Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:40:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến tranh Việt Nam là thế đó 1965 - 1973  (Đọc 123508 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #90 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2009, 05:15:40 pm »

Cuối tháng 3-1967, thông qua Sứ quán Liên Xô ở Hà Nội, tôi đã nhận được thông báo của Bộ trưởng Hàng hải Liên Xô, sau đó thông qua một tàu thuộc Công ty vận tải Biển Đen đang đỗ tại Hải Phòng, cho biết rằng từ ngày 21-3-1967 tất cả thủy thủ đoàn trên các tàu Liên Xô thực hiện các chuyến đi đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều được nhận thêm khoản phụ cấp lương bằng 50% trong suốt thời gian có mặt tại khu vực có chiến sự. Khu vực được hưởng phụ cấp là khu vực Việt Nam trong phạm vi từ Vĩ tuyến 7 đến Vĩ tuyến 23 và từ Kinh tuyến 105 đến Kinh tuyến 115.

Đại diện Hàng hải Liên Xô tại Hải Phòng, trong các bản báo cáo hàng tuần gửi cho Đại sứ Liên Xô về tình hình giải phóng hàng hóa của các tàu Liên Xô ở các cảng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như trong những cuộc gặp gỡ thường xuyên với ban lãnh đạo của Việt Nam tại Hải Phòng (Lê Văn Ký, Nguyễn Đức Hoè, Đào Liên) đã thường xuyên nêu lên vấn đề cần có những biện pháp bổ sung để đẩy nhanh tốc độ bốc dỡ hàng hóa trên các tầu Liên Xô tại các cảng Hải Phòng, Hòn Gai và Cẩm Phả, đưa ra nhiều kiến nghị cụ thể về vấn đề này, và một phần những kiến nghị ấy đã được chấp thuận.

Theo khuyến nghị của tôi, trên một số tầu Liên Xô người ta đã thành lập ra các đội liên hoàn để tham gia vào những công việc làm thông ca nhằm bốc dỡ các hàng hóa đòi hỏi nhiều sức lực. Cuối tháng 7-1966 tàu "Nicôlaép" đã chuyển đến cảng Hải Phòng một xe kéo tăng. Theo đề nghị của đồng chí Lê Văn Ký ngày 30-7, chúng tôi cùng với đồng chí ra cửa sông Bạch Đằng và cùng với các chuyên gia Liên Xô Muxa và Anxiphêrốp tham gia vào việc vận hành thử chiếc xe kéo tăng đầu tiên.

Trong một lần chúng tôi đi đến các cảng than ở Hòn Gai và Cẩm Phả, máy bay Mỹ đã ném bom phá hỏng trạm phát điện cung cấp điện cho các máy móc trong mỏ để khai thác than rồi chuyển lên các tàu Liên Xô đang chờ ăn than. Được sự đồng thuận của các thuyền trưởng tàu "Xanxcơ" và tàu “Nhesaêvô", tôi đã đề nghị phía Việt Nam nối cáp điện lên tầu để các máy phát điện công suất lớn trên tầu có thể cung cấp điện cho công việc khai thác than ở mỏ và chuyển than lên chính những tầu ấy. Đề nghị này đã được chấp thuận rất hồ hởi và đã góp phần làm tăng khả năng xuất khẩu than của phía Việt Nam và giảm thời gian phi sản xuất của các tầu Liên Xô đỗ trong cảng.

Theo đề nghị của chúng tôi, phía Việt Nam bắt đầu sử dụng tốt hơn khả năng của những tầu có những hầm hàng lớn và có cần cẩu để cẩu hàng lên bờ và cẩu hàng xuống các sà lan.

Trong thời gian tạm lắng dịu - không có những cuộc oanh kích và ném bom của không quân Mỹ xuống miền Bắc Việt Nam - cũng như trong thời gian diễn ra những ngày lễ chung như: Lễ Giáng sinh của đạo Thiên chúa, năm Mới, Lễ Phục sinh, năm Mới của Việt Nam (tết âm lịch) và vào những dịp khác, cũng như vào những thời gian ngừng bắn theo thỏa thuận giữa phía Mỹ và phía Việt Nam ở Nam Việt Nam, các vị khách từ Mátxcơva đã đến thăm Cơ quan đại diện Hàng hải Liên Xô tại Hải Phòng. Những vị khách ấy là những nhà thơ, nhà văn, họa sĩ Liên Xô, các đại điện của Bộ Tổng tham mưu thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô và v.v.. Đôi khi những vị khách ấy đến Hà Nội bằng máy bay hoặc đáp tàu thủy từ các cảng thuộc Biển Đen, nhưng thông thường là từ Vlađivôxtốc.

Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày 6-4-1967, Cơ quan đại diện Hàng hải đã tiếp một vị khách từ Hà Nội đến. Đó là nhà thơ Xôviết nổi tiếng Épghênhi Đônmatốpxki. Nhà thơ Épghênhi Đônmatốpxki đã chia sẻ các ấn tượng của mình về Việt Nam qua các bài thơ: "Cô gái mặc áo trắng”, "Công" và "Liên Xô", đến tối nhà thơ đến làm khách nhà tôi.

Ngày 6-3-1967 họa sĩ Ilia Gladunốp đã từ Vlađivôxtốc đi trên con tàu "Radơđônnôiê" với tư cách hành khách đến Hải Phòng. Giờ đây họa sĩ Gladunốp lãnh đạo Viện Hàn lâm nghệ thuật Nga. Ông cũng là khách đến thăm tôi. Sau này, tại Liên Xô các tác phẩm của ông về Việt Nam đã được đem triển lãm mấy lần và thu được thành công.

Trong những năm 1966 - 1968, vào những thời điểm khác nhau, những vị khách đã từng đến thăm Cơ quan đại diện Bộ Hàng hải Liên Xô tại Hải Phòng gồm có những nhân vật sau đây: nhà văn nổi tiếng chuyên viết về đề tài biển Lêônít Xôbôlép, nhà văn Iulian Xêmênốp, các thi sĩ Inna Lépsencô, Bôđiun, nhà thơ người Ucraina Lêônít Tenđiúc và những nhân vật khác.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #91 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2009, 05:16:36 pm »

Theo đà gia tăng sự viện trợ kinh tế của Liên Xô dành cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vào những năm 1966 - 1968 số lượng tàu biển của Liên Xô ra vào các cảng Hải Phòng, Hòn Gai và Cẩm Phả ngày càng tăng lên và đã có lúc đạt tới con số 10-13 tàu mỗi ngày.

Ngoài khối lượng to lớn những công việc giải quyết cho các con tầu và cho các thành viên thủy đoàn trên những con tầu ấy trong điều kiện khắc nghiệt của những trận oanh kích gần như thường xuyên của máy bay Mỹ, những trận bắn phá và ném bom vào các cơ sở công nghiệp và các cơ sở của cảng và thậm chí vào các tàu biển, dưới cái nóng oi bức của vùng nhiệt đới và với những khó khăn khác, thì tôi trong vai trò là đại diện Hàng hải Liên Xô - ngoài những trách nhiệm trực tiếp là đẩy nhanh việc bốc dỡ hàng hóa trên các tầu lại còn phải làm các chức năng lãnh sự và những chức năng khác không thuộc về chức trách của tôi.

Mọi tình hình diễn biến dẫn đến thực tế là tại Hải Phòng đã chín muồi điều kiện khách quan để mở Lãnh sự quán Liên Xô.
Đầu năm 1967 đánh dấu sự cải thiện trong việc bốc dỡ hàng trên các con tàu tại cảng Hải Phòng. Tình hình này đặc biệt biểu hiện rõ nét trong tháng 3.

Ví dụ, nếu trong quý I năm 1967 đã có 135 nghìn tấn hàng cả thảy được bốc dỡ khỏi 28 tàu chở hàng khô, thì trong tháng 3 đã có 70 nghìn tấn hàng hóa được bốc dỡ lên bờ từ 14 tàu, còn trong số 14 tàu chở dầu và 61 nghìn tấn sản phẩm dầu lửa được bốc dỡ lên bờ từ những tầu ấy, thì riêng trong tháng 3 đã có 24 nghìn tấn nhiên liệu được bốc dỡ lên bờ từ 6 tầu chở dầu.

Theo thỏa thuận đã đạt được giữa Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về niên vụ 1967 thì trong các tháng tiếp theo dự kiến lượng hàng sẽ tăng và do đó, số lần chiếc của đội tầu biển Liên Xô ra vào các hải cảng của Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ tăng lên.

Leo thang chiến tranh phá hoại

Việc một số lượng lớn các tầu Liên Xô thường xuyên có mặt tại các cảng Hải Phòng, Hòn Gai và Cẩm Phả là sự bảo vệ đáng tin cậy đối với những cảng ấy tránh bị những cuộc bắn phá có thể xảy ra. Điều đó đã làm thất bại âm mưu của Mỹ muốn phong tỏa các hải cảng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tuy nhiên, diễn biến tình hình về sau cho thấy phía Mỹ dần dần bắt đầu xem thường điều đó.

Ngày 15-2-1967, vào lúc 13 giờ, các máy bay Mỹ đã ném hai quả bom xuống cảng Cẩm Phả. Lúc ấy tầu “Khôrôn" đậu ở cầu tầu để ăn than chở sang Nhật Bản, còn các tầu "Tưmlát" và "Môngugai" thuộc Công ty vận tải biển Viễn Đông thì đang neo đậu trong khu vực cảng. May thay, cầu cảng và các con tầu không bị hư hại gì.

Trước đó, các tàu Trung Quốc đã bị ném bom khi neo đậu trong khu vực cảng Cẩm Phả.

Ngày 11-3, vào lúc 10 giờ 30 phút đã xảy ra cuộc tập kích vào Hải Phòng - các máy bay Mỹ đã bắn rốc két xuống một số địa điểm trong thành phố, ném bom bi, còn đến tối chúng ném bom Nhà máy điện Hải Phòng.

Tháng 4 là tháng đặc biệt gian khổ. Hàng ngày, cả ngày lẫn đêm diễn ra nhiều vụ máy bay địch bắn phá.



Ngày 25-4 đã có hai đợt bắn phá vào Hải Phòng với sự tham gia của hàng chục chiếc máy bay Mỹ. Những quả rốc két đã nổ ngay bên cạnh tầu "Đácphót" của Anh lúc đó đang neo đậu không tải. Có 6 thủy thủ trên tầu này bị thương (5 người Hồng Kông gốc Hoa và 1 người Anh). Trong số này có 2 người bị thương nặng. Một tuần sau đó thủy thủ người Anh đã chết tại một bệnh viện ở Hải Phòng. 

Trong ngày hôm ấy đã có 12 máy bay bị bắn rơi trên bầu trời Hải Phòng. Có một phi công bị bắt làm tù binh. Nhưng thành phố và cảng Hải Phòng đã bị mất điện thắp sáng trong hai ngày. Đến đêm gần như tất cả cư dân ở đây đã rời thành phố. Vì sự nóng bức, vì không có điện chiếu sáng và vì máy lạnh không hoạt động, cho nên tôi cũng phải ngủ hai đêm trên tầu "Balasích".

Vì chiến công này thành phố Hải Phòng đã được tặng Huân chương Độc lập hạng nhất (là thành phố đầu tiên và lần đầu tiên tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #92 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2009, 05:17:25 pm »

Ngày 26-4 có 8 cuộc báo động có máy bay. Vào lúc 9 giờ 30 phút lại xảy ra một cuộc bắn phá rất dữ dội vào Hải Phòng. Nơi bị ném bom nằm ở phía sau khu kho dầu, các tên lửa nổ rải rác trong khoảng 250-300 mét. Lần đầu tiên những chiếc máy bay MIG-19 và MIG-21 của Việt Nam tham chiến trên không.

Có 5 máy bay phản lực và 1 máy bay lên thẳng của Mỹ bị bắn rơi. Máy bay lên thẳng bị bắn hạ khi nó toan cứu viên phi công Mỹ nhảy dù.

Từ ngày 12 đến ngày 26-4, chiếc tầu Liền Xô "Brianxki Rabôtri" (thuộc Công ty vận tải Biển Đen) thả neo ở cửa sông Bạch Đằng, trên boong có 96 tấn đạn dành cho các khẩu pháo cao xạ Việt Nam. Hình như bọn Mỹ đã biết chuyện này. Từ ngày 20 đến ngày 25-4, các máy bay Mỹ, bay với tốc độ siêu âm ở tầng thấp, đã chao lượn phía trên con tầu này nhằm gây tác động tâm lý đối với các thủy thủ, bắn những tràng rốc két cách chiếc tầu không xa, nhưng vẫn chưa dám ngang nhiên tấn công con tầu.

Sau những trận ném bom ồ ạt hồi tháng 4, ngày 2-5-1967 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra nghị quyết về việc tăng cường đưa hàng hóa ra khỏi cảng và ra khỏi thành phố Hải Phòng. Đến thời điểm ấy thành phố Hải Phòng đã biến thành một kho hàng thực sự. Dọc theo các đường phố, tại các quảng trường và trên các sân vận động của thành phố là những contenơ đựng thiết bị, máy cái, nằm la liệt, những tấm thép cán và thép định hình, những ống tròn và những vật liệu khác.

Do vậy, gần như trong suốt tháng 5 hoạt động của cảng đã giảm, các tầu chờ giải phóng hàng rất lâu. Hiển nhiên là phía Việt Nam dự đoán thành phố và hải cảng Hải Phòng sẽ bị tăng cường ném bom. Do vậy, cùng một lúc các bạn Việt Nam giải quyết hai nhiệm vụ - cứu số hàng đã được chở đến Việt Nam và dựa vào việc các tầu Liên Xô chờ giải phóng hàng hóa trên tầu, họ đã dùng những chiếc tầu ấy để gián tiếp bảo vệ cảng không bị ném bom.

Trong tình hình như vậy, nhằm đảm bảo an toàn cho các tầu Liên Xô tôi đã đề xuất với Trung tâm và với các công ty tầu biển một loạt kiến nghị, cụ thể là:

1. Trên boong tầu và trên nắp hầm hàng lớn nhất của tầu cần sơn những hình quốc kỳ màu đỏ của Liên Xô, để khi bay lượn quan sát từ trên không các phi công Mỹ sẽ nhìn rõ nguồn gốc quốc tịch của con tầu. 

2. Cấp cho các đoàn thủy thủ sang Việt Nam những chiếc mũ sắt và trong thời gian có mặt ở Việt Nam cấm họ đứng trên boong tàu mà không đội mũ sắt. 

3. Tăng cường các phương tiện cứu hỏa và đảm bảo cho thủy thủ trên những con tầu Liên Xô đến Việt Nam đều có mặt nạ phòng hơi độc. 

4. Đưa tới Hải Phòng một tàu cứu hộ để giúp các tàu Liên Xô trong trường hợp cần thiết.

5. Bàn bạc ở cấp chính phủ về việc đảm bảo có một đài vô tuyến điện hoạt động thường xuyên trên tàu cứu hộ ấy.

6. Cũng thỏa thuận về việc đại diện Bộ Hàng hải Liên Xô được sử dụng đài vô tuyến điện này vào mọi thời điểm, đặc biệt để kịp thông báo cho Trung tâm và Sứ quán biết về các trường hợp không quân Mỹ tấn công vào các tàu Liên Xô đậu tại các hải cảng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 

Một thời gian sau, thông qua Sứ quán Liên Xô, tôi nhận được thông báo sau đây của Bộ trưởng Hàng hải Liên Xô:

“Đồng chí Nicôlai Ivanôvích thân mến! Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô trong phiên họp thường kỳ đã xem xét những kiến nghị của đồng chí và đã tán thành những kiến nghị ấy. Giữa Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được thỏa thuận về việc gửi từ Vlađivôxtốc đến Hải Phòng và đặt dưới quyền điều hành của đồng chí chiếc tàu cứu hộ "Ácgút" với đài vô tuyến điện thường trực. Các giám đốc Công ty vận tải Biển Đen và Công ty vận tải biển Viễn Đông đã nhận được nhũng chỉ thị cần thiết để nhanh chóng thực hiện việc này. Chúng tôi chúc đồng chí đạt thắng lợi".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #93 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2009, 05:18:08 pm »

Thật vậy, sau khoảng một tháng, chiếc tàu cứu hộ lớn “Ácgút" dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Iuri Mikhailôvích Bưsơcốp đã đến Hải Phòng. Hai chúng tôi, trong thời gian dài, đã làm việc rất ăn ý và đã trở thành bạn thân.

Nhằm đảm bảo sự liên lạc đáng tin cậy với Trung tâm vào mọi lúc trong ngày, dưới sự chỉ đạo chung của tôi một bản hướng dẫn liên lạc đã được soạn ra, có kết hợp với các cán bộ chuyên môn của Sứ quán Liên Xô ở Hà Nội, với sự tham gia tích cực của đài trưởng đài vô tuyến điện trên tàu cứu hộ và của các vị phụ trách các đài vô tuyến trên một số tàu Liên Xô lúc ấy còn đậu tại cảng Hải Phòng. Bản hướng dẫn này đã có hiệu lực sau khi được Bộ trưởng Hàng hải Liên Xô phê duyệt mà không có sự sửa đổi và nhận xét nào.

Trong lúc đó hầu như hàng ngày vẫn tiếp diễn - với những khoảng thời gian cách nhau ngắn - những cuộc oanh tạc, bắn phá và ném bom của không quân Mỹ vào Hải Phòng.

Ví dụ ngày 10-5-1967, vào lúc 11 giờ trưa, khoảng 30 máy bay Mỹ đã ném bom nhà máy xi măng, các kho dầu và lần đầu tiên chúng ném bom những kho hậu cần của cảng, cách các cầu tầu và các tầu Liên Xô chở hàng khô đậu tại các cầu tầu ấy chừng 300-400 mét. Đó là những tàu Liên Xô có tên "Ximphêrôpôn", "Bacuriani", "Nagaêvô", tầu chở chuối "Cura". Tầu của Trung Quốc "Xìn Hồ" đang đậu tại cầu tàu số 4, bên cạnh các tầu Liên Xô, đã bắn súng máy vào các máy bay Mỹ. Đã có 4 máy bay bị bắn rơi nhưng không phải do người Trung Quốc, mà là bị bắn rơi bởi các tên lửa Liên Xô loại "đất đối không" được bố trí để bảo vệ thành phố Hải Phòng.

Ngày 12-5 Mỹ đã ném bom phá huỷ hoàn toàn các nhà máy điện nhỏ ở Hòn Gai và Cẩm Phả. 

Bất chấp tình hình đáng lo ngại và khả năng cảng Hải Phòng bị ném bom, từ ngày 1-5-1967 các đồng chí Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động của Câu lạc bộ quốc tế của cảng, tổ chức các cuộc tham quan, những cuộc thi đấu bóng chuyền và bóng đá cho anh em thủy thủ.

Kể từ ngày 15-5-1967 cảng Hải Phòng chỉ hoạt động theo phương án trực tiếp: từ boong tầu chuyển thẳng vào toa xe lửa, từ boong tầu bốc thẳng lên ôtô, từ boong tầu xuống thẳng sà lan, rồi vận chuyển hàng ra ngoài thành phố. Vì vậy tiến độ của công việc bốc dỡ hàng bị chậm lại.

Ngày 2-6-1967, vào lúc 15 giờ 40 phút có hai máy bay Mỹ đã bắn vào chiếc tầu "Tuốckextan" thuộc Công ty vận tải biển Viễn Đông lúc đó đậu trong cảng Cẩm Phả để bốc than lên tầu chở đến Nhật Bản.

Chiếc tầu này đã bị những viên đạn súng máy cỡ lớn và pháo cỡ nhỏ bắn từ máy bay làm thủng 67 lỗ trên thân tầu làm cho 7 thủy thủ bị thương, trong đó có 2 người bị thương nặng, và về sau họ đã chết. Đó là anh thợ điện Nicôlai Rưbachúc và thợ máy Van Demxốp. 

Vào lúc 10 giờ 30, tôi đã cùng với các bí thư Sứ quán và Giám đốc Hãng đại lý tầu biển Đào Liên đi xe ra Cẩm Phả. Đến 16 giờ 30 phút thì chúng tôi đã có mặt trên tầu "Tuốckextan". Thuyền trưởng V. V. Xôcôlốp và Đại phó V. N. Mianhicốp (trong những năm 1955-1959 tôi đã cùng đồng chí này làm việc tại Thương cảng Vlađivôxtốc) đã chỉ cho chúng tôi thấy nhiều lỗ thủng trên tầu: ở trên boong thượng, trong các phòng ngủ của thủy thủ đoàn, ở phần ống khói và ở những phần khác của tầu. Họ kể về tất cả những gì đã xảy ra, họ cũng bố trí để chúng tôi hỏi các nhân chứng trong thủy thủ đoàn. 

Chúng tôi đã lập hồ sơ về sự việc này, đã chụp ảnh, đã hỏi và lấy lời khai của các nhân chứng Việt Nam trong số các chiến sĩ biên phòng Việt Nam lúc ấy đang có mặt trên boong tầu, hỏi những người làm việc trong cảng, thu thập các đầu đạn và các mảnh đạn để đem đi giám định.

Chúng tôi đã đưa tất cả những chứng cứ thu thập được về Hà Nội và báo cáo với Đại sứ I. X. Sécbacốp. Cùng với bức thư đính kèm, Đại sứ đã chuyển gấp bằng đường bưu điện ngoại giao tất cả những tài liệu ấy về Mátxcơva cho Bộ trưởng Ngoại giao A. A. Grômưcô.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #94 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2009, 05:18:51 pm »

Về phần mình, tôi cũng gửi báo cáo chi tiết cho Bộ trưởng Hàng hải của tôi và cho Giám đốc Công ty vận tải biển Viễn Đông. Tuy nhiên, ngay sau sự cố xảy ra thuyền trưởng của tàu này cũng đã gửi bức điện tường trình sự việc về Mátxcơva và về Công ty vận tải biển Viễn Đông. Trên cơ sở đó Bộ Ngoại giao Liên Xô đã gửi một bức công hàm liên quan đến sự cố này cho Hoa Kỳ. Phía Mỹ đã không thừa nhận việc máy bay Mỹ oanh kích và bắn vào tàu "Tuốckextan".

Tuy nhiên, trên cơ sở những tài liệu điều tra về vụ máy bay Mỹ cố ý tấn công chiếc tầu Liên Xô "Tuốckextan" do có bức công hàm thứ hai của chính phủ Liên Xô gửi Chính phủ Hoa Kỳ được soạn thảo trên cơ sở những tài liệu ấy, phía Mỹ đã buộc phải thừa nhận có lỗi, nhận trả phí tổn sửa chữa con tàu và trả khoản trợ cấp suốt đời cho gia đình các thủy thủ đã chết.

Một thời gian sau trong Công ty vận tải biển Viễn Đông xuất hiện hai tầu mới được đặt tên nhằm tôn vinh các thủy thủ đã hy sinh tại Việt Nam - đó là tầu "Nicôlai Rưbachúc" và tầu "Van Demxốp".

Vào những tháng mùa hè năm 1967 trên lãnh thổ Bắc Việt Nam bầu không khí lặng yên đôi chút, không có những cuộc oanh kích của không quân Mỹ. Tuy vậy, bắt đầu từ tháng 9 các cuộc ném bom lại tái diễn với sức mạnh mới.

Sau những công việc chính tại cảng, công nhân và những người lao động khác của cảng Hải Phòng ngày càng được thu hút, vào thời gian buổi tối, vào các công việc khôi phục và những công việc khác trong thành phố. Họ tham gia công việc sửa chữa đường sá, phá bom nổ chậm, giúp đỡ những người bị thương và bộ đội. Anh em tự vệ của cảng đã bắn rơi 2 máy bay Mỹ.

Vì thành tích lao động anh hùng của công nhân cảng, năm 1967 cảng Hải Phòng đã được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng II. Vì thành tích hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ tiếp nhận và giải phóng hàng hóa của ngành ngoại thương trong những năm 1966 - 1967 nên Sở Ngoại thương thành phố Hải Phòng và Hãng đại lý tầu biển đã được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III.

Nhằm mục đích bảo vệ chống lại máy bay, vào tháng 9 - tháng 10-1967 các đồng chí Việt Nam đã bố trí các ụ pháo cao xạ tại nhiều địa điểm trong thành phố Hải Phòng, kể cả chung quanh Cơ quan Đại diện Bộ Hàng hải Liên Xô, ở khoảng cách từ 20 m đến 100 m.

Hồi tháng 9, cách trụ sở Cơ quan đại diện Bộ Hàng hải Liên Xô 80 - 100 mét, đã có 3 quả rốc két nổ tại Ngân hàng Hải Phòng, sau đó một quả bom nặng 300 kg đã nổ cách cơ quan 400 mét.

Tháng 11 những cuộc oanh kích lại tái diễn. Máy bay Mỹ ném bom xuống các khu dân cư, bến phà, cầu cảng.

Cuối tháng 11-1967 các chiến sĩ pháo cao xạ bảo vệ thành phố Hải Phòng đã bắn rơi chiếc máy bay thứ 2600 trong tổng số máy bay đã bị tiêu diệt trên bầu trời miền Bắc Việt Nam. Vì chiến công này thành phố Hải Phòng đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng I và là thành phố đầu tiên ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng.

Trong những chuyến công tác về Hà Nội ngày 12 và 13-10-1967, tôi đã kiến nghị với Trung tâm và các công ty vận tải biển về việc cần thiết chuẩn bị tài liệu để tặng thưởng huân chương và huy chương cho các thủy thủ Liên Xô vì công lao của họ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi cũng báo cáo đề xuất này với Đại sứ Liên Xô I. X. Sécbacốp và với Đại diện thương mại Liên Xô A. A. Páplốp.

Ngày 13-12, sau một thời gian tạm ngừng vì thời tiết xấu, các cuộc ném bom xuống Hà Nội và Hải Phòng lại tiếp diễn. Một chiếc cầu xe lửa lớn ở Hà Nội và một cây cầu đường bộ ở Hải Phòng đã bị ném bom phá huỷ. Sự cố này đã gây khó khăn lớn kéo dài đáng kể thời gian đi lại giữa Hà Nội và Hải Phòng vì giờ đây phải đi qua một số bến phà trên sông giữa hai thành phố này.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #95 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2009, 05:19:40 pm »

Năm Mới 1968 đã đến
.

Ngày 3-1-1968 tại Hải Phòng và tại cảng Cẩm Phả đã có 5 cuộc báo động phòng không. Buổi sáng hôm ấy đã có một máy bay bị bắn rơi và đã bắt sống một phi công Mỹ. Sau bữa trưa các máy bay địch đã thả xuống thành phố nhiều loạt bom bi.

Ngày 4-1-1968 những cuộc báo động phòng không đã không ngớt từ sáng sớm cho đến tối mịt. Trước giờ ăn trưa, trong suốt một giờ liền đã diễn ra cuộc ném bom dữ dội: máy bay đã ném bom phá huỷ đoạn đường sắt và cây cầu ở trước cửa nhà máy xi măng, bắn phá các ụ pháo cao xạ ở phía bờ bên kia sông và những mục tiêu khác.

Cũng ngày hôm ấy, vào lúc 15 giờ 30 phút, tầu "Pêrêxláplơ - Dalétxki" (thuộc Công ty vận tải biển Viễn Đông) đang đậu tại phao số 3 để bốc dỡ các bao bột mì xuống sà lan thì có một quả bom hẹn giờ rơi trúng sà lan cách tầu có hai mét. Sau 25 phút quả bom nổ, gây hư hại nghiêm trọng cho con tầu. Chiếc sà lan này đã chìm trong phút chốc.

Theo thông báo của thuyền trưởng tầu "Pêrêxláplơ - Dalétxki", vào lúc 20 giờ 30 phút cách tầu không xa đã có hai quả bom nữa nổ. May thay, cả hai trường hợp đã không có ai trong thủy thủ đoàn bị thương.

Tôi đã lên con tầu này, tiến hành điều tra, chụp ảnh những chỗ hư hại trên tầu (động cơ chính, các máy móc phụ trợ, thân tầu và phần ca bin của con tầu), tiến hành lấy lời khai của các nhân chứng, tôi đã quyết định thành lập một ban điều tra vụ việc và xác định mức độ thiệt hại.

Trên cơ sở bức điện của thuyền trưởng gửi cho Trung tâm và cho Công ty của mình thông báo về vụ chiếc tầu bị ném bom, Bộ Ngoại giao Liên Xô gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Mỹ về vụ này. Tuy nhiên, phía Mỹ đã chối bỏ vụ tấn công vào tầu Liên Xô.

Sau khi ban điều tra do tôi lãnh đạo tiến hành điều tra cặn kẽ những chỗ hư hại của tầu và đặc biệt ở động cơ chính của tầu; làm cho con tầu này không thể vận hành độc lập được cũng như sau khi tôi gửi các tài liệu đến Sứ quán Liên Xô, Chính phủ Liên Xô lại một lần nữa gửi Công hàm cho Chính phủ Mỹ. Trước các tài liệu hiển nhiên và không thể chối cãi, phía Mỹ đã buộc phải thừa nhận lỗi của mình. Họ còn khẳng định sẽ trả khoản phí tổn sửa chữa và đền bù những tổn thất liên quan đến những hư hỏng trên tầu và những tổn thất khác về vật chất và thời gian.

Theo yêu cầu của tôi chiếc tầu bị hư hại đã được tầu cứu bộ "Ácgút" dắt về bến đỗ. Sau khi số bột mì được bốc dỡ hết tầu "Pêrêxláplơ - Dalétxki" được dắt đến "phao số 0" của cảng Hải Phòng để trở về căn cứ sửa chữa ở Vlađivấtxtốc. Tôi có mặt trên tầu cứu hộ "Ácgút" đến "phao số 0" để tiễn con tầu bị nạn về nước.

Sau này, cho đến tận khi kết thúc đợt công tác của tôi ở Việt Nam và đến ngày tôi lên đường trở về Tổ quốc vào cuối tháng 7-1968, đã xảy ra rất nhiều cuộc oanh tạc, bắn phá và ném bom của không quân Mỹ nhằm vào các cảng Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả và nhằm vào các tầu Liên Xô đậu tại những cảng ấy. Sau ngày tôi về nước, máy bay Mỹ còn thả thủy lôi ở những luồng biển dẫn vào cảng và đã diễn ra hành động phong tỏa cảng Hải Phòng.

Tuy nhiên, bất chấp những thử thách vô cùng nặng nề và biết bao hy sinh, nhân dân Việt Nam, được sự hậu thuẫn và chi viện toàn diện của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, đã trụ vững và chiến thắng trong cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất đất nước.

Tôi tự hào và hạnh phúc vì đã có cơ hội góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc giành thắng lợi lịch sử ấy của nhân dân Việt Nam.
Tháng 2- 2003 

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #96 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2009, 03:31:38 pm »

ĐẠI TÁ.
PÊTƠRỐP ALẾCHXÂY LACỐPLÊVÍCH

Ông sinh ngày 24-6-1934. Năm 1954 ông tốt nghiệp Trường pháo cao xạ Ôrenbuôc, năm 1963 ông tốt nghiệp Khoa kỹ thuật vô tuyến Học viện kỹ thuật quân sự mang tên Gôvôrốp tại thành phố  Kháccốp.

Từ tháng 3-1966 đến tháng 4-1967 ông tham gia chiến đấu tại Việt Nam; thời kỳ 1972 - 1974 ông tham gia vào công cuộc chi viện quốc tế cho Angiêri. Ông trải qua con đường binh nghiệp từ chức vụ chỉ huy trung đội đến chức phó chỉ huy lữ đoàn tên lửa - phòng không phụ trách khâu vũ khí - khí tài. 

Vì tinh thần quả cảm và anh dũng trong khi thi hành các nhiệm vụ đặc biệt của Chính phủ giao phó, năm 1957 ông đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ và Huy chương Hữu nghị của Việt Nam, năm 1998 ông được tặng Huân chương Dũng cảm.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CÔNG VIỆC CỦA KỸ SƯ TRƯỞNG TRONG TRUNG ĐOÀN TÊN LỬA PHÒNG KHÔNG Ở VIỆT NAM

Từ tháng 3-1966 đến tháng 4-1967 tôi đã có mặt tại Việt Nam trong thành phần các khẩu đội chiến đấu của Trung đoàn tên lửa phòng không 260 thuộc Binh chủng phòng không Quân khu Mátxcơva, với chức vụ chỉ huy phó trung đoàn - kỹ sư trưởng. Đó là trường hợp đầu tiên các khẩu đội chiến đấu của trung đoàn với đầy đủ quân số cùng với vị chỉ huy của mình, thực hiện chuyến biệt phái làm nhiệm vụ quốc tế ở nước ngoài. Thượng tướng không quân G. V. Dimin, Phó Tư lệnh thứ nhất Binh chủng phòng không Liên Xô, đã trao nhiệm vụ công tác cho chúng tôi gồm: Chỉ huy trưởng trung đoàn, Đại tá V V. Phêđôrốp, Trưởng ban chính trị trung đoàn, Trung tá V V Nhegienxki và tôi.

Chúng tôi đã hiểu rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ trong chuyến công tác biệt phái sắp tới, trách nhiệm lớn lao trao cho trung đoàn Quân khu thủ đô chúng tôi. Khi nhìn lại, có thể nói một cách hoàn toàn có trách nhiệm rằng toàn thể đội ngũ Trung đoàn 260 của chúng tôi đã hoàn thành đầy đủ các nhiệm vụ được giao. Trong một thời gian ngắn, với những điều kiện phức tạp của cuộc chiến tranh, trung đoàn chúng tôi đã đào tạo thành công và đưa vào đội ngũ chiến đấu Trung đoàn tên lửa phòng không 274 của Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời còn bắn rơi 25 máy bay Mỹ.

Các sĩ quan và binh sĩ của trung đoàn chúng tôi đã thể hiện nghệ thuật cao trong chiến đấu, tinh thần tổ chức, lòng dũng cảm và tinh thần anh dũng; đã hoàn thành vẻ vang bổn phận người lính của mình trong công cuộc chi viện mang tinh thần quốc tế dành cho nhân dân Việt Nam. Họ đã không tiếc công sức và nghị lực của mình, bất chấp mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách để đem lại sự vẻ vang xứng đáng cho trung đoàn và Quân khu phòng không Mátxcơva. Bởi vì họ ý thức được rằng những nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó là nhiệm vụ chiến đấu của Tổ quốc trao cho. 

Vì tinh thần quả cảm và anh dũng của bản thân, nhiều người trong số họ đã được nhận những phần thưởng cao quý của Chính phủ. Ví dụ, chỉ huy trưởng trung đoàn chúng tôi, đồng chí V. V. Phêđôrốp, người đã từng tham gia cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ, chỉ huy trưởng Tiểu đoàn 3, Thiếu tá X. T. Vôrôbiốp và sĩ quan điều khiển tên lửa của tiểu đoàn này, Trung uý V. I. Sécbacốp, được tặng thưởng Huân chương Lênin, còn Trung tá Ph. P. Ilinức được tặng thưởng Huân chương Sao đỏ và Huân chương Lênin. 

Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn 1 của chúng tôi, Trung tá Ph. P. Ilinức, đã được cử sang Việt Nam trước chúng tôi - đó là đơn vị chủ chốt của trung đoàn - và đã có mặt tại Việt Nam hơn 1 năm. Trong thời gian kể trên tiểu đoàn của đồng chí ấy đã bắn rơi 24 máy bay Mỹ và những huyền thoại về lòng dũng cảm của Ph. P. Ilinức, về sự táo bạo và sự kiên quyết của đồng chí ấy, về những chiến thắng trước quân thù mà tiểu đoàn đã giành được dưới sự chỉ huy của đồng chí ấy đã lan truyền khắp nơi.

Bộ chỉ huy Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam đã đề nghị phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô cho Trung tá Ilinức. Nhưng những trở ngại có tính chất quan liêu chủ nghĩa và tình hình chính trị thời kỳ ấy đã không tạo cơ hội cho người chỉ huy chiến đấu ấy được nhận danh hiệu xứng đáng - người ta chỉ trao cho đồng chí Huân chương Lênin không kèm theo ngôi sao Anh hùng. 

Nhờ thành tích trong năm 1966, Trung đoàn tên lửa phòng không 260 đã được tặng Cờ đỏ luân lưu của Xôviết Mátxcơva và Thành ủy Mátxcơva. Năm 1968, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Các lực lượng vũ trang Liên Xô, Trung đoàn đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ vì thành tích hoàn thành tốt các nhiệm vụ quốc tế và vì những thành tích trong chuẩn bị chiến đấu và học tập chính trị. Đó là trường hợp hiếm có trong thời bình. Tiếc thay, ngày nay, do kết quả "những cải cách căn bản" trong lực lượng vũ trang Liên bang Nga mà Trung đoàn Cờ đỏ không tồn tại nữa. Nhưng những chiến công của các chiến sĩ trung đoàn ấy vẫn không phai mờ trong ký ức của nhân dân Nga và nhân dân Việt Nam. 
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #97 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2009, 03:32:54 pm »

Những nhiệm vụ được thực hiện theo từng giai đoạn
   

Khi chúng tôi đáp máy bay tới Việt Nam thì Trung đoàn tên lửa phòng không 274 của Binh chủng phòng không - không quân Quân đội nhân dân Việt Nam - trung đoàn mà chúng tôi có nhiệm vụ đào tạo và đưa vào chiến đấu đã được thành lập và đóng quân trong rừng, tại nơi gọi là Trung tâm huấn luyện. Chúng tôi được đón tiếp rất niềm nở và nồng hậu. Cho đến nay thật khó mà quên được cuộc tiếp đón nồng hậu nhường đó mà các đồng chí Việt Nam đã dành cho chúng tôi ở trong khu rừng ấy.

Những chiếc xe buýt và những chiếc ôtô bịt kín đã đưa chúng tôi từ sân bay quốc tế Hà Nội về thẳng Trung tâm huấn luyện. Sau đó, chúng tôi đi bộ tiếp khoảng 3 kilômét theo những con đường mòn. Trên suốt dọc đường đến Trung tâm đều có các chiến sĩ và sĩ quan của Quân đội nhân dân Việt Nam đứng dọc hai bên con đường mòn để chào đón và tặng hoa cho chúng tôi. Trời đã tối nhưng cánh rừng rung chuyển bởi những tiếng hô chúc mừng tình hữu nghị Việt - Xô, những tiếng hô vang chào mừng các chiến sĩ Quân đội Xôviết và những viên chỉ huy của họ.

Chúng tôi cư trú trong các nhà lán được dựng lên từ các phên liếp bằng tre, mái lợp bằng lá cọ. Các bạn Việt Nam thường xuyên chăm lo cho chúng tôi, cố gắng để chúng tôi tránh gặp phải mọi điều khó chịu. 

Chúng tôi không gặp rắc rối nào trong vấn đề ăn uống. Bếp trưởng của Trung tâm huấn luyện này là một chuẩn uý Liên Xô, chủ yếu các món ăn là các món ăn kiểu Âu được chế biến từ thịt bò, thịt lợn, cá, thịt gà, cùng với các loại rau quả địa phương. Trong rừng không khí thật vô cùng ngột ngạt, Vì nguyên nhân này mà đa số anh em chúng tôi đã mắc phải một số loại bệnh nấm da, làm tổn thương những vùng "kín" nhất trên cơ thể.

Anh em chuyên gia Liên Xô không quen sống trong rừng. Tiện đây xin nói thêm rằng Thượng tướng A. A. Visnhépxki, nhà phẫu thuật đầu ngành của Quân đội Liên Xô, cùng với một tốp sĩ quan quân y đến Trung tâm huấn luyện của chúng tôi và sống trong các lán trại trong vòng 2 tuần lễ, với mục đích nghiên cứu thực tế điều kiện sinh hoạt và phục vụ quân sự của các chiến sĩ Xôviết.

Tại Trung tâm huấn luyện, dưới sự lãnh đạo của Giám đốc kiêm Chỉ huy trưởng của trung đoàn là Đại tá V. V. Phêđôrốp, chúng tôi đã tổ chức những buổi lên lớp căng thẳng và trong vòng 3 tháng đã tiến hành đào tạo về lý thuyết cho các khẩu đội chiến đấu của trung đoàn tên lửa phòng không Việt Nam. Tôi trực tiếp phụ trách tổ chức toàn bộ quá trình huấn luyện và trực tiếp lên lớp huấn luyện kỹ thuật cùng với các sĩ quan chỉ huy của Trung đoàn tên lửa phòng không 274. 

Trong giai đoạn này có những khó khăn chủ yếu sau đây:

- Trình độ đào tạo chung của các đồng chí Việt Nam còn thấp: đa số các học viên trước đó chưa hề được làm quen với kỹ thuật tên lửa, với kỹ thuật vô tuyến - điện tử, nhiều khi cũng chưa biết bất kỳ một kỹ thuật nào khác; 

- Rào cản ngôn ngữ: rất thiếu phiên dịch viên và các cuốn từ điển cho họ;

- Có rất nhiều nhóm đào tạo chuyên ngành (lên đến con số 60 nhóm) trong mỗi nhóm đó có khoảng 40 người. Ví dụ, để tiến hành bài giảng kéo dài 6 giờ, thì từ hôm trước phải viết bản đề cương tóm tắt và làm việc với phiên dịch viên ít nhất trong 6 giờ để giải thích từng từ;

- Thiếu tất cả mọi thứ (hiểu theo nghĩa trực tiếp của từ này) để có thể tiến hành các buổi lên lớp;

- Trung tâm huấn luyện nằm trong rừng; không khí nóng bức không tả xiết và độ ẩm cao đã làm phức tạp thêm tình hình. Ngoài ra, những buổi lên lớp cứ luôn luôn bị cắt ngang vì những cuộc oanh tạc của máy bay địch.

Phải nói rằng các đồng chí Việt Nam đã hết sức nhanh chóng nâng cao trình độ đào tạo chưa đầy đủ ban đầu nhờ tinh thần cần cù tuyệt diệu, tinh thần cố gắng đáng khâm phục và tinh thần ham hiểu biết. Tất cả mọi học viên, từ chiến sĩ bình thường cho đến viên chỉ huy trung đoàn là Thiếu tá Nguyễn Nùng, đều có thái độ hết sức nghiêm túc với bài học, họ nắm bắt từng từ một.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #98 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2009, 03:33:45 pm »

Khi nói về những khó khăn thì không thể không nhắc đến thời kỳ những năm 1966 - 1967. Đó là thời kỳ đỉnh điểm của "Cách mạng văn hoá" ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Điều này không thể không tác động, và dĩ nhiên đã tác động đến hoạt động của chúng tôi ở Việt Nam...

Đây là câu chuyện đã xảy ra vào tháng 12-1966. Có hai tiểu đoàn của chúng tôi tiến vào khu vực biên giới giữa ba nước Lào - Trung Quốc - Việt Nam để tiến hành phục kích chiến đấu. Đây là khu vực các máy bay của không quân Mỹ, sau khi cất cánh từ các căn cứ không quân ở Thái Lan, tập trung lại, chấn chỉnh đội hình để rồi dưới sự yểm trợ của những phương tiện gây nhiễu mạnh được tạo ra bởi những chiếc máy bay đặc biệt, giáng những đòn đánh phá các mục tiêu trong khu vực Hà Nội. 

Cùng với các chuyên gia Việt Nam, chúng tôi đi trên 2 ôtô để đến đó nhằm giúp sức. Trong xe thứ nhất tôi ngồi ở ghế phía trước. Thiếu tá A. X. Xamôrucốp đi xe thứ hai. Vào thời điểm ấy các đơn vị Trung Quốc đang xây dựng một con đường chạy từ biên giới Trung Quốc đến Hà Nội. Dọc toàn bộ con đường này có nhiều biểu ngữ, khẩu hiệu, các bức chân dung của Mao Trạch Đông và những biểu tượng khác của "Cách mạng văn hoá". Tại một đoạn đường binh lính đã chặn phía trước chiếc xe thứ hai. Tôi nói với người phiên dịch (tôi biết đồng chí ấy nói thạo tiếng Trung Quốc).

- Đồng chí hãy nói lại với sĩ quan Trung Quốc rằng chúng tôi đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế chung của chúng ta chiến đấu chống bọn xâm lược, và chúng ta không có thừa thời gian.

Người phiên dịch đã dịch mấy câu nói của tôi. Chỉ sau đấy chúng tôi mới có thể tiếp tục đi được. Người ta đã không chặn chiếc xe của tôi Họ tưởng tôi là người Việt Nam.

Thư từ gửi từ bên nước thì hiếm khi chúng tôi nhận được. Chỉ mãi sau khi về tới Mátxcơva người ta mới trao cho tôi 29 bức thư của vợ tôi, những bức thư tràn đầy những lời thương yêu, quan tâm và an ủi, là những lời không nhận được khi tôi còn ở Việt Nam.

Nhìn lại qua tấm lăng kính của những năm tháng đã qua, có thể nói rằng nếu không vì những hậu quả của "Cách mạng văn hoá" thì có nhiều vấn đề, kể cả những vấn đề cung cấp kịp thời phương tiện kỹ thuật và vũ khí, vấn đề hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật ấy trong chiến đấu, vấn đề hậu cần, tiếp thu kinh nghiệm chiến đấu của các loại hình binh chủng phòng không, và điều chủ yếu là vấn đề thực hiện một cách nhanh chóng kinh nghiệm ấy, cùng những nhiệm vụ khác lẽ ra đã được giải quyết một cách có lợi hơn rất nhiều cả cho các đồng chí Việt Nam, cả cho phía chúng tôi.

Sau khi kết thúc khóa huấn luyện về lý thuyết, các tiểu đoàn tên lửa được đưa đến các trận địa chiến đấu. Đến thời điểm đó, dưới sự chỉ đạo của tôi, số phương tiện kỹ thuật được chở từ Liên Xô đến cho trung đoàn chúng tỏi đã được bốc dỡ, phân tán ra, được kiểm tra và được triển khai trong chế độ chiến đấu, tuân theo đúng kế hoạch phòng không chung của đất nước. 

Ở giai đoạn hai, sau khi đưa các tiểu đoàn tên lửa phòng không đến các trận địa chiến đấu, trong suốt 3 tháng những hoạt động tác chiến chống không quân Mỹ đều chỉ do các khẩu đội chiến đấu của Liên Xô thực hiện, còn các khẩu đội Việt Nam thì làm việc ở ngay cạnh. Ở giai đoạn này nhiệm vụ cơ bản là nêu rõ ứng dụng chiến đấu của các phương tiện kỹ thuật chiến đấu của Liên Xô trong hoàn cảnh thực tế, chỉ ra cách thức khai hỏa chính xác tên lửa phòng không có điều khiển, nhằm mục đích thực hiện tối đa các khả năng tác chiến của các bộ khí tài tên lửa phòng không trong việc đối phó với không quân Mỹ.

Trong suốt thời gian ấy các khẩu đội Liên Xô đã thực hiện 43 lần phóng tên lửa và tiêu diệt được 23 máy bay địch, trong đó có các loại máy bay F-105, F-4, A-6, A-7, EB-66. 

Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu của tôi (trong vai trò kỹ sư trưởng) là đảm bảo khả năng thường xuyên sẵn sàng chiến đấu của các khí tài, bảo trì tốt những khí tài ấy huấn luyện công việc này cho các khẩu đội Việt Nam, ngoái ra còn có nhiệm vụ phải nhanh chóng phát biện và khắc phục những hỏng hóc và hư hại mới phát sinh trong quá trình tác chiến.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #99 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2009, 03:34:21 pm »

Độ ẩm lớn, nhiệt độ cao, các khí tài được vận hành gần như không ngừng nghỉ, - những điều này không thể không góp phần làm xuất hiện những trục trặc thường xuyên. Ngoài ra máy bay địch đã thường xuyên đánh vào các tổ hợp tên lửa phòng không. Theo lời khai của các phi công Mỹ bị bắt làm tù binh thì trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ oanh tạc nếu phát hiện thấy trận địa tên lửa phòng không thì các phi công tự động bãi bỏ mọi nhiệm vụ oanh tạc mà chỉ tập trung vào việc tiêu diệt các tổ hợp tên lửa phòng không ấy. Để thực hiện nhiệm vụ này phía Mỹ đã sử dụng các phương tiện hết sức khác nhau để tiêu diệt mục tiêu: dùng tên lửa tự động tìm diệt các trạm ra đa như kiểu tên lửa "Sraicơ", thả bom rải thảm có định vị và không định vị, bắn các loại pháo phản lực.

Chỉ có nhờ trình độ chuyên môn cao của các kỹ sư Liên Xô các kỹ thuật viên, các sĩ quan chỉ huy trong những điều kiện khắc nghiệt như vậy mới đảm bảo được cho các khí tài thường xuyên ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Những kỹ sư Liên Xô dưới đây đã tỏ rõ là những bậc thầy thực sự am hiểu công việc của mình: V. E. Muraviép, V. N. Ácchuscốp, Ph. X. Mamin, G. M. Êphrêmốp, các kỹ thuật viên trưởng thuộc hệ thống các đài điều khiển tên lửa G. A. Ivanốp, N. E. Baculin, R. A. Cadacốp, A. I. Camarinxki, N. I Ôblôghin, N. I. Ôbôdơnưi, trưởng trạm trinh sát và chỉ thị mục tiêu A. V. Guxép, các sĩ quan chỉ huy các khẩu đội kỹ thuật vô tuyến V. Đ. Đavưđốp, N. Ia. Madurencô, A. M. Burốp, Iu. Đ. Cun cốp, P. X. Khabarốp, các sĩ quan chỉ huy các khẩu đội bệ phóng V. A. Côxarép, G. Ia. Sêlômưtốp, các trợ lý của tôi R. Ph. Ignatốp, N. E. Têlêghin, các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn X. T. Vôrôbiốp, I. V. Vôlôđin, A X. Xamôrucốp, I. E. Pôgiđaép, B. I. Dađôrin và những người khác.

Đó là những ngày căng thẳng nhất đối với tất cả chúng tôi. Việc ngủ và nghỉ ngơi chỉ có thể thực hiện trên đường đi từ tiểu đoàn này đến tiểu đoàn khác, tức là ở trong ôtô.

Ở giai đoạn kết thúc quá trình đào tạo các khẩu đội của Trung đoàn tên lửa phòng không 274 của Quân đội nhân dân Việt Nam thì số lượng các chuyên gia Liên Xô trong trung đoàn này đã được cắt giảm. Trong 6 tháng tiếp theo trong trung đoàn này chỉ còn lại một nhóm nhỏ - nhóm chuyên gia bảo trì và sửa chữa các khí tài, do tôi chỉ huy.

Trong thời kỳ ấy nhiệm vụ chủ yếu là giúp đỡ một cách thực tế cho các chuyên gia Việt Nam duy trì các khí tài thường xuyên trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, cũng như thực hiện mọi công việc theo quy định. Trong thời gian đầu sau khi chuyên gia Liên Xô rút khỏi các tiểu đoàn này để trở về nước thì lại càng cần thiết có sự giúp đỡ như vậy. Tình trạng còn thiếu kinh nghiệm ở các chuyên viên Việt Nam, tình trạng họ chưa tự tin trong công việc là các chuyên gia Liên Xô, trong đó có tôi, không phải chỉ thường xuyên có mặt trong các tiểu đoàn tên lửa và không chỉ tiến hành lên lớp, tư vấn, đề xuất và đưa ra những khuyến nghị đối với những vấn đề hết sức khác nhau về bảo trì và sửa chữa các khí tài, mà còn phải trực tiếp tìm ra và khắc phục những chỗ hỏng hóc và trục trặc đã phát sinh.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM