http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/230/231/231/98659/Default.aspx Phi công đầu tiên bắn gục B-52 (kỳ 3)
Ngày 20-11-1971, trận đánh đi vào lịch sử.
Ta đảm bảo bí mật bất ngờ cao độ. Khoảng cách bay từ Anh Sơn vào đến Tân Ấp là 120km, Mic-21 bay thấp để bảo đảm bí mật, người lái không thông báo bất cứ điều gì cho Sở chỉ huy. Sở chỉ huy theo dõi sát khi đến Tân Âp phát hiện B-52, dẫn đường bí mật phát lệnh kéo từ 1.500m lên 10.000m để tiếp cận địch. Ý định ban đầu khi mục tiêu trong tầm ngắm, Mic bắn cùng một lúc hai tên lửa. Vì lúc đó tốc độ Mic của ta là 1.400 km/giờ, còn B-52 tốc độ 950km/giờ. Phi công ta tiếp cận đội hình ba chiếc B-52 bay theo hình bậc thang lệch, Mic ta bắn một phát tên lửa trúng B-52 bay đầu. Theo lý thuyết, nếu bắn một tên lửa trúng thì B-52 sẽ cháy. Nhưng vì B-52 bị trúng đạn tên lửa là loại B-52H - nghĩa là đã qua 6 lần cải tiến - nên khi một động cơ bị bắn cháy, B-52H có máy tự động cắt dầu rồi tự dập tắt lửa cố trượt dần hạ cánh bắt buộc xuống Thái Lan.
Nữ dân quân bên xác B-52. Ảnh minh họa/Internet.
Mỹ thực sự kinh hoàng, chúng không sao hiểu nổi: Tại sao với độ cao như thế, B-52 được các loại máy bay tiêm kích yểm hộ chặt chẽ như thế, nhiễu từ B-52 từ F-4, F-105 như thế mà Mic vẫn tiếp cận tiến công và phi công Mỹ trên B-52 không biết! Bí mật, bất ngờ chính là chiến thuật chiến đấu của ta. Ta đánh lừa địch giỏi. Hằng ngày không quân Mỹ thường có 12 ra-đa theo dõi mọi hoạt động của không quân ta. Qua mấy tháng theo dõi hoạt động chúng thấy Mic thường xuất kích mỗi tối một lần. Đêm 20-11-1971, lần này ta xuất kích hai chiếc. Mười bảy giờ, phi công Hoàng Biểu cất cánh từ sân bay Nội Bài theo đường bay cực thấp vào sân bay Vinh. Tiếp đó là phi công Vũ Đình Rạng, theo đường bay thấp vào sân bay Anh Sơn. Mười chín giờ ba mươi phút, phát hiện, qua mạng tình báo có tốp B-52 từ Thái Lan tiến vào nước ta. Trung tá Trần Hanh lệnh ngay cho phi công Hoàng Biểu xuất kích bay về phía tây đón đánh tốp B-52 khi nó tiến vào phía tây Quảng Bình, vào đến khu vực đèo Mụ Dạ, ở độ cao 8.000-10.0000 mét. Khoảng hai mươi phút sau, địch phát hiện thấy máy bay Mic-21 của ta liền quay lại Thái Lan. Được lệnh của Phó tư lệnh Trần Mạnh, Trung tá Trần Hanh lệnh cho dẫn đường Mic-21 của Hoàng Biểu giữ nguyên độ cao 10.000 mét từ đất Lào bay thẳng theo hướng sân bay Nội Bài rồi bí mật xuống sân bay Thọ Xuân. Mỗi lần bay vào nước ta tụi lái B-52 theo dõi rất sát động tĩnh của không quân. Không bỏ sót bất kỳ một động thái nào của chiếc Mic-21 vừa cất cánh và biết chiếc Mic-21 theo hướng ra Bắc, chúng chủ quan, yên chí không còn mối đe dọa nữa nên tốp B-52 vòng quay trở lại. Và thế là một trong ba chiếc đã ăn đòn đau.
Sau trận đánh B-52 của Mic-21 ta thấy có những động thái khác lạ. Trước đó dù lớn dù nhỏ, có Mic đụng độ B-52 đều được thông tin qua các hãng thông tấn nhưng lần này không một hãng thông tấn nào đưa tin. Trước 20 tháng 11, hằng ngày địch dùng B-52 ném bom từ đường 12 (đèo Mụ Dạ) lên đường 20 (Lùm Bùm, Phu la nhích) đến đường số 9. Nhưng sau trận 20 tháng 11, B-52 rút hết, không ném bom đường 12 và đường 20, chỉ ném bom từ nam đường số 9. Cho đến tháng 4 năm 1972, B-52 trở lại ném bom đường 12 và đường 20.
Về ý nghĩa của trận đánh ngày 20-11-1971, ông Chiêu nhấn mạnh: Trong việc hoạch định kế hoạch dùng B-52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng thì lực lượng địch tính đến phải đối phó đầu tiên của B-52 là Mic-17 và Mic-21. Vì chúng tập trung đối phó với lực lượng không quân nên các lực lượng phòng không khác của ta như tên lửa, pháo phòng không và cả súng trường mới có điều kiện đánh tốt, hạ được nhiều máy bay địch. Chúng phải tập trung đối phó với lực lượng không quân là vì Mic đã vào đến Quảng Bình, Vĩnh Linh, đánh được B-52 thì Hà Nội, Hải Phòng không quân phải là lực lượng quyết chiến. Cho nên, đêm đầu tiên của chiến dịch “Linebacker II”, không quân Mỹ tập trung lực lượng đánh phá các sân bay.
Từ tháng 11-1971 đến tháng 4-1972, B-52 không tập trung đánh tuyến đường vận chuyển Trường Sơn từ đường số 12 đến đường số 20 tạo điều kiện thuận lợi cho việc chi viện nhanh cho tiền tuyến miền Nam của ta.
Đánh B-52 không chỉ có lòng yêu nước, ý chí quyết đánh, quyết thắng mà còn phải có kĩ thuật, kinh nghiệm chiến đấu và sự hiểu biết sâu sắc về loại máy bay được không quân Mỹ coi là “Át chủ bài này”. Sinh thời, Bác Hồ kính yêu thường nhắc nhở bộ đội Phòng không-Không quân trong việc đối phó với loại máy bay chiến lược của không quân Mỹ.
Trước ngày bộ đội tên lửa lần đầu ra quân, Bác đến thăm Quân chủng, người dặn: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B-57, B-52 hay B gì đi nữa, chúng ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định phải thắng”. Năm 1967, bộ đội tên lửa bắn rơi hai B-52, Bác vui nhưng không quên nhắc nhở bộ đội Phòng không-Không quân: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước hết mọi tình huống mà suy nghĩ, mà chuẩn bị. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ thua sau khi chịu thua trên bầu trời Hà Nội”. Không chỉ là những lời tiên tri mà còn là ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược Người truyền đến cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta để làm nên chiến công thần kì sau này-cuối năm 1972.
Vũ Đình Rạng nhớ về những ngày luyện tập trước khi giáp mặt “pháo đài bay” trên vùng trời khu Bốn:
- Phi công Mỹ rất sợ những cánh én bạc của ta, nên dùng B-52 ném bom miền Bắc chúng chỉ có thể đánh vào ban đêm. Phi công ta tiếp cận máy bay Mỹ không chỉ bằng kĩ thuật mà còn bằng mắt thường, loại bỏ kĩ thuật tối tân như gây nhiễu bằng ra đa, kĩ thuật điện tử nghi binh... Chúng chỉ còn tin vào ban đêm làm chỗ dựa để thoát khỏi những cặp mắt tinh tường của phi công ta. Trở ngại lớn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là nhiễu điện từ. Mỗi một chiếc B-52 có 15 máy phát nhiễu đủ loại. Ngoài ra còn có nhiễu có cường độ cực mạnh từ máy bay EB-66 được chúng mệnh danh là nhà máy điện từ di động trên không và từ những máy gây nhiễu của những chiếc máy bay F-4, F-105 bay bảo vệ quanh B-52. Và cũng còn vô số nhiễu tiêu cực phát đi từ chiếc F-4 là những sợi kim loại nhẹ như bông tạo nên một vùng nhiễu quanh B-52 chắn mọi cánh sóng ra-đa của ta được coi là “bức tường nhiễu”.
Những phi công tham gia đánh B-52 ban đêm được lựa chọn. Họ là những người có trình độ bay giỏi, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu như: Đinh Tôn, Đặng Xây, Vũ Đình Rạng, Trần Cung, Phạm Văn Mạo… Huấn luyện bay ban đêm nâng cao trình độ bay và dẫn đường trong đêm sát với địa hình khu Bốn. Dùng máy bay IL-18 giả làm mục tiêu B-52. Tập bay cao, bay thấp theo địa hình, khi mục tiêu xuất hiện nhanh chóng kéo lên cao, dẫn vòng phía sau mục tiêu tiếp cận, công kích và thoát ly khỏi khu vực chiến đấu. Ban ngày phi công có thể nhìn mục tiêu bằng mắt thường nhưng ban đêm chủ yếu theo sự dẫn đường của sở chỉ huy. Kĩ thuật cất cánh, hạ cánh ban ngày đã phức tạp, ban đêm càng phức tạp hơn, nhất là khi lên xuống các sân bay dã chiến. Kĩ thuật cá nhân phải hết sức chuẩn xác, đặc biệt khi xử lí các tình huống trong chiến đấu. Đánh B-52 trên địa bàn khu Bốn càng khó khăn hơn, địa hình hẹp-phía đông là biển, phía tây là núi. Biển Đông, Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên có mặt với mười hai ra-đa các loại. Mic bay cao thì bị ra-đa địch phát hiện; bay thấp thì dễ bị đâm vào núi. Lưới lửa phòng không của ta đủ các loại ở khắp nơi nên khi Mic hoạt động, vì là xuất kích bí mật không kịp thông báo cho các đơn vị phòng không nên cũng dễ dính đạn phòng không của ta.
Nếu trực thì cứ chập choạng chưa tối hẳn, chúng tôi ra sân bay. Nhận máy bay, còn phương án đánh, sở chỉ huy dẫn dắt theo phương án đã luyện tập. Đánh ban đêm thì chủ yếu đánh bằng khí tài.
Trực đánh B-52 cũng thế. Đêm nào chúng tôi cũng phải trực chiến. Từ sân bay Nội Bài chúng tôi được phân công trực ở các sân bay dã chiến, đến bằng trực thăng hoặc các phương tiện giao thông khác. Đến sân bay nào thì dùng máy bay đang chiến đấu ở sân bay đấy. Cũng có trường hợp dùng Mic-21 bay từ Nội Bài vào. Ròng rã mấy năm trời như thế.
Năm 1964, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chính quyền Mỹ tưởng có thể bằng sức mạnh của không quân, hải quân Mỹ có để khuất phục được nhân dân ta. Chúng đã lầm to. Từ những ngày đầu chúng đã phải đền tội ác bởi lưới lửa phòng không thiên la địa võng của quân và dân ta. Lực lượng không quân non trẻ anh hùng của chúng ta đã giáng cho chúng những đòn chí mạng, thành nỗi ám ảnh của lũ cướp trời từ bên kia Thái Bình Dương. Phi công tù binh giúp ta hiểu tình cảnh phi công Mỹ ở các căn cứ không quân. Thiếu tá người Mỹ gốc Mê-hi-cô đã khai trong cuộc họp báo ngày 19-12-1972: “Sân bay An-đơ-xơn ở đảo Guam là căn cứ chính của tập đoàn không quân số 8 thuộc Bộ chỉ huy không quân chiến lược. Tập đoàn này do tướng không quân Gê-rôn Giôn-xơn chỉ huy... Chuyến bay nào cũng có máy bay không trở về. Thật đáng sợ! Không khí bao trùm sân bay An-đơ-xơn là không khí căng thẳng. Không nói to, không cười đùa, không chạm cốc. Đó là ba điểm rất quen thuộc của căn cứ. Ai nấy đều lo lắng và sự lo lắng, căng thẳng này đã tăng lên từng ngày một…”. Tâm lí hoang mang, lo sợ thường trực của phi công Mỹ mỗi khi chạm trán với Mic của ta là lí do tại sao trận đánh ngày 20-11-1971 Mic-21 hạ gục B-52 được giới quân sự Hoa Kỳ ỉm đi. Không một đài báo nào, kể cả BBC cũng không một dòng tin ngắn về chiếc B-52 bị thương nặng, rơi trên đất Thái Lan. Chiến thắng của Vũ Đình Rạng như một quả bom tấn ném vào tinh thần đang hoang mang, rệu rã trong phi công Mỹ. Lính Mỹ, nhất là những phi công đang chiến đấu trên chiến trường nghĩ đến thất bại của “Át chủ bài” B-52 thì nỗi kinh hoàng, hoang mang càng tăng lên gấp bội.
Sau chiến công của Vũ Đình Rạng, không quân ta có thêm nhiều bài học bổ ích giúp cho việc hoàn chỉnh phương án đánh B-52. Từ chiến công ngày 20-11-1971 đã góp phần làm nên trận chiến đấu hào hùng “Điện Biên Phủ trên không” của quân và dân ta trên bầu trời Thủ đô Hà Nội, làm thất bại hoàn toàn chiến dịch “Linebacker II” (Cứu bóng trước khung thành), đập tan ý chí xâm lược nước ta của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm tiền đề cho cuộc tiến công và nổi dậy năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau gần 40 năm, chiến công của Vũ Đình Rạng chính thức được tôn vinh. Tháng 7-2009, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân đã chính thức đề nghị Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho ba phi công và một sĩ quan dẫn đường, trong đó có Thượng tá Vũ Đình Rạng và Đại tá Nguyễn Văn Chuyên.
NGỌC PHÚC