Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:42:30 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến tranh đường không trên bầu trời Miền Bắc  (Đọc 343513 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #70 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2009, 08:56:31 pm »

Theo LS dẫn đường KQ:

Ngày 6 tháng 11 năm 1965, biên đội MIG-17: Trần Hanh - số 1, Ngô Đoàn Nhung - số 2, Phạm Ngọc Lan - số 3 và Trần Minh Phương - số 4 của Trung đoàn 921 trực chiến tại Nội Bài. Kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng: Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy và Đào Ngọc Ngư trên hiện sóng của đài 402 tại C-29A ở Bạch  Mai được ban bố trí vào làm nhiệm vụ. Địch cho trực thăng vào tìm - cứu giặc lái trong khu vực Đường 12A và 21A thuộc tỉnh Hòa Bình. Sau khi cất cánh xong, MIG-17 được dẫn xuống Mỹ Đức. Nhờ có dẫn đường hiện sóng bám sát ta - địch liên tục, nên dẫn đường tại sở chỉ huy đã dẫn biên đội hai lần vào tiếp địch với góc cắt chéo gần 90 độ, nhưng phi công vẫn không phát hiện được mục tiêu. Đến lần thứ ba, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn cho biên đội vòng lại đối đầu. Sau một vài khẩu lệnh thông báo, phi công Ngô Đoàn Nhung đã phát hiện được địch ở cự ly 10km. Anh vận dụng thành thạo các động tác cơ động chiếm vị, xạ kích mục tiêu bay thấp, tốc độ nhỏ trên địa hình rừng núi và bắn rơi tại chỗ 1 CH-47 ở nam-tây nam Chợ Bến 10km. Đây là chiếc trực thăng của không quân Mỹ đầu tiên bị MiG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi.


Mỹ không ghi nhận mất trực thăng nào vào ngày này.

(Thực ra ngay cái tên CH-47 cũng đã là vô lý rồi).
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #71 vào lúc: 04 Tháng Mười Hai, 2009, 05:25:20 am »

Mỹ không ghi nhận mất trực thăng nào vào ngày này.

Hobson chép là hôm đó Mỹ mất một CH-3C (63-9685) Detachment 5, 38th ARS, Udorn, tên gọi Joly Green 85, do bị hỏa lực bộ binh bắn rơi. Phi hành đoàn tên là Capt. Warren L. Lilly, Lt. J Singleton, Sgt. B E Naugle, Sgt A Cormier. Naugle được SH-3 Sea King (148993, Nimble 62) của Hải quân cứu thoát. 3 người kia bị bắt, thả 12/02/1973.

Có khi chú CH3-C này bị MIG-17 hạ.
Logged
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #72 vào lúc: 22 Tháng Mười Hai, 2009, 09:27:12 am »

http://dantri.com.vn/c20/s20-368723/vi-tuong-va-tran-khong-chien-voi-than-sam.htm

Vị tướng và trận không chiến với “Thần Sấm”

Ở cái tuổi xưa nay hiếm nhưng những hồi ức về thời chiến vẫn vẹn nguyên trong tâm trí Trung tướng Trần Hanh, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Những chiến tích trong cuộc đời binh nghiệp của ông gắn liền với những dấu mốc quan trọng của cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ. Trận không chiến ngày 4/4/1965 lịch sử trên bầu trời Hàm Rồng (Thanh Hóa) là một trong số đó.


Tướng Trần Hanh đang mô tả lại trận đánh năm nào.

Hạ gục “Thần sấm”

Bầu trời sân bay Nội Bài sáng 4/4/1965, mây bao phủ, âm u như báo hiệu những điều không an lành. Quả đúng như vậy, Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân của ta nhận được tin máy bay địch đang xâm phạm vùng trời Miền Bắc. Bốn chiếc MIG 17 do Đại uý Trần Hanh dẫn đầu lập tức lao vút lên bầu trời. Trước đó, Không quân Việt Nam đã có cuộc “thử lửa” với không quân Mĩ trên bầu trời Hàm Rồng. Sau trận đánh này, nhiều ý kiến không tán thành đợt bay thứ 2 vào trận địa trên với lý do yếu tố bí mật, bất ngờ không còn nữa. Nhưng với ý chí quyết tâm của toàn phi đội, trận không chiến lần 2, ngày 4/4 vẫn được thực hiện.


Phi công Trần Hanh thời trẻ.

“Tới Hàm Rồng, thấp thoáng từ trong các đám mây, biên đội chúng tôi ngay lập tức đối mặt với một đàn quái vật khổng lồ, thân dài, đầu nhọn, phía dưới cánh lặc lè bom. Sau này tôi mới biết nó mang biệt danh “Thần Sấm” (tức F 105), nặng tới 25 tấn. Lúc này lưới lửa phòng không từ dưới đất bắn lên dữ dội, đạn cao xạ đan chéo như lưới. Yểm hộ cho “Thần Sấm” là từng tốp “Thanh bảo kiếm” F100.

Mải mê “ngắm” trận địa, nhả bom, máy bay địch không ngờ phía trước phi đội bay của ta đang chờ sẵn. Lợi dụng lúc “Thần Sấm” đang nghiêng mình thả bom, tôi quyết định cắt bán kính áp sát mục tiêu. Khi cách “Thần Sấm” 300-400m, máy ngắm bao trọn mục tiêu, tôi siết cò điểm xạ, thấy trúng, tôi làm tới luôn. 200 viên đạn từ 2 khẩu 23 ly và 30 ly đồng loạt rời nòng tạo lên một quầng lửa quanh mục tiêu. Trong giây lát, “Thần Sấm” bị tiêu diệt, lửa bùng lên đỏ rực. Tôi thét lên sung sướng trong buồng lái”, Tướng Hanh nhớ lại.

“Con trời” về làng


Trung tướng Trần Hanh.

Tướng Trần Hanh nhớ lại, khi chiếc F105 của địch trúng đạn, cả dàn F 100 nhào lên truy sát. Chiếc MIG 17 của ông nằm trong lưới đạn dày đặc. Trong tình thế nguy cấp, ông kéo gập cần lái, máy bay chao mình lộn ngược, vừa hay 2 quầng sáng của 2 quả tên lửa “rắn đuôi kêu” từ chiếc F100 bắn ra xẹt hai bên cánh. Để thoát vòng vây, ông vội đưa mắt lên chiếc la bàn tìm hướng, nhưng trục kim đã hỏng sau cú lộn mình tránh đạn. Hết cách, ông buộc phải nhằm hướng Tây bay thẳng. Sau vài phút, đèn tín hiệu báo hết xăng. Tình thế một lần nữa đẩy chiếc MIG 17 vào chỗ gay cấn. Không thể quay về, không còn xăng để hạ cánh vào bất cứ sân bay nào gần nhất, chiếc MIG 17 hạ dần độ cao rồi rơi tự do. Trong thời khắc nguy cấp, Sở chỉ huy ra lệnh cho ông bỏ máy bay, nhảy dù để bảo toàn tính mạng.

Tuy vậy, ông vẫn dồn hết sức cố điều khiển chiếc MIG 17 lúc này đang đâm chúi đầu xuống đất. Từ trên cao, một mảnh ruộng bằng phẳng bên bờ suối lọt vào tầm ngắm. Không hạ càng, ông để cho chiếc máy bay đáp xuống bằng bụng. Sau cú hạ cánh có một không hai đó, chiếc MIG 17 trượt trên đám ruộng được vài chục thước rồi khựng lại. Đại úy Trần Hanh gục đầu trong buồng lái không động đậy, máu chảy ướt đẫm mặt và áo ông.

Không biết mình ngất đi bao lâu, lúc tỉnh dậy, chưa kịp định thần thì đã thấy rất đông người người dân đã kéo đến bao vây chiếc máy bay. Lột vội chiếc mũ lái, ông thò tay lấy cuộn phim ghi lại cảnh hạ “Thần Sấm” đút vội vào túi ngực. Lò dò bò ra khỏi khoang lái, ông bị bà con người Thái “áp tải” ngót 3km về một thung lũng khác để... tạm giam.

Đại úy Trần Hanh không biết rằng, lúc ông đang rơi thì trên bầu trời, 3 đồng đội của ông là Phạm Giấy, Lê Minh Huân, Trần Nguyên Năm đã anh dũng hy sinh. Trước đó chỉ vài phút, sau khi Lê Minh Huân bắt chiếc F - 105 thứ hai đền tội, tên lửa đối không từ máy bay địch bắn ra dữ dội. Cuộc chiến không cân sức đã khiến Lê Minh Huân và hai đồng đội mãi mãi ra đi.

Về phần Trần Hanh, sau khi thông tin về một phi công cùng chiếc máy bay hạ cánh bên bờ ruộng làng Kẻ Tằm (Quỳ Hợp - Quỳ Châu - Nghệ An) được cấp báo, đích thân Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64, Đại đoàn 320, Trung tá Nguyễn Văn Quế đã băng rừng lên Kẻ Tằm ngay trong đêm. Tới nơi, gặp phi công “lạ” ông hét to: “Hanh 48 đây rồi!”. Lúc ấy bà con mới tin đó là “phi công mình”. Họ đồng thanh hô to “Khăm klơi! Khăm klơi! (con trời! con trời) đã về làng!”.

Cuộc hôn nhân “thần tốc”

Trung tướng Trần Hanh sinh ngày 29/11/1932 tại xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Tham gia cách mạng tháng 12 năm 1946. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Trung tướng; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam. Tướng Trần Hanh được phong tặng Anh hùng lực lượng Vũ trang Nhân dân năm 1967, từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng Huy hiệu của Người. Ngoài ra, ông còn được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều Huân, huy chương cao quý khác.

Về Hà Nội, ông phải nhập viện điều trị vết thương. Va chạm từ lần hạ cánh trên... ruộng đã khiến 3 đốt xương sống của ông dẹt vào làm 1, đầu bị chấn thương do đập vào máy ngắm. 3 tháng ròng bà Xuyến, vợ ông, cứ mỗi buổi tan làm lại vào viện chăm ông. Ông nói tình yêu của bà dành cho ông là vô bờ bến, còn ông chỉ đem đến cho bà những nỗi đau.

Hai ông bà yêu rồi cưới nhau (năm 1958) chỉ trong vỏn vẹn đúng 1 tháng. Sau đó là khoảng thời gian 3 năm trời xa nhau biền biệt. Trong thời gian này, có người trêu đùa bảo, hôn nhân thần tốc thì cũng khó vững bền. Vậy nhưng bà chỉ cười. Năm 1961, sau lần nghỉ phép ông từ Trung Quốc về nước và cũng trong năm này bà hạ sinh cô con gái đầu lòng Trần Thị Ngọc Hà. Tên con cũng là tên phố, nơi hai ông bà được gặp nhau sau bao năm xa cách.

Với niềm tin, sự vun đắp tình cảm của 2 bên gia đình vốn thân thiết bao năm và hơn hết là tình yêu cao cả của bà dành cho ông, Trần Hanh đã dần bình phục sau một thời gian. Đến năm 1967, tại làng Thụy Hương (Sóc Sơn - Hà Nội) bà sinh tiếp cho ông cậu con trai Trần Trung Dũng. Hiện cả 2 người con của ông bà cùng nối nghiệp cha, cống hiến cho Quân đội. Ông tự hào khoe rằng, các cháu nội ngoại đều chăm ngoan hiếu thảo. Cháu lớn đã lập gia đình, có con đưa ông bà lên chức cụ.

Trước lúc chia tay, ông ký tặng tôi một bức chân dung, gửi lời hỏi thăm đến ông nội và bố tôi, đều là những người lính Cụ Hồ. Ông căn dặn lớp trẻ chúng tôi phải sống sao cho xứng đáng với cha ông mình.

Theo Công Tâm

Gia đình & Xã hội
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #73 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 06:06:13 pm »

http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/230/231/231/98339/Default.aspx

Trận đầu hạ bệ thần tượng không lực Hoa Kỳ


Phi đội trưởng Trần Hanh trong một lần giao nhiệm vụ cho phi đội MIG21.

Trung tướng Trần Hanh gặp gỡ anh em chúng tôi tại nhà riêng. Tướng quân vẫn mái đầu cắt ngắn, dáng nho nhã thư sinh như hồi học bay cùng anh em chúng tôi ở nước bạn, khác chăng là mái tóc của ông đã bạc.

Ông cười hồn hậu, niềm nở bắt tay từng người: “Từ ngày học bên nước bạn đến nay vậy mà đã gần 50 năm. Bây giờ bọn mình đã là ông già “thất thập cổ lai hi rồi”!

Theo dòng hồi tưởng của ông, chúng tôi cùng ôn lại thời điểm những chiếc máy bay đầu tiên của Trung đoàn không quân Sao Đỏ bay về hạ cánh tại sân bay trên đất Mẹ và bắt tay ngay vào chuẩn bị chiến đấu với đối tượng tác chiến là không lực Mỹ, rồi đến những trận chiến đấu trên vùng trời Hàm Rồng của trung đoàn.

Ngày 5-8-1964, không lực Mỹ tập kích, ném bom xuống thành phố Vinh (Nghệ An), Hòn Gai (Quảng Ninh) và một số vùng ven biển. Chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau đó, toàn Trung đoàn không quân Sao Đỏ đã có mặt ở sân bay Nội Bài, khiến địch rất bất ngờ. Trước đó, máy bay do thám H2 của Mỹ rà đi, rà lại, ngang dọc trên bầu trời mà không hề thấy một dấu vết nào về những chiếc máy bay cánh én đậu ở sân bay.

Ngày 3-2-1964, Trung đoàn không quân Sao Đỏ vừa làm lễ thành lập,  đã nhận ngay lệnh sẵn sàng chiến đấu. Tình hình, nhiệm vụ chiến đấu cùng phương án cơ động lực lượng về đất Mẹ được quán triệt sâu sắc đến từng cán bộ, phi công, thợ máy. Vừa chuyển quân về sân bay Nội Bài, đơn vị lao ngay vào chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Tưởng là được xuất kích trận đầu ngay, nhưng sau ngày 5-8-1964, địch dừng lại để thăm dò, đến ngày 7-2-1965, chúng mới chính thức mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Ngày 3-4-1965, Biên đội Phạm Ngọc Lan được xuất kích trận đầu, “đọ cánh” với không lực của hải quân Mỹ được trang bị máy bay A4 và F8, trên vùng trời Đò Lèn, Thanh Hóa.

Ngày hôm sau, Biên đội Trần Hanh gồm Phạm Giấy, Lê Minh Huân, Trần Nguyên Năm mới “đọ cánh” thực sự với phi đội F105, biệt hiệu “Thần Sấm” - thần tượng của không lực Hoa Kỳ trên vùng trời Hàm Rồng, Thanh Hóa.

Tuy địch vẫn huênh hoang coi thường “những con muỗi mắt MIG 17A, tốc độ bay dưới tiếng động của Bắc Việt”, nhưng chúng vẫn lên kế hoạch đối phó khá chặt chẽ. Chúng bố trí lại đội hình F105D, cứ hai chiếc làm nhiệm vụ ném bom, có một chiếc làm nhiệm vụ tiêm kích bảo vệ, đồng thời, cho một phi đội tiêm kích F100D (biệt danh là Thanh bảo kiếm) tuần tiễu trên vùng trời Nho Quan, Ninh Bình chặn đánh không quân ta từ phía bắc xuống.

Thấy trước yếu tố bất ngờ của trận đánh không còn như ngày 3-4, Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân vạch phương án tác chiến: Giao trung đoàn pháo cao xạ bảo vệ Hàm Rồng đánh địch đợt đầu; sử dụng không quân vào đợt sau, lúc địch chủ quan sơ hở. Cho xuất kích 3 biên đội cùng lúc: Biên đội đầu nghi binh thu hút địch, bay dọc phía tây quốc lộ 1 xuống phía nam. Biên đội của Trần Hanh cất cánh sau, bay thấp tránh ra-đa hạm tàu địch, táo bạo xông thẳng ra biển rồi bất ngờ ngoặt vào đất liền, luồn vào sau lưng đội hình địch. Biên đội thứ 3 bay lên tuần tiễu trên vùng trời núi Tản Viên, làm phân tán sự chú ý của địch và đề phòng chúng thọc sâu, cắt đường bay của biên đội ta đang rút về.

Phương án tác chiến trên rất táo bạo, có phần mạo hiểm, song hoàn toàn gây bất ngờ với địch. Những tài liệu khai thác được khi hỏi cung giặc lái sau này, nhất là lời khai của Trung tá Rai-xơ Rô-bin-sơn, chỉ huy phi đội F105D hôm đó xác nhận: Chúng không thể ngờ, không quân ta chỉ có một "dúm MIG”, chỉ có một sân bay xuất kích độc nhất, cuối tầm bán kính hoạt động của máy bay MIG, lại dám liên tiếp xuất trận lần thứ hai trên cùng một hướng tiến công. Chính nhờ phương án tác chiến táo bạo, chính xác đó cùng sự dẫn dắt khôn khéo của sở chỉ huy, biên đội chủ công của Trần Hanh đã bất ngờ, dễ dàng bay luồn sát vào sau lưng đội hình phi đội máy bay F105D mà chúng không hay biết.

Biên đội của Trần Hanh bình tĩnh, quả cảm áp sát địch, thực hiện lối đánh gần, đến cự li 400 mét mới đồng loạt nã pháo, bắn rơi tại chỗ 2 chiếc F105D. Trần Hanh bắn cháy chiếc đầu, “dìm” tên Thiếu tá Phăng Béc-xnét, trưởng biên đội xuống biển; ngay sau đó, Lê Minh Huân nã pháo trúng buồng lái chiếc thứ hai, khiến tên Đại úy Giêm Ma-nhớt-xơn chết gục trên ghế lái.

Phi đội tiêm kích F100D lúc này mới được gọi đến ứng cứu. Trước đó, toàn bộ ăng-ten ra-đa APQ 13 đặt trên các máy bay F100D đều hướng tất cả về phía bắc đề phòng hai biên đội MIG đang bay ẩn hiện, dền dứ ở phía tây quốc lộ 1 và trên dãy núi Tản Viên.

Nhờ bộ phận tăng lực cực mạnh, phi đội F100D rút ngắn cự ly rất nhanh với biên đội của Trần Hanh. Biên đội trưởng liền phân tốp đối phó. Chỉ còn cách 2 chiếc MIG của Trần Hanh và Phạm Giấy chưa đầy 1.500 mét, Thiếu tá Ê-mê-ních phóng liền hai quả tên lửa “Rắn đuôi kêu” cho chắc ăn. Vừa lúc đó, hai chiếc MIG bỗng cùng lúc lật ngửa bụng, thắt nửa vòng tròn, lộn nhào xuống. Hai quả tên lửa “Rắn đuôi kêu” lỡ đà mất tăm. Đó là vì Trần Hanh biết địch đang bám theo mình. Ước lượng, chúng đã đến cự li phóng tên lửa, anh liền hô đồng chí Giấy cùng nhào lộn gấp xuống để tránh. Nhưng với động tác quá gấp đó, hai người đã mất đội (bị lạc nhau). Với các động tác kịch liệt tránh đòn địch, la bàn chỉ hướng trên máy bay của anh không còn chính xác. Ra-đa sở chỉ huy quân chủng cũng không bắt được tín hiệu toàn biên đội. Trần Hanh tự xác định hướng để bay về Nội Bài, không ngờ lại bay ngược hướng về phía Quỳ Châu, Nghệ An.

Bỗng chiếc đèn đỏ nhấp nháy báo hiệu sắp hết dầu. Trần Hanh báo gấp tình hình về sở chỉ huy, anh được lệnh nhảy dù!

Nghĩ đến tình huống phải nhảy dù, vứt bỏ máy bay, tim anh thắt lại. Và một suy nghĩ bỗng chợt đến nhanh, khiến anh càng dứt khoát không nhảy dù, quyết sống chết với chiếc máy bay MIG 17A cùng anh đã bắn rơi chiếc máy bay “Thần Sấm”. Rồi còn một hiện vật quý giá, đó là cuộn phim máy ảnh tự động chụp quá trình anh xạ kích cho đến khi chiếc F105D bị bốc cháy rơi xuống biển. Phải giữ bằng được bằng chứng đó với bất cứ giá nào! Đó là mệnh lệnh trái tim buộc anh phải tìm cách hạ cánh bắt buộc. Thoáng nhìn thấy một dải đất hẹp dưới chân núi phía trước, anh liền hướng mũi máy bay lướt nhanh xuống. Mặt đất ập đến vùn vụt. Không buông càng, anh cho máy bay đặt bụng xuống đúng cuối dải đất. Đang “lết” được một đoạn, thì phát hiện một con suối chắn ngang, anh vội giật mạnh cần lái về phía sau. Tốc độ trượt còn lớn, nên máy bay có đà vọt qua được sang bờ bên kia. Song nguy hiểm vẫn chưa hết. Một ụ đất khá cao hiện ra ở phía trước. Trần Hanh đạp mạnh bàn lái hướng để ngoặt trái. Tuy tốc độ vẫn còn dư, nhưng vẫn không đủ tác động lên mặt bánh lái. Chẳng còn cách nào phanh máy bay lại được, trong giây lát máy bay sẽ đâm sầm vào ụ đất, không biết điều gì sẽ xảy ra. Nhưng… rất may, một bụi tre như mọc lên kịp thời níu giữ cánh phải máy bay lại, làm máy bay tự nhiên ngoặt hướng sang bên trái, tránh đâm vào ụ đất. Thật hú vía! Máy bay từ từ dừng trượt, ghếch mũi lên bờ ruộng cao, bên dưới là một khe suối sâu.

Trần Hanh lập tức rời buồng lái, dùng chiếc que thông nòng súng ngắn cậy nắp, lấy ngay hộp phim giấu vào ngực áo bay. Bà con dân bản vui mừng kéo đến xem anh như “người nhà trời” hạ xuống trần gian. Dân quân ngụy trang ngay chiếc máy bay và canh gác bảo vệ nghiêm mật. Hai ngày sau, anh được Bộ tư lệnh quân chủng đón về. Cuộn phim lập tức được tráng, rửa rồi phóng ảnh ngay, chuyển nhanh đến Việt Nam Thông tấn xã, kịp thời phát đi toàn thế giới hình chiếc F105D bị bắn hạ, bốc cháy. Đó là một bằng chứng vô giá về chiến công tuyệt vời của Không quân nhân dân Việt Nam, đã dùng máy bay MIG 17A, tốc độ dưới âm thanh, bắn hạ máy bay “Thần Sấm” - thần tượng của không lực Hoa Kỳ. Có lẽ đây cũng là chiếc “Thần Sấm” đầu tiên trên thế giới bị “đo ván” trong một trận không chiến.

VŨ THÀNH

---------------------------------------------
Như vậy nói chính xác thì trong trận 04/04/65 ta tổn thất toàn bộ biên đội (cả 4 phi công và 4 máy bay đều bị loại khỏi vòng chiến).
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 06:18:22 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #74 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 11:06:03 pm »

Ngày 24/12/65, TT Mỹ tuyên bố tạm ngưng chiến dịch Rolling Thunder trong 37 ngày, tới 31/01/66.

Như vậy tính từ 03/04/65 khi mặt trận không đối không trên bầu trời miền Bắc VN chính thức mở, lực lượng tiêm kích KQNDVN đã xuất kích chiến đấu trong 9 trận, bắn rơi (được Mỹ công nhận) 3 máy bay 2 F-105D, 1 F-4C và bắn bị thương nặng 1 F-8E, góp phần trực tiếp tiêu diệt 2 và bắt sống 1 phi công Mỹ. Ta tổn thất tổng cộng 11 máy bay (bị bắn rơi, tai nạn, hỏng) và hy sinh 6 phi công.

Theo đánh giá của Clashes, tỉ lệ tổn thất cao của MiG-17 là do MiG chậm hơn tất cả các máy bay Mỹ (kể cả khi họ mang bom), và tốc độ chậm + thiếu tên lửa khiến MiG-17 không thể đe dọa được máy bay Mỹ ở cự ly trên 3000ft (1000m). Ngay cả khi tiếp cận được từ phía sau, thường MiG-17 cũng không vào được đủ gần để khai hỏa. Ngoài ra các phi công Mỹ đánh giá rằng sự thiếu kinh nghiệm và quyết đoán của phi công VN cũng khiến họ không tận dụng được ưu thế ngay cả trong trường hợp được dẫn đường vào vị trí thuận lợi.

Giữa năm 65, KQNDVN được bổ sung thêm 30 phi công chiến đấu được đào tạo ở LX và TQ.

Tháng 08/65, KQNDVN tiếp nhận loạt đầu tiên 12 MiG-21PLF biên chế cho c11 và c12 thuộc e921.


07/09/65: Trung đoàn không quân tiêm kích 923 - Đoàn Yên Thế chính thức được thành lập. Ban chỉ huy trung đoàn gồm trung tá Nguyễn Phúc Trạch, e trưởng; trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu, chính ủy. Căn cứ đặt tại sân bay Kép (Bắc Giang). Biên chế trung đoàn gồm 2 đại đội bay, trang bị 30 máy bay MiG-17A, MiG-17F và 4 MiG-15UM.

Đến cuối năm 65, KQNDVN tiếp nhận thêm 26 MiG-17F (có tăng lực) và 28 MiG-17PF (có radar). Toàn bộ số MiG-17F được trang bị cho e923, MiG-17PF được trang bị cho đại đội bay đêm của c921.


Như vậy, tính đến tháng 03/66 khi KQNDVN tiếp tục xuất kích chiến đấu, tương quan lực lượng các bên như sau:

KQNDVN

Lực lượng gồm 2 trung đoàn bay là e921 (Nội Bài) và e923 (Kép) với 5 đại đội bay, trang bị ít nhất khoảng 90 máy bay chiến đấu (trong đó có ít nhất 12 MiG-21).

1 đại đội bay của VN tương đương 1 phi đoàn máy bay Mỹ (trên lý thuyết).

KQ và HQ Mỹ

KQ:
-   Căn cứ Đà Nẵng (VN): không đoàn 35 (35 TFW) gồm 2 phi đoàn F-4C (390, 480).
-   Căn cứ Takhli (TL): không đoàn 355 (TFW) gồm 3 phi đoàn F-105 (333, 354, 357).
-   Căn cứ Ubon (TL): không đoàn 8 (8 TFW) gồm 3 phi đoàn F-4C (433, 497, 555).
-   Căn cứ Korat (TL): không đoàn 388 (388 TFW) gồm 3 phi đoàn F-105 (34, 421, 469), đến tháng 05/66 được tăng cường 1 phi đoàn F-105 (13).

HQ:
-   TSB Ticonderoga: không đoàn 5 (CVW-5) gồm 2 phi đoàn F-8 (51, 53), 2 phi đoàn A-4 (56, 144), 1 phi đoàn A-1 (52).
-   TSB Kitty Hawk: không đoàn 11 (CVW-11) gồm 2 phi đoàn F-4B (114, 213), 1 phi đoàn A-4 (113), 1 phi đoàn A-1 (115), 1 phi đoàn A-6 (85).
-   TSB Enterprise: không đoàn 9 (CVW-9) gồm 2 phi đoàn F-4 (92, 96), 4 phi đoàn A-4 (36, 76, 93, 94).
-   TSB Hancock: không đoàn 21 (CVW-21) gồm 2 phi đoàn F-8 (24, 211), 2 phi đoàn A-4 (212, 216), 1 phi đoàn A-1 (215).
-   TSB Ranger: không đoàn 14 (CVW-14) gồm 2 phi đoàn F-4 (142, 143), 2 phi đoàn A-4 (44, 146), 1 phi đoàn A-1 (145).

Tổng cộng, KQ và HQ Mỹ có 15 phi đoàn tiêm kích (F-4, F-8) và 22 phi đoàn cường kích (A-1, A-4, F-105), chưa kể các đơn vị hỗ trợ khác. Trong đó có 21 phi đoàn có thể tham gia không chiến (F-4, F-8, F-105).
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Mười Hai, 2009, 03:21:56 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #75 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 11:15:53 pm »

Theo LS dẫn đường KQ:

Từ chiều tối, ta phát hiện địch có triệu chứng sẽ tổ chức hoạt động trên hướng tây nam Hà Nội. Đến 19 giờ, ý đồ của địch vào đánh Đường 15A đoạn Suối Rút-quan Hóa, Đường 21A đoạn Hòa Bình-tân Lạc và đường 6 đoạn Hòa Bình-suối Rút trở nên rất rõ ràng. Các thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Tiên và Trần Hanh (Bản can và sơ đồ trận đánh) hạ quyết tâm cho MIG- I7PF xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Phạm Công Thành dẫn tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính và kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Chuyên trên hiện sóng đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Sau khi cất cánh, phi công Lâm Văn Lích được dẫn ra phía Hòa Bình và lên độ cao 3.000m. Ta bay qua Hòa Bình 1 phút, lên tiếp độ cao 4.500m và vòng trái để bám theo tốp cường kích địch thứ nhất đang hoạt động trên trục Tân Lạc - Suối Rút . Tại tây nam Tân Lạc địch vòng đi, vòng lại, ta rơi vào thế đối đầu. Khi chúng lên đến tây bắc Tân Lạc lại vòng đi, vòng lại lần thứ hai, ta từ thế ngang bằng trở thành xông trước. Lúc lên tới tây bắc Suối Rút 25km, địch vòng thêm một vòng để quay về Mai Châu thì ta hoàn toàn ở phía trước địch 12km.

Sở chỉ huy trung đoàn nhận định: Địch chưa phát hiện có MIG đang săn đuổi, Dẫn đường xin tiếp tục dẫn. Khi còn cách Mai Châu 10km, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành cho phi công vòng trái 1 vòng. Ta lật ngược tình thế, bám vào phía sau tốp địch thứ nhất. Phi công Lâm Văn Lích bình tĩnh ngắm bắn, rồi thoát ly sang phải. Một chiếc bị trúng đạn. Cùng lúc đó, trực ban dẫn đường Lê Thiết Hùng thông báo có tốp cường kích thứ hai đang bay ở phía trước. Phi công Lâm Văn Lích lập tức phát hiện và tiếp tục ngắm bắn, chiếc thứ hai trúng đạn. Đây là hai chiếc A-6, cường kích phản lực của không quân thuộc hải quân Mỹ bị Không quân nhân dân Việt Nam lần đầu tiên bắn rơi trong đêm bằng MIG-17. Trên bàn dẫn đường: lúc 19 giờ 42 phút, tiêu đồ gần ngừng đánh dấu đường bay của hai tốp máy bay cường kích địch tại nam Mai Châu 5km và chỉ còn đi tiếp một tốp máy bay tiêm kích địch đang quần đảo ở trên cao. Sau khi dẫn phi công thoát ly về phía Hòa Bình, sở chỉ huy cho giảm dần độ cao xuống 1.000m và dẫn thẳng về sân bay Nội Bài. Tốp F-4 từ Suối Rút cũng bay theo hướng đó, trên độ cao 5.000m, có lúc xuống tới 3.000m và vào đến tận Hòa Lạc, nhưng không phát biện được ta, đành phải kéo cao, quay ra.


Tuy nhiên theo LS KQNDVN, 2 chiếc bị phi công Lâm Văn Lích bắn rơi là loại AD-6, tức A-1 (?)

Tài liệu Mỹ không ghi nhận tổn thất do MiG vào ngày này, cũng không có bất cứ A-6 hay A-1 nào bị bắn rơi.



Phi công Lâm Văn Lích, sau này là Anh hùng LLVTND. Tính đến thời điểm này thành tích claim cho Lâm Văn Lích là 3 chiếc nhưng đều không được Mỹ công nhận.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Mười Hai, 2009, 12:02:56 am gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #76 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 11:21:51 pm »

Theo LS dẫn đường KQ:

Chiều 4 tháng 3 năm 1966, vào lúc 15 giờ 14 phút, xuất hiện một tốp địch ở đông nam Sầm Nưa 40km, rồi bay qua biên giới, lên phía đông Mộc Châu và tây nam Yên Bái. Sau đó chúng vòng một vòng khá rộng ở phía tây Hạ Hoà, Thanh Ba và ra theo đường giữa Yên Bái và Nghĩa Lộ. Từ 15 giờ 23 phút đến 15 giờ 47 phút, có nhiều tốp địch hoạt động ở khu vực Hòa Bình-mộc Châu-quan Hóa. Có khả năng địch vào trinh sát và đánh các đoạn đường sắt từ Yên Bái đến Thanh Ba. Các thủ trưởng trực chỉ huy: Phùng Thế Tài, Đào Đình Luyện, Nguyễn Văn Tiên, Trần Mạnh và Đỗ Hữu Nghĩa đều nhất trí quyết định cho biên đội MiG-17: Phạm Thành Chung - số 1, Ngô Đức Mai - số 2, Trần Minh Phương - số 3 và Nguyễn Thế Hôn - số 4 của Trung đoàn không quân 923, đang trực chiến ở Nội Bài vào trận. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng tại C-43 ở Tân Trại được giao nhiệm vụ dẫn chính. Tại Sở chỉ huy Quân chủng, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính dẫn bổ trợ. 15 giờ 42.phút, biên đội cất cánh, lấy hướng xuất kích ra Mộc Châu và lên dần độ cao đến 5.300m, sau đó vòng lên Phù Yên và giảm xuống 4.300m nhằm chặn đijch cả trên đường vào và đường ra của chúng. 15 giờ 55 phút, tốp địch 4 chiếc xuất hiện ở phía đông Vạn Yên 20km, độ cao 4.500m, đang lượn vòng cơ động lên hướng tây bắc, được sở chỉ huy Trung đoàn 921 bám rất sát. Chờ đúng thời cơ lượn vòng, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho biên đội vòng phải vào tiếp địch, hướng bay 90 độ. Số 1 phát hiện ngay F-4, 12km và chỉ huy biên đội bám theo. Sau khi đuổi kịp 1 chiếc và bắn 2 loạt, nhưng địch cơ động mạnh và tránh được số 1 thấy số 2 đang ở vị trí có lợi đối với 1 chiếc khác, liền chuyển sang yểm hộ và chỉ huy số 2 vào công kích. Phi công Ngô Đức Mai bắn 3 loạt, hạ ngay 1 F-4. Trong lúc này trên bàn dẫn đường xuất hiện thêm một tốp 4 chiếc, độ cao 4. 500m ở tây nam Phú Thọ 20km, đang vòng phải, bám vào phía sau biên đội của ta. Số 3 và số 4 đã kịp thời nhận được thông báo, vừa yểm hộ chặt chẽ cho số 1 và số 2 vừa cơ động tránh tên lửa của địch. Sau bốn phút không chiến quyết liệt, số 1 quyết định thoát ly. Cả 4 chiếc của ta bám theo nhau, chủ động xuống độ cao thấp và bay lên hướng bắc, đến Thanh Ba mới kéo cao, rồi vòng sang hướng đông, qua sông Lô, men theo triền phía nam của dãy Tam Đảo, về hạ cánh tại Nội Bài.

Đây là trận đánh đầu tiên của Trung đoàn 923 kể từ khi được thành lập.


Ta claim 1 F-4, tuy nhiên Mỹ không công nhận.

Cũng trong ngày này, lần đầu tiên MiG-21 xuất kích chiến đấu đánh máy bay không người lái.

Dựa vào tình báo xa, 14 giờ 05 phút, sở chỉ huy cho phi công Nguyễn Hồng Nhị cất cánh, giữ hướng bay 285 độ và lên độ cao; 2 phút sau, thông báo: mục tiêu hướng bay 110 độ, độ cao 19.500m. Ta đến Việt Trì, sở chỉ huy cho hướng bay 320 độ, lên độ cao 6.000m, rồi 7.000m. Khi ngang Đoan Hùng, thấy khả năng bị lạc hậu và thấp hơn địch quá nhiều, dẫn đường cho phi công vừa vòng phải vừa tăng lực để tăng tốc độ lên M=1,3 (khoảng 1.400km/h) và tăng độ cao lên 13.000m, giữ hướng bay 90 độ, rồi tiếp tục tăng tốc độ lên M=1,6 (khoảng 1.700km/h) và độ cao lên 14.000m, nhưng ta vẫn lạc hậu và thấp hơn địch. Thủ trưởng Đào Đình Luyện chỉ thị: Kiểm tra và dẫn theo số liệu bay thực tế của phi công. Sau khi qua đông nam Bắc Sơn 15km, địch vòng phải và đến Lục Nam, lại vòng trái ra hướng đông và vẫn ở độ cao 19.500m. Ta vòng phải, hướng bay 150 độ, tăng tốc độ lên M=1,7 (khoảng 1.800km/h) và độ cao lên 17.000m, đuổi theo. Dẫn đường lần lượt thông báo độ cao, cự ly và vị trí mục tiêu, đồng thời bám sát số liệu bay thực tế của phi công. Sau khi ta vòng trái vào hướng 90 độ, địch còn ở phía trước 30km và cao hơn ta 2.500m. Phi công Nguyễn Hồng Nhị tập trung quan sát, sau đó phát hiện mục tiêu, ngắm bằng ra-đa trên máy bay và phóng 2 quả tên lửa K-13, chiếc không người lái bốc cháy. Đây là chiếc BQM-34A, không người lái đầu tiên của không quân Mỹ bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi. Trận đầu ra quân, MiG-21 đã đánh thắng. Ta về hạ cánh an toàn.



Phi công Nguyễn Hồng Nhị, sau này là Anh hùng LLVTND.


Xác máy bay không người lái BQM-34 Firebee bị Nguyễn Hồng Nhị bắn rơi.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Mười Hai, 2009, 10:30:44 am gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #77 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 11:50:45 pm »

MiG-21 Fishbed - KQNDVN


MiG-21 Fishbed.

Thông số kỹ thuật:
- Dài: 15,76m.
- Sải cánh: 7,1m.
- Trọng lượng tối đa: 8208kg.
- Vũ khí: 0/1 pháo NR-30 30mm với 60 viên đạn, 2/4 giá vũ khí (tùy phiên bản).

Theo MiG-21 Units, e921 ban đầu được trang bị MiG-21F13 Fishbed-C, trang bị 2 giá tên lửa/rocket (không có canon). Vào thời điểm này KQNDVN được trang bị tên lửa tầm nhiệt AA-2 Atoll (K-13) và tên lửa điều khiển bằng vô tuyến AA-1 Alkali (K-5), nhưng chủ yếu phổ biến sử dụng K-13.


MiG-21F13


Tên lửa không đối không K-13, trọng lượng 70kg, đầu đạn 6kg, tầm bắn khoảng <2km (Theo các mô tả trong sách báo VN. Cũng theo đó thường các phi công VN bắn ở cự ly vài trăm m tới 1km).


Tên lửa không đối không K-5, trọng lượng 83kg, đầu đạn 13kg, tầm bắn 2-6km.
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Mười Hai, 2009, 11:56:16 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #78 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2009, 11:23:33 am »

Theo LS dẫn đường KQ:

Ngày 23 tháng 4 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch tổ chức đánh liên tiếp 3 trận. Trận thứ nhất, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 chịu trách nhiệm dẫn chính: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy ở Nội Bài, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng và kíp trực ban dẫn đường Quân chủng đảm nhiệm dẫn bổ trợ: Lê Thành Chơn và Trần Quang Kính tại sở chỉ huy. Biên đội MIG-17: Hồ Văn Quỳ, Lưu Huy Chao, Nguyễn Biên (Nguyễn Văn Biên) và Trần Văn Triêm cất cánh từ sân bay Nội Bài lúc 11 giờ 20 phút, vào đánh địch tại khu vực Vụ Bản - Cẩm Thủy (Những thông tin tiếp theo của trận này chưa được tìm thấy).

Trận thứ hai, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy ở Kép và Trần Xuân Dung trên hiện sóng tại C-43 ở Tân Trại, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng tiếp tục dẫn bổ trợ. Biên đội MIG-17: Mai Đức Toại, Võ Văn Mẫn, Nguyễn Khắc Lộc và Đỗ Huy Hoàng xuất kích từ sân bay Kép (khoảng sau 13 giờ) vào đánh máy bay cường kích ở khu vực phía tây Bình Gia - Bắc Sơn 15km. Với góc vào 30 độ sau khi phát hiện F-105, 8km, có F-4 yểm hộ phía sau, phi công Nguyễn Khắc Lộc xin vào đánh và bắn rơi 1 F-4. Khi thoát ly, tại Kép vẫn còn địch, biên đội được dẫn về sân bay Nội Bài hạ cánh.

Trận thứ ba, kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng chuyển từ dẫn bổ trợ sang dẫn chính và phối hợp chặt chẽ với trực ban dẫn đường Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy ở Kiến An. Biên đội: Lê Quang Trung, Nguyễn Thế Hôn, Ngô Đức Mai và Dương Trung Tân cất cánh từ sân bay Kiến An lúc 13 giờ 17 phút, sau đó được dẫn xuống tận Nghĩa Hưng - Hải Hậu, nhưng địch quay ra và ta quay về Kiến An hạ cánh.

Việc tổ chức dẫn MIG-17 đánh địch từ ba sân bay trong ngày 23 tháng 4 đã tạo ra một tam giác dẫn đường chiến đấu từ mặt đất đầu tiên trên miền Bắc: Nội Bài – Kép - Kiến An, nhằm đáp ứng yêu cầu thường xuyên cơ động lực lượng không quân trực chiến trên các sân bay khác nhau để tạo thế trận đánh thắng địch. Trong tam giác đó, cách thức tổ chức dẫn đường chiến đấu phân thành hai cấp đã được thực hiện khá rõ nét. Đây là sự kiện đánh dấu một bước phát triển cực kỳ quan trọng trong công tác tổ chức dẫn đường đánh địch trên không của ngành Dẫn đường Không quân.


Ta claim 1 F-4C và không đề cập đến tổn thất nào. Nhưng theo Hunting MiGs over VN thì trong ngày hôm đó F-4C KQ Mỹ đã bắn rơi 2 MiG-17.

Biên đội 4 F-4C thuộc phi đoàn 555 (555 TFS), không đoàn 8 (8 TFW) ở căn cứ Ubon đang yểm trợ F-105 đánh khu vực đường sắt và cầu ở Bắc Giang, 40km phía tây bắc HN thì phát hiện 4 MiG.

F-4 tiến hành tấn công đối đầu. Số 3 bắn 1 AIM-7 và 1 AIM-9, số 4 bắn 1 AIM-7, cả 3 tên lửa đều không có kết quả. Sau đó diễn ra khoảng 10 phút quần vòng giữa 2 bên ở độ cao khoảng 3000-5500m, trong đó 1 MiG khai hỏa bằng canon nhưng không trúng.

Số 3 chọn mục tiêu và nhanh chóng bắn 1 AIM-9 vào MiG đi đầu. Phi công phụ sau đó quan sát thấy chiếc MiG rơi xuống, vỡ ra và bốc khói.

MiG thứ hai cố gắng cơ động vào vị trí có thể khai hỏa vào F-4 nhưng không thành sau khi F-4 tiến hành leo cao rồi đảo xuống phía sau. MiG kéo thấp bay về phía 1 thung lũng. Số 4 bám theo bắn 2 AIM-7, quả thứ 2 trúng đích.






F-4C 64-0689 mật danh Mink 3 do đại úy M. F. Cameron và trung úy R. E. Evans lái.





F-4C 64-0699 mật danh Mink 4 do đại úy R. E. Blake và trung úy S. W. George lái.

Tổng kết:
- VN claim 1 F-4C, Mỹ không công nhận.
- Mỹ claim 2 MiG-17, VN không/chưa công nhận.

Theo Clashes, cũng trong ngày 23/04/66, biên đội Denver gồm 2 F-4C đang bảo vệ 2 chiếc EB-66 trên khu vực Thud Ridge thì phát hiện 1 MiG-21 tiếp cận từ phía sau. Số 2 cơ động được vào phía sau ở cự ly 5000ft (khoảng 1500m) và bắn 2 AIM-7 nhưng không được (do lỗi của bộ phận kỹ thuật mặt đất), bắn tiếp 4 AIM-9 nhưng vẫn trượt. MiG đi thoát.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Giêng, 2010, 10:45:57 am gửi bởi Tunguska » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #79 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2009, 06:51:36 pm »

Hơi không ăn nhịp lắm, nhưng....

http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/230/231/231/98603/Default.aspx

Phi công đầu tiên bắn gục B-52 (kỳ 1)


Đã gần 40 năm qua đi nhưng trận thắng B-52 trên bầu trời Hà Nội tháng 12-1972 vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí những người lính Phòng không-Không quân tham gia cuộc chiến. Sẽ còn lâu nữa chúng ta mới hiểu hết giá trị của chiến công. Vẫn còn lâu nữa giới quân sự nhiều nước trên thế giới, nhất là những ai tin tưởng vào sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của không lực Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh hiện đại mới hết kinh ngạc. Không thể tưởng tượng được sức mạnh khổng lồ của nền công nghiệp chiến tranh hiện đại nhất của thế giới lại thất bại trước một lực lượng quân sự của một nước mà nền kinh tế còn quá lạc hậu, tiềm năng quốc phòng nhỏ bé.


Thượng tá phi công Vũ Đình Rạng.

Trong cuộc chiến trên không đánh trả cuộc tập kích chiến lược chưa từng có trong lịch sử chiến tranh thế giới mà Mỹ đã gây ra, trong số ba mươi tư máy bay B-52 bị bắn rơi trên bầu trời Thủ đô và các tỉnh miền Bắc năm ấy, lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi hai chiếc B-52. Còn một chiếc B-52 nữa bị bắn rơi trước đó gần một năm. Ba chiếc B-52 của Không quân nhân dân bắn rơi so với ba mươi tư B-52 mà lực lượng phòng không bắn rơi là ít ỏi, so với tổng số máy bay bắn rơi trong toàn chiến dịch là tám mươi mốt chiếc mà quân và dân ta bắn rơi thì lại càng ít hơn. Chính vì thế mà chiến công của lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi B-52 ít được nhắc đến. Và cũng ít nhắc đến ý nghĩa lớn lao trận đầu tiên đánh gục B-52 “siêu pháo đài bay” của không lực Hoa Kỳ.

Chiếc máy bay B-52 bị bắn rơi trước đó gần một năm là chiếc B-52 đầu tiên bị không quân ta bắn rơi, cũng là chiếc B-52 đầu tiên trên thế giới của không quân Mỹ bị đối phương hạ gục. Hành động anh hùng của người của người phi công bắn rơi chiếc B-52 đầu tiên ấy dần vào quên lãng. Phải qua những phi công tù binh Mĩ ta mới hiểu được sự thật. Năm 2000, sách “Quân chủng Phòng không biên niên sự kiện 1953-1998” ghi lại sự kiện trên:

“Ngày 20 tháng 11 năm 1971

Bộ đội Không quân bắn rơi một chiếc B-52.

Hai đại đội 45, 41 trung đoàn ra-đa 291-290 đã bảo đảm dẫn đường cho chiến sĩ lái máy bay Mic-21 Vũ Đình Rạng bắn bị thương một chiếc B-52 ở phía nam Quân khu 4…”.

Tôi đã từng đọc một bài viết ít ỏi về chiến công của Vũ Đình Rạng, nhưng không biết ông ở đâu. Có người nói ông về hưu về sống ở vùng quê Thái Bình.

Cho đến một ngày gần đây…

Ông Lê Trọng Sành từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội dự hội thảo về Đường bay vàng lâu nay đang làm xôn xao dư luận. Ông nguyên là sĩ quan tác chiến của Bộ Tư lệnh Không quân, sau này là Phòng không-Không quân. Cả cuộc đời ông phục vụ trong lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam. Nói đúng ra ông là một trong những người đầu tiên có mặt trong lực lượng không quân non trẻ từ ngày thành lập. Những người lính đầu tiên tiếp quản sân bay Gia Lâm từ tay thực dân Pháp trong đó có ông. Về hưu nhưng vị trung tá không quân Lê Trọng Sành vẫn tâm huyết với công cuộc xây dựng và phát triển ngành hàng không. Tuổi gần bát tuần nhưng tình yêu với không quân vẫn còn trẻ mãi. Ông vừa về Quảng Bình thăm lại chỉ huy sở Không quân tại xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch. Máu không quân vẫn sôi sục trong ông. Là sĩ quan tác chiến ở sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân trong những năm chiến tranh ác liệt, nhớ đến sở chỉ huy dã chiến Quảng Phương, ông tìm lại nơi đặt sở chỉ huy, tìm những người cùng thời để tìm hiểu về B8…

Lần này ra Hà Nội, ông kết hợp tìm gặp các nhân vật có trong sở chỉ huy ngày ấy, trong đó có cả Vũ Đình Rạng, nhằm khôi phục lại sở chỉ huy B8, góp phần giáo dục thế hệ trẻ. Anh Hồ Viết Lâm, Chủ tịch UBND xã Quảng Phương đã từng là lính thông tin của Bộ Tổng tham mưu nên khi gặp ông Sành là mê ngay ý tưởng khôi phục lại sở chỉ huy đã từng có ở quê nhà. Khi được mời đi dự hội thảo ở Hà Nội, ông đã liên hệ với Vũ Dình Rạng theo địa chỉ quê ở Thái Bình. Không ngờ Vũ Đình Rạng đang ở Hà Nội, nhận được thư ông Sành từ quê gửi lên. Biết ông đi Hà Nội, Chủ tịch UBND xã Quảng Phương cũng báo cáo với huyện uỷ Quảng Trạch để ra Hà Nội gặp ông Sành và các nhân chứng đã từng sống, chiến đấu, làm nên chiến ông kì diệu tại quê hương Quảng Phương anh hùng. Biết ý định của ông, tôi tình nguyện làm chân “xe ôm” để có dịp gặp những nhân vật lịch sử tại sở chỉ huy dã chiến của Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân ngày ấy.

Như đã hẹn, hơn sáu giờ, vào mùa này gió mùa đông bắc tràn về, trời lạnh, cả tập thể vẫn còn chìm trong giấc ngủ, phố xá còn vắng lặng, chúng tôi đến nhà Vũ Đình Rạng. Đến nơi, đã thấy ông Chủ tịch UBND xã Quảng Phương cũng mới từ Quảng Bình ra. Thì ra cái sở chỉ huy dã chiến của không quân ngày nào không còn nữa và những người đã sống chết với sở chỉ huy làm nên lịch sử đã đi xa nhưng những kỉ niệm một thời đánh Mĩ vẫn còn mãi trong lòng dân. Những chiến công của không quân không chỉ là chiến công của phi công hay người chỉ huy, mà còn là chiến công chung của tập thể quân và dân ta. Sở chỉ huy B8 ngày ấy đặt trong gia đình cụ Hối ở thôn Đông Dương. Máy ra-đa đo cao bị máy bay Mỹ bắn hỏng, rốc két bắn vào làng… dân Quảng Phương không sợ. Mấy mươi năm rồi dân Quảng Phương vẫn nhớ đến những sĩ quan không quân như: Trần Mạnh, Trần Hanh, Nguyễn Văn Chuyên, Lê Thiết Hùng…

Chủ tịch UBND xã Quảng Phương gặp lại ông Chuyên, ông Rạng, mừng lắm, anh kể:

- Nhân dân xã em vẫn luôn nhớ đến các bác. Nhiều người vẫn kể về các anh bộ đội đã từng ở sở chỉ huy trong những năm đánh Mỹ. Em ngày ấy vẫn còn bé nhưng vẫn nhớ sở chỉ huy và các chú bộ đội. Lớn lên em nhập ngũ rồi chuyển ngành làm công nhân ở Huế. Tình cờ đọc báo An ninh thế giới nói về sở chỉ huy Quảng Phương, được biết chiến công của bác Rạng, em ghi nhớ mãi. Bài báo khơi dậy trong em niềm tự hào về quê hương. Xem vô tuyến có hình ảnh bác Trần Hanh, nhiều người bảo: Bác Trần Hanh đã từng ở xã ta. Là một xã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang”, chúng em muốn được dựng lại Sở chỉ huy ngày ấy để góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Vừa rồi bác Sành lại tìm về xã em, đi thăm lại những nơi làm việc của Sở chỉ huy, càng nung nấu thêm ý tưởng khôi phục lại Sở chỉ huy. Cùng ra Hà Nội với em lần này có cả trưởng thôn Đông Dương – nơi đặt B8.

Chủ tịch UBND xã Quảng Phương còn cho biết thêm: Nhân dịp về làm việc với Hội Cựu chiến binh huyện Quảng Trạch, Trung tướng Trần Hanh, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam thăm hỏi nhân dân xã Quảng Phương. Ông kể về những ngày chiến đấu khẩn trương trên đất Quảng Trạch trong những năm đánh Mỹ. Sở chỉ huy không quân tiền phương B8 ngày ấy đã dẫn đường cho phi công Vũ Đình Rạng lái máy bay Mic-21 bắn trọng thương B-52 ngày 20-11-1971, là chiếc máy bay đầu tiên bị Không quân ta hạ gục, bay về đất Thái Lan thì rơi. Chia tay Hội Cựu chiến binh Quảng Trạch, Trung tướng Trần Hanh còn nói: Cán bộ chiến sĩ Không quân không bao giờ quên nhân dân xã Quảng Phương, nhân dân Quảng Trạch đã cưu mang che chở cho đài chỉ huy B8 hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Cuộc hội ngộ giữa những sĩ quan Không quân giúp ta trở về với những giây phút căng thẳng, khẩn trương mà hào hùng trận chiến đấu có một không hai trong lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng.

Thất bại có ý nghĩa chiến lược ở đường 9-Nam Lào, liên tiếp bị thua đau ở các chiến trường Lào, Cam-pu-chia, Mỹ-nguỵ lâm vào thế bị động chiến lược. Năm 1968, chúng tăng cường mọi lực lượng chặn tuyến hành lang chiến lược Trường Sơn hòng ngăn chặn chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, bộ đội Phòng không-Không quân triển khai nhanh nhiệm vụ tổ chức huấn luyện đánh B-52 cho phi công, sĩ quan dẫn đường và kíp chiến đấu ở sở chỉ huy để đánh B-52 trên các cửa khẩu. Việc nghiên cứu đánh B-52 đã được quân chủng triển khai. Một tổ chiến đấu của Không quân đã vào Trường Sơn, nơi Mỹ dùng B-52 ném bom, do Thiếu tá Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Nhật Chiêu, phi công lái Mic-21 đã bắn rơi sáu máy bay Mỹ, dẫn đầu để nghiên cứu. Hơn mười ngày ở trọng điểm, tổ nhìn thấy đội hình bay của B-52. Sau khi máy bay cường kích F-105 ném bom, những chiếc F-4 bay gầm rú trên bầu trời để bảo vệ, những chiếc B-52 xuất hiện. Ba chiếc B-52 bay theo hình bậc thang lệch bên phải mỗi chiếc cách nhau chừng 2km ở độ cao trên 10km. Nghiên cứu đánh B-52 được giao cho nhiều cán bộ có tài là trưởng các phòng dẫn đường, quân báo và tác chiến của Quân chủng phụ trách. Đến cuối năm 1969 về cơ bản đã hình thành cách đánh B-52. Để thắng địch, chúng ta phải hiểu địch.

Sau hội nghị về chuyên đề cách đánh B-52 của Quân chủng Phòng không-Không quân tháng 10-1971, hai sở chỉ huy của Không quân được triển khai ngay. Sở chỉ huy trung tâm được đặt ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An mang bí danh B3 do Tư lệnh Không quân, Đại tá Đào Đình Luyện trực tiếp chỉ huy. Kíp sĩ quan dẫn đường có sĩ quan dẫn đường Lê Thành Chơn, sĩ quan Hoàng Kế Thiện trực ở Đại đội 45 ra-đa dẫn đường ở đồi Minh Sơn, huyện Đô Lương. Sở chỉ huy tiền phương mang bí danh B8 đặt tại thôn Đông Dương, xã Quảng Phương (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) do Phó tư lệnh Không quân, Thượng tá Trần Mạnh và Trung tá Trần Hanh chỉ huy. Kíp sĩ quan dẫn đường là những sĩ quan có chuyên môn giỏi: Đại uý Nguyễn Văn Chuyên, Trung uý Tạ Quốc Hưng, Trung uý Trần Hồng Hà. Đại đội ra-đa dẫn đường 41 đặt ở Pháp Kệ cách Đông Dương khoảng ba ki-lô-mét, do sĩ quan dẫn đường mặt hiện sóng là Thượng uý Lê Thiết Hùng điều khiển.

Đại tá Nguyễn Văn Chuyên, nguyên Đại uý dẫn đường bay, thường xuyên có mặt ở Sở chỉ huy tiền phương B8. Ông là người dẫn đường cho Vũ Đình Rạng trong trận chiến đấu ngày 20-11-1971. Gần tuổi 80 nhưng vẫn còn khoẻ, ông nói rõ hơn về Sở chỉ huy tiền phương B8:

- Sở chỉ huy tiền phương B8 rất quan trọng trong việc làm nên chiến công của phi công Vũ Đình Rạng. Những năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân thì sở chỉ huy cơ bản của Binh chủng đặt ở chùa Trầm tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Sau chiến thắng Mậu Thân năm 1968, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 19 trở ra. Chúng tập trung đánh phá từ đường 7 trở vào, đánh phá dã man vùng “cán xoong” khu Bốn hòng ngăn chặn việc vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn. Để tham gia chiến đấu bảo vệ giao thông, Quân chủng khẩn trương đưa máy bay vào sân bay Sao vàng ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Sở chỉ huy tiền phương của Không quân chuyển vào Nghệ An có mật danh B3 chỉ huy Không quân bảo vệ khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh.

NGỌC PHÚC
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM