Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:59:21 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến tranh Việt Nam là thế đó 1965 - 1973  (Đọc 123719 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #20 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2009, 02:43:37 pm »

Đứng đầu danh sách những người được khen thưởng là Tướng G. A. Bêlốp - Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam. Người thứ hai trong danh sách này là tôi. Tôi bước lên giơ tay chào Uxtinốp theo điều lệnh. Uxtinốp đã trao cho tôi Huân chương Cờ đỏ và chúc mừng tôi đã được nhận phần thưởng cao quý. Sau khi quay người với câu đáp lễ thông thường: "Nguyện phục vụ Liên bang Xôviết?", tôi trở về chỗ ngồi. Thiếu tá Daica cũng chân thành chúc mừng tôi đã được nhận phần thưởng. Sau 2 người nứa đã đến lượt thiếu tá Daica được nhận phần thưởng như vậy. Sau buổi trao thưởng mọi người đã tập hợp ở hội trường. Tướng G. A. Bêlốp tiến lại chỗ ông A. N. Sêlépin và nghiêng đầu nói nhỏ gì đó với ông Sêlêpin. Ông Sêlêpin lập tức lớn tiếng tuyên bố. "Dĩ nhiên là có thể!". Tướng Bê lốp nhìn xuống hội trường và hỏi: "Ai biết cách mở rượu sâm banh nào?"

Không hẹn nhau, tựa hồ như theo mệnh lệnh, tôi và 3 anh bạn ngồi cạnh - V. Sennhicốp, V. Lưsaghin và A Nikitin đã giơ tay. Ngay lập tức Tướng Bêlốp chỉ thị cho chúng tôi sang phòng bên cạnh, mở tất cả các chai sâm banh và rót vào cốc Chúng tôi đã nhanh chóng bước sang phòng bên và rất tích cực thực hiện tất cả mọi việc theo yêu cầu. Một lúc sau ông A. N. Sêlêpin và các thành viên phái đoàn đã có mặt trong hội trường. Mọi người đã nâng cốc, sau câu chúc mừng vắn tắt, đã cạn chén.

Cùng với phái đoàn Đảng và Chính phủ đến Hà Nội còn có một máy bay nữa chở quà tặng cho chúng tôi. Mỗi người được nhận một gói quà: các sĩ quan cấp trên thì nhận được gói số 1, các sĩ quan cấp dưới nhận được gói quà số 2, những chuyên gia được gia hạn phục vụ, các hạ sĩ quan và binh sĩ phục vụ theo thời hạn nghĩa vụ thì nhận được gói quà số 3.

Nội dung trong các gói quà đều giống nhau, nhưng chỉ có sự khác nhau về độ giá trị của loại rượu: các sĩ quan cấp trên nhận được rượu sâm banh và 2 chai cô- nhắc, các sĩ quan cấp dưới thì nhận được rượu sâm banh, 1 chai vốt ca "Thủ đô", 1 chai rượu trắng "Mátxcơva", những chuyên gia khác thì nhận được 1 chai sâm banh, 2 chai rượu trắng "Mátxcơva':.

Ngoài ra, trong mỗi gói quà đều có tấm thiệp của Bộ trưởng Quốc phòng đích thân chúc mừng, có cả giò, trứng cá, bánh bích quy, thuốc lá nhãn hiệu "Nôvốt", đôi dép đi trong nhà, đôi giầy cao cổ theo .. kiểu giầy mà bộ binh Mỹ vẫn sử dụng ở Nam Việt Nam, áo đi mưa, quần dài, áo len. Cũng còn có thêm một túi đựng 4kg bánh mì đen cho mỗi người! Bánh mì đen, cá trích muối và nước ướp lạnh - đó là mơ ước của mỗi chúng tôi. Cuối cùng thì một phần ước mơ ấy đã thành sự thật! Ai ai cũng có bánh mì đen, chỉ ăn mọi thứ với bánh mì đen, nhắm rượu cũng với bánh mì đen:

Những túi quà được trao vào ngày 31-12 tại nơi ở của chúng tôi, ngay sau khi nhận phần thưởng. Vẫn còn lâu mới tới nửa đêm. Mọi người long trọng xử lý các phần thưởng vừa nhận được. Để đón đêm giao thừa Năm mới 1966, vào đúng nửa đêm tất cả mọi người tập hợp tại nhà ăn. Tại đây A. B. Daica đã tổ chức các hình thức vui chơi có thưởng, thi hát, thi khiêu vũ và thi độc tấu văn nghệ nghiệp dư. Mọi người đều hồ hởi tham gia vào các tiết mục ấy.

Chúng tôi cũng không quên các đồng chí Việt Nam. Tôi đã tặng chiếc áo choàng và đôi giầy cao cổ cho anh phiên dịch. Hầu hết các chuyên gia chúng tôi đều làm như vậy. Những ngày vui đã kết thúc như thế. Nhưng chiến tranh thì vẫn tiếp tục. Thế là chúng tôi lại ra trận địa để thi hành nhiệm vụ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #21 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2009, 02:44:28 pm »

Những ngày cuối cùng trên đất Việt Nam

Ngay từ trước khi ra trận địa chúng tôi đã được biết các khẩu đội tên lửa của Việt Nam thuộc các Tiểu đoàn tên lửa 81 và 82 đã bắn rơi một máy bay trinh sát không người lái. Đã có 7 tên lửa phóng vào chiếc máy bay ấy. Trong quá trình phân tích những loạt tên lửa vừa được phóng, người ta đã tìm ra nguyên nhân của việc bắn ra một số lượng lớn tên lửa như vậy: chưa có được sự điều khiển một cách thích đáng từ sở chỉ huy trung đoàn và thiếu sự hiệp đồng tác chiến giữa các tiểu đoàn. Trường hợp này cũng bộc lộ một điều nữa: các khẩu đội và ban chỉ huy trung đoàn chưa có được một sự chuẩn bị đầy đủ. Điều này có nghĩa là nếu không có sự giúp đỡ của chúng tôi thì phía Việt Nam chưa thể tác chiến một mình được. Do vậy, nhiều chuyên gia quân sự Liên Xô đã phải hoãn thời gian trở về nước muộn hơn. Trong số đó có tôi.

Theo quyết định của Trưởng đoàn chuyên gia binh chủng tên lửa phòng không A. M. Đdưda người ta đã tiến hành kiểm tra sự sẵn sàng của các khẩu đội Việt Nam trong việc tác chiến độc lập. Về khâu này đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Chỉ mãi đến cuối tháng 1 mới đạt được những kết quả mong muốn. Có một nhóm đông đảo chuyên gia quân sự Liên Xô chuẩn bị về nước. Trong số này có cả tôi. 

Trong những ngày ấy Đoàn ca múa Craxnôia đã đến Hà Nội biểu diễn. Đến tối người ta chở chúng tôi đến xem buổi biểu diễn văn nghệ kéo dài đến 3 giờ sáng. Sau đó chúng tôi còn có mặt thêm vài ngày ở trận địa. Trước ngày lên đường về nước chúng tôi tập hợp tại khách sạn Kim Liên.

Đến sáng Thiếu tá Daica cho chúng tôi biết vào khoảng 5 giờ sáng mai máy bay sẽ cất cánh. Tất cả mọi người đều phấn chấn. Bỗng nhiên vào khoảng 16 giờ có một xe buýt đến khu chung cư của chúng tôi. Từ trong xe bước ra là Thiếu tá Daica và người phiên dịch. Cả hai đều tiến đến chỗ tôi. Thiếu tá cho tôi biết hiện nay bệ phóng tên lửa mà tôi phục hồi lại bị trục trặc: nó không quay đồng bộ với ăngten của ca bin "P". Do vậy tôi cần đến ngay trận địa và khắc phục sự trục trặc mới nảy sinh. 

Trận địa ở cách Hà Nội khoảng một giờ rưỡi đi xe. Tiểu đoàn đã triển khai trong một vườn chuối. Người ta nóng lòng chờ đợi tôi. Tôi lập tức bắt tay vào việc. Chẳng có gì đặc biệt phức tạp trong việc tìm ra và khắc phục sự cố, trên bệ phóng bộ ly hợp truyền đã bị lỏng. Để hiệu chỉnh nó chỉ cần vài phút. Sau khi kiểm tra bệ phóng đồng bộ với hệ thống ăngten và hướng dẫn thêm cho người chỉ huy khẩu đội, tôi sửa soạn ra về, nhưng người ta lại giữ tôi lại

Toàn thể khẩu đội tỏa về các phía, họ lôi từ đâu ra những chiếc bàn, những chiếc bảng, tạo thành một chiếc bàn dài để tiến hành một tiết mục gì đó. Trên bàn có rượu Lúa mới (chúng tôi gọi nó là "rượu gạo"), bia, nước khoáng, các thức nhắm. Mọi người đã nhanh chóng ngồi vào bàn. Thế là bắt đầu bữa tiệc chia tay. Tất cả các bạn Việt Nam đã cám ơn tôi, hỏi han về gia đình, về nhà cửa và v.v.. Sau đó họ tặng cho tôi 12 chiếc nhẫn rất đẹp làm bằng nhôm lấy từ các ống trên các máy bay Mỹ bị bắn rơi. Họ đeo ngay 10 chiếc nhẫn lên các ngón tay của tôi, tôi bỏ 2 chiếc còn lại vào túi. Cuối cùng chúng tôi chia tay và tôi quay về khách sạn Kim Liên.

Khi chúng tôi quay trở về khách sạn thì trời đã tối. Chúng tôi cho xe chạy chậm, không bật đèn. Chúng tôi đến một điểm dân cư nào đó. Trong túi tôi có 15 đồng Việt Nam, không có lý gì đem nó về nước. Dọc đường đi, tại một quán cà phê tôi đã dùng số tiền ấy mua 5 chai rượu vang nhãn hiệu "Đồng Tháp".

Đến gần nửa đêm tôi về đến khách sạn Kim Liên. Tại đó hầu như không có người nào ngủ cả: mọi người sốt ruột chờ đến sáng và chờ đợi giờ phút cất cánh, vì phía trước là ngày gặp lại Tổ quốc. Cho đến sáng mọi thứ uống có cồn đều được uống hết với bạn bè. Gần 5 giờ sáng một xe buýt đến đưa chúng tôi ra sân bay.

Ra tiễn chúng tôi có Thiếu tá A. B. Dai ca và viên chỉ huy tiểu đoàn tên lửa, Đại úy Iu. P. Bôgđanốp. Dĩ nhiên, mặc dù đã hết sức cố giấu nỗi hồi hộp, nhưng chúng tôi vẫn hồi hộp: tại nơi đây, trên đất Việt Nam đã có biết bao nhiêu điều trải qua. Những bạn chiến đấu của chúng tôi vẫn đang lưu lại nơi đây. Chắc chắn chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nhìn thấy họ.

Mọi người đã nhanh chóng vào chỗ ngồi trên máy bay. Sau vài phút máy bay bay về phía biên giới Trung Quốc. Sau 30 phút chúng tôi đã bay trên không phận Trung Quốc và mãi mãi từ biệt Việt Nam. Vậy là đã kết thúc một trong những giai đoạn quan trọng và không thể quên trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Giai đoạn ấy đã có vai trò to lớn trong số phận sau này của tôi.
Thị trấn Lexnôi, tháng 1-2003
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #22 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2009, 02:45:08 pm »

GLADUNỐP ÉPGHÊNHI PAVLÔVÍCH

Ông là Phó tiến sĩ kinh tế, cố vấn ngoại giao cấp 1, viện sĩ Viện Hàn lâm quốc tếcác công trình nghiên cứu hệ thống.

Ông sinh ngày 4-4-1931 tại thành phố Bixcơ thuộc miền An tai. Bắt đầu cuộc đời lao động, ông làm công nhân từ năm 1943.

Năm 1963 ông tốt nghiệp Học viện quan hệ quốc tế Mátxcơva thuộc Bộ Ngoại giao Liên Xô.

Từ năm 1963 đến năm 1965 là tuỳ viên, sau đó là Bí thư thứ ba, và từ năm 1974 đến năm 1978 là Tham tán công sứ của Sứ quán Liên Xô tại Việt Nam.

Trong những năm 1965 - 1974 là chuyên viên của Ban đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Đã nhiều lần có mặt tại Việt Nam trong những chuyến công tác.

Từ năm 1978 đến năm 1991 là Vụ trưởng Vụ các nước Đông Dương thuộc Ban đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.

Từ năm 1991 là Chủ tịch Hội hữu nghị Xô - Việt. Năm 2004 được bầu làm Chủ tịch Hội liên hiệp hợp tác quốc tế của Liên bang Nga.

Ông đã được tặng thưởng Huân chương Hữu nghị giữa các dân tộc, Huy hiệu Vẻ vang, các Huy chương Vì lao động xuất sắc trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941 - 1945; 50 năm Chiến thắng trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941 - 1945; Lao động lão thành. Ông được tặng thưởng Huân chương Hữu nghị, Huân chương Lao động hạng 1 và hạng II và các Huy chương của Việt Nam
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #23 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2009, 02:45:59 pm »

QUÃNG ĐỜI KHÔNG THỂ NÀO QUÊN CỦA TÔI

Theo tôi, viết hồi ký là công việc khá khó khăn. Không chỉ vì phải lục lọi các tài liệu lưu trữ trong lớp bụi, tìm kiếm những ghi chép cũ, khẳng định và làm rõ thêm những sự việc nào đó, những ngày tháng, những tình tiết. Mà còn vì trong những tìm kiếm ấy ta cảm nhận được một cách đặc biệt rõ rằng thời gian trôi đi rất nhanh. Thật vậy, khi ta nhìn vào những bức ảnh cũ, những trang ghi chép ngày xưa trong các cuốn nhật ký, bỗng nhiên ký ức buộc ta quay trở về quá khứ, ta bắt đầu nghĩ về nhiều dự định đã không được thực hiện. Những suy nghĩ ấy đã xuất hiện trong tôi khi tôi bắt đầu viết các bài báo kể về những ngày công tác xa xưa của tôi tại Việt Nam.

Rõ ràng mỗi con người đều trải qua con đường đời của riêng mình. Con đường ấy không giống đường đời của người khác. Đúng như vậy, nhưng rõ ràng điều chủ yếu lại ở chỗ khác: con đường đời ấy sẽ để lại dấu tích gì trong ký ức của người thân, trong ký ức của mọi người. Đó có phải là một luống cày sâu hay chỉ là một vết xước khó nhận biết mà bụi thời gian sẽ che phủ mất rất nhanh.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX chúng tôi còn là những nhà ngoại giao trẻ tuổi, hôm qua vừa mới tốt nghiệp Viện quan hệ đối ngoại Mátxcơva và cũng vừa mới tới Hà Nội công tác. Chúng tôi vẫn còn có thói quen trình diễn các tiết mục văn nghệ nghiệp dư và diễn những tiết mục của Câu lạc bộ những người vui tính và tháo vát, các vở kịch ngắn trong câu lạc bộ của Sứ quán chúng tôi. Dĩ nhiên, tất cả những tiết mục văn nghệ nghiệp dư và những buổi trình diễn các tiết mục của Câu lạc bộ những người vui tính và tháo vát ấy đã phai mờ trong ký ức; ngoại trừ một số tình tiết. Chỉ còn nhớ lại sự hài hước bất tận của những vở kịch thời thanh niên ấy và khẩu hiệu chính của những vở diễn ấy là: "Những ai tháo vát thì làm việc ở Pa ri, còn tất cả những ai vui tính thì làm việc ở Hà Nội".

Tại thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày ấy bao trùm bầu không khí tỉnh lẻ, ngoại giao đoàn không đông đảo, chủ yếu gồm sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu và châu Á. Thành viên của các đoàn ngoại giao ấy còn trẻ tuổi, do vậy chúng tôi đã sớm làm quen với nhau.

Tôi đã đến Hà Nội sau lần làm việc với đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu, thăm chính thức Liên Xô vào hồi tháng 7-1961. Do vậy tôi đã có được khá nhiều người quen trong Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngoài việc đọc và tìm hiểu qua báo chí địa phương, tất cả những điều đó đã giúp tôi nhanh chóng tìm hiểu đất nước Việt Nam, có thêm những người bạn mới và những người quen mới.

Vào đầu năm 1965 các cán bộ trẻ của Sứ quán Liên Xô, cùng với các đồng chí lớp trên trong Sứ quán và cùng với những bạn Việt Nam cũng trẻ tuổi như chúng tôi và mới hôm qua còn là những bạn đồng môn với chúng tôi, đã tiến hành Lễ kỷ niệm 15 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Liên Xô. Chúng tôi hồi tưởng những lần chúng tôi đi xe lửa từ Mátxcơva đến Hà Nội, xuyên qua toàn bộ đất nước Liên Xô và Trung Quốc, thay đổi chỗ ngồi trên các toa xe tại biên giới Xô - Trung và biên giới Việt - Trung. Chúng tôi đã mơ ước đến ngày mở đường bay sắp tới Mátxcơva - Hà Nội sẽ tạo điều kiện cho chúng tôi đi lại bằng máy bay và không phải nghe suốt hai tuần lễ những tiếng lách cách của các bánh xe lửa. Cảnh vật thường xuyên thay đổi, thấp thoáng sau các ô cửa sổ. Thoạt đầu đó là cảnh tượng thú vị, nhưng sau đấy làm cho người ta nhanh chóng mệt mỏi.

Bắt đầu viết hồi ký từ đâu? Cần nêu bật những giây phút nào trong quãng đời "Việt Nam" của tôi trong vô vàn những sự kiện lớn nhỏ, những cuộc gặp gỡ và những công việc đan kết chặt với nhau và tạo nên thực chất cuộc sống của chúng tôi?

Số là, chuyến công tác đầu tiên của tôi đến Việt Nam năm 1962 đã liên quan đến một vài sự việc còn lưu lại trong ký ức tôi trong nhiều năm. Sự việc thứ nhất là chuyến du ngoạn cùng với một người bạn Việt Nam. Trong lần làm quen đó anh ấy cho tôi biết rằng anh ấy làm nghề luật sư và đang trở về nước sau chuyến công tác đến một số nước châu Âu. Anh ấy nói chuyện rất hay và là một con người rất thú vị. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ ấy lẽ ra chỉ là một câu chuyện nhỏ trên đường, nếu không có một chi tiết thú vị: sau nhiều năm tôi gặp lại người bạn đường xa xưa ấy. Anh ấy hỏi về tình hình công việc của tôi, làm tôi kinh ngạc về trí nhớ của anh ấy Anh ấy gọi tên vợ tôi, tên con gái tôi mà anh ấy đã cùng trò chuyện ngày xửa ngày xưa trên xe lửa. Tôi kể ra điều này vì trong những năm tôi công tác ở Việt Nam tôi đã nhiều lần lấy làm kinh ngạc về trí nhớ kỳ lạ của nhiều bạn Việt Nam của tôi. Họ kể chi tiết về những sự việc đã qua từ lâu và đôi khi lại là những sự việc không có ý nghĩa gì lắm.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #24 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2009, 02:46:55 pm »

Sự việc thứ hai là thời gian dừng chân ngắn ngủi tại Thiên Tân. Tại đó tôi đã gặp lại anh bạn đồng môn với tôi. Anh ấy đến Trung Quốc sớm hơn một chút để thực tập. Tôi đã cùng với anh ấy, và được anh ấy hướng dẫn nếm thử lần đầu tiên các món ăn Trung Quốc, trong dó có món ăn được nấu từ những con cầu gai. Chúng tôi đã cùng nhau đến Bắc Kinh và đã lưu lại Bắc Kinh mấy ngày đi dạo quanh thành phố, chúng tôi đã đến tham quan các ngôi mộ thời Minh vừa được phát hiện trước đó ít lâu. Sau đó lại lên đường tới Hà Nội. Tôi còn nhớ chuyến đi xe lửa của chúng tôi trên nền đường sắt và qua cây cầu mới xây tạm, vì những nền đường và cây cầu cố định trước đó đã bị phá huỷ nặng nề bởi nước sông Hoàng Hà tràn mạnh vào. Trận lụt năm ấy đã phá huỷ nhiều chục kilômét đường bộ và đường sắt, hàng trăm ngôi làng. Trong nhiều năm tôi vẫn còn lưu giữ những ấn tượng về chuyến xe lửa đi qua khu vực bị ngập lụt ấy. Ở đó lần đầu tiên tôi đã chứng kiến tác động phá hủy dữ dội của sức mạnh thiên nhiên.

Sự việc thứ ba: những bước chân đầu tiên trên đất Việt Nam và những ấn tượng đầu tiên tại ga biên giới Đồng Đăng đã gặp phải một sự cố buồn: con gái của tôi lúc ấy ở tuổi mẫu giáo, đã chạy băng qua đường sắt, bị vấp ngã và bị gãy tay. Tiếng kêu thét của cháu đã làm tất cả mọi người chung quanh đó nhớn nhác - chỉ có bà con Việt Nam chạy tới giúp chúng tôi, khiến vợ chồng tôi lại càng lúng túng hơn, không biết phải làm gì. Nhưng các cán bộ của nhà ga đã nhanh chóng tìm được các bác sĩ. Các bác sĩ đã bôi một loại thuốc nước mầu đỏ lên tay con gái tôi và băng bó chặt chỗ đó. Giữa những lời động viên, chúng tôi bước vào toa xe và xe lửa chuyển bánh về Hà Nội.

Cho đến tận cuối năm 1964 công việc tại Sứ quán vẫn diễn ra bình thường. Đã có nhiều cuộc gặp gỡ, những chuyến công vụ ở trên đất nước này cùng với vị Đại sứ và những cán bộ khác của Sứ quán. Ngày ấy ngay ở Hà Nội - chưa kể ở đâu đó nơi tỉnh lẻ - mọi sự xuất hiện của người châu Âu trên đường phố đều làm xuất hiện một tốp những cậu bé tò mò và hết sức hồn nhiên. Chúng nhất thiết chăm chú liếc ngắm, còn những cậu bé bạo dạn nhất thì sờ mó những ông Tây "mũi dài" ấy. Cuộc làm quen ấy thường hay kèm theo những tiếng hô: "Liên Xô! Liên Xô!", mặc dù những câu hô ấy có thể không liên quan đến những công dân Liên Xô. Nhưng đó không phải là điều chủ yếu trong lúc này. Điều chủ yếu là ở chỗ khác: tại Việt Nam thời hiện đại, một Việt Nam đang tiến nhanh trên con đường tiến bộ, có thể chưa nhanh lắm, nhưng đã không còn nữa những nét hồn nhiên đáng yêu, không còn sự giao tiếp cởi mở giữa mọi người, đó cũng đã từng là những nét vốn có trước đây ở các tỉnh lẻ của nước Nga. 

Chúng tôi đi ôtô đến khu vực phi quân sự ở Vĩ tuyến 17. Từ những rặng cây chúng tôi nhìn thấy lá cờ có các vạch sọc vàng của chế độ Sài Gòn bay trên bò bên kia sông Bến Hải. Năm 1963 chúng tôi đã cùng Đại sứ đến dự lễ khai mạc đợt một của Nhà máy thuỷ điện Thác Bà. Báo chí Việt Nam đã đưa tin về buổi lễ khai mạc ấy. Báo "Nhân Dân" đã đăng bức ảnh chụp buổi lễ khai mạc. Tóm lại, cuộc sống trôi đi một cách bình thản và đều đều.

Tình hình này kéo dài đến tháng 8-1964, khi nổ ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ mà ngày nay toàn thế giới đã biết đến. Các tuần dương hạm của Mỹ đã bắn phá vùng duyên hải Việt Nam, sau đó là những trận ném bom đầu tiên của không quân Mỹ vào vùng mỏ than Hòn Gai. Những sự kiện ấy không chỉ làm chấn động thế giới và Việt Nam, mà còn làm thay đổi hẳn phong cách sống của chúng tôi ở Hà Nội. Ngày ấy người ta thường nói: trên bầu trời Hà Nội đã sực mùi chiến tranh. Trước đó, đối với chúng tôi chiến tranh chỉ tồn tại trong những câu chuyện kể của các thành viên trong ủy ban quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Giơnevơ. 
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #25 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2009, 02:47:41 pm »

Đó là đầu năm 1965, khi bầu trời Bắc Việt Nam chỉ mới bị vẩn đục ở ngưỡng cửa của một nguy cơ chiến tranh sẽ nổ ra trong tương lai. Thời điểm ấy Sứ quán chúng tôi đang tích cực chuẩn bị cho chuyến viếng thăm sắp tới của Đoàn đại biểu Liên Xô, do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A. N. Côxưghin dẫn đầu.

Cuộc viếng thăm ấy diễn ra đầu tháng 2-1965. Những cuộc gặp gỡ trước đó của các nhà lãnh đạo hai nước, hoạt động tích cực của tất cả các đơn vị thuộc các cơ quan ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật và văn hóa của Liên Xô và của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tạo mọi tiền đề cần thiết cho cuộc viếng thăm ấy, là cuộc viếng thăm sẽ mở ra giai đoạn mới trong mối quan hệ Việt - Xô.

Tôi còn nhớ rõ chuyến viếng thăm ấy của phái đoàn Liên Xô, cuộc đón tiếp phái đoàn tại sân bay Gia Lâm. Trên thực tế tại đó đã có mặt toàn bộ ban lãnh đạo của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, (lúc đó sân bay Gia Lâm là sân bay quốc tế duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng sân bay này chỉ có khả năng tiếp nhận những máy bay không lớn như loại IL-14. Vì vậy, đoàn đại biểu Liên Xô do bay từ Mátxcơva trên loại máy bay IL-18, nên đã phải hạ cánh xuống sân bay quân sự Nội Bài, từ đó lại bay trên máy bay IL-14 hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm).

Tôi sẽ không nói về những cuộc hội đàm, vì trước kia đã có nhiều bài viết về những cuộc hội đàm ấy rồi. Tôi chỉ nói rằng những hiệp định được ký kết nhờ kết quả cuộc viếng thăm ấy đã tạo các tiền đề cần thiết để mở rộng sự hợp tác kinh tế và quân sự - kỹ thuật giữa Liên Xô và Việt Nam. Sự hợp tác ấy đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng nhất cho thắng lợi trong tương lai của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam Việt Nam và thống nhất đất nước.

Nhân tiện tôi cũng kể lại rằng gần sáng hôm sau, sau khi phái đoàn Liên Xô tới Việt Nam, giữa đêm tôi đã bị cán bộ trực ban của nhà nghỉ đánh thức dậy và yêu cầu đi ngay. Sau khi tới nơi, tôi được biết có một bức điện từ miền Nam Việt Nam gửi cho ông A. N. Côxưghin và cần dịch ngay bức điện ấy sang tiếng Nga. Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ chào mừng phái đoàn Liên Xô đã đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nêu rõ rằng nhân dân miền Nam Việt Nam đánh giá cao sự giúp đỡ của Liên Xô, coi sự giúp đỡ ấy là "nguồn khích lệ hết sức mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình", đồng thời bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Chính phủ Liên Xô và nhân dân Liên Xô đã dành sự ủng hộ cho nhân dân Việt Nam.

Trở lại cuộc viếng thăm của ông A. N. Côxưghin tại Hà Nội, tôi muốn kể về một sự việc mà hồi ấy các nhà báo không để ý tới nhưng, theo tôi, sự việc ấy đã có vai trò không nhỏ trong sự hình thành những quan hệ thân hữu giữa cá nhân hai nhà hoạt động nhà nước nổi tiếng của Liên Xô và Việt Nam - giữa ông Phạm Văn Đồng và ông A. N. Côxưghin.

Câu chuyện xảy ra vào một trong những ngày diễn ra cuộc viếng thăm đáng ghi nhớ ấy. Buổi trưa đã diễn cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng buổi chiều thì không có hoạt động nào trong chương trình làm việc. Hồi ấy vị đứng đầu Chính phủ Liên Xô và những nhân vật tháp tùng ông đã nghỉ tại Phủ Chủ tịch ở trung tâm thành phố Hà Nội. Hôm ấy tôi là đại diện của Sứ quán ngồi trực tại đó. Sau bữa trưa mọi người đi nghỉ. Tôi bước ra ngoài hành lang và suy nghĩ xem lấp chỗ trống trong chương trình như thế nào. Bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng chân phía sau lưng, tôi ngoảnh lại và trông thấy ông A. N. Côxưghin. Ông cho biết không muốn ngồi trong phòng, tỏ ý muốn đi dạo quanh vườn bao quanh Phủ Chủ tịch.

Vì Thủ tướng Liên Xô sau bữa trưa muốn nghỉ ngơi, cho nên tất cả các nhân vật Liên Xô tháp tùng ông và các đồng chí Việt Nam cũng tỏa về các phòng của mình hoặc đi làm việc Tôi tìm cách can ngăn ông A. N. Côxưghin không đi dạo hoặc chí ít cho phép tôi gọi ai đó trong đội bảo vệ đến. Ông trả lời rằng không nên làm phiền mọi người, rồi bảo tôi đi dạo cùng ông. Dĩ nhiên, tôi không thể tranh cãi với Thủ tướng. Thế là chúng tôi đi tham quan khu vườn.

Ở cổng ra của khuôn viên, tại cái gọi là Cổng Đỏ, nơi có trụ sở của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chúng tôi trông thấy xe ôtô của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, lúc ấy ông trở về làm việc sau bữa trưa. Khi vừa trông thấy chúng tôi, ông bước ra khỏi xe và lấy làm ngạc nhiên hỏi vị đồng nhiệm Liên Xô: "Tại sao đồng chí vi phạm chế độ nghỉ ngơi? Cuối buổi hội đàm đồng chí có nói rằng sau bữa trưa đồng chí sẽ nghỉ trưa cơ mà”

A. N. Côxưghin đáp lại rằng ông muốn nghỉ ngơi một cách tích cực và tìm hiểu đôi chút về Hà Nội. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị cùng trò chuyện với ông. Thế là cả hai vị Thủ tướng đã đi về phía Hồ Tây. Trên đường đi, tất cả các nhân vật được gọi là các nhân vật hữu quan của phía Liên Xô và Việt Nam đều đuổi kịp chúng tôi.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #26 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2009, 08:39:26 am »

Trong đống giấy tờ lưu trữ riêng của tôi còn lưu giữ một tấm ảnh nghiệp dư khổ nhỏ, ghi lại cuộc đi dạo ấy. Còn có một tấm ảnh như thế đã được công bố nhiều năm về trước trên một tạp chí nào đó của Liên Xô.

Chúng tôi đi dạo dọc đường Thanh Niên (tôi nghĩ, đó là tên gọi con đường ngăn cách hai hồ. Con đường này đã được đắp lên từ thời xưa theo lệnh của một ông vua thích đi dạo quanh hồ vào những buổi chiều). Ông Phạm Văn Đồng đã kể cho vị khách về lịch sử của thành phố và của hồ này. Khi chúng tôi tiến gần nhà thuyền mới được xây dựng, ông đã nhắc tới nó và nói rằng hiện chưa có nhiều thuyền, nhưng nam nữ thanh niên rất thích bơi thuyền trên hồ. .

A. N. Côxưghin (ông vốn ưa thích bơi thuyền, thích thực hiện những chuyến đi bộ đường dài và nói chung, theo tôi nghĩ, là một người ưa thể thao) đã rất chăm chú nghe những lời kể đó và đã lập tức đề nghị Thủ tướng Phạm Văn Đồng bơi thuyền trên hồ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng là một người ưa thể thao, và người ta bảo rằng hồi trẻ ông đã từng là cầu thủ trong đội tuyển bóng đá của Đông Dương. Một phút suy nghĩ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau đó đã vui vẻ ủng hộ sáng kiến ấy. Nhưng những người tháp tùng hai vị Thủ tướng ấy thì chẳng hào hứng chút nào với sáng kiến ấy. Những lời khuyên can tập thể của chúng tôi về việc từ bỏ ý định bơi thuyền đã vô hiệu.

Hai vị thủ tướng say mê thể thao. Họ ngồi vào hai chiếc thuyền nhỏ, thuộc kiểu thuyền cá nhân (vào thời điểm ấy ở nhà thuyền này hoàn toàn chẳng có loại thuyền nào khác). Hai vị đã vui vẻ bơi thuyền. Đội bảo vệ đã lao tới chiếc canô cũ kỹ đậu gần đó. Rất lâu họ mới nổ máy được. Có mấy người nữa, trong đó có tôi, ngồi vào mấy chiếc ôtô vừa tới và đi xe dọc bờ hồ, về phía bên kia hồ. Nơi đó hồi ấy có những biệt thự của chính phủ và chờ đón hai vị thủ tướng bơi thuyền tới. Hai vị Thủ tướng đã bơi thuyền tới đó, tuy mệt nhoài nhưng rất vui. Họ lập tức lên xe và quay về nơi nghỉ. Trên đường hai vị đã trao đổi cảm tưởng về chuyến du ngoạn.

Tôi tin chắc rằng chuyến du ngoạn ngẫu hứng ấy đã có ảnh hưởng rõ rệt đến mối quan hệ sau này của hai vị thủ tướng - họ là những người bạn tốt. Dù sao thì sau này, trong những cuộc gặp gỡ với ông tại Mátxcơva hoặc tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần nhắc đến cuộc dạo chơi ấy. Còn ông A. N. Côxưghin cũng nhắc tới cuộc du ngoạn ấy hồi tháng 9-1969 khi tôi cùng ông đến Hà Nội để tham gia Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tôi nhớ lại những cuộc bắn phá đầu tiên của không quân Mỹ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hồi mùa xuân 1965. Một trong những cuộc bắn phá ấy đã xảy ra đúng vào những ngày phái đoàn Liên Xô đang ở thăm Hà Nội. Điều này đã gây ra sự phản đối gay gắt từ phía Chính phủ Liên Xô. Cuộc oanh tạc lần khác đã diễn ra đúng vào ngày sinh của tôi, hồi tháng 4, vì vậy tôi đặc biệt nhớ kỹ. Sự việc xảy ra vào buổi sáng, vào lúc chúng tôi vừa tới nơi làm việc. Đột nhiên vang lên còi báo động "Báo động có máy bay địch!".

Theo chỉ thị cách đó không lâu của Đại sứ, tất cả các nhân viên của Sứ quán, trong trường hợp như vậy phải ẩn nấp trong những căn phòng kín không có cửa sổ, để tránh mảnh bom. Tại tầng một của Sứ quán Liên Xô có hai phòng như vậy. Thay vì thực hiện chỉ thị của vị Đại sứ, tất cả chúng tôi bổ nhào ra khỏi Sứ quán, quay về nhà để cứu giúp gia đình mình. Vào cái ngày hôm ấy chúng tôi không có lý do để vui cười. Chúng tôi - trong đó có cả tôi - đã chạy dọc theo đường phố giữa những tiếng đạn nổ loạn xạ và những tiếng hô của công an Hà Nội và các đội tuần tiễu của quân đội. Họ tỏ ra có kỷ luật hơn chúng tôi, họ nấp trong các hầm trú ẩn cá nhân đào dọc bên đường, hoặc nấp dưới những tán lá cây.

Mấy ngày sau trận oanh kích ấy, theo chỉ thị của Đại sứ chúng tôi đào hầm trú ẩn tại Sứ quán, vui vẻ đùa với nhau và kể cho nhau hay về việc từng người đã chạy về nhà như thế nào, trong khi ấy các bà vợ và con cái của chúng tôi lại chạy đến nấp dưới mái nhà của Sứ quán. Phải thú thực rằng vị Đại sứ - ông Ilia Xécghêêvích Sécbacốp, bản thân ông đã tham gia cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại - sau sự kiện trên đã mở hội nghị kiểm điểm và như người ta vẫn thường nói, đã "cạo chúng tôi một trận".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #27 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2009, 08:40:09 am »

Việc xây dựng hầm tránh bom trong khuôn viên Sứ quán, với công sức tập thể của chúng tôi sau giờ làm việc, đã kết thúc một cách hoàn toàn ngoài mong đợi. Cuối cùng thì chúng tôi đã rất vất vả đào được hầm trú ẩn (tại địa điểm vốn là công trường với đống gạch và rác thải xây dựng) sâu bằng chiều cao của người. Nhưng đêm hôm ấy có trận mưa rào như trút nước và trận mưa đã hoàn toàn làm ngập công trình của chúng tôi. Tất cả mọi người, kể cả vị Đại sứ đều đi đến kết luận cho rằng thật vô nghĩa nếu cứ làm theo kiểu nghiệp dư như vậy.

Mãi sau này, sau khi tôi trở về nước, tại địa điểm ấy đã được xây dựng lên một hầm trú ẩn vững chắc thật sự. Tôi đã từng trú ẩn trong hầm tránh bom ấy cùng với anh chị em nhân viên Sứ quán Liên Xô để tránh máy bay Mỹ trong những lần tôi sang Hà Nội sau đấy. 

Chẳng bao lâu sau đó đã diễn ra những cuộc oanh kích liên tiếp nhau vào ban đêm. Đó không chỉ là tiếng còi báo động khó chịu giữa đêm, mà còn có tiếng súng nổ dữ dội xé toạc bầu trời về đêm thành hàng nghìn hình vuông và những hình đa cạnh chói loà. Trong một trận oanh kích như vậy, tôi đã không thuyết phục được vợ xuống nơi trú ẩn ở tầng một, còn bản thân tôi lại trèo lên mái nhà để ngắm "vở kịch ban đêm". Tôi lặng người theo dõi những loạt đạn bắn lên xé toạc màn đêm, ánh sáng chói lòa của các loạt đạn ấy hòa lẫn với ánh sáng của các vì sao, trên cao lần lượt loé lên những chùm sáng của đạn pháo cao xạ nổ và ngay trên đầu tôi có những loạt rốc két nổ do máy bay Mỹ bắn xuống.

Bỗng nhiên tôi nghe thấy cách không xa có những tiếng động xào xạc trong những cành lá của những cây cao phía trên mái nhà. Một tiếng "bịch" khô khốc vang lên ngay bên cạnh, có cái gì đó rơi gần chân tôi. Tôi cúi xuống, bò một đoạn và dùng tay lần theo mái nhà. Đột nhiên tay tôi bị bỏng. Hóa ra, đây là mảnh rốc két. Tôi nghĩ, mảnh rốc két này cũng có thể không rơi trúng mái nhà, mà rơi đúng vào đầu tôi. Tâm trạng của tôi liền thay đổi. Tôi đã quyết định từ bỏ trò trình diễn nghiệp dư ấy và lập tức tụt xuống phía dưới, nấp dưới mái nhà mình. Nhưng tôi vẫn lưu giữ mảnh đạn rốc két ấy rất lâu, về sau nó bị thất lạc mất.

Sau những lần oanh tạc ấy không lâu, Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị sơ tán tất cả phụ nữ và trẻ em thuộc đoàn ngoại giao ra khỏi Hà Nội, trừ những người ở lại vì nhiệm vụ. Trong quyển sổ nhật ký cũ tôi đọc thấy dòng chữ sau đây, được ghi vào tháng 4-1965: "Vợ và con gái đi sơ tán vì lý do máy bay Mỹ bắt đầu bay quá gần bầu trời Hà Nội".

Đoàn tầu chở phụ nữ và trẻ em "dưới sự hướng dẫn" của một người đàn ông châu Âu duy nhất - đó là một cán bộ của Sứ quán Bungari đã hết hạn công tác tại Việt Nam và cùng gia đình về nước - đã từ từ chuyển bánh rời sân ga Hà Nội. Còn chúng.tôi tiễn đưa họ, nghẹn ngào trong họng, vẫy tay tiễn đưa đoàn tầu khuất dần. Đa số những người đi tiễn đưa đều hiểu rõ cụm từ "sơ tán" với tất cả những hậu quả của nó. Vì nhiều người trong số đó, đặc biệt là trong số các cán bộ Liên Xô, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vài tháng sau cuộc tiễn đưa ấy tôi về nước nghỉ phép, nhưng được giữ lại làm việc ở Mátxcơva.

Trong những năm tháng chiến tranh ấy, trên thực tế, hàng ngày - đôi khi vài lần trong ngày, có khi cả ban đêm - ở một khu vực nào đó của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa những tiếng còi vang lên báo động cho người dân Việt Nam về những cuộc oanh kích của không quân Mỹ. Sau những cuộc oanh tạc ấy là những ngôi nhà, những trường học, những con đường, những công trình thuỷ lợi và bệnh viện bị phá huỷ. Tiện thể tôi cũng nói thêm rằng hồi ấy báo chí Mỹ nhiều lần đưa tin cho biết các máy bay Mỹ chỉ ném bom vào các cơ sở quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng theo các số liệu của ủy ban điều tra tội ác của Mỹ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì: tính đến tháng 10-1966 các cuộc ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đã phá huỷ 294 trường học, 74 bệnh viện, 80 nhà thờ và 30 ngôi chùa. Nếu đó là những cơ sở có ý nghĩa quân sự chiến lược, vậy thì liệt những gì vào danh sách các công trình dân sự?
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #28 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2009, 08:41:23 am »

Trong những năm chiến tranh, mãi đến tận năm 1974, khi tôi trở lại làm việc tại Sứ quán Liên Xô ở Hà Nội, tôi đã có dịp mỗi năm vài lần đáp máy bay đến Việt Nam trong những lần tháp tùng các phái đoàn và đi công tác một mình. Trong những chuyến công tác như vậy có nhiều chuyện xảy ra. Nhưng tôi chỉ kể về một chuyến đi như thế. Tháng 3-1967 phái đoàn của chúng tôi, đứng đầu là Chủ tịch ủy ban quan hệ văn hóa của Liên Xô X. C. Rômanốpxki, đã đáp máy bay quá cảnh Trung Quốc để sang Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hồi đó ở Trung Quốc "cách mạng văn hoá" đã đạt đến đỉnh điểm.

Nói chung, tôi ghi nhớ chuyến đi này vì nhiều nguyên nhân: vì rằng ở mọi nơi phái đoàn chúng tôi luôn được các cảnh binh đeo súng tiểu liên đón tiếp... Và cũng còn vì lẽ trên đường bay trở về Mátxcơva, cùng với trên chuyến bay ấy có một họa sĩ mới mở đầu con đường sáng tác của mình, nhưng nay đã nổi tiếng trên toàn thế giới - đó là người trùng họ với tôi - họa sĩ Ilia Gladunốp. Do nghề nghiệp, họa sĩ ấy mang một số lượng khổng lồ giấy vẽ và đến đâu cũng thực hiện các bức ký họa bằng bút chì, trong đó có cả những bức ký họa các nghệ sĩ nghiệp dư đã từng trình diễn cho chúng tôi xem và ca ngợi Mao Trạch Đông giữa tiếng reo hò thán phục của người Trung Quốc.

Tại mỗi sân bay mà chúng tôi được cung cấp đồ ăn thì họa sĩ Ilia Xécghêêvích đều tranh cãi với các nhân viên chạy bàn người Trung Quốc đem món ăn đến cho chúng tôi theo yêu cầu. Tôi yêu cầu các món Trung Quốc, còn họa sĩ Ilia Xécghêêvích thì gọi các món châu Âu. Nhưng các nhân viên chạy bàn Trung Quốc không rõ vì sao cứ luôn luôn nhầm lẫn tôi với họa sĩ: họ mang món ăn do tôi gọi đến chỗ họa sĩ Ilia Gladunốp. Ông ấy lập tức lớn tiếng phản đối rằng ông sẽ không ăn món đó. Họ lại đem món do ông ấy đặt đến chỗ tôi sau đấy, giữa tiếng cười của mọi người, các nhân viên chạy bàn đã ngượng nghịu chuyển đổi các món ăn.

Thời tiết buộc chúng tôi lưu lại Nam Ninh thêm một ngày nữa. Trong thời gian cực chẳng đã phải ngồi không ở Nam Ninh, tôi đã nhờ các cán bộ của Lãnh sự quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sở tại cung cấp một số tờ báo Việt Nam và tôi chăm chú đọc những số báo ấy, tường thuật lại nội dung chủ yếu những gì đã đọc cho các đồng chí của tôi trong phái đoàn. Ví dụ, báo "Nhân Dân" số ra ngày 5-3-1967 đã viết như sau về tỉnh Hà Tĩnh. Tờ báo nêu lên rằng tỉnh này rất nghèo và thường xuyên phải chịu thiên tai (lũ lụt, hạn hán) và viết tiếp: "Ngoài ra, năm 1966 tỉnh này còn gánh chịu những trận đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Trong 6 tháng đầu năm 1966 số lượng lần đánh phá đã tăng hơn 3 lần so với 6 tháng cuối năm 1965. Ngoài những trận bắn phá các bệnh viện, trường học, nhà thờ và chùa chiền, máy bay Mỹ đã ném bom 166 lần vào các công trình thuỷ lợi của tỉnh này, gây ra thiệt hại đáng kể về vật chất và những hy sinh về nhân mạng".

Chuyến đi này còn được ghi nhớ, vì khi bay đến gần biên giới Việt Nam máy bay của chúng tôi rơi vào một cơn dông cường độ rất mạnh. Vào thời kỳ ấy chúng tôi đi máy bay đến Việt Nam chủ yếu vào ban đêm, tắt các đèn trên thân sườn máy bay, vì ban ngày các phi công Mỹ hết sức đeo bám quấy rầy các máy bay của chúng tôi trên đường bay, thật sự nhòm thẳng vào các máy bay này. Trong những chuyến bay sau này đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôi đã nhiều lần nhìn qua cửa sổ và thấy rõ mặt các phi công Mỹ bay quanh máy bay chúng tôi.

Khi máy bay chúng tôi bay gần đến biên giới Việt Nam trên bầu trời tối đen bỗng vang lên một tiếng ầm hết sức mạnh, làm im bặt tiếng động cơ máy bay. Một ánh chớp loé lên sáng chói, làm đau cả mắt. Nó như một thanh kiếm lửa xé toang bầu trời ban đêm. Ghế ngồi của tôi không rõ biến đi đâu mất. Máy bay bị hạ độ cao rất nhiều và đột ngột. Sau cùng là những tiếng kêu hoảng hốt của các cô gái tiếp viên Trung Quốc mà trước đó một giờ đã "chiêu đãi" chúng tôi bằng những đoạn trích trước tác của Mao Trạch Đông. Tất cả tình cảnh ấy đã buộc chúng tôi quên đi những điều nhỏ nhặt hàng ngày trong cuộc sống, chúng tôi bắt đầu vĩnh biệt nhau. Tình hình lúc ấy thật hoàn toàn bi đát. Rồi đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ, nghe hết sức phấn chấn! Hoan hô! Thế là máy bay của chúng ta vẫn bay

Trong nhật ký của tôi có đoạn ghi rất ngắn về sự cố này: "Khoảng 30 phút trước lúc hạ cánh, thiên nhiên đã đón chào chúng tôi nồng nhiệt. Thoạt đầu ở mạn bên phải máy bay, bầu trời như bị vỡ làm đôi, còn tia lửa ngoằn ngoèo của sét đã ngước nhìn chúng tôi với vẻ hung dữ. Sau đấy, người đẹp ấy thấp thoáng phía bên trái với tiếng nổ hết sức mạnh mà tiếng vang rền của nó còn theo đuổi chúng tôi mãi".

Sau cuộc thử thách ấy chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Hà Nội trong tình trạng hoàn toàn kiệt quệ. Cũng khó nhận ra tổ lái Trung Quốc - họ cũng rất khó nhọc bước ra khỏi máy bay.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #29 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2009, 08:42:17 am »

Sau khi ổn định nơi nghỉ tại khách sạn, chúng tôi đã quyết định đi dạo quanh Hà Nội vào buổi tối. Tôi lại trở lại đọc cuốn nhật ký cũ nát. Trong đó có đoạn ghi: "ở đây tôi phải thú thật rằng sau Nam Ninh tôi đã đến Hà Nội như trở lại nhà mình. Tôi cho rằng nguyên nhân chủ yếu của cảm nhận này là: tại đây tôi được gặp lại nhiều người quen. Cảm tưởng trước hết về buổi tối ở Hà Nội là tựa hồ như không có chiến tranh và hòa bình đang ngự trị trên đất nước Việt Nam. Chỉ có một cảnh đập vào mắt là trên đường phố có rất ít người, có ít thanh niên mà trước kia thường sóng đôi bên nhau đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm. Có một dấu hiệu nữa của chiến tranh - chung quanh hồ này có nhiều hầm tránh bom, những tường nhô cao của những hầm này luôn đập vào mắt. Một sự sắp xếp lại cho phù hợp với hoàn cảnh.

Tình hình ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quả thật rất phức tạp. Đại sứ Liên Xô I. X. Sécbacốp cũng cho chúng tôi biết tình hình này trong buổi gặp gỡ với phái đoàn chúng tôi. Các đồng chí Việt Nam cũng nói đến điều đó. Những cuộc bắn phá của không quân Mỹ vẫn tiếp diễn - mỗi ngày có 150 - 250 lần chiếc máy bay. Mặc dù những chiến sĩ bảo vệ Việt Nam có tinh thần chiến đấu cao, nhưng sự mỏi mệt về tâm lý, tình trạng thiếu ngủ thường xuyên, khó khăn về lương thực - tất cả những yếu tố ấy đã tác động đến tâm trạng của dân chúng. Có nhiều người bắt đầu bộc lộ hoài nghi về khả năng chiến thắng trong cuộc chiến tranh này. Điều này cũng được những người trò chuyện với chúng tôi không giấu giếm nói ra tại Hà Nội, cả trong lần về Nam Định.

Nhân tiện xin nói, ngay vào thời gian ấy trong cuộc trò chuyện với tôi, giáo sư Chung (TЮHR), chuyên gia nổi tiếng về khoa thần kinh hồi ấy tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã nêu ý kiến cho  rằng những cuộc ném bom thường xuyên cả ngày lẫn đêm đã làm cho mọi người kiệt quệ, thời gian gần đây đã gia tăng mạnh số người mắc các bệnh thần kinh, đặc biệt trong các trẻ em. Vì thiếu lương thực, tình trạng suy dinh dưỡng cũng khá phổ biến.

Ban lãnh đạo của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa biết rõ những vấn đề ấy và đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức đời sống và lao động của mọi người trong những điều kiện thời chiến hết sức khó khăn. Đầu năm 1967, trong bài phát biểu tại tỉnh Thái Bình, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã nói như sau: "Việc phòng không nhân dân phải làm tốt hơn nữa. Địch càng thua càng liều lĩnh. Chiến tranh có thể còn gay go hơn. Cho nên phải đào nhiều hầm hào để bảo về tính mạng và tài sản của nhân dân". Tại từng gia đình, tại nơi sản xuất, hễ ở đâu có người thì đều phải có hầm trú ẩn. Cần tổ chức ở khắp mọi nơi các đội cấp cứu, các đội cứu hoả, đảm bảo kịp thời chuyển những người bị thương vào bệnh viện. Các đội dân quân tự vệ phải trở thành nòng cốt và người khởi xướng toàn bộ công tác này.

Bài phát biểu này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đăng trên báo "Nhân Dân", số ra ngày 17-1-1967. Tôi dẫn ra bài phát biểu này vì tôi đã đọc nó trên đường từ Hà Nội đến Nam Định. Nội dung bài phát biểu này hoàn toàn khớp với những gì tôi đã nhìn thấy và nghe thấy. Do vậy, nó gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt.

Ngày 26-3 tôi ghi những dòng dưới đây trong nhật ký: Vào lúc 15 giờ đã bắt đầu cuộc hội đàm chính thức tại trụ sở ủy ban liên lạc văn hóa. Sau đó ít phút người ta loan báo máy bay Mỹ cách Hà Nội 20 km. Còi báo động rú lên. Các đồng chí Việt Nam khẩn thiết đề nghị chúng tôi xuống hầm trú ẩn. Cuộc bắn phá kéo dài 40 phút. Chúng tôi không muốn ngồi trong hầm trú ẩn theo yêu cầu của các đồng chí Việt Nam và chỉ đứng cạnh đó thôi. Chúng tôi nhìn thấy những chiếc máy bay bay qua và nghe thấy tiếng bom và đạn rốc két nổ, cũng như những loạt súng máy phòng không và pháo cao xạ nổ chát chúa. Chúng tôi đã đội những chiếc mũ sắt do phía Việt Nam phát và thậm chí đã chụp ảnh.

Sau khi báo yên, Chủ tịch ủy ban liên lạc văn hóa là ông Thuần (Txyah) đã nói đùa: "Ngài Giônxơn đã thu thuế 40 phút của chúng ta, là khoản thuế trả về bước mở đầu cuộc hội đàm".

Dù gì đi nữa, nhưng cuộc hội đàm về hợp tác văn hóa giữa hai nước Việt Nam và Liên Xô đã mở đầu từ cuộc tránh bom. Đối với tôi, tất cả những cái đó như có ý nghĩa biểu tượng: chiến tranh đang diễn ra. Vậy mà chúng tôi lại tiến hành hội đàm về hợp tác văn hóa và khoa học. Chắc chắn điều này chứng tỏ chúng tôi đã tin vào thắng lợi chung của chúng tôi. Nhân tiện xin nói, sang ngày hôm sau tôi ghi những dòng sau đây: "Cả ngày hôm qua chúng tôi đã có cuộc hội đàm khó khăn, kéo dài tới tận đêm. Trên bầu trời Hà Nội đã có 3 máy bay bị bắn hạ".
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM