Các chiến sĩ khẩu đội bệ phóng thuộc Trung đoàn tên lửa phòng không 261
Theo quy định, quân số của Trung đoàn tên lửa thứ ba của Việt Nam được tuyển theo biên chế thời chiến, nghĩa là với những khẩu đội chiến đấu có số quân tăng gấp đôi. Trong các cabin điều khiển chật chội của tổ hợp tên lửa kiểu 6 “cabin điều khiển" XA-75, các khẩu đội, với quân số tăng gấp ba lần (cộng cả các chuyên gia Liên Xô) gồm các kỹ thuật viên và các trắc thủ vận hành, thì xét về thể chất, thật sự không thể ngồi được trong các cabin ấy, nhưng các chiến sĩ bệ phóng thì cảm thấy bình thường. Nhờ các khẩu đội đã tăng quân số lên gấp đôi, chúng tôi trên thực tế đã giảm được một nửa số thời gian phiên dịch.
Khẩu đội bệ phóng mà tôi có dịp thường xuyên huấn luyện có trình độ am hiểu kỹ thuật đôi phần kém hơn khẩu đội của Thành, nhưng tất cả những chàng trai ấy đều dày dạn. Giữa chúng tôi đã nhanh chóng có được mối quan hệ tốt đẹp trong công việc.
Chỉ huy khẩu đội tên là Chiến, có tính nết phần nào giống tính nết của đồng chí Sơn - một người cũng rất chăm chỉ và cẩn trọng.
Trắc thủ số 1 - Tích là một chàng trai lực lưỡng, khoan thai, lúc đầu không mấy tự tin: anh ta không hiểu rõ lắm khi nghiên cứu các sơ đồ điện, nhưng trong thao tác chiến đấu anh ấy thuộc vào số những người đi đầu.
Trắc thủ số 2 - Nin là một chàng trai thành thị có tướng mạo trí thức. Trong những giây phút nghỉ ngơi anh ta thích bàn luận về văn chương, về âm nhạc. Anh rất yêu thích nhà văn Sêkhốp. Anh Nin mơ ước một lúc nào đó sẽ sang Mátxcơva để viếng mộ nhà văn Sêkhốp. Điều thú vị là người anh của Nin tên là Lê. Nếu ghép hai cái tên này lại với nhau thì sẽ có được tên Lênin. Để tỏ lòng tôn kính vị lãnh tụ của Cách mạng Tháng Mười, người cha - một đảng viên cộng sản lão thành đã đặt tên ấy cho hai người con.
Trắc thủ số 3, cậu Hòa là chàng trai trẻ nhất trong số tất cả các chiến sĩ. Cách đó không lâu anh ta vừa tròn 17 tuổi ảnh ấy có thân hình gầy, cao, nhanh nhẹn. Hòa được mọi người yêu quý. Như cách nói của người đời, cậu ấy nắm bắt được mọi cái rất nhanh. Nhưng cậu ấy xem như thế còn ít, nên cậu ấy đưa ra nhiều câu hỏi hơn tất cả những người khác, cố gắng đi sâu tìm hiểu cặn kẽ tài liệu nghiên cứu, dù đó là tài liệu về cơ khí hay là về các sơ đồ điện. Hòa rất thích học nói thạo tiếng Nga và anh ta tiến bộ rất nhanh trong chuyện này. Hòa phát âm rõ những từ tiếng Nga, gần như rất chuẩn.
Có lúc tôi lên lớp về thao tác chiến đấu mà không có phiên dịch, vì vẫn thiếu phiên dịch. Tôi phát tất cả mọi khẩu lệnh bằng tiếng Nga và lặp lại bằng tiếng Việt. Các khẩu đội Việt Nam hiểu rất tốt những khẩu lệnh ấy. Rồi họ cũng cố gắng báo cáo đáp lại bằng tiếng Nga khi thao tác những công đoạn ấy
Một thời gian sau, khi Đại úy Xirencô trở về Liên Xô thì tại Trung tâm huấn luyện của chúng tôi không có một sĩ quan nào thuộc khẩu đội bệ phóng. Một mình tôi đã phải lên lớp cho tất cả các sĩ quan Việt Nam thuộc các khẩu đội bệ phóng của Trung đoàn, giảng về cấu tạo của bệ phóng, về loại xe TZM, cấu tạo của tên lửa cũng như về các thông số kỹ thuật và chiến thuật của chúng.
Trong buổi lên lớp đầu tiên giảng bài cho các sĩ quan khẩu đội bệ phóng thuộc Trung đoàn tên lửa phòng không 261, người phiên dịch đã giới thiệu về tôi như sau:
- Chỉ huy trung đội thuộc đại đội phóng tên lửa, trung sĩ Côlêxnhích Nicôlai.
Nhưng hình như trong buổi lên lớp thứ tư có một viên sĩ quan Việt Nam thuộc khẩu đội bệ phóng đã hỏi lại:
- Có thể đồng chí phiên dịch của chúng tôi đã nhầm khi giới thiệu đồng chí là trung sĩ. Chắc chắn đồng chí là sĩ quan, vì trên cầu vai của đồng chí có 2 ngôi sao như ở cầu vai quân hàm trung sĩ, chỉ có sự khác biệt là có vạch kim loại phía bên dưới, có đúng như vậy không ạ? - viên sĩ quan ấy bổ sung cho chính xác vì căn cứ vào các ký hiệu quân hàm của Việt Nam.
- Tại sao đồng chí nghĩ như vậy? - Tôi hỏi lại.
- Trung sĩ, ngay cả một trung sĩ Liên Xô, không thể hiểu rõ kỹ thuật và giải thích chi tiết và dễ hiểu đến như thế về cấu tạo kỹ thuật của khí tài, - anh ấy trả lời như vậy.
Tôi cố thuyết phục anh ta rằng quả thật tôi là trung sĩ. Nhưng anh Xuân, phiên dịch viên đã không dịch lại đầy đủ câu trả lời của tôi, mà chỉ nói:
- Tôi đã "sửa lại sự nhầm lẫn" và đã thăng quân hàm trung úy cho đồng chí. Như thế sẽ chuẩn hơn và sẽ tốt hơn cho quá trình huấn luyện.
Tôi đành phải đồng ý với lý lẽ của người phiên dịch. Vậy là tôi đã trở thành "trung úy” trong con mắt các đồng chí người Việt Nam.
Trước khi nhập ngũ, ở tuổi 16 tôi đã tốt nghiệp trung học phổ thông (năm 1949 ở trường sơ cấp còn thiếu nhiều học sinh, cho nên theo đề nghị của tôi, người ta đã ghi tên tôi vào lớp 1 từ lúc tôi mới 6 tuổi). Về sau tôi tốt nghiệp trung học kỹ thuật và có hai năm làm thợ mắc đường dây điện trong các tổ thang máy của các mỏ than ở vùng Đônbát. Khi còn học trên ghế nhà trường tôi đã bắt đầu tham gia câu lạc bộ yêu thích vô tuyến điện: đã từng sửa chữa các máy thu thanh dùng đèn điện tủ, đã lắp ráp được những máy thu thanh bán dẫn, máy phát sóng ngắn, sửa chữa các máy thu hình. Do đó? tôi khá am hiểu kỹ thuật - bệ phóng, tên lửa và các hệ thống điều khiển tên lửa - hiểu một cách cặn kẽ. Thời gian 9 tháng huấn luyện tại trường đào tạo hạ sĩ quan thuộc binh chủng tên lửa phòng không tại Côxtêrêvô và nửa năm phục vụ tại tiểu đoàn hỏa lực của trung đoàn đã đảm bảo cho tôi có được trình độ đào tạo đầy đủ