú hiểu rõ thế lực nước ta bấy giờ rất thịnh, nên mới chù chừ, không muốn mưu sự đánh ta, triều đình Tống cũng chưa dám quyết.

Nhưng sang năm N.Ty (1072), tình thế biến chuyển. Tháng giêng, vua Lý Thánh Tông mất. Vua Nhân Tông còn bé. Thái hậu Thượng Dương và Thái phi Ỷ Lan tranh quyền nhau. Phe Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành hiềm kỵ nhau (III/1)

Tống Thần Tông và nhất là Vương An Thạch bắt đầu quyết tâm sửa soạn cuộc nam chinh.

Tháng 8, có lệnh chung bãi bỏ các viên câu đương công sự ở các ti Kinh lược và an phủ, nhưng trừ tỉnh Quảng Tây; “Vì Ôn Cảo bấy giờ giữ chức ấy, vả lại vừa có ý đánh Giao Chỉ” (TB 237/23b). Lệnh đặt bảo giáp ở các lộ đã ban ra. Tháng giêng năm Q.su (1073), Hứa Ngạn Tiên là viên coi việc ấy ở Lưỡng Quảng tâu: “Đã sai các huyện lệnh lập bảo giáp để thay các thứ lính đã đặt từ trước”. (TB 242/3b)

Tống Thần Tông triệu Tiêu Chú về hỏi tình hình Giao Chỉ và sách lược chinh phạt (ĐHBL). Chú cho việc ấy khó. Vua ngạc nhiên, nhắc lại câu người ta nói “Giao Chỉ bị thua ở Chiêm Thành, quân không còn nổi một vạn; có thể tính ngày lấy được” (VI/3). Chú tâu: “Xưa, tôi cũng có ý ấy. Bấy giờ quân khê động một người ta có thể địch mười; khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo, là điều khiển được. Nay, hai điều ấy không như trước; binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao Chỉ lại sinh tụ, giáo hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao không đầy một vạn thì sợ sai”. TB (219/4b) chép câu trả lời vào lúc ban đầu, khi Chú mới tới Quế Châu, chắc là lầm. (TS 334)

Vua và Vương An Thạch không bằng lòng. Có viên hình bộ lang trung, là Thẩm Khỉ, nói quả quyết rằng: “Giao Chi là đồ hèn mọn, không lý gì không lấy được”. Vì thế vua chọn Khỉ thay Chú coi Quế Châu và kiêm chức Quảng Tây kinh lược sứ (tháng 2 năm Q.Su (1073), TB 242/14a).

Khỉ liền xin: “Từ nay nếu ở Quảng Tây có biên sự, sẽ theo lệ Thiểm Tây, để ti kinh lược được xử trí rồi tâu sau”. Vua bằng lòng. Khỉ lại sai người ra ngoài biên giới để lo liệu công việc. Vua hỏi An Thạch : “trả lời sao?” An Thạch xin y lời. Vua cũng bằng lòng (tháng 4 Q.su, 1073; TB 244/3b). Ít ngày sau lại giao thêm cho Khỉ công việc lương thảo (TB 244/7b).

Thoạt tiên, Khỉ muốn tổ chức tây bắc Quảng Tây, để cho yên đường tiếp tế hạt mình. Cho nên, đặt các doanh trại ở các châu Dung, Nghi. Đem quân đánh trại Vương Khẩu, binh lính bị chết nhiều (ĐHBL 8.)

Thế mà Khỉ tâu dối về triều rằng các man dân theo mình. Rồi tự xây thành, đắp lũy. Làm dân vùng Nghi, Dung oán. Dân các động nổi lên, chém giết quan quân (theo lời Tống Thần Tông, TB 272/2a).

Tháng 4 (Q.Su, 1073), Khỉ xin lấy động định trong năm mươi mốt động thuộc Ung Châu để kết thành bảo giáp, và sai quan dạy và kiểm tra. Vua Tống không những bằng lòng, mà còn cấp tiền cho để thi hành (TB 244/8b). Khỉ sai người vào các khê động, kiểm điểm dân đinh, lập thành bảo ngũ, phát các trận đồ dạy chúng tập. Sau đó lại bắt các thuyền dọc bờ biển, thường dùng chở muối, để tập thủy chiến. Sợ người nước ta biết những hành động ấy, Khỉ ra lệnh cấm ta không được sang buôn bán ở đất Tống. (TS 334).

Quan Tống hết sức dụ dỗ các tù trưởng. Tháng 4 năm Quí Sửu 1073, Ôn Cảo xin tăng hàm cho tụi Nùng Tông Đán (V/8) và Nùng Trí Hội (L/TI/7) là tụi đã bỏ Lý theo Tống. Tông Đán được chức đô giám Quế Châu, Trí Hội coi châu Quí Hóa; và cả hai được thăng hàm cung bị khố phó sứ (TB 244/3b). Thẩm Khỉ lại sai người dụ Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên. Ngày 15 tháng 10 năm Q.Su (1073), Khỉ tâu: “Lưu Kỷ ở Giao Chỉ muốn theo ta. Nếu không nhận, sợ nó làm loạn như Nùng Trí Cao”. (TB 247/22a)

Cũng vào khoảng cuối năm ấy Q.Su (1073), có bọn Nùng Thiện Mỹ ở châu Ân Tình (vùng châu Cảm Hóa thuộc Bắc Cạn, giáp châu Thất Khê, còn có làng Ân Tình, chính là đe, (xem ĐKĐD), nghe lời Thẩm Khỉ dỗ, đưa bảy trăm bộ hạ vào xin theo Tống (TB 259/13b). Viên đô tuần kiểm là Tiết Cử nhận (TB 251/1a). Thẩm Khỉ tâu rằng: “Viên coi châu Ân Tình là Nùng Thiện Mỹ và hơn 6000 gia thuộc xin qui phục Trung Quốc. Tôi xét thấy Thiên Mỹ vốn người Trung Quốc, quản động Hạ thôn thuộc châu Thất Nguyên. Năm trước, động ấy bị Giao Chỉ chiếm mất, và đổi tên ra Ân Tình. Nay vì Giao Chỉ bắt thuế nặng nề, nên tụi Thiện Mỹ xin qui phục ta, kẻo nếu chúng không nạp thuế cho Giao Chỉ, thì e bị giết”. (TB 259/13b)

Tháng ba năm G.Dn (1074) viên chuyển vận sứ Quảng Tây tố cáo việc ấy (TB 251/1a). Vua Tống bảo xét, và dặn rằng: “Chúng nó đã quy ninh, thì nên cứu giúp”. (TB 259/13b)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #37 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:22:13 pm »


6. Chính sách do dự

Tuy Tống Thần Tông đã quyết ý đánh ta, nhưng biên thùy miền bắc còn lôi thôi. Việc đánh Thổ Hồn (Hi Hà, vùng Cam Túc) còn dai dẳng, nước Liêu còn đòi nhường đất. Cho nên bề ngoài đối với ta, Tống còn dè dặt.

Sau khi Lý Thánh Tông mất, Tống đã sai viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Khang Vệ sang điếu (tháng 3, N.Tý 1072, TB. 231/4a). Tháng ba năm sau (Q.su 1073), sứ ta là Lý Hoài Tố tới cống, vua Tống phong vua Lý Nhân Tông tước Giao Chỉ quận vương.

Khi Khỉ xin nhận Lưu Kỷ hàng (tháng 10. Q.Su 1073, VI/5), vua Tống hỏi vương An Thạch.rằng: “Ta nghĩ rằng chưa có thể nhận Lưu Kỷ được. Nhận Lưu Kỷ, chắc rằng Giao Chỉ giành lại”. An Thạch nói: “Nghe nói Ôn Cảo từ Quảng Tây đã về. Xin đợi Cảo đến nơi, sẽ thương lượng”. (TB 247/22a)

Thẩm Khỉ tới coi Quế Châu được một năm rồi, mà trong hạt Quảng Tây xảy nhiều vụ lôi thôi. Triều đình Tống sợ Khỉ gây chuyện với ta không đúng cơ hội. Vua Tống và An Thạch đã trở nên không thích Khỉ. Nhân bàn chuyện Lưu Kỷ, vua Tống nói: “Việc Giao Chỉ có thể làm xong được. Nhưng sợ Khỉ không làm nổi”. An Thạch trả lời: “Khỉ tự cho dễ làm xong. Nhưng việc binh rất khó. Sợ Khỉ chưa dễ làm đã xong”. (tháng 10 Q.Su 1073, TS 247/22a). Lúc ti chuyển vận tâu hoặc Khỉ không ngăn kẻ dưới nhận Nùng Thiện Mỹ, vua Tống phê: “Ở Hi Hà còn đương dụng binh chưa xong, mà ở phương nam Thẩm Khỉ đã làm xằng, giấu việc gây sự với man dân. Nếu không xử trí cho êm thì có thể gây nên họa lớn cho Trung Quốc. Thật là không được. Phải lập tức bãi Khỉ, trị Khỉ tội đã tự tiện chiêu nạp man dân. Thế để cho trong ngoài được yên”. Rồi ngày mồng một tháng ba năm Giáp Dần (1074), lấy Lưu Di thay Thẩm Khỉ. Giao cho Lưu Di công việc ước thúc man dân, như đã giao cho Khỉ trước, và sai Di xét việc Khỉ nhận Nùng Thiện Mỹ nữa. (TB 251/1a).1.

Xem vậy, đủ rõ rằng chính sách dè dặt của Tống Thân Tông và Vương An Thạch đối với ta, trong năm Quí Sửu (1073), chỉ bởi thời cơ chưa thuận mà thôi. Chứ định ý đánh ta đã quyết, và vua tôi Tống đều đồng lòng. Sự bãi Khỉ không chứng sự bỏ ý định ấy. Trái lại, theo lời Ngụy Thái trong ĐHBL, “tuy Khỉ tìm gây trăm mối chiến tranh, nhưng không trúng cơ hội. Triều đình nghi rằng Khỉ có ý chù chừ, cho nên đổi đi coi Đàm Châu”.

Kỳ thật thì cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch đều điều khiển Khỉ soạn sửa đánh ta. Và cả hai người, lúc đầu, đều ưa Khỉ. Khi chọn Khỉ thay Tiêu Chú, có viên khu mật nói: “Lúc Khỉ làm chuyển vận sứ Thiểm Tây, lính Khánh Châu nổi loạn kéo tới thành Tràng An, Khỉ đóng cửa thành không đám ra; người ta nghi Khỉ dát”. Vua Tống bênh Khỉ, nói: “giặc tới dưới thành, mà trong thành không có người giữ, sao lại không đóng thành? Đó không phải là lỗi”. An Thạch cũng nói Khỉ không có lỗi đáng kể, và vì Khỉ tính trực, nên nhiều người ghét mà thôi (TB 242.14a). Sau này khi Tống bị thua, đáng lẽ Khỉ bị tội chết. May sẽ có An Thạch cứu cho (theo lời Trần Quán, ở đồng thời. TB 244.4b).

Tóm lại, Thẩm Khỉ được lệnh Tống Thần Tông và Vương An Thạch dự bị đánh nước ta. Nhưng Khỉ đã hành động vụng về. Vua và An Thạch cho là bất lực, cho nên mới bãi Khỉ (tháng 3 năm Giáp dần 1074).

Và ở triều Tống, thế An Thạch cũng bị lung lay gần đổ. Chính sách cách mạng của An Thạch tuy được vua thích, và đã có hiệu quả hay, nhưng vây cánh An Thạch còn là tụi trẻ, thừa hành có kẻ lạm quyền; cho nên các đại thần phe cũ và dân gian rất oán. Bắc thùy nước Tống lại đang lâm vào cảnh khốn đốn. Không những Thổ Phồn quấy nhiễu, mà thế lực nước Liêu càng tăng, ép Tống phải nhiều lần nhượng bộ. Bấy giờ Liêu lại sai sứ sang yêu cầu Tống nhượng thêm đất ở vùng Phần thủy lĩnh. Vì vậy tuy được vua che chở, An Thạch cũng phải tự ý rút lui, để cho người đồng đảng thay cầm quyền. Ấy là vào tháng tư năm Giáp Dần 1074.
_____________________________________
1. Sách TB (271/6b) chép lời chiếu kể tội Thẩm Khỉ và Lưu Di, như sau: “Ngày trước Thẩm Khỉ nói dối rằng nhận lệnh triều đình mật sai lo việc đánh Giao Chỉ. Sau lại không đợi chiếu chỉ, tự tiện sai người nhận tụi Nùng Thiện Mỹ ở châu Ân Tình, và ép man dân đặt doanh trại ở châu Dung và Nghi. Khỉ lại tâu dối rằng man dân chịu theo, rồi xây thành đắp lũy, làm cho man dân nổi loạn, giết thổ binh, tướng hiệu, quan lại, kể đến hàng nghìn. Nay Giao Chỉ phạm biên giới, dân Lèo ở châu Thuận, châu Nghi lại xâm nội địa. Dân và quân khổ sở. Tội thật tại Khỉ. Trẫm đã cách chức y và tống đày chỗ Viễn ác châu.
    Lưu Di lại xin bãi hạng lính trát binh, đóng chiến thuyền cấm người Giao Chỉ tới buôn bán; Di không chịu bàn nghị với Tô Giàm và không nhận thư tố cáo của Giao Chỉ. Vì thế mới sinh ra biến. Vậy tội cũng không riêng ở Khỉ...
    Sách ĐĐSL cũng nói chuyện Tô Giàm viết thư cho Khỉ can những việc đang làm, nhưng Khỉ không chịu nghe, và còn hặc Giàm (ĐĐSL 86).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #38 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:26:41 pm »


7. Tình hình nghiêm trọng. An Thạch trở lại.

Ở nước ta, Lý Thường Kiệt lên cầm quyền đã được hai năm. Ông cũng rất lo lắng vì chính sách khiêu khích của Vương An Thạch. Lại thêm năm Tống Hi Ninh thứ 6 (1073), có người Tống quê Châu Bạch (LNĐĐ), tên Từ Bá Tường, viết thư báo tin Tống sửa soạn đánh ta, và xui ta nên đánh Tống trước (TB 2881/7a). Thường Kiệt đã tập nhiều quân ở biên giới, và lộ vẻ muốn vào đánh đất Tống.

Tháng ba năm ấy (Giáp Dần 1074), vua Tống hạ chiếu nói rằng: “Quảng Tây nhiều lần nói tin thám tử báo rằng Giao Chỉ tụ binh, muốn phạm vào đất ta. Sợ rằng biên thần không biết lường sức chúng, mà đưa quân xa thành trại, để đánh lại. Vậy nên, phải gấp báo cho viên coi Ung Châu là Tô Giàm, dặn nếu quân man giám phạm đến Ung Châu, thì phải kiểm quân cố thủ, chớ có tham lập công mà khinh địch” (TB 251/6a).

Lúc ấy, Lưu Di đến thay Thẩm Khỉ. Triều đình ra lệnh phải chiêu tập phủ dụ cho yên lòng dân. Di xin hoãn thuế cho khê Động vì hạn hán (TB 257/10a) và mộ quân cày đồn điền (TB 256/2a).

Nhưng, ở Biện Kinh, sau mười tháng vắng mặt, Vương An Thạch lại được triệu về chấp chính. Bấy giờ là tháng hai năm Ất Mão 1075. Việc bắc thùy rất bối rối. An Thạch chủ trương nhượng đất cho Liêu. An Thạch nói. “Muốn lấy thì phải cho đi đã”. Tống Thần Tông nghe lời, và cắt 700 dặm đất Hà Đông biếu nước Liêu.

Bắc thùy tạm yên, vua tôi Tống lại quay về biên thùy Đại Việt.

Ý Vương An Thạch vẫn là đánh lấy nước yếu để dọa nước mạnh. Lưu Di được lệnh tăng cường binh lực. Tháng 6 năm ấy (1074), có chiếu cho Quảng Tây chỉ dùng thổ đinh, thay lính thương thủ: cứ ba đinh bắt một và nếu chỗ nào từ trước chưa có thương thủ, thổ đinh hay châu quân, thì đừng đặt thêm. Lưu Di tâu rằng. “Nay tiếp tin từ xứ man báo về, tôi sợ chúng sắp vào cướp, thủ ngự ứng viện sẽ không kịp. Nếu theo lệ mới thì, chỉ mộ được bảy phần mười số cũ. Vậy xin theo lệ cũ.” (TB 254/10a).

Rồi Di theo chính sách Thẩm Khỉ, sai các quan lại vào các khê động kiểm điểm thổ dân, bắt chúng tập trận. Di đóng chiến hạm, dùng thuyền muối để tập thuỷ binh, y như Khỉ trước. Di cũng cấm người nước ta sang buôn bán để tránh sự thám thính (TS 334 và TB 271/7a). Những thuế má vùng tả và hữu Giang thì thu bằng thóc gạo, để tích trữ quân lương (TB 253/4a).1

Tô Giàm coi Ung Châu, thấy quân ta tụ tập ở biên giới rất lo. Bèn viết thư báo với Di rằng: “Phải bỏ ba việc đang làm: tập lính, đóng tàu và cấm chợ, để cho người Giao Chỉ, nếu có cất quân, không còn có danh nghĩa nữa”. Di không nghe, viết thư vặc Giàm, trách Giàm bàn nhảm, và cấm không được nói đến biên sự nữa2. (TB 271/7a).

Tình thế càng ngày càng găng. Trước đó vài tháng, vào tháng giêng năm Ất Mão (1075), Lý Thường Kiệt xui vua Nhân Tông gửi biểu tới triều Tống đòi lại tụi Thiện Mỹ. Lời biểu rằng: “Thủ lĩnh châu Ân Tình, tên Ma Thái Dật là người châu Định Biên ở đất tôi (Bắc Cạn ngày nay). Nó đã dời sang châu Ân Tình và nay đổi tên Nùng Thiện Mỹ. Nó và 700 bộ thuộc đã trốn sang Trung Thổ. Vậy xin xét rõ căn do”. Vua Tống bảo xét (TB 259/13a). Không thấy Tống trả lời, ta dâng biểu đòi trả tụi dân ấy. Lưu Di không chịu chuyển biểu (TB 272/2a). Cuối cùng, vua Tống không bằng lòng trả Nùng Thiện Mỹ (TB 259/13a). Ta cũng đành tạm chịu, nhưng chỉ đợi cơ hội phục thù3.

Ý định chiến tranh bên Tống đã rõ ràng. Quân giữ biên thùy ta cũng sẵn sàng chống lại.

Châu Quảng Nguyên là một yếu địa. Tướng cầm quân ở đó là Lưu Kỷ. Lưu Kỷ nối Nùng Trí Cao. Sau khi Trí Cao thất bại, bộ hạ y là tụi Hoàng Trọng Khanh, Lư Báo, về theo Kỷ (MKBD). Ta đã thấy Kỷ có lần vào châu Qui Hóa và Thẩm Khỉ đã có lần muốn dụ y (VI,4). Kỷ làm quan sát viên ở Quảng Nguyên (TB 279/11a), thường qua các khê động mua ngựa. Có con Nùng Trí Cao là Trí Hội ở châu Qui Hóa, cản đường. Trí Hội bấy giờ đã qui phụ Tống. Kỷ đem 3.000 quân sang đánh đất châu Ung. Trí Hội và con là Tiến An chống lại. Kỷ lui quân về (TB 263/7a).

Việc này chỉ là một cuộc xung đột địa phương, giữa hai viên tướng. Nhưng Tống muốn nhận cơ hội, gây thanh thế ở nam thùy một cách khôn ngoan. Lưu Di được tin Kỷ và Trí Hội đánh nhau, tâu về triều. Di nói: “Thật ra Trí Hội chưa theo ta hẳn. Nên để hai bên đánh nhau như thế. Thua được đều có lợi cho triều đình”. Vua Tống Thần Tông không bằng lòng, trả lời: “Sao lại nói như thế? Nếu ta không dung kẻ theo ta, thì kẻ không theo đắc chí. Bày phương kế như vậy là bậy!” An Thạch cũng đồng ý, nói: “Quả thực như lời Hoàng thượng! Nếu thật Trí Hội chưa theo hẳn ta như lời Di nói, thì nên nhân cơ hội này mà mua chuộc nó. Vả nay, Càn Đức còn bé; nếu Lưu Kỷ đánh được Trí Hội, rồi quay lấy Giao Chỉ, thì đó sẽ là cái họa cho ta. Ta nên giúp Trí Hội để chế lại Lưu Kỷ, làm cho nó không rỗi tay mưu đánh Giao Chỉ. Thế thì mới lợi cho ta” (TB 263/7a).

Theo ý Vương An Thạch, cũng như ý của người Tống đương thời, Lưu Kỷ là một tướng Độc Lập ở Quảng Nguyên, thanh thế không kém gì vua Lý. Cho nên mới có lý luận trên. Nhưng dựa vào lý luận của An Thạch, thì tại sao Tống không dùng Kỷ đánh Lý Nhân Tông? Ấy vì An Thạch sợ Kỷ lấy được nước ta, rồi sẽ trở nên rất mạnh. Vua Tống cho lời An Thạch là phải; hạ chiếu cấp bổng tiền cho Trí Hội và ban cho con là Tiên An chức Tây đầu cung phụng (chiếu ngày A.Vi, 4-4n AMa. DL 21-5-1075; TB 263/7a).

Vua Tống lại chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây sai sứ thần vào các khê động mộ đinh tráng để làm thanh viện cho Trí Hội. Vua hẹn rằng hễ ai bắt hay giết được giặc, thì theo lệ thường thưởng cho mười tấm vải (TB 265/7a).

Lưu Di càng được nhịp sửa soạn chiến tranh. Chẳng bao lâu nữa, bức thế, Lý Thường Kiệt phải tấn công trước.
____________________________________
1. Sách TB (271/15a) chép. Vua Tống nghe chuyện Nùng Thiện Mỹ hàng là bởi Thẩm Khỉ sai người dỗ, và nay Lưu Di cũng làm xằng, đến nỗi Giao Chỉ vào cướp, vua bèn chiếu cho viên coi Quế Châu là Thạch Giám và viên phán quan là Chu Thái Dục xét thật (tháng chạp năm ma 1075).
2. Sách TS (quyển 334, Thẩm Khỉ truyện) chép việc này thuộc Thẩm Khỉ cũng như sách ĐĐSL (quyển 86). Nhưng sách TB (271/6b) cho việc ấy về Lưu Di, chắc là đúng hơn, vì hợp với lời chiếu đã dẫn trong chú thích (3). Vả chăng sự bất đồng giữa các sách có nguyên từ gốc. TB chú thích rõ ràng rằng thực lục có hai bản, bản mực (Mặc bản) chép Khỉ hặc Giàm, bản son (chu bản) chép Di hặc Giàm.
3. Cuối cùng Nùng Thiện Mỹ theo Tống. Sách TB (280/21a) chép: Thiện Mỹ và con là Thịnh Minh qua châu Tây Nùng chiêu dụ dân, nên bị dân giết. Ngày 28 tháng 2 năm Đ.Ti (1077), cháu Thiện Mỹ là Huệ Đàm được bổ chức Tam ban tá chức để thưởng công.
    Châu Định, thuộc tỉnh Bắc Cạn ngày nay, còn có xã Định Biên ở phía tây chợ Chu. Họ Ma đến ngày nay vẫn còn ở vùng Thái Nguyên, Bắc Cạn. (ĐĐKĐD).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #39 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2009, 11:35:07 pm »


CHƯƠNG VII
LÝ THƯỜNG KIỆT TẤN CÔNG TỐNG

1. Dự bị tấn công - 2.Binh tướng - 3. Khởi công. Trận Khâm Liêm - 4. Tiến vào nội địa -5. Phản động của Vương An Thạch - 6. Vây Ung Châu - 7. Diệt viện binh. Trận Côn lôn quan. - 8. Phá Ung Châu - 9. Lui quân và đề phòng - 10. Ảnh hưởng.


1. Dự bị tấn công

Những việc xảy ra lâu năm Ất Mão (1075) làm cho Lý Thường Kiệt không còn nghi ngờ ý định của Vương An Thạch đối với ta.

Vả hai năm trước, có người Tống tên Tư Bá Trường, quê châu Bạch thuộc Quảng Tây, đã có người thầm thông với vua Lý. Bá Tường nguyên đậu tiến sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết thư cho vua Lý (1073) nói rằng: “Tiên thế Đại vương vốn người đất Mân1. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng nhiều người đất Mân. Bá Tường này, tài lược không kém người, nhưng không được trọng dụng ở Trung Quốc. Vậy xin giúp Đại vương. Bá Tường nghe rằng hiện nay Trung Quốc muốn cử binh đi diệt Giao Chỉ. Theo binh pháp dạy: Trước khi người có bụng cướp mình, thì chi bằng mình đánh trước. Lúc nào quân Đại vương vào đánh, Bá Tường này xin làm nội ứng”.2 (TB 273/17a và TTh 13)

Sách VĐUL cũng chép rằng Lý Thường Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua: “Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”.

Vì lẽ ấy Lý Thường Kiệt lại quyết tâm tấn công trước để phá tan mưu mô của Tống. Quân Tống vào đánh nước ta có thể đi theo hai đường chính: đường bộ lấy Ung Châu làm cứ điểm và đường thủy lấy các cửa bể Khâm và Liêm làm cứ điểm (V/1). Vậy nên Thường Kiệt nhằm mục đích phá các thành ấy.

Khâm Châu chỉ cách châu Vĩnh An ta chừng nửa ngày đến một hai ngày (LN ĐĐ 1 và 2). Thủy quân ta tập trung rất dễ dàng ở cửa Đồn Sơn tại vịnh Hạ Long ngày nay, rồi len lỏi theo bờ biển sau núi đá, mà thình lình vào vịnh Khánh Châu.

Ung Châu, nay là Nan Ninh, ở trên sông Uất Giang, sau chỗ hai dòng Tả Giang và Hữu Giang họp lại. Những đường từ đất ta tới đó có nhiều: từ châu Quảng Nguyên vào, thì theo bờ sông Tả mà qua trại Thái Bình; từ châu Tô Mậu vào, thì phải vượt núi, qua các đất Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng và Thượng Tư; đường chính là châu Quang Lang vào, thì qua các đất Tây Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại Vĩnh Bình. Các đường này đều khá gồ ghề và phải qua những đồn trại Tống. Nếu quân ta lấy được Khâm Châu, thì theo đường Khâm Châu thẳng lên Ung Châu là gần hơn cả (V/1).

Lý Thường Kiệt tập trung quân hạ du ở Vĩnh An và quân thượng du ở dọc biên thùy tại các châu Quảng Nguyên, Môn, Quang Lang và Tô Mậu.
______________________________________
1. Theo sử ta, Lý Công Uẩn là con vô thừa nhận. Bố nuôi là Lý Tự Khanh, cho nên lấy họ là Lý. TT còn chép chuyện hoang đường mẹ có mang với thần nhân. Sự thật, chắc rằng thuyết ấy là bịa đặt ra, hoặc để che đậy một gốc tích không được đẹp đẽ, hoặc để cho dân sự đương thời theo về. Sách VSL chép: khi lên ngôi, Lý Công Uẩn phong bố làm Hiển Khánh Vương, anh làm Vũ uy vương, em làm Dực thánh vương. Xem vậy, Công Uẩn biết cha là ai và có đủ họ hàng, chứ không phải là một đứa con vô thừa nhận. Tuy ta có thể nghĩ rằng bố đây là bố nuôi, nhưng VSL chép rõ những chữ: phụ, huynh, đệ.
    Vì thế, thuyết nói Công Uẩn gốc người Mân có thể là thật. Vả chăng nước ta bắc thuộc trong nghìn năm, người Trung Quốc hoặc sang buôn bán, hoặc sang làm việc quan rồi sinh con cái ở đất ta rất nhiều. Có lẽ hầu hết dân miền trung châu gốc ở Trung Hoa. Cho nên Lý Công Uẩn rất có thể là con cháu một người Mân. Tổ tiên sang nước ta lúc nào? dựa vào sự họ Lý dấu gốc tích, tôi nghĩ rằng gốc ấy mới. Có lẽ bố Lý Công Uẩn người Mân, còn chức vị quan trọng ở đó. Khi Tống lấy nước Mân (971), họ Lý chạy sang ta ẩn tích. Sau Công Uẩn làm vua nước ta, không muốn nói mình là người Bắc; lại nhân muốn tăng lòng dân tin cậy nên mới bịa ra thuyết con thần. Không biết giả thuyết này đúng hay không. Một điều chắc chắn là đời Tống, người Tống đều nhận Lý gốc ở Mân; không những Từ Bá Tường nói mà thôi, mà sách Mộng khê bút đàm cũng nói thế.

2. Có lẽ Bá Tường sau này không giúp Lý Thường Kiệt. Sau khi quân Lý rút lui, viên coi Quế Châu là Thạch Giám có khai công trạng Từ Bá Tường, đã mộ 7000 quân che chở cho nạn nhân chạy giặc xuống Quảng Châu. Ngày 22 tháng 3 năm B.Th (1076), Bá Tường được bổ làm tuần kiểm các châu Khâm, Liêm và Bạch (TB 273/17b).
    Nhưng sau, vua Lý tố giác sự Bá Tường xui ta đánh Tống. Ngày 26 tháng 2 năm M.Ng (1078), có chiếu cách chức anh em bá Tường, ép bá Tường tự thắt cổ chết, và phát phối con cái (TB 288/7a).

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM