Phụ Bản 11:
Ông Nguyễn Hiền Điều, người tỉnh Vĩnh Long, được phái đến huyện Kiên Giang (thuộc tỉnh Hà Tiên) năm Minh Mạng thứ 21 (1840), làm chức Phó Cơ, người địa phương gọi là Phó Cơ Điều.
Ngày 14 tháng giêng (1840) được tin cấp báo có một nhóm Miên nổi lên cướp phá ở Rạch Sòi (cách chợ Rạch Giá khoảng 7 cây số đường bộ). ông liền tập hợp một toán quân đi tiếp cứu. Bọn giặc rất đông, ông dẫn quân xông vào giao chiến lợi dụng đất ruộng thô cứng, chứng cỡi trâu bao vây. Trâu bị thúc giục chém báng loạn cuồng. Ông và quân sĩ tả xung hữu đột giữa vòng vây khép kín.
Đến chiều tối, đám quân ông dẫn theo đều tử trận chỉ còn ông và thằng phòng (bây giờ gọi là người hộ vệ). Đổi lại bọn giặc chết đầy đồng, vì chung tuy đông song chỉ là đám giặc ô hợp.
Bọn giặc biết ông đang thế cô nhưng chưa dám xông vào bắt, chúng cho bao vây chờ ông sơ hở để phục kích giết chết.
Khi chờ quân tiếp viện tới, phần mệt, phần đói khát, ông đi lần đến giếng cây Trâm tìm nước uống. Vì mùa khô, giếng cạn, ông phải xuống giếng lấy tay hớp từng ngụm nước, trong khi đó thằng phòng canh giữ trên miệng giếng. Bất ngờ bọn giặc đến phóng lao vào ông, ông bị thương nhưng vẫn nhổ lao cắm trong mình phóng lại bọn giặc cho đến khi kiệt sức ngã quỵ. Bọn giặc lấy thủ cấp ông đem về bêu trên ngọn tre cắm tại xóm Rạch So Đũa.
Thủ cấp của ông được ông Tám Giang, người chuyên lấy mật ong, nửa đêm bơi xuồng đến rước đem về thờ tại đình Vân Tập, nay là đình thờ Cụ Nguyễn Trung Trực.
(Giếng nước này miệng hình vuông loe ra rất rộng, có thể đi lần xuống để gánh nước lên được, vì thành giếng dốc thoai thoải. Về sau muốn bảo vệ di tích trên, dân chúng xây toàn bộ bằng gạch, di tích được bảo vệ nhưng vẻ nguyên thủy đã mất).
Phụ Bản 12
Ông Le Nestour sanh ngày 13-1-1854 tại Quimperle (Pháp). Ông làm chánh sở Douant nên người địa phương thường gọi ông chủ Đoan, tương đương với chức trưởng ty quan thuế ngày nay.
Ông có vợ người Việt Nam tên Nhan Thị Lựu và nhiều bà vợ bé, với tất cả 10 người con đều đặt tên Việt Nam và được người địa phương gọi rất bình dân như Ba Chim (nữ), Tư Chuột (nữ), Năm On (nam), Sáu Ô (nữ)... Con gái của ông hầu hết gả cho người Việt Nam, Trung Hoa hoặc Ấn Độ.
Ông nói tiếng Việt khá rành, ông dịch Le Nestour thành Lê Đức Tu, từng diễn thuyết bằng tiếng Việt cho hội Khai trí Tiến Đức ở Sài Gòn.
Theo người trong tỉnh, ông là người Pháp tiến bộ. Ông Huỳnh Văn Yến nói rằng ông Le Nestour thường chỉ trích việc làm sai quấy của người Pháp. Ông Le Nestour cho dân xóm chài mượn tàu mang cá đỏ của ông ra hòn Sơn Rái đốn cây danh mộc về cất đình Lăng ông. Ông có xuất bản quyển Ile de Tortue (Hòn Rùa). Nghe nói trong quyển sách này có phần ông đề cập tiểu sử cụ Nguyễn Trung Trực. Tiếc thay nay đã thất lạc. Tôi có đi đến nhiều như viện để tìm nhưng chưa thấy.
Ông mất ngày 22-10-1928 tại Rạch Giá, mộ phần nằm phía sau Sở Công an Kiên Giang.
Phụ Bản 13
+ Gilbert Trần Chánh Chiếu cha là Trần Cửu Thọ, mẹ là Lại Thị Dẹt, sanh ngày mùng 2 tháng 6 năm Đinh Mão, tức ngày 3-7-1867 tại làng Vân Tập, tỉnh Rạch Giá. (Thiên Địa Hội của Sơn Nam trang 99) . .
Ông học chữ Pháp, có Pháp tịch và theo đạo Thiên Chúa, xuất thân làm xã trưởng làng Vĩnh Thanh Vân, nên người đương thời gọi là Xã Chiếu. Về sau được thăng phủ danh dự nên được gọi là Phủ Chiếu.
Trần Chánh Chiếu làm Chủ bút tờ Nông Cổ Mìn Đàm. Sau đó làm chủ bút tờ Lục tỉnh Tân Văn. Ông hoạt động công khai và hăng hái cho cuộc Minh Tân ở Miền Nam lúc bấy giờ. Ông mất năm 1919.
+ Ông viết bài ca ngợi chiến công của Cụ Nguyễn Trung Trực kích động dân chúng noi gương ái quốc của Cụ Nguyễn nổi lên chống Pháp. Bài viết của ông đăng trên Lục tỉnh Tân Văn (Sài Gòn) ngày 12-12-1907 và 13-1-1908 (theo tài liệu của Sơn Nam).
Ông có yết kiến Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Năm 1911, ông bị phát giác ngầm vận động thanh niên trong tỉnh đưa đi du học bên Nhựt nên bị bắt đưa về Mỹ Tho.
Về sau ông chết tại Sài Gòn, mồ mả của ông tại phường Chí Hòa.
Tại Rạch Giá có con đường mang tên Trần Chánh Chiếu.
Mồ mả song thân ông tại phường Vĩnh Lạc, Rạch Giá, đã di táng về Sài Gòn năm 1975.
Năm 1971, tôi có đến địa chỉ số 459/6 đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn là nhà của Bà Trần Thị Hiếu gọi ông bằng chú. Lúc đó Bà Hiếu đã 84 tuổi song tinh thần vẫn sáng suốt.
Theo lời Bà Hiếu, ông Trần Chánh Chiếu cha là Trần Cáo (người Trung Hoa), mẹ là Nguyễn Thị Dẹt, còn một người con gái tên Trần Thị Xuyến, ngoài 80 tuổi đã lẫn, nhà cửa cũng ở Sài Gòn.
Còn ông Huỳnh Văn Yến cho biết ông Trần Chánh Chiếu có một người con trai tên Trần Chánh Thọ từng làm chef de Sureté (chánh Sở mật thám) tỉnh Mỹ Tho (trước 1945)