Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 01:37:26 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười  (Đọc 51732 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #50 vào lúc: 24 Tháng Ba, 2009, 08:17:22 pm »

Đồn Tiền ở về phía đông nam đồn Trung 6km nằm ven con đường gạo từ Cái Nứa vào Gò Tháp, cách kinh 3 (xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười) 100m bên bờ sông.

Trong những ngày đầu, đây là đồn tiền tiêu, án ngữ và ngăn chặn những đợt tấn công của Pháp.
 
Năm 1979, chỉ còn lại nền đồn cao hơn mặt ruộng chừng 0,5m, hào chung quanh đã lấp để trồng lúa.

Đồn hình thang cân, đáy dài hướng về phía Mỹ Tho, Cai Lậy, có lũy đất nối dài ra cả thảy 75m, đáy ngắn hướng Gò Tháp dài 15m, chiều cao 25m. Ở phía đáy ngắn đồn cao hẳn lên, đó là nơi đặt chòi canh và trí súng. Xung quanh đồn có hào, lũy. Một con đường nổi từ đồn ra đường gạo cũng được đắp cao.

Súng thần công sử dụng trong đồn này có 3 loại: to, vừa và nhỏ bắn đạn gang tròn cỡ trái cam và trái chanh.

Trên bờ thành còn chi chít những đầu đạn chì của súng trường, có lẽ quân Pháp đã bắn vào khi tấn công đồn Tiền.

Từ năm 1945 đến nay, tại đồn Tiền, nhân dân trong vùng đã nhặt được các loại súng sau đây: 3 khẩu súng thần công loại lớn (dài 1,85m, đường kính trong 11cm, đường kính ngoài 25cm), 1 súng gang còn gọi là súng trường cửu (dài 0,8m, đường kính ngoài 6cm, đường kính trong 3,5cm).

Trong những năm 1945-1946, nhân dân tới đồn Tiền thu lượm những viên đạn gang tròn đưa về công binh xưởng để đúc vũ khí đánh Tây.

Nghĩa quân ở đồn Tiền một mặt luyện tập binh khí, mặt khác trồng mì, trồng rau, trên những bãi liếp gần đồn để tự túc một phần lương thực, thực phẩm.

Đồn Tả nằm trên gò Giồng Dung hay Bắc Dung (hiện thuộc xã Hậu Thanh Tây, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) nằm cạnh rộc Đìa Gừa, con đường gạo từ Bắc Chiêng về Gò Tháp. Cách đồn Trung 7km về hướng Tây Bắc.

Giồng Dung là một gò thấp (0,50-0,80m) dài chừng 1,5km rộng 0,5km nằm trong hệ thống nhiều gò nối tiếp nhau trên cánh đồng rộng kéo dài đến tận Gò Tháp, mang dấu vết của đường bờ biển cổ.

Đồn này tương đương với đồn Tiền, hiện không còn dấu vết gì ngoài mấy bụi tre. Bề mặt gò đã bị bới tung xuống tới độ sâu hơn 1m bởi những người đào vàng.

Theo rộc Đìa Gừa về phía Gò Tháp (cách Giồng Dung 3km) ở đây có gò Năm Căn hình chữ nhựt dài 150m, rộng 100m và vài gò nhỏ kế cận.

Trước 1975, nhân dân cày ruộng nhặt được nhiều đạn gang tròn. Năm 1977, nhặt thêm 1 súng thần công cỡ cối 80. Có lẽ nghĩa quân đã vùi khí giới trên đường rút chạy từ đồn Tả về đại bản doanh Gò Tháp.

Đồn Hữu nằm trên gò Động Cát (Giồng Cát) thuộc xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cách đồn Trung chừng 6km về phía Tây Nam.

Phạm vi và cao độ gò này cũng tương đương với Gò Giồng Dung. Gò nằm trơ trọi giữa cánh đồng, không còn dấu vết đồn lũy gì.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #51 vào lúc: 24 Tháng Ba, 2009, 08:18:16 pm »

Bên cạnh 3 đồn chính giữ thế chân vạc cho Đại bản doanh Gò Tháp: còn nhiều đồn nhỏ, trạm canh như đồn Cái Thia, Cái Nứa, Thủ Ngữ, Đất Sét, Mỹ Thạnh (Thạnh Phú), Ấp Lý, Quản Oai, Đồn Tre, Sa Tiền, Rạch Ruộng...

Mỗi đồn nhỏ có chừng 150 nghĩa quân, vài chục khẩu súng cò máy đá còn lại là gươm đao. Mỗi trạm canh chừng 10 nghĩa quân đóng giữ. Họ có nhiệm vụ nắm tình hình và canh phòng người lạ mặt đột nhập căn cứ, đồng thời tiếp nhận tân binh và làm nơi dừng chân của các đoàn vận lương tiếp tế cho căn cứ.

Các đồn, trạm này tạo thành tuyến bảo vệ vòng ngoài ở những nơi trọng yếu.

Phía Đông Nam là một cánh cung chặn đường Cai Lậy - Cái Bè

- Đồn ấp Lý trên đường Tân Hương vào. 

- Đồn Mỹ Thạnh chỗ ngã năm Phú Nhuận bây giờ, chặn đường Cai Lậy.

- Đồn Cái Nứa: chỗ chợ Cái Nứa (xã Hậu Thanh, huyện Cái Bè, Tiền Giang). Đồn nằm trên ngã ba sông Cái Nứa và Rạch Bà Xẩm.

Cách chợ Cái Nứa chừng 1 km vào chợ Thiên Hộ (theo lộ 28 ) là đồn Thủ Ngữ. Trước khi Pháp đến, tại đây có một ngôi chùa lớn. Trong lúc hai bên giành giật nhau từng thước đất chợ Cái Nứa, nghĩa quân liền đắp lũy và đóng dã chiến tại Thủ Ngữ, áp sát và kìm chân Pháp không cho tiến vào Đồng Tháp Mười .

Đồn Cái Nứa và Thủ Ngữ kiểm soát ngả Cái Bè và Trà Lọt vào Hầm Vồ, Phụng Thớt.

Tại ngã ba Mỹ Đông, chỗ con sông Cái Thia (xã Mỹ Đức Đông, huyện Cái Bè, Tiền Giang) chia làm 2 ngả: một ngả về Mỹ Đức Tây một ngả về Mỹ Thiện, nghĩa quân có xây đồn lũy và cản đất.

Cặp bờ sông Mỹ Thiện, là lũy đất dài khoảng 100m, dày 8m, cao 8m trên bố trí 4-5 khẩu súng thần công.

Bên bờ Mỹ Đức Tây, cách ngã ba 400m, nghĩa quân cũng có đóng đồn. Buổi đầu vào đây lập nghiệp nhân dân còn thấy đồn hình chữ nhật dài 25m, rộng 12m, cao 7m. Phía sau đồn có một cái hầm lớn. Khi tát bắt cá và vét hầm ông Trương Văn Ngoại (85 tuổi) nhặt được nhiều xương người.

Ngay mõm doi chỗ đình Mỹ Đông bây giờ, là đồn chỉ huy.

Cách ngã ba 200m về phía sông Tiền, có 1 cản xốc bằng tràm, dừa chặn tàu từ mặt vàm sông Cái Cối vào.

Nhiều lần tàu Pháp vô đây dùng lòi tói kéo cản dừa, nghĩa quân kết bè, phủ rơm phóng hỏa thả trôi theo dòng nước để đốt tàu, nã thần công làm tàu giặc bị bể phải tháo chạy.

Phía Bắc kinh 28 (100m) và phía tây rạch Đất Sét (400m) thuộc ấp Hòa Điền (xã Hòa Khánh, Cái Bè - Tiền Giang) có một địa danh Gò Đồn. Phạm vi gò khoảng 0,5 héc ta, cao hơn mặt ruộng 5 tấc (cách đây 60 năm gò rộng 1 hecta, cao 1m). Gò thuộc đất làng dùng để chôn cất nên hình dạng tương đối còn nổi rõ.

Bà con bang đất chung quanh gò ra làm ruộng. Đồn nhỏ dần có hình chữ nhật. Phần trong lõm xuống có kích thước như sau: 25m (bờ Nam- Bắc), 30m (bờ đông-tây). Gián cách 5-6m chỗ góc đông bắc, bờ thành bao bọc dày trên 5m, bờ phía bắc là những liếp tràm nối tiếp nhỏ dần theo hình chóp. Góc tây bắc còn một gò hình vuông ( 12 x 12m). Cách góc thành đông-nam chừng 15m còn có 2 gò nhỏ ( 10x7m).

Rộc Bưng từ rạch Đất Sét (phía đông) chạy dọc bờ thành phía Nam, rồi vòng qua phía tây hướng gò Châu Báu (chùa Thủ tọa Giao) cách đó 100 m rồi đổ ra sông Cái Nứa.

Năm 1960, nhân dân đào mương phát hiện nhiều đồng tiền điếu, ghè ống và miếng chén kiểu tại khu vực Gò Đồn.
Một nơi đáng lưu ý nữa là gò Trường Tháp thuộc ấp III, xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Cai Lậy.

Gò hình chữ nhựt, rộng 1 hecta có đường tượng đi qua trước giếng chùa rồi đổ ra rạch Cây Gáo cách đó 400 mét. Phía trong gò Trường Tháp 100 mét là gò Đế rộng nửa hecta ở cùng độ cao 0,8- 1m so với mặt ruộng.

Đây là nền cũ của quân đồn điền, nghĩa quân đã dựa vào cao điểm này để đồn trú, chặn giặc từ hướng Cai Lậy-Bà Tồn vào.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #52 vào lúc: 24 Tháng Ba, 2009, 08:20:04 pm »

Hướng tây bắc đồn Tả, có đồn Tuyên Oai nằm trên gò Bắc Chiêng (thị trấn Mộc Hóa), một khu vực khá cao ráo, nổi lên giữa vùng đất còn lầy lội hoang hóa, nằm trên hữu ngạn Vàm Cỏ Tây.

Gò này có 2 giồng chạy song song như hai con cù, phía trên giới hạn bởi rạch Cá Rô, phía dưới là rạch Bà Kén, tạo thành 2 rộc lung chạy vô Đồng Tháp Mười. Từ Gò Bắc Chiêng đến Gò Tháp gặp gò ông Hạp (khá cao) kế là gò Giồng Dung (xã Hậu Thanh Tây, Tân Thạnh, Long An).

Đường này nối với sông Vàm Cỏ Tây chính là một cửa ngõ giao thông có tầm chiến lược của nghĩa quân, nối liền trung tâm căn cứ kháng chiến với phần Đông Bắc Đồng Tháp Mười. Mộc Hóa là một vùng hậu cần quan trọng của cuộc kháng chiến. Nhiều gánh họ ở đây dài lên Bắc Chang, biên giới Campuchia là con cháu của nghĩa quân cùng vô khai hoang, đánh giặc dưới sự chỉ huy của Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều. Đây là đầu mối liên lạc với Tây Ninh và nhiều nơi khác ở miền Đông Nam bộ.

Đồn Tuyên Oai khi ấy thuộc loại vững mạnh vùng ngoại vi có chừng 120 nghĩa quân đóng giữ được trang bị 15 súng cò máy đá. Năm 1945- 1946, nhân dân còn phát hiện 1 số khẩu súng loại này tại đây.
Trong vùng còn những địa danh liên quan đến thời nghĩa quân như Lò Gạch, Gò Thiềng (tức Gò Thành), Vàm Đồn, Đồn Tre, Cây Gáo quan mông... Những con đường tượng, đường gạo từ phía biên giới Vĩnh Hưng - Svayriêng đi về Gò Tháp.
*
*   *
Phía Tây Nam, con sông Cần Lố là thủy đạo quan trọng của Đồng Tháp Mười. Sông rộng, sâu, quanh năm đều có thể đi lại được. Hầu hết lương thực, vũ khí đạn dược từ An Giang, Hà Tiên, Rạch Giá tiếp tế cho căn cứ đều qua ngã này.

Con sông uốn lượn, ẩn hiện giữa hai hàng cây rậm rạp, nhiều lau lách, sậy đế, có nhiều nhánh nhỏ giao với các con sông khác, khi gặp trở ngại dễ len lách mà đi. 

Ngoài đồn Doi cạnh sông Tiền và đồn Sa Tiền chỗ ngã ba Trà Bông, nghĩa quân còn đặt nhiều trạm canh tàu giặc (Chú thích: Gò Tháp hiện nay thuộc ấp 4, xã Tân Kiền, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.).

Cũng như các tiền đồn khác, Đồn Doi và đồn Sa Tiền có từ 100 đến 150 nghĩa quân, còn các tháp canh thì khoảng 10 nghĩa quân.

III. Công tác tổ chức:

- Khi vào lập căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, vận động, kêu gọi nhân dân tham gia kháng chiến, kể cả việc tranh thủ sự giúp đỡ của quân triều đình ở 3 tỉnh miền Tây.

- Nhờ vậy trong hàng ngũ của ông có nhiều thành phần tham gia: Nho sĩ, điền chủ, nông dân... gồm người Việt, người Hoa, người Khmer, ngay cả lính Pháp, lính Tagal cũng bỏ hàng ngũ theo về. Cuộc chiến đấu ở Đồng Tháp Mười rõ ràng là sự hợp tác giữa những người yêu công lý, chuộng tự do, không phân biệt tầng lớp, màu da, sắc tộc

- Nghĩa quân ở Đại bản doanh Gò Tháp, 3 đồn chính và trên 10 đồn phụ có hơn 200 người (Chú thích: Bốn đồn chính mỗi đồn 300 người. Trên mười đồn phụ, mỗi đồn trung bình 100 người. Tổng cộng có trên 2.000 người. Nếu tính luôn dân binh còn vượt hơn con số này)

Lực lượng chính là quân đồn điền tại chỗ, lúc bình thường thì theo việc đồng áng, lúc rỗi thì luyện tập võ nghệ, khi có giặc thì cầm súng chiến đấu trên mảnh đất của mình hoặc được điều ra trận.

Những trung tâm chính là đất Ba Giồng, Xoài Tư, Rạch Ruộng, Cần Lố... Trại ruộng của hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đạo Ngoạn khai mở tại vùng Trà Bông cũng cung cấp không nhỏ về quân lính và lương thực. Phía đồn Tả thì có vùng Mộc Hóa, từ Gò Bắc Chiêng lên Bắc Giang, Long Khất, Cái Cỏ, Thông Bình...

Lực lượng mộ nghĩa của Trương Định ở Gò Công cũng được thu hút vào đây tiếp tục chiến đấu.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #53 vào lúc: 24 Tháng Ba, 2009, 08:20:53 pm »

Một số người Việt trước kia vì lầm đường theo Pháp cũng trở về tình nguyện xin được tham gia lập công chuộc tội.

- Bên cạnh chủ tướng Võ Duy Dương có phó tướng Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều), Lê Kim (Trần Trọng Khiêm) và nhiều thuộc tướng khác, cả văn lẫn võ như lãnh binh Dương, Bùi Quang Diệu, Trần Kỳ Phong, Nguyễn Văn Cẩn, Lê Văn ông, Võ Văn Khả, Trương Tấn Minh (Miêng), Võ Cẩm Tấn, Huấn Hiệu, Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu, Thống Lãnh, Thống Cử... Huỳnh Lục, Huỳnh Thất, Phòng Biểu, Phòng Chơn, Hộ vệ Tân, Đội Nghị, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn, Thông Phụng, Bổn Lê, Tham Đa, Quản võ, Quản văn... có cả các lương y và thầy thuốc rắn: Lệ Huy Nhạc, Thủ Chiếu, Năm Hơn...

- Bên cạnh hệ thống quân sự, còn có bộ máy chính quyền kháng chiến "Những người tham gia hay được chiêu mộ, tùy theo năng lực, văn bằng, công trạng đều được Võ Duy Dương phong ấn tước, phẩm hàm... Trong một lá đơn của bà Cù Thị Quít gởi cho chính quyền thực dân xin ân xá cho chồng là Trần Văn Trà (Phủ Trà) có đoạn viết:

"Lạy quan lớn xin xuống phước cho chồng tôi là Trần Văn Trà, nguyên chồng tôi là Tú Tài năm Bính Dần (1866) thì Bùi Quang Diệu và Võ Duy Dương ép biểu chồng tôi mà phong bằng cấp cho chồng tôi là Tuyên phủ sứ, qua năm Kỷ Tỵ, tháng giêng thì chồng tôi đem súng và bằng cấp và ấn truyện (triện) hết thảy ra mà thu..." (Chú thích: Dossiers Individuels des Condamnés Politiques 1863-1878. Kho lưu trữ Trung ương II. SL 1840), đã cho ta thấy rõ điều này.

Đồng Tháp Mười thật sự trở thành trung tâm kháng chiến thu hút hầu hết các lực lượng nghĩa quân ở Nam kỳ trong thời kỳ 1864- 1866.

“Lại việc nữa: quan Tây có đến Vĩnh Long nói: tháng chạp qua, đảng của Thiên Hộ Dương, tên Quản Là đã đánh giết 4 người Tây, bắt sống một. Nói lên rằng đã giải đến Tháp Mười, nạp cho Thiên Hộ Dương..." (Chú thích: Chỉ dụ ngày 1 tháng 3 năm Tự Đức thứ 18 (1865)).

Phải chăng “chính quyền kháng chiến" này được hình thành theo chỉ dụ mật của triều đình hay ít ra nó cũng được mặc nhận. Với mục đích cuối cùng là lấy lại phần đất đã mất. Đó là nguyện vọng của nhân dân đồng thời là lợi ích của Vua.

"Ông còn nhận được bức thánh chỉ đề tháng 6, truyền lệnh cho ông phải mời quan Tổng Đốc Gia Định Bùi Quang Diệu và tham tán Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ thị mới (Chú thích: Gustave Janneau, tài liệu đd.).

- Ngoài việc xây cất các đồn lũy, tháp canh chiến đấu, nghĩa quân chia nhau đi đốn tre, tràm, sậy, đưng về dựng lán trại trên các gò giồng hoặc trên các nền đất đắp ven các con đường gạo. Che tum nghỉ mát trong các vệt tràm để canh tác hoặc đi giăng câu, đặt lokp, đặt lờ bắt cá, bẫy chim, đào chuột, bắt trăn, rắn, rùa, đập lúa trời, móc củ co, hái sen, nhổ bông súng... Tại các khu vực đồn Trung, Tiền, Tả, Hữu đều có làm rẫy trồng khoai lang, khoai mì, đậu phộng, mè... đào giếng lấy nước uống và tưới rẫy. Cá ăn không hết thì làm khô, làm mắm để dành.

- Lương thực từ vùng ngoài tiếp tế vào chủ yếu là dự trữ... Mỗi nghĩa quân thật sự là một nông dân dầm mưa giãi nắng, giỏi bơi lội, chống xuồng trên đồng nước. Phương tiện đi lại chủ yếu là xuồng, ghe, phổ biến là xuồng cui, xuồng ba lá, xuồng lìm kìm mũi nhọn 2 đầu để lướt nhanh trên đồng cỏ và xoay trở tùy ý. Nghĩa quân còn sáng lạo ra chiếc sào nang để chống qua bưng trấp dày đặc sen súng, lục bình, cỏ mồm... vì những nơi đó nước sâu, đất sình chống sào thường sẽ bị lún sâu, hụt hẫng khó nhổ sào lên để chống tiếp.

- Mùa khô thì đi bộ len lỏi theo đường mòn hoặc cỡi trâu, đi lĩa trâu, đi cộ.

Ngoài những thứ do gia đình, nhân dân tiếp tế, nghĩa quân còn biết giả bàng đươn đệm, làm nóp để ngủ, kết quần để mặc trong sinh hoạt hàng ngày và những lúc khó khăn. Thực tế thì loại đồng phục quân đồn điền không nhiều lắm và không phải ai cũng có. Vã lại phải để dành khi hội quân, tập kích.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #54 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2009, 12:00:31 pm »

- Hàng ngày nghĩa quân còn luyện tập võ nghệ, sử dụng giáo mác dưới sự hướng dẫn của người thủ lĩnh tại chỗ.

- Tại các đồn chính, nhất là tại Đại bản doanh có mở những đợt huấn luyện hẳn hoi về bắn súng, đấu gươm, các thao tác quân sự chính qui do Linguet và các chiến sĩ Bắc Phi đảm nhận. Vốn là những tù binh của Pháp ở Maroc, Algérie, Tunisie... tuy ngôn ngữ bất đồng, nhưng cùng cảnh ngộ với đất nước ta. Họ đã nhận ra sự phi nghĩa, khi phải cầm súng bắn giết nhân dân An Nam. Do đó, họ đã bỏ hàng ngũ để đứng về phía nghĩa quân. Sự chịu đựng gian khổ. lòng nhiệt tình, dũng cảm của họ đã kích thích tinh thần hăng say luyện tập và chiến đấu của nghĩa quân.

- Những đêm trăng sáng là dịp hội quân, các đồn cử người về Đại bản doanh thi thố tài năng, trao đổi từng đường đao thế kiếm, cách mài gươm. Sức mạnh cử nổi 5 trái linh, kéo bè gỗ... của ngài Ngũ Linh thiên Hộ đã từng được mọi người truyền tụng thì nay đường roi "song đôi”, “thượng bảo kỳ thân, hạ bảo kỳ mã" vung vút trên lưng trâu đã làm cho các ông Thủ Chiếu, Nhiêu Chấn và Thông Phụng đón đánh một cách vất vả, sau cùng, các ông đành bó tay.

Không chỉ có sức mạnh phi thường, võ nghệ tinh thông, trong những cuộc hội quân. Người còn nói lên những câu đầy khẩu khí:

“Thà làm quỷ không đầu, không làm trâu mang ách"

Đáp lại nghĩa cả ấy, nghĩa quân sôi sục lòng yêu nước, nêu cao khẩu hiệu chiến đấu:

“Thà chết không qui phục thằng Cốt Đột" (tức là Pháp)

Dẫu thác ở chốn lau xanh không nhục chí anh hùng của trai Nam Việt (Chú thích: Bước đầu tìm hiểu về Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều và cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Đồng Tháp Mười, tài liệu đánh máy dày 8 trang của Khoa Sử, trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh năm 1979)

Nhiều tấm gương sáng còn lưu lại đến ngày nay như câu chuyện “ông Dật ông Đà".

ông Dật - Một người đỗ tú tài - được Võ Duy Dương phái ra vùng Cao Lãnh chiêu dụ sĩ tử và nắm tình hình của Pháp do viên đội Courcy điều khiển. 

Nhờ tài học của mình, ông Dật bí mật hoạt động trong vùng giặc chiếm, giao thiệp với các nhà yêu nước và các sĩ từ ẩn dật.

Việc bại lộ, ông Dật bị bắt giam lỏng tại nhà ông Thông Tri, có người phục dịch cơm nước, rượu trà theo kế của ông Đà - một người bạn học của ông Dật, đang cộng sự với viên đội Courcy. Cuối cùng ông Dật đã chọn phần thưởng danh dự là cái chết.

Tiêu biểu là ông Thống Linh. Thống Linh tên thật là Nguyễn Văn Linh, sinh năm 1815 tại làng Mỹ Ngãi, với võ nghệ cao cường, chí khí hiên ngang, ông đứng ra chiêu mộ binh sĩ hoạt động tại Cao Lãnh, Cần Lố. Nghĩa dũng trong vùng đến đầu quân rất đông mà ông là người thống lãnh binh quyền nên được gọi tắt là Thống Linh.

Ông áp dụng lối đánh du kích, ban đêm kéo quân ra tập kích đồn Pháp tại vàm Cần Lố. Trần Bá Lộc nhiều lần mang quân bao vây, đánh lấn ông vào sâu trong Đồng Tháp Mười.

Một hôm, từ căn cứ ông về vận động quân lương ở vùng Cao Lãnh, nhân tiện ghé thăm gia đình tại Mỹ Ngãi. Có kẻ điểm chỉ, Pháp mang quân bao vây bắt được ông. Chúng dụ ông hàng, ông không chịu. Thế là chúng xử chém ông cùng một lúc với Thống Bình, Thống Chiếu tại chợ ông Chánh (Chú thích: Nay là chợ Mỹ Ngãi (phường 1, TX Cao Lãnh)
Trước khi chết, ông vẫn thản nhiên ngâm 2 câu thơ:

“Rất tiếc thù chung chưa trả được
Sụt sùi chín suối dễ nào quên".

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #55 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2009, 12:01:33 pm »

Trong bộ tham mưu của Võ Duy Dương có "ngũ hổ tướng": Thủ Chiếu, Phòng Biểu, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn và Thông Phụng là những bậc túc trí thâm nho, xuất thân từ khoa cử của triều đình.

Song, ông Thông Phụng rất giỏi võ nghệ, lại đắc lực nên được ngài Thiên Hộ yêu mến kính nể. Những việc cơ mật, Võ Duy Dương đều bàn riêng với ông Thông Phụng. Vì thế cho nên ông Phòng Biểu và ông Nhiêu Bá ganh tỵ, thường tỏ thái độ bất mãn của mình cho ông Nhiêu Chấn và ông Thủ Chiếu nghe.

Việc thấu tai Võ Duy Dương, nhân một buổi mừng công đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Động Cát, Ngài mời “ngũ hổ Tướng" đến phòng riêng đàm đạo và rót rượu mời từng vị. Trong không khí cởi mở, chan hòa ấy, Ngài đã kể một câu chuyện Tàu với tích "Liêm Pha và Lạng Tương Như" ngụ ý chê trách sự hiềm khích, hiểu lầm nhau. Mối bất hòa trong nội bộ nhờ đó mà xóa tan.

Võ Duy Dương còn liên kết với các thủ lĩnh nghĩa quân khác như Bùi Quang Diệu (Quản Là) ở Cần Giuộc. Trần Văn Phú (Trần Võ). Nguyễn Trị, Trương Quyền ở Tây Ninh... liên kết cả Poucombo, Achaxoa đang hoạt động mạnh ở biên giới từ Tây Ninh đến An Giang. 

Tháng giêng 1864, Phó đề đốc Nguyễn Hữu Huân, tham mưu của Võ Duy Dương, khi sang An Giang vận động quân giới, quân lương đã có quan hệ mật thiết với Acha-xoa, một thủ lĩnh Khmer đang lập căn cứ chống Pháp tại vùng Châu Đốc-Tà Keo.

Năm 1865, nhiều lần Võ Duy Dương cử đoàn thuyền theo đường Mộc Hóa Sveyriêng hoặc ngược mạn sông Tiền lên tiếp tế lương thực, vũ khí cho Poucombo, một thủ lĩnh Khmer khác đang hoạt động trong vùng bắc Campuchia và Tây Ninh.

Như vậy. đương nhiên hình thành một Mặt trận chống Pháp toàn Nam kỳ mặc dù lệnh của Tự Đức cấm không cho ai mộ binh chống Pháp (tháng 2- 1865).

Pháp bị căng kéo khắp nơi, lúng túng trong việc phân tán và tập trung, giữ đất và lấn chiếm.

Rõ ràng, bên ngoài Võ Duy Dương là một ngọn cờ đầu. Bên trong, ông tạo được niềm tin vững chắc và sự tương thân, tương ái. Mỗi người vừa là nông dân vừa là nghĩa binh "tay cày tay súng". Nhờ vậy, hoạt động xâm nhập của giặc, nghĩa quân có thể phát hiện và ngăn chặn từ xa. Suốt thời gian dài hệ thống đồn lũy và đại bản doanh vẫn là dấu hỏi lớn đối với Pháp.

“Đã nghe sắt lửa âm thầm dậy
Tiếng gọi từ xa thúc giục hoài
Há chịu làm thân trâu ngựa mãi
Chim lồng sao để hát bi ai!”


(Chú thích: Đào Văn Hội, Tân An ngày xưa. Sai gon. 1972 trang 82.)

Đồng Tháp Mười bao la, bát ngát, chốn hoang dã thâm u tự bao đời, đang giấu kín trong lòng nó một sự rộn ràng kể từ khi nghĩa quân vào lập căn cứ. Tiếng gọi quê hương như vang vọng từ đây, thúc giục gái trai tìm tới gia nhập hàng ngũ chiến đấu hoặc ngày đêm tiếp lương, tải đạn.

Nếu để sinh hoạt bình thường, nghĩa quân có thể tự túc được bằng cách dựa vào kho tàng của thiên nhiên, cộng thêm một phần tăng gia sản xuất.

Đồng Tháp Mười, nơi tụ nghĩa thứ hai sau Gò Công. trở thành trung tâm kháng chiến mới của cả Nam kỳ. Ngày nào Pháp chưa đánh dẹp xong căn cứ này thì không thể lấn chiếm ba tỉnh miền Tây, và bên kia biên giới Cao Miên sẽ phải ảnh hường rất nhiều.

Với tầm vóc đó, nghĩa quân ráo riết vận động nhân dân quanh vùng từ Mộc Hóa, Tân An, Cai Lậy, Cái Bè, Sa Đéc, Cao Lãnh, Hồng Ngự... đóng góp sức người, sức của chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.

Ban đêm, nghĩa quân ra chợ quyên góp tiền, gạo muối của các nhà giàu. Thường nhà nào cũng quyên, không nhiều thì ít. Cũng có một số ra làm hương chức cho Pháp không muốn quyên cũng không dám quyên.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #56 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2009, 12:02:47 pm »

Hòa ước Sài Gòn (năm Nhâm Tuất 1862) có ràng buộc về pháp lý, nhưng bên trong quan lại Nam triều ở các tỉnh miền Tây vẫn âm thầm tiếp ứng. Một bộ phận quan lính ở An Giang đã mang cả vũ khí sang Đồng Tháp Mười.

Trần Văn Thành, Quản Cơ An Giang, vâng lệnh triều đình mang quân sang nã tróc Võ Duy Dương, kỳ thực là cùng một vài vệ sĩ vượt thuyền qua sông Tiền, xuống Cần Lố, theo đường gạo vào đại bản doanh Gò Tháp. Chẳng biết triều đình có dặn ông “đưa cao đánh khẽ" không? Riêng Quản Thành rất mến mộ Võ Duy Dương và đã bày tỏ lòng mình quà bài thơ sau đây:

"Để biệt đó lo đền thủy thổ
Đây cũng lòng ái quốc ưu quân.
Lịnh trời sai thần hạ phải vưng,
Lòng cũng biết ơn người nghĩa dõng.
Đạo quân thần là nghĩa trọng,
Niềm cơm áo phải lo đền ... "

Cảm thông nhau trong tình yêu đất nước, hai ông trở thành hai người bạn cùng chí hướng. Sau cuộc gặp gỡ này, Võ Duy Dương ăn ý với Trần Văn Thành dùng chiến thuật “yểm kỳ tức cổ", giấu cờ im trống, không thanh trương uy thế ra ngoài...(Chú thích: Nguyễn Văn Hầu. Thiên Hộ Võ Duy Dương. Nguyệt San văn hóa số 51, 1960, tr. 383, 384. Trong bài, tác giả ghi sự kiện xảy ra vào cuối tháng 8 năm 1862. Thiết nghĩ thời gian này Võ Duy Dương đang đánh Pháp ở Bình Cách và Ba Giồng. Mãi đến cuối tháng 8-1864 khi Trương Định mất, Võ Duy Dương mới vào hẳn Đồng Tháp Mười để lập căn cứ.)

Tháng 5-1864, Nguyễn Hữu Huân bị bắt ở Châu Đốc, tiền bạc quyên góp mua sắm vũ khí đạn dược bị tịch thu, nhưng sức cổ vũ không bao giờ dập tắt. Nhiều đoàn thuyền đã bí mật vượt sông Hậu, sông Tiền chở khí giới và thuốc đạn tiến vào căn cứ. Các ngả Trà Cú Thượng, Trà Cú Hạ, kinh Phước Tuy, Vàm Xoài Hột... qua đường gạo Mộc Hóa, Cái Nứa cũng thường xuyên vận chuyển. Nhưng tấp nập nhất vẫn là con đường gạo Cần Lố.

Tại các tiền trạm, nghĩa quân túc trực đón nhận và vận chuyển tiếp.

Mùa nước thì xuồng ghe đi theo các con lung tự nhiên vào Đại bản doanh, mùa khô thì phân tán nhỏ cho cộ trâu, lía trâu kéo vào.

Việc tiếp tế cho nghĩa quân rất gian nan, khổ cực, nhiều người đã âm thầm đổ máu, nhất là từ đầu năm 1865 Pháp đóng đồn Mỹ Trà - Cần Lố. Nghĩa quân Thị Bầy đã hy sinh trong lúc mở con đường tắt từ Cần Lố qua Ba Sao và tên tuổi bà đã để lại với con rạch này “vàm Bà Bầy ".

Pháp có thể ngăn sông, đón ngõ nhưng không thể ngăn được lòng yêu nước của nhân dân. Đêm đêm, trên vùng sông nước các cô gái thả xuồng, ghe xuôi về căn cứ, lúc lặng lẽ lẩn tránh, lúc nhắn nhủ, động viên, thúc giục.

“Thuyền xuôi Châu Đốc, thả xuống Vàm Nao, 
Thẳng tới Ba Sao coi chừng con nước dẫy .
Chị em ơi! Nào bầu, nào gạo, nào sắn, nào khoai,
Nào hũ mắm, cô Hai, 
Nào bánh chai, chị Bảy,.
Chị em ta cứ vững tay chèo lái đem ra tận ải biên thùy;
Ta nuôi anh lính mộ, có sá gì nhiều nỗi lao dao


(Chú thích: Nguyễn Văn Hầu. Thiên Hộ Võ Duy Dương. Văn hóa Nguyệt san số 51 trang 382.)
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #57 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2009, 12:03:46 pm »

IV Hoạt động của nghĩa quân Đồng Tháp Mười:

Pháp nhận định về căn cứ Đồng Tháp Mười như sau:

“Tuy nhiên, còn một vùng khả nghi, chưa kiểm soát được, Đồng Tháp Mười. Chúng ta khó đi vào nội địa nhưng loạn quân chọn nơi ấy làm sào huyệt tốt, ra vào khủng bố các làng kế cận. Họ được tiếp tế võ khí đạn dược từ Hà Tiên và Rạch Giá chở đến (do Triều đình Huế). Đô đốc De Lagrandière phản đối việc ấy, cho rằng vi phạm hiệp ước 1862 nhưng triều đình chỉ trả lời bằng những lời “xã giao" (Chú thích: A. Schreiner. Sđd).

Như vậy, quân Pháp biết rất rõ rằng ở Đồng Tháp Mười còn một bộ phận rất lớn nghĩa quân đang hoạt động dưới sự lãnh đạo của Thiên Hộ Võ Duy Dương, nhưng chúng chưa nắm được sự bố phòng cụ thể của căn cứ. Chúng xoay qua dùng biện pháp ngoại giao, gây sức ép, buộc triều đình Huế ra chỉ dụ cho nghĩa quân Tháp Mười buông vũ khí đầu hàng. Mặt khác, chúng ráo riết thiết lập các đồn binh, trạm canh bao quanh địa bàn hoạt động của nghĩa quân. Đồng thời mạng lưới tình báo tung người dò tìm ngày đêm hệ thống đồn lũy, xác định rõ vị trí từng nơi nhất là Đại bản doanh. Tăng cường lực lượng bao vây, khống chế buộc nghĩa quân phải xuất đầu lộ diện cho chúng tiêu diệt.

Để khủng bố và đe dọa những người yêu nước, Pháp còn cho dời huyện lỵ Kiến Phong từ Mỹ Trà về Vàm Cần Lố, bố trí quân ở đây, thường được gọi là "Trường án Cần-Lố", điểm tiền tiêu của con đường gạo phía Tây Nam. Hằng ngày, quân Pháp theo rạch Cần Lố đi tảo thanh, hễ bắt được nghĩa quân hoặc tình nghi ai có quan hệ với nghĩa quân là đem về Trường án “trảm quyết và bêu đầu làm gương".

Sau gần một năm dùng kế “dấu cờ im trống" để lo xây dựng căn cứ, tích trữ quân lương... Võ Duy Dương nhận thấy nghĩa quân đã nhuần nhuyễn thao tác quân sự sau nhiều ngày luyện tập và tinh thần chiến đấu lên cao, không thể khoanh tay ngồi im chờ giặc đến mà phải dấy binh đánh đuổi quân xâm lược. Đó cũng là ý muốn của Võ Duy Dương đã nói với Nguyễn Tánh, vị Kinh phái (sứ giả thường lệ của kinh đô thuộc hàng chủ sự) vào tháng 5-1864.

“Tôi sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn nấp chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng tôi luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.)

Với mục đích lãnh đạo dân binh kháng chiến đến kỳ cùng để giành lại chủ quyền và đất đai đã mất, Võ Duy Dương đã thật sự đưa cuộc chiến đấu mới của mình tại Đồng Tháp Mười mang ý nghĩa "Dân chúng tự vệ”. Mặc dù lá cờ hiệu triệu lúc này là “Cần Vương cứu quốc" cho thích hợp với nhận thức của đa số đồng bào và sĩ phu - Địa bàn phát huy tác dụng nhất của chiến thuật này là những vùng tiếp giáp ngoại vi. Đó là vành đai dày mỏng trên dưới 10 km bao bọc chung quanh Đồng Tháp Mười từ Bắc Chang, Bắc Chiêng cặp theo sông Vàm Cỏ Tây xuống Thủ Thừa qua Tân An, Cai Lậy, Cái Bè, Rạch Ruộng, Cần Lố, Cao Lãnh, Đốc Vàng, Hồng Ngự. . .

Đặc điểm chung của vùng này là sông rạch quanh co chằng chịt, cây cối rậm rạp, dân cư tương đối đông đảo, nơi tranh chấp thường xuyên giữa 2 thế lực. Pháp mới đến bỡ ngỡ, ra sức xây dựng bộ máy hội tề, tìm cách chiêu dụ, mua chuộc nhân dân. Nghĩa quân quyết tâm đánh bật chúng ra khỏi địa bàn. Ít nhất cũng phải cô lập các đồn binh, ngăn chặn những vết dầu loang. Khi được tin có giặc ruồng bố, dân chúng ở đó tức tốc tản cư bỏ nhà không, vườn trống . . .

Hầu hết các cửa sông lớn, trước các đồn lũy, tàu địch đi lại dễ dàng, nghĩa quân đều phát động dân binh đắp cản, bằng vật liệu tại chỗ như tre, tràm, dừa... Quy mô nhất là hệ thống cản trên sông Vàm Cỏ Tây; từ trên phía Bắc Chiêng đổ xuống cho tới vùng sông Xoài, Bến Kè...

Đây là loại hình rất hiệu quả, Pháp không thể phát huy hết thế mạnh của mình là thủy quân, khi các thủy đạo quan trọng xâm nhập vào Đồng Tháp Mười đã bị đóng kín.

Pháp đã huy động nhân dân phá cản, đem tàu tới cột lòi tói kéo cho bung ra. Mỗi cản khai thông phải mất vài ngày. Xong cản này lại gặp cản khác...

Chiếc cầu khỉ, hầm chông, ong vò vẽ, ong lỗ, một trận đốt đồng... từ Quản Oai, Hầm Vồ, Bằng Lăng, Mỹ Thạnh, Động Cát, Mộc Hóa đều có thể trở thành tai vạ đối với Pháp. Đi lẻ tẻ bị bắn tia, tập trung bị tập kích. Ở trong nhà trong đình, chùa bị phóng hỏa. Đỉa, muỗi, rắn rết, sình lầy, nắng cả, thần phật... dường như cũng tiếp sức với nghĩa quân làm tiêu hao sinh lực Pháp.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #58 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2009, 12:04:32 pm »

Nghĩa quân đã dùng nhiều cách đánh phù hợp với địa hình Đồng Tháp Mười như phục kích trên đường mòn bất thần nổ súng, Pháp nhảy sang một bên chống trả thế là vấp phải trấp (trên cỏ dưới sình) càng vùng vẫy càng lún sâu, nghĩa quân từ dưới trấp đội lục bình lên đánh.

Hoặc nhử chúng vào sâu bên trong rồi đồng loạt đốt đồng nổ súng. Lửa cháy ngùn ngụt, khói bay mù mịt bốn phía, phút chốc bị rơi vào biển lửa mênh mông, Pháp hoảng kinh vứt bỏ súng ống mà chạy (Chú thích: Ngày nay, đi khắp trong Đồng Tháp Mười, từ Cái Bè, Cai Lậy đến Gò Tháp, Mộc Hóa... đâu đâu chúng ta cũng được nghe các bậc kỳ lão kể chuyện Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều "Cấm cỏ 3 năm" đốt đồng đánh giặc. Ở Mộc Hóa còn địa danh “Đồng sọ Tây").

Võ Duy Dương đã tận dụng được những khả năng của nhân lực, vật lực Đồng Tháp Mười để chống Pháp, và đã đạt được những kết quả bất ngờ, gợi ý cho đời sau một bài học về lối đánh du kích xuất quỷ nhập thần.

Chúng ta hãy nghe Paulin Vial tiết lộ "Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng Carbine, họ cứ việc nhào vô và đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường” (Chú thích: Paulin Vial. sđd trang 189-201).

Trong một báo cáo gởi về Pháp Bonard đã nhận xét: “cuộc khởi nghĩa là thường trực, nơi nào nó cũng bị chặn lại, nhưng không nơi nào khởi nghĩa bị đánh tan, vì ta không đủ phương tiện" (Chú thích: Báo cáo ngày 14-1-1863 của Trung tướng Pháp Bonard).

Võ Duy Dương còn khai thác đúng mức khả năng chiến đấu của những người lính Tagals, lính Pháp đang ở trong hàng ngũ mình.

Trong tinh thần yêu chuộng tự do, hòa bình, chính nghĩa, lại được Võ Duy Dương cùng các thuộc tướng đối xử rất khoan dung, tin cẩn, các chiến sĩ tây phương và Bắc Phi này đã trở thành những viên tham mưu đắc lực trong việc tổ chức lực lượng, luyện tập quân sự và sử dụng binh khí. Ngoài ra họ còn xung phong đi đầu trong những cuộc đánh nghi trang. Các chiến sĩ Tây phương này đã giả dạng làm sĩ quan Pháp dẫn theo một số nghĩa quân ăn mặc như lính tập đi tuần để xuất kỳ bất ý đột nhập vào lấy đồn bót, bắt sống lính trong đồn, đoạt hết vũ khí, lương thực. Xong đặt chất nổ sẵn chờ tốp khác tới giật sập đồn.

Có nơi, các chiến sĩ để lại truyền đơn hoặc ghi trên vách bằng tiếng Pháp kêu gọi lính Pháp không nên phục vụ cho những kẻ xâm lược, phải sớm bỏ hàng ngũ về với chiến khu hoặc bỏ trốn qua Cao Miên, qua Xiêm tìm đường về Pháp.

Do đó, Võ Duy Dương đã lôi kéo được nhiều lính Pháp và Tagal về với ông, kể cả những người Việt trước kia lầm đường theo giặc.

Lối đánh du kích và đánh nghi trang dù tinh vi mấy cũng chỉ ở phòng ngự và lẻ tẻ mà thôi. Mục tiêu chính của nghĩa quân là phải nhổ hết các đồn bót của Pháp vây quanh Đồng Tháp Mười, đánh cho chúng từ bỏ ý chí xâm lược, trả lại 3 tỉnh miền Đông, xóa đi hiệp ước nhục nhã năm Nhâm Tuất (1862).

Đầu năm 1865, khí thế đánh du kích mở rộng đều khắp, nghĩa quân bắt đầu dồn lực lượng đánh kỳ tập.

Đáng nói nhứt là những trận tấn công Mỹ Trà, rồi Cái Bè, Mỹ Quý, Thủ Thừa . . .
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #59 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2009, 12:05:44 pm »

NHỮNG ĐỢT TẤN CÔNG MỸ TRÀ CỦA NGHĨA QUÂN ĐỒNG THÁP MƯỜI
.

Nếu như Cái Bè là vị trí quan trọng, tiền đồn của tỉnh Định Tường, đối đầu với Vĩnh Long, thì Mỹ Trà là cửa ngõ phía Tây của Đồng Tháp Mười.

Bên kia con sông Cao Lãnh rộng chừng 100 thước - đối diện với làng Mỹ Trà - là làng Hòa An, Tổng An Tịnh, tỉnh An Giang thuộc Nam Triều. Có thể nói Mỹ Trà, cù lao Hổ, vịnh Tòng Sơn, cù lao Giêng và các cồn nhỏ rải rác là nhịp cầu nối 3 tỉnh miền Tây với 3 tỉnh miền Đông.

Nghĩa quân thường xuyên ra ngoài chợ Cao Lãnh khuyến dụ dân làng ứng nghĩa và quyên góp tiền bạc, lương phạn để mua sắm khí giới và nuôi quân. Nổi bật nhất là hoạt động của Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu...

Biết vậy, đầu năm 1865 mặc dù đã dời huyện lỵ Kiến Phong về Cần Lố, Pháp quyết định vẫn đóng đồn ở Mỹ Trà, ráo riết bắt dân chúng làm xâu. Đồn hình vuông có 4 chòi canh ở 4 góc, công sự bằng gạch, dựng nhiều hàng rào tre chung quanh.

Đầu trên và đầu dưới đồn có 2 con rạch tự nhiên án ngữ. Con sông Cái Sao Thượng (Đình Trung) làm giới hạn phía Bắc, phía nam, con sông Cao Lãnh và nhiều rạch lớn chạy qua các vùng Bình Trung, Bình Trị đi thẳng ra sông Tiền.

Ngoài thế quân sự, vùng này rất trù mật, dân cư đông đúc. Từ thời chúa Nguyễn, đây là một trong chín khố trường biệt nạp khai khẩn đất đai làm ruộng mang tên Bả Canh. Giao thông thủy thuận lợi, dễ dàng kiểm soát đường sông Cửu Long từ Cao Miên, Hồng Ngự xuống, từ An Giang qua, làm bàn đạp bình định các làng lân cận: Mỹ Ngãi, Mỹ THọ, Mỹ Xương, Ba Sao v.v... và từ đó tấn công Đồng Tháp Mười.

Để nối lại nhịp cầu đông-tây, khai thông con đường gạo Cần Lố nghĩa quân không thể không đánh đồn Mỹ Trà.

1. TRẬN ĐÁNH ÚP ĐỒN MỸ TRÀ (22/7/1865)

Ở lâu không có việc gì, quân Pháp đâm ra khinh thường, lân la vào các tiệm quán, và làm quen với các nhà dân gần chợ. Người được chúng tin cẩn nhất là ông lang người Hoa. Những người bà con bên vợ (người Việt) của ông thường được giới thiệu vào xây cất trong đồn. Họ sớm trở nên gần gũi, thân thiện với lính tráng.

Sau thời gian theo dõi tình hình Pháp đóng đồn Mỹ Trà, Võ Duy Dương cùng bộ tham mưu bàn bạc kế hoạch đánh úp đồn này.

Một cô gái tuổi ngoài 20, xinh đẹp, duyên dáng và hoạt bát được phân công tiếp cận ông thầy lang người Hoa bằng cách giả dạng bịnh nhân tới điều trị và ở ngay trong nhà. Qua bề ngoài có vẻ “hữu hảo" giữa ông và lính Pháp, thực sự ông chẳng ưa gì chúng. Hiểu rõ điều đó, cô khéo gây thiện cảm và dần dần đưa ông về phía nghĩa quân.

Buổi chiều, ngày 22/7/1865, sau khi ăn tiệc xong ở nhà ông thầy Tàu, lính Pháp chếnh choáng men rượu, đeo súng nghênh ngang trở về đồn. Còn cách hàng rào một khoảng thì bất thần lính Pháp bị đội cảm tử phục kích 2 bên đường nổ súng và xông ra đánh phủ đầu.

Cùng lúc ấy, những người thợ làm trong đồn giết chết lính canh, đoạt súng bắn những tên có mặt tại doanh trại. Trở tay không kịp, tên chỉ huy chết tại chỗ, số sống sót nhanh chân chạy qua hàng rào thoát thân. Nghĩa quân ở các mũi áp sát vòng ngoài khai hỏa thần công trợ chiến, và được dân phu dẫn đường tức tốc ùa vào đồn.

Trận đánh kéo dài mấy tiếng đồng hồ, thủy quân Pháp đổ vào tiếp ứng, từ phía bờ sông nã đạn tới tấp để giải vây. Nghĩa quân rút ra ngoài đồn và dựa vào những bờ mương làm phòng tuyến.

Đêm ấy, mưa như trút nước, quân Pháp không tiếp thêm được, chúng báo tin khẩn cấp về Sài Gòn.

Chiều ngày sau 23/7/1865, viện binh từ Sài Gòn do Roze chỉ huy xuống tới nơi chỉ còn cách gom góp tàn quân và thu nhặt xác chết.

Sau khi đoạt nhiều chiến lợi phẩm, nghĩa quân rút êm, đồng bào cũng tản cư hết...
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM