Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:10:08 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nguyễn Trung Trực, anh hùng kháng chiến chống Pháp  (Đọc 38532 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #10 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2009, 02:29:40 pm »

PHÁP TÁI CHIẾM THÀNH KIÊN GIANG


Khi làm chủ tình hình, nghĩa quân bêu đầu những viên sĩ quan và lính Pháp cắm dọc theo kinh rạch Rạch Giá - Long Xuyên để giương oai.

Nguyên con kinh này được đào vào năm Gia Long thứ 17 (1818) để các miền trên thông thương với Rạch Giá vừa làm thủy lộ chiến lược để vận quân đánh Xiêm La.

Đề phong quân Pháp trở lại tấn công, cụ Nguyễn Trung Trực cho nghĩa quân hợp cùng dân chúng cắm cọc thả chà, đắp đập dọc theo con kinh trên từ Rạch Giá đến núi Sập. Có hai cái cảng lớn: một tại Tà Keo và một tại Lục Dục và trí những khẩu đại bác do Vua Tự Đức gởi vào.

Cụ Nguyễn giao cho Lâm Văn Ky (còn gọi là Lâm Quang Ky) ở lại giữ thành Kiên Giang còn mình đón quân giặc tại cảng Lục Dục (Núi Sập). 

Ngày 18/06/1868 Bộ chỉ huy Pháp ở Mỹ Tho mới được tin thành Kiên Giang đã mất, lập tức cho quân phản công '

Quân Pháp do thiếu tá Ausart chỉ huy từ Vĩnh Long đưa qua Kiên Giang, dưới quyền có đại uý Dismuratin chỉ huy một phân đội bộ lính thủy chiến, trung úy Taradel (thanh tra) chỉ huy phân đội lính mã tà và trung úy hải quân Richard đi canô chạy bằng hơi nước, cùng theo có Trần Bá Lộc và Tổng Đốc Phương.

Qua nhiều trận kịch chiến gian nan, ngày 21/06/1868 quân Pháp đến Sọc Suông (thuộc xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp). Cụ Nguyễn rút quân về cố thủ thành Kiên Giang, đuối thế cụ cùng nghĩa quân lui về Hòn Chông (2), một số nghĩa quân theo không kịp ở tản mác tại Rạch Giông (cách chợ Rạch Giá khoảng 3 cây số) Còn ông Lâm Văn Ky và một số nghĩa quân chạy về rạch Kim Qui (thuộc xã Vân Khánh Đông, huyện An Biên ). 

Quân Pháp tái chiếm thành Kiên Giang, một số nghĩa quân hy sinh, một số bị bắt.

Mẹ cụ Nguyễn vẫn ở nhà ông Dương Công Thuyên, nhiều người đến thăm hỏi và biếu lễ vật, sợ bị lộ, bộ hạ cụ Nguyễn đưa về Hà Tiên.

Bị cám dỗ bởi chức tước bạc tiền, đội Lượm vốn trong hàng ngũ nghĩa quân xuất thú chỉ cho Pháp bắt nhiều nghĩa quân. 

LẬP CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN TRÊN ĐẢO PHÚ QUỐC


Quân Pháp chặn các con đường tiếp tế dẫn đến Hòn Chông và siết chặt vòng vây, cụ Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đáp ghe ra đảo Phú Quốc, lập căn cứ kháng chiến cuối cùng.

Khi đến đảo cụ truyền đánh đắm các chiếc ghe này để ngăn cửa rạch. Nghĩa quân hợp lực cùng dân trên đảo lấy manh bồ và cà tăng có cọc gỗ đóng giữ chặt để làm chiến lũy.

Chiến hạm Goeland do Bouchet Rivière chỉ huy đến đảo, chúng dùng súng đại bác bắn vào chiến lũy này, tốn hao nhiều đạn mới phá vỡ. Khi quân Pháp đổ bộ lên đảo thì một trận kịch chiến diễn ra trên bãi Hàm Ninh gây thiệt hại nặng cho quân Pháp. Sau đó nghĩa quân rút lên núi..

Ngày 19/09/1868 Bouchet Rivière trở về Hà Tiên chở thêm 125 lính mã tà ở Gò Công và Huỳnh Công Tấn đến Phú Quốc. 
Lúc này cụ Nguyễn dùng chiến thuật du kích tỉa dần quân Pháp. Trong những đêm tối trời nghĩa quân nương theo bóng đêm tấn công và đốt phá trại giặc

Các cụ già ở đây thuật lại giai thoại cụ Nguyễn dùng kế nghi binh cho nghĩa quân đi loanh quanh trên núi. Quân Pháp trên tàu dùng ống dòm (viễn vọng kính) theo dõi, tưởng nghĩa quân còn đông không dám tấn công lên núi. 

Pháp phong tỏa đảo Phú Quốc, chặn tất cả các ghe xuồng qua lại vì nghi là tiếp tế gạo cho nghĩa quân. Huỳnh Công Tấn lại bày với Pháp bắt tất cả dân trên đảo tập trung vào một nơi phơi mưa nắng và không cho ăn uống, cùng truyền rao: Nếu cụ Nguyễn Trung Trực không ra đầu hàng sẽ hành hạ dân trên đảo đến chết vì họ cố tình tiết tay và che chở cho nghĩa quân.

Mặt khác tại chợ Rạch Giá, Pháp treo giải thưởng:

1/ Ai bày mưu cho Pháp bắt được cụ Nguyễn Trung Trực được thưởng 200 quan tiền. 

2/ Ai bắt sống hay hạ sát được cụ Nguyễn Trung Trực, đem nộp thủ cấp sẽ được thưởng 500 quan tiền.

Lời rao truyền được loan đi khắp nơi trong tỉnh đến tận đảo Phú Quốc. Mấy ngày sau có một tên nghiện thuốc phiện đã lâu ngày thấy tiền thưởng to đến hiến kế cho Pháp.

Tên Việt gian này mách Pháp bắt mẹ cụ Nguyễn Trung Trực ở Hà Tiên và truyền rao rằng nếu cụ Nguyễn không chịu ra đầu hàng tất mẹ cụ phải thế mạng. Thế nào cụ Nguyễn cũng ra hàng vì cụ có hiếu với mẹ lắm (3).

Pháp làm y lời, cho bắt bà và nài nỉ bà viết thơ khuyên dụ cụ Nguyễn Trung Trực ra qui thuận Tân Trào, mẹ con được sum vầy, lại được ân thưởng bạc tiền cùng chức trọng cao sang. Bà cụ không nghe, chúng bắt bà cụ hạ ngục.

Nghe nói về sau khi nghe tin cụ Nguyễn ra hàng, bà cụ tức giận thổ huyết chết trong ngục.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #11 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:10:59 pm »

ÔNG LÂM VĂN KY RA HÀNG VÌ ĐẠI NGHĨA
   

Cảm thương cụ Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân bị hành hạ tù đày, ông Lâm Văn Ky ra nộp mình cho Pháp, ông than rằng: "Cơ trời đã định, việc ta làm để khổ cho ai ?"

Tại Tà Niên người ta còn truyền khẩu câu chuyện: Trước khi ra hàng, ông Lâm Văn Ky dâng khay trầu rượu với chiếc khăn tang, quỳ trước mặt cha tỏ tình thương đồng bào bị tai ách muốn nạp mình để đỡ tội cho bao người, xin cha già tha tội không tròn chữ hiếu.

Ông Lâm Kim Diệu cầm chung rượu lên uống đoạn đặt chung rượu xuống cười và nói: "Có thế mới đáng mặt làm con dân nước Việt và làm con ta".

Khi đến trước mặt Pháp, ông tự xưng là Nguyễn Trung Trực, lãnh tướng nghĩa quân, nhưng đội Lượm mách báo cho Pháp biết: Người đến nộp mình là Lâm Văn Ky, phó tướng nghĩa quân chớ không phải Nguyễn Trung Trực. Nhưng người đó cũng nguy hiểm lắm.

Pháp ra lệnh đóng vào cổ ông hai cái gông dẫn ra chợ Rạch Giá xử chém. Hôm ấy là sáng ngày 12 tháng 5 năm Nhâm Thìn (nhằm ngày 1/7/1868) Pháp cho hành quyết cả ông Ngô Văn Búp và Trịnh Văn Tư. Riêng ông Hồng Văn Ngàn bị bắt sau nên Pháp đày ra Côn Đảo. Mười hai năm sau ông ấy được trả tự do nhưng không rõ Pháp đã làm gì mà đôi mắt ông bị mù. Về Tà Niên ông lê lết cuộc sống tàn tật gần mười năm nữa mới mất.

Mộ ông Lâm Văn Ky sau thành lính Sơn Đá, về sau con cháu xin di táng về vòng mộ họ Lâm ở Tà Niên. 

Tại đình thần hoàng bổn cảnh ở Vĩnh Hòa Hiệp (Tà Niên) có bài vị thờ ông Lâm Văn Ky cạnh cụ Nguyễn Trung Trực để ghi nhớ ơn đức liệt sĩ Kiên Giang. 

Ở Rạch Giá người ta gọi tặng ông Lâm Văn Ky là Lê Lai đất Kiên Giang vì đại nghĩa ra nộp mình hầu đánh lạc hướng quân Pháp để Cụ Nguyễn Trung Trực có thời cơ mộ binh kháng chiến.

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TRÊN ĐẢO


Đau lòng vì đồng bào bị hành hạ dã man và thương xót mẹ già, cụ Nguyễn Trung Trực quyết định ra hàng.

Tương truyền cụ cho gọi tất cà nghĩa quân lại. Đại ý khuyên dạy: "Khi tôi ra nộp mình cho quân Pháp, tất chúng sẽ rút khỏi đảo này để đồng bào được yên thân vì giặc chỉ muốn bắt cho được tôi thôi. Vả lại nếu tôi không ra hàng thì quân Pháp kéo dài cuộc vây tỏa. Chúng ta sẽ lâm vào thế bế tắc vì cạn lương."

"Anh em trót đã theo tôi, có người từ vùng Nhựt Tảo tới, có người từ Rạch Giá tới, nay vận nước đã đến hồi suy vi.. Vậy anh em hãy trở về sum họp với gia đình, tìm phương kế làm ăn, chờ đợi thời cơ"

Cụ vừa dứt lời tất cả nghĩa quân đều khóc, có người quỳ ôm lấy chân cụ xin sống chết có nhau. Cụ khuyên đừng làm cụ bịn rịn không ích lợi gì trong lúc nay, một khi cụ đã quyết tâm. Cụ gọi một nghĩa quân đến trói tay cụ nhưng không ai đành tâm làm việc này.

Cuối cùng cụ từ giã anh em nghĩa quân và ra đi. Trên đường đi, cụ bứt vài cọng bông súng biển và tự trói cho có vẻ người ra quy thuận để Pháp khỏi phải nghi ngờ. Cụ ngồi trên một chiếc xuồng do một nghĩa quân chèo đến tàu Pháp đang đậu. Lãnh binh Tấn thấy cụ Nguyễn Trung Trực rất đỗi vui mừng, lấy tình cũ bạn xưa đối đãi rất ân cần, tử tế.

Trên con tàu đưa cụ Nguyễn từ Phú Quốc về Hà Tiên, lãnh binh Tấn không ngớt lời khuyến dụ cụ Nguyễn quy hàng Tân trào sẽ được đối đãi trọng hậu. Cụ Nguyễn chỉ cười nhạt và nói: " tôi với anh trước là đồng tâm đồng chí, nay anh theo Pháp còn tôi chống Pháp. Bây giờ tôi là kẻ thất thế, tôi chỉ muốn được chết. Nếu anh còn nghĩ tình xưa cũ xin anh nói bọn Pháp giết tôi càng sớm càng tốt".

Chiến hạm tới Hà Tiên, Pháp cho ghe bầu chở cụ Nguyễn Trung Trực vào chợ Hà Tiên nghỉ lại một đêm, sáng hôm sau đưa cụ về Rạch Giá.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #12 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:12:24 pm »

Dân trên đảo Phú Quốc thuật việc cụ Nguyễn ra hàng như được kể ở trên. Nhưng có người chẳng bằng lòng chủ trương ra hàng giặc của cụ Nguyễn. Do đó có thuyết cho rằng cụ Nguyễn chiến đấu đến phút cuối cùng. bị thương và bị giặc bắt. 
Thuyết đó có thể cứu vãn được khí tiết cụ Nguyễn Trung Trực nhưng bóp méo sự kiện lịch sử.

Theo tôi cụ Nguyễn ra hàng vì nhân dân trên đảo, vì số nghĩa quân còn lại, còn mẹ già là thứ yếu. Hơn nữa xếp giáp quy hàng cũng có nhiều hoàn cảnh khác nhau. Có người quy hàng vì ham sống sợ chết, có người quy hàng vì muốn vinh thân phì gia, có người trá hàng để mưu đồ về sau... Riêng cụ Nguyễn Trung Trực khi nộp mình cụ quyết liệt từ chối chức trọng quyền cao. Người ta nói "hàng thần lơ láo", nhưng cụ Nguyễn lúc nào cũng hiên ngang. Đến nỗi ông Piquet khi lấy khẩu cung cụ Nguyễn Trung Trực ghi nhận xét một cách trung thực rằng: "Trực rất tự trọng và đầy khí phách". Vả lại lúc nào cụ cũng yêu cầu Pháp: sớm kết liễu đời mình. 

Như vậy việc cụ ra hàng không phải là úy tử tham sanh, muốn hưởng bả vinh hoa, mất khí tiết. Vì cụ vẫn biết hơn ai hết, người tung hoành như cụ chiến đấu từ miền đông đến miền tây, trong hoàn cảnh lịch sử mà ông Huỳnh Mẫn Đạt nói "Nguyện làm cọc đá ngăn lúc sóng lở” thì khi bị bắt làm sao hợp tác với giặc được, làm sao nhìn thẳng vào mặt đồng bào và đồng chí của mình được. Cho nên cụ biết hơn chúng ta nhiều: Cái khí tiết anh hùng là chết vinh hơn sống nhục.

ANH HÙNG CƯỜNG CẢNH PHƯƠNG DANH THỌ

Pháp thấy cụ Nguyễn Trung Trực một người trung hiếu nghĩa khí hiếm có, cho các ông hương chức làng khuyến dụ qui thuận nhà nước Đại Pháp sẽ được phong chức Phó Soái. Cụ Nguyễn cười bảo "Tụi bây kiếm cho tao cái chức gì giết Tây được thì tao làm, còn chức Phó Soái thì tao không màng” (4).

Biết không thể mua chuộc được cụ, Pháp đưa cụ lên Sài Gòn để lấy khẩu cung, sau đó đưa trở về Rạch Giá hành quyết.
Pháp trường là miếng đất trống có cây da ở giữa. Miếng đất nầy nay xây cất Sở Bưu điện và Phòng Công an thị xã Rạch Giá bây giờ, còn cây da Pháp đốn năm 1947. 

Dân chúng từ các nơi trong tỉnh, kẻ đi bộ người đi xuồng đến xem hành quyết cụ Nguyễn Trung Trực rất đông, cũng là dịp để họ vĩnh biệt vị anh hùng tài đức mà họ vô cùng cảm mến. 

Người đao phủ là một người Miên tên Tưa, dân chúng thường gọi là bòn Tưa nghĩa là anh Tưa, chénm mỗi cái đầu lãnh một quan tiền.

Trước khi chém bòn Tưa bỏ gươm xuống đất, quỳ lạy cụ Nguyễn tỏ lời xin lỗi. Cụ Nguyễn nghiêm mặt bảo: mầy có tội gì mà xin lỗi, mầy thi hành theo lệnh của Tây mà nhưng nhớ chém tao một nhát cho thật tốt nếu không tao vặn họng mầy à!".

Bòn Tưa khúm núm nhặt gươm đứng lên rồi cụ quắc mắt nhìn bọn lính Tây bồng súng gác quanh pháp trường khiến chúng nó rợn người, các vị kỳ lão thuật lại rằng tướng tinh của cụ mạnh lắm và oai dũng lắm vì vậy các bà có thai không ai dám đi xem, sợ sảy thai.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #13 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:14:09 pm »

Tương truyền rằng trước khi hành quyết cụ Nguyễn, Pháp hỏi cụ có cần gì không, cụ chỉ xin uống một trái dừa tươi. Uống xong cụ ngâm sang sảng bài thơ tuyệt mệnh sau đây: 

Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
Yêu gian đảm khí hữn long tuyền,
Anh hùng nhược ngộ vô dụng địa. 
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên". 


Thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phát dịch: 

Theo việc binh nhung thuở trẻ trai, 
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài. 
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chang chang chẳng đội trời.".


Hôm đó là ngày 27/10/1868 (5) dân chúng chứng kiến thấy đều rơi nước mắt, nhiều cụ già quá xúc động ngã quỵ bất tỉnh.
Đất Kiên Giang sau ngày ấy, gió thảm mưa sầu suốt mấy ngày đêm, đất trời tang tóc, dân chúng ngậm ngùi mến tiếc vị tướng oai hùng bất khuất đến lúc chết. 

Hay tin cụ Nguyễn Trung Trực bị Pháp hành hình, Đức Cố Quản Trần Văn Thành đang dấy binh chống Pháp tại Bảy Thưa, Châu Đốc "bùi ngùi vô hạn, cố truyền cho binh sĩ phải lặng lẽ ba ngày để tưởng niệm vị anh hùng vừa quá cố, lại sai người làm riêng một linh vị, khắc tên họ cụ Nguyễn, để lên thờ trên án tướng sĩ trận vong mà Cố đã cho đặt ra ở một bên quân doanh" (Đức Cố Quản của Nguyễn Văn Hầu.).

Ông Huỳnh Mẫn Đạt khóc cụ Nguyễn Trung Trực bằng một bài thơ chữ Hán.

"Thắng phụ nhưng trường bất túc luân,
Đồi ba để trợ ức ngư dân.
Hỏa hồng Nhựt Tảo Oanh thiên địa.
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa.. 
Lưỡng toàn vô úy bào quân thân.
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ 
Tu sát đê đầu vị tử nhân".
 

Triệu Dương dịch nghĩa: 

"Thua được ở chiến trường không cần bàn đến,
Chỉ nhớ người dân chài đã làm cột đá trong lúc sóng lở
Lửa đỏ Vàm Nhựt Tảo vang động trời đất,
Gươm vung lên ở đồn Kiên Giang làm quỷ thần phải khóc
Một buổi sáng phi thường nêu cao tiết nghĩa,
Không sợ báo đền Vua và cha mẹ không vẹn toàn
Anh hùng cứng cổ tiếng thơm dài lâu
Làm cho bọn chưa chết chịu sống cúi đầu thẹn chết được".


Có người nói rằng giờ phút ra pháp trường của cụ Nguyễn Trung Trực còn oanh liệt hơn những chiến công của cụ. 

Lời phê bình đó có quá đáng không?

Tất nhiên không thể trả lời suông được mà phải bằng những luận chứng. 

Trận Nhựt Tảo đốt tàu Espérance và trận đột kích thành lính Sơn Đá ở Kiên Giang là hai chiến công lớn, giết chết nhiều lính Tây và thâu nhiều chiến lợi phẩm. Giữa lúc mà các cuộc dấy binh của nghĩa quân khắp nơi bằng chiến thuật du kích chỉ giết lẻ tẻ vài tên xâm lược thì hai chiến công đó quả là lừng danh

Nhưng hai chiến thắng trên thì đồng bào không mục kích tường tận vì không ai dám nhìn nhận thế đang lúc đạn lạc tên bay. Song giờ phút cụ Nguyễn Trung Trực ra pháp trường thật là oai dũng, bất khuất, cảnh nầy đồng bào Kiên Giang có dịp chứng kiến và đã gây một ấn tượng sâu sắc với lòng cảm phục khôn cùng.

Tôi nghe nhiều vị kỳ lão nói: "Lúc ra pháp trường cụ Nguyễn Trung Trực vẫn hiên ngang kiêu dũng, tướng tinh của cụ rất mạnh vì vậy các bà có thai không dám đi xem sợ sảy thai và khi cụ quắc mắt nhìn bọn lính Tây canh gác quanh pháp trường chúng nó phải run người.

Không dám ghi vào phần tiểu sử của cụ vì e rằng các vị thuật quá đáng, nhưng mãi mấy năm sau, khi tôi có dịp đến thư viện Quốc Gia ở Sài Gòn (lúc bấy giờ đặt trên một góc lầu trong Tòa thị sảnh Sài Gòn, khi xem đến nhận xét của ông Piquet lúc lấy khẩu cung: "Trực tỏ ra rất tự trọng và đầy khí phách" (il mon tra beaucoup de dignité ét d'énergie) lúc đó tôi mới tin lời thuật của các cụ.

Dũng khí của cụ oai hùng đến nỗi bòn Tưa, tên đao phủ chém thuê phải quỳ lạy và xin lỗi cụ vì nghèo hèn phải làm nghề chém thuê. Lịch sử từ cổ chí kim và từ Đông qua Tây chưa bao giờ thấy một đao phủ quỳ lạy một tử tội. Nhưng điều đó đã xảy ra ở Việt Nam với một Nguyễn Trung Trực.

Cảnh tượng đó làm cho dân chúng Kiên Giang không thể nào quên được và truyền miệng với lòng tôn kính và ngưỡng vọng như thần thánh.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #14 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:15:36 pm »

MỘ CỤ NGUYỄN TRUNG TRỰC


Đã có một thời người ta tìm kiếm mộ cụ Nguyễn Trung Trực và do đó đặt ra nhiều giả thuyết.

Có người bảo rằng sau khi chôn cụ Nguyễn ở ấp Vĩnh Huy lúc bấy giờ nơi đây hoang vụ nhiều lau lách rậm rạp, tối đến nghĩa quân bốc xác rồi không biết đưa về đâu 

Có người nói sau khi trảm quyết, Pháp cho chôn mình cụ Nguyễn sau dinh tỉnh trưởng còn đầu cụ thì đem bêu trước chợ Rạch Giá. Tối đến nghĩa quân đánh cắp thủ cấp rồi không biết đem chôn nơi nào?

Nhưng có một truyền thuyết đáng tin hơn cả. Sau khi hành quyết, Pháp cho khâm liệm tử tế rồi chôn sau dinh tỉnh trường nhưng không rõ chỗ nào. Vì không ai chăm sóc lâu ngày liền ra, có người còn suy diễn; Pháp cho trồng lên mộ một cây đa. Qua nhiều năm tháng cây đa trở thành cổ thụ và nắm xương tàn đã vun bón cho cây nên người ta lập một cái miếu nhỏ dưới gốc cây đa để thờ.

Tôi có hỏi nhiều vị kỳ lão hầu hết thuật rằng mộ cụ Nguyễn Trung Trực ở sau dinh tỉnh trưởng. Lời thuật này rất sát với nhiều truyền thuyết về sự linh hiển của cụ Nguyễn diễn ra ở đây; như:

Sau khi chôn, đêm nào cụ Nguyễn cũng hiện về kéo binh gia rầm rộ, khua trống, hò hét vang dậy, bắn súng rền trời báo hại mấy thằng lính Tây phải nghinh chiến và canh phòng suốt đêm.

Hoặc Pháp cho xiềng lòi tói chung quanh mộ cụ Nguyễn nhưng sáng hôm sau bao nhiêu lòi tói quanh mộ đều đứt tung. Cho làm lại thì cũng đứt như hôm trước. 

Thực ra ngôi mộ xây gạch theo kiểu Pháp có trang hoàng lòi tói chung quanh và cái mỏ neo sơn đen trước mộ là mả của một viên trung úy hải quân Pháp. Ngôi mộ nầy bị phá vỡ năm 1945, nay vẫn còn vết tích.

Nào là Pháp cho các tên lính kèn đứng trước mộ cụ mà thổi nhưng khi về trại các chú lính nầy đều hộc máu chết hết. .

Tại sao có các truyền thuyết nầy vì nó liên quan đến sự hiển linh của cụ Nguyễn và chứng tỏ mộ cụ Nguyễn Trung Trực sau dinh tỉnh trưởng cũ, bây giờ là Câu lạc bộ Thiếu nhi.

Năm 1986 chánh quyền tỉnh đã tìm được hài cốt cụ Nguyễn và di táng gần đền thờ cụ tại thị xã Rạch Giá. 

GIA ĐÌNH CỤ NCUYỄN TRONG NHỮNG NGÀY THẤT THẾ

Mẹ cụ Nguyễn Trung Trực sau khi thổ huyết chết trong ngục không biết gởi nắm xương tàn về đâu?

Còn bà Nguyễn Trung Trực theo chồng ra đảo Phú Quốc; bà hạ sinh một hài nhi. Gặp lúc quân Pháp khủng bố dân trên đảo, thêm mưa dông nên không ai đến giúp bà. Vì non ngày tháng lại đói khát, thiếu thuốc men, bà kiệt sức rồi chết, đứa hài nhi cũng chết theo. Xác của bà được giấu trong một bộng cây, khi quân Pháp rời khỏi đảo, dân chúng khâm liệm tử tế và táng tại cửa Cạn. Tại Vũng Bầu (cửa Cạn) có 4 khúc gỗ bằng cây trai làm dấu mả. Tương truyền nơi đây là mộ bà Nguyễn Trung Trực, nhưng quan quách đã được bốc đi rồi, không biết di táng nơi đâu ? 

Riêng đứa hài nhi được cụ Nguyễn gói trong khăn giấu trong một bộng cây cổ thụ. 

Hiện nay không ai biết cụ Nguyễn Trung Trực được bao nhiêu người con? Còn mất ra sao?

Cháu chắt cụ Nguyễn Trung Trực hiện cư ngụ tại số 41/1 ấp 5 ngã tư Bình Nhựt (Bến Lức), tiệm buôn Nguyễn Thành số 259 đường Minh Mạng, Chợ Lớn và ở chùa Sùng Đức (Phú Lâm) số 136, đường Lục tỉnh Chợ Lớn cho biết, thân sinh cụ Nguyễn Trung Trực là Nguyễn Văn Phụng và trao cho tôi tiểu sử của Cao tổ dòng họ Nguyễn. Gần đây Sở thông tin và Văn hóa tỉnh Kiên Giang còn tìm biết một số con cháu cụ Nguyễn ở xã Tân Kiên, huyện Đầm Dơi tỉnh Minh Hải và lập thành gia phả.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #15 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:17:16 pm »

ĐỀN THỜ CỤ NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở THỊ XÃ RẠCH GIÁ


Ở Kiên Giang có nhiều ngôi đình hoặc đền thờ cụ Nguyễn Trung Trực. Ngoài ra có một số các đình thờ Thành hoàng bốn cảnh có đặt thêm bàn thờ thờ cụ Nguyễn Trung Trực.

Đền thờ cụ Nguyễn Trung Trực ở số 8 đường Nguyễn Công Trứ trước là đình Lăng ông. Nguyên ngày mùng 5 tháng 5 (không rõ năm nào nhưng phải trước năm 1840 là năm ngài Phó cơ Nguyễn Hiền Điều tử trận) dân chài thấy Cá ông lụy (chết) ngoài biển, theo phong tục của ngư phủ, ai thấy Cá ông lụy trước tiên, người ấy được xem là trưởng nam phải để tang và làm lễ an táng như cha mẹ.

Dân làng kéo xác Cá Ông về con rạch tại xóm chài thường gọi là Vạn lưới để cho rã thịt đoạn cất đình thờ, gọi là đình Lăng Ông, và con rạch đó người địa phương gọi là rạch Lăng Ông nay đã lấp thành đại lộ Tự Do.

Đình Lăng Ông thuộc xã Vân Tập. Về sau các làng Vĩnh Huê, Vĩnh Lạc, Thanh Lương và Vân Tập sát nhập đổi thành làng Vĩnh Thanh Vân. Từ đó đình Vân Tập trở thành đình Vĩnh Thanh Vân. Trong đó có linh vị thờ Nam Hải Đại tướng quân (tức Cá Ông).

Khi ngài Phó cơ Nguyễn Hiền Điều tử trận thì thủ cấp được rước về đây để thờ.

Về sau dân chúng ý thức: tuy Cá Ông có công độ ngư phủ qua nhiều phen sóng to gió lớn nhưng ông cũng chỉ là sinh vật. Và lại ngài Phó Cơ Điều cũng có công dẹp giặc Miên, rất hiển linh nên dân chúng đổi tên gọi là đình thần Phó Cơ Điều hay là đình quan lớn Phó.

Năm 1950, hội đình xây lại cổng vào có khắc câu

“Vân khai phước địa bảo hộ nhân dân, nông thịnh
Tập tại Mỹ Hương phò trì thôn xã Kiết Xương"


Đến năm 1959 cổng này được phá ra sửa lại và giữ nguyên cho đến nay.

Khi cụ Nguyễn Trung Trực mất, dân làng lập linh vị thờ Cụ.

Trong đình có 3 bàn thờ: bàn thờ chánh ở giữa thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vọng Thần), bàn thờ bên mặt (từ ngoài nhìn vào) thờ Thần Nam Hải, bàn thờ bên trái thờ ngài Phó Cơ Nguyễn Hiền Điều và cụ Nguyễn Trung Trực (chung một bàn thờ).

Năm 1957, linh vị cụ Nguyễn Trung Trực dời vào bàn chánh ở giữa và trước đình có treo tấm bảng:Nguyễn Trung Trực anh hùng dân tộc Việt Nam".

Năm 1964 đình được phá ra xây cất lại nguy nga tráng lệ như hiện tại. Hằng ngày nhiều khách lui tới viếng thăm và bái ngưỡng. 

ĐÌNH THỜ CỤ NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TÂN ĐIỀN
 

Nghe nói nhân ngày cúng Kỳ Yên năm (1908), ban hội tề làng có mời Chánh Tham biện Renault đến dự. Tuy là người Pháp nhưng ông rất giỏi chữ Hán, ông có vợ người Trung Hoa, và thường ăn mặc như người Tàu. Khi đến đình, ông rảo xem các câu đối, đoán xem các linh vị thờ thần. Thấy linh vị thờ cụ Nguyễn Trung Trực, ông bất bình, liền gọi ban hội tề làng đến mà nói rằng: "Các người làm việc cho Nhà nước Đại Pháp sao lại thờ phụng người chống Pháp?". Rồi ông không nói gì thêm, lặng lẽ bỏ về dinh. 

Các ông hương chức làng khi đó sợ quá, liền viết tấm bằng đề "Pagode de la Baleine" (đình thờ Cá ông) treo trên cổng đình..

Cảm phục cụ Nguyễn Trung Trực là người trung, hiếu, tiết, nghĩa, ông Le Nestour thỉnh linh vị cụ Nguyễn về Tân Điền lập đình thờ. Ông Le Nestour nói với bản hội tề làng: "Nếu thằng Chánh nó đụng tới tao, tao kiện tới trời”.

Sau cháu ngoại của ông cũng rất tin tưởng và phụng thờ cụ Nguyễn Trung Trực, Cháu ông tuy theo đạo Thiên Chúa nhưng đến ngày giỗ cụ Nguyễn đều quỳ lạy và đội sớ còn cho biết rằng cụ Nguyễn linh thiêng lắm, đã che chở dân làng qua bao binh biến, thiên tai và bịnh dịch.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #16 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:19:50 pm »

GHI NHẬN VÀI HÀNG VỀ CỤ NGUYỄN TRUNG TRỰC


Cụ Nguyễn là người giỏi võ nghệ, đương thời cụ cũng là người chỉ huy lắm mưu trí, sử dụng chiến thuật đột kích rất táo bạo. Với tài võ nghệ đó, cụ đã truyền dạy và luyện tập quân sĩ thuần thục trước khi ra quân. Chiến thuật của cụ dùng vũ khí bén đánh giáp chiến bất ngờ khiến cho quân địch dù cho súng to đạn nhiều cũng phải bó tay.

Trong hai chiến công lớn của cụ, một trận dùng hỏa công đốt tàu Espérance ở Vàm Nhựt Tảo, và trận thứ hai đột kích thành lính Sơn Đá ở Kiên Giang đều được sử dụng triệt để yếu tố bất ngờ và cận chiến. Ngoài ra cụ còn nghiên cứu địa hình địa vật và vật liệu có sẵn tại địa phương để tấn công hoặc trấn giữ. Chiến thuật của cụ tuy cổ điển những đã thành công vẻ vang. 

Ông Paulin Vial đã phải thán phục cụ Nguyễn Trung Trực khi nói: "Một người chỉ huy trẻ tuổi gan dạ đã quyết liệt gây chiến với ta trong 8 năm trời trước khi bị ta bắt" (un chef jeune ét andacieux, qui devait nous faire une guerre acharnée pendant huit années, avant de tomber dans nos mains).

Cụ Nguyễn thắng được quân Pháp nhờ lối đánh xuất quỷ nhập thần, tuy nhiên những yếu tố kể ra đây không kém phần quan trọng. Cụ là người rất thành thật, đối đãi mọi người rất chân tình. Phải chăng vì thế mà nghĩa quân và đồng bào còn gọi cụ là Quản Chơn.

- Biết kích động quân sĩ trước khi ra quân. 

- Rất quí trọng sinh mạng người dưới tay nên bao giờ cũng luyện tập quân sĩ nhuần nhã và chuẩn bị chu đáo trước khi tấn công. 

- Bao giờ cũng đi đầu trong các cuộc giao chiến và gánh lấy phần nguy hiểm nhất. Điều này làm cho nghĩa quân mến phục và liều chết với chủ tướng. 

- Trung với nước, hiếu vớt cha mẹ, đối đãi nhân hậu với đồng bào nên dễ thu phục nhân dân, đi đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng đầu quân dưới cờ và tiếp tế lương thực cùng phương tiện cho nghĩa quân.

- Từ khước mọi cám dỗ quyền tước để rồi cuối cùng điềm tĩnh trước cái chết với vẻ hiên ngang kiêu dũng. (6) .

Cụ Nguyễn Trung Trực đã chết nhưng khí hùng nào chết, sanh vi tướng tử vị thần là Cụ. Đồng bào Kiên Giang tôn thờ cụ là phúc thần.

Cái chết hiên ngang và tấm gương trung liệt của cụ Nguyễn đã khắc sâu vào tâm tư người Việt Nam, cổ vũ người đồng thời và kẻ hậu sinh nhóm dậy tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Thế nên dù thực dân Pháp có chiếm được nước ta mà bao trang ái quốc, kẻ trước người sau tiếp tục hào khí tiền nhân, quét sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi.
 
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #17 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:20:00 pm »

GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ TRƯỚC VÀ SAU CÁI CHẾT CỦA CỤ NGUYỄN TRUNG TRỰC


Trương Công Định chết ở Gò Công năm 1864, Thủ Khoa Huân bị đày sang đảo Réunion năm 1864, Thiên Hộ Dương chết ở Đồng Tháp Mười năm 1866, Nguyễn Trung Trực chết tại Rạch Giá năm 1868, Đức Cơ quan Trần Văn Thành im tiếng súng khởi nghĩa ở Bảy Thưa năm 1873, cuộc kháng chiến của Phan Liên và Phan Tôn cũng lắng dịu ở Bến Tre. Đó là chưa kể một số đông các cuộc dấy binh chống Pháp nhưng ngắn hơn: Phan Công Tòng, Nguyễn Công Chất, Lê Công Thành, Phạm Văn Đồng, Lâm Lễ, Âu Dương Lân...

Non nước vắng bóng anh hùng cứu nước qua mấy lời thơ của cụ Đồ Chiểu:

“Trạm Bắc, ngày chiều tin điệp vắng
Thành Nam, đêm quạnh tiếng quyên sầu”


Trước cảnh nước mất nhà tan, cụ Đồ Chiểu làm bài "Điếu tướng sĩ Lục tỉnh" lời văn thật lâm ly thống thiết: 

Gần Côn Lôn, xa Đại Hải máu thây trôi nổi, ai nhìn: hàng cai đội, bực quản cơ, xương thịt rã rời ai cất. Sông thì chịu tuyết sương trời một góc khó đem sừng ngựa hẹn qui kỳ, thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đem tin tức, 

Thấp thoáng hồn hoa bóng quế lòng cố hương gởi lại bóng trăng thu; bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.


Như vậy thời:

Số dẫu theo sáu nẻo luân hồi; khí sao dễ trăm năm uất ức.

Trời Gia Định ngày chiều rạng sáng, âm hồn theo con bóng ác dật dờ.

Đất Biên Hòa đêm vắng sao lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn thần heo hắt.

Quận An Hà đương khi bạch trú gió cây vụt thổi, cát bụi bay, con trốt dậy bên thành. 

Sông Trường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước xông mù, lửa đốm nháng, binh mã chèo dưới vực.

Ôi!

Nhìn mấy chặng cờ lau trống sấm mỉa mai trận nghĩa gởi binh tình; Thảm đòi ngàn ngựa giá xe mây, mườn.g tượng vong linh về chiến luật

Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lầu thẫn, đành một câu thân thế phù trầm. Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, lũy kiến, đồn ong, còn bốn chữ âm dương phảng phất..."


Rồi cụ Đồ Chiểu ngậm ngùi than thở:

“Trời đất từ đây mặc gió thu”

Gió thu hiư hắt, trời thu ảm đạm, cảnh vật mùa thu điêu tàn phải chăng nó biểu tượng cho cảnh quốc phá gia vong?

Gió thu kia đã thổi mạnh lên miền Bắc để đưa đến những hòa ước nhục nhã mất nước: 1874, 1883, 1884..../.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #18 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:20:42 pm »

PHẦN CHÚ THÍCH


(1) Chánh Phèn, nguyên là trung úy Hải quân Pháp, làm Chánh tỉnh đầu tiên ở Rạch Giá. Ông ta có bộ râu màu râu bắp nên dân địa phương đặt tên là Chánh Phèn. (Trong Nam, màu vàng hoe như màu râu bắp thì gọi là phèn, như chó phèn, cá phèn, đường phèn...

(2) Hòn Chông là dãy núi đá vôi, tuy gọi là hòn song những núi đá vôi này đã nằm yên trong đất liền từ lâu, gần bờ biển, núi có nhiền hang động. chung quanh núi là rừng và đầm lầy, địa thế hiểm trở.
Vì đá mọc chơm chờm từ chân đến đỉnh nên mới gọi là Hòn Chông. Nay thnộc xã Bình Trị, huyện Kiên Lương, cách Hà Tiên khoảng 30 cây số đường bộ.

(3) Thuật theo lời thày Huỳnh Văn Tần khi tôi học lớp sơ đẳng (Cours élémentaire) trường Vĩnh Thah Vân gần chùa Quan Âm, trước cách mạng tháng 8 năm 1945, thày đã lén kể cho học sinh nghe trong giờ học.

(4) Viết theo lời thuật của ông Bảy Nghĩa, làm thủ từ đình Vĩnh Thanh Vân. Năm 1956 khi tôi đến sưu tầm tài liệu cụ Nguyễn Trung Trực lúc đó ông đã 90 tuổi song vẫn khỏe mạnh, mình trần ngồi đánh cờ suốt ngày

(5) Theo quyển “(200 năm dương lịch và âm lịch đối chiếu” của ông Nguyễn Như Lân thì hôm đó là ngày 12 tháng 9 năm Mậu Thìn.

Con cháu cụ Nguyễn Trung Trực tại chùa Sùng Đức (Phú Lâm) Cnợ Lớn cúng giỗ cụ Nguyễn ngày 12 tháng 9 âm lịch. Nhưng đình thần Vĩnh Thanh Vân tại Thị xã Rạch Giá và các đình thần trong tỉnh đều cúng huý nhựt ngày 28 tháng 8 âm lịch.

(6.) Cụ Nguyễn Trung Trực là người tin thnyết định mệnh nhưng không chìu theo định mệnh, nhắm mắt theo định mệnh, mà lúc nào cụ cũng đấu tranh và thử thách với định mệnh để tận nhân lực mà tri thiên mệnh. Việc đánh chiếm thành Kiên Giang, Cụ biết là không thể đương cự lâu dài với quân Pháp vì thế lực của Pháp bấy giờ rất mạnh sau khi chiếm trọn Nam kỳ. Nhưng vùng Pháp chiếm dân chúng gần như sống yên bình. Tuy biết thế song cụ vẫn tiến hành việc đánh Kiên Giang cho dù biết rằng không giữ được lâu. Hoặc cụ nói với Bà Điều và Bà Đỏ: "Bao giờ những người anh hùng cũng xem thân mạng nhẹ như lông hồng, trận đánh sắp đến đây cũng như bao trận qua, thành bại là do nhiệt tâm của những người yêu nước trước sự thử thách của định mệnh".

Hoặc qua câu nói: "Số phận tôi đã đầy đủ, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt.. "

Ngoài ra Cụ còn là một thuyết khách có tài mà ngôn từ xuất phát từ lòng thiết tha yêu nước thương dân nên tấm chân tình đó dễ thu phục nhân tâm. Lúc ở Hòn Chông, Cụ đã thu phục được một tướng Miên giỏi về chiến thuật du kích là Thạch Phít và khi ra đảo Phú Quốc, một phú thương người Tàu đã theo giúp Cụ và nghĩa quân,
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #19 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2009, 07:21:53 pm »

PHẦN PHỤ BẢN

Phụ bản 1

Trong quyển "Le premièrès années de la Cochinchine colonie Francaise" ông Paulin Vial thuật việc tấn công tàu Espérance như sau:

Lúc giữa trưa ngày 10 tháng 12, Trực lợi dụng viên sĩ quan chỉ huy chiếc tiểu hạm Espérance đuổi theo bọn gian phi cách tàu khoảng 2 dặm. Bốn hoặc năm chiếc ghe lớn có mui thả trôi theo hông tàu, đoàn thủy thủ nghỉ ngơi trên sàn tàu không nghi ngờ gì, viên hạ sĩ quan giữ chức vụ phụ tá, thò mình ra cửa sổ vì tưởng rằng người buôn bán muốn xin thị nhận giấy phép lưu thông. Tên vô phước này đã bị giết bằng một mũi giáo vào ngực và đoàn người đột kích phóng mình từ dưới mui những chiếc ghe cặp sát tàu vừa la hét khủng khiếp vài phút đồng hồ, sàn tàu tràn ngập hơn một trăm năm chục người Việt Nam cầm giáo, gươm và đuốc và một cuộc giáp chiến lực lượng không tương xứng diễn ra. Trong vài phút đồng hồ, lửa bắc qua mái rơm của chiếc tiểu hạm và cháy lan mau chóng. Bị lửa táp, những người giao chiến nhảy bổ xuống sông hay chạy thoát vào trong những chiếc ghe. Năm người trong đoàn thủy thủ: 2 người Pháp và 3 người Tagal không khí giới trốn trên một chiếc ghe chèo thục mạng. Từ xa họ thấy chiếc Espérance nổ tung mà những mảnh vỡ văng ra đến tận hai bờ sông chôn vùi xác chết của 17 người Pháp và Tagal bị giết trong tai biến này.

Thuyền trưởng Parfait, sĩ quan trẻ tuổi, hoạt động và can đảm đã được tuyên dương vì chỉ huy xuất sắc trong nhiều trận chiến, được chiếc ghe thoát hiểm báo tin, ông ta đến xin vài người tiếp viện ở tàu Garonne, và trở lại chỗ xảy ra thảm kịch cùng ngày. Ông ta gặp 3 tên Tagal bị địch quân bắt nhờ lúc tàu nổ mà trốn thoát, những tên bất hạnh này trốn sau những bụi rậm và ở yên trong một cái đầm nước sâu tới miệng chờ cứu viện.

Phụ bản 2

Ông Dương Công Thuyên, người Rạch Giá, làm thầy thuốc Bắc, giỏi Hán tự và y dược, có tư tưởng cách mạng và tinh thần yêu nước, ông có sáng tác thơ văn nhưng có lẽ ông là bạn của cụ Nguyễn Trung Trực nên người nhà sợ liên lụy mà thiêu hủy đi chăng.

Trước khi cụ Nguyễn Trung Trực đến chợ Rạch Giá đã cho thuộc hạ đến dọ tìm những người yêu nước. Sau đó cụ Nguyễn mới tìm đến và gởi mẹ già ở nhà ông Dương Công Thuyên. Nhà ông ở tại chợ Rạch Giá. 

Theo người cố cựu ở Rạch Giá cho biết ông Dương Công Thuyên hiện còn một người cháu tên Dương Văn Quản cư ngụ số 31 đường Huỳnh Tịnh Của (tức đường Poncho cũ) Sài Gòn. .

Năm 1971, tôi có tìm đến địa chỉ trên, một ông lão khoảng 60 tuổi nhận đúng tên họ nhưng bảo với tôi ông không phải là cháu ông Dương Công Thuyên. Có điều lạ là qua câu chuyện ngắn tôi thấy ông có biết đến ông Lâm Văn Ky và bảo tôi tìm đến gia đình ông Lâm Văn Ky để biết thêm.

Phụ bản 3


Bà Điều và Bà Đỏ, có người cho là hai chị em ruột, cư ngụ tại làng Minh Lương (người Khơ Me gọi là Cà Lang, có thời gian gọi là xã Minh Hòa do sự sát nhập làng Minh Lương và làng Hoà Thạnh Lợi rồi đổi tên, nay thuộc quận Chậu Thành, Tỉnh Kiên Giang).

Hai bà thuộc gia đình khá giả, có nhan sắc nhưng quá 30 tuổi vẫn chưa chồng, biết chữ nghĩa, ăn nói lịch thiệp. 

Hai bà đã thuyết dụ được ông Quản Cơ cầm đầu trại lính mộ làm nội ứng. Về sau khi Pháp tái chiếm thành Kiên Giang, phạt không cho người Việt làm đến chức quản trong vòng 50 năm, nghĩa là mãi đến năm 1918 mới có lính mộ làm đến chức quản.

Chiến thắng thành Kiên Giang, hai bà đã góp công lớn. Trong những ngày thất thế, nghe nói hai bà theo cụ Nguyễn Trung Trực ra đảo Phú Quốc rồi không biết sống chết thế nào hay phiêu bạt về đâu?

Trong quyển Les Héros de Rạch Giá, tác giả đã hư cấu rất nhiều và mô tả bà Đỏ là người phụ nữ có thành tích xấu, một đứa con lai do một người Pháp khi ở Nam Vang đã lấy một người đàn bà Cao Miên mà sanh ra, vì mái tóe đỏ hoe là đặc điểm của sự lai đó. Do đó mới đặt tên Đỏ. Về sau cô lại bị người cha ruột giở trò loạn luân. Đây là chi tiết hoàn toàn hư cấu vì Pháp chiếm Cao Miên năm 1864 đến năm 1867 thì Pháp chiếm Kiên Giang mà Bà Đỏ khi hợp tác với cụ Nguyễn Trung Trực đánh thành Kiên Giang đã ngoài ba mươi tuổi.

Nhưng đó là phần hư cấu của câu chuyện. Thực ra Bà Điều và bà Đỏ là hai chị em, người địa phương, cư ngụ làng Minh Lương. Và ở địa phương này vẫn có nhiều phụ nữ mang tên Điều hay Đỏ mà không do lai gì cả.

Trong bản thẩm vấn cụ Nguyễn Trung Trực do ông Piquet ghi cũng đã viết sai: Thị Bà Đỏ. Sự thực thì đồng bào Khơ Me ở đây nam dùng Danh như là họ, nữ dùng Thị như là họ rồi ghép tên vào việc này do triều đình nhà Nguyễn đặt ra. Do đó có tên Danh Đông, Danh Sang, Thị Lài, Thị Mỹ chớ không ai gọi là thị bà Đỏ bao giờ.
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM