12. TKS
Những đơn vị xe tăng Ba Lan được thành lập vào năm 1919, khi mà Ba Lan tách khỏi Nga và tiếp nhận nền độc lập. Người Pháp đã giúp đỡ Ba Lan rất nhiều (không tầm thường – NV) trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang. Pháp, đồng thời cũng gửi đến Ba Lan các chuyên gia quân sự, xây dựng Trường quân sự cao cấp và đặt mua các thiết bị kỹ thuật chiến đấu, trong đó xe tăng và máy bay. Đợt giao hàng đầu tiên cho Ba Lan gồm 120 xe tăng Reno Ft-17, được biên chế vào trung đoàn xe tăng số 1 và được đưa vào các trận đánh chống lại Hồng quân một cách nhanh chóng. 7 chiếc đã bị bắt làm chiến lợi phẩm bởi các quân đoàn Xô Viết, 19 chiếc bị tiêu diệt trong các trận đánh. Sau chiến tranh, lực lượng thiết giáp của Ba Lan tiếp tục nhận thêm các một số lượng Ft-17, và đến đầu những năm 1930, đây là loại xe tăng chủ lực trong quân đội Ba Lan. Trong một chừng mực nào đó, chúng cũng trở nên lỗi thời, và người Ba Lan phải tìm cách chế tạo xe tăng cho riêng mình. Mẫu xe bọc thép bánh xích đầu tiên được chế tạo bởi nền công nghiệp Ba Lan là xe tăng loại vừa TK-3 và TKS. Cho đến trước chiến tranh thế giới thứ hai, trong lực lượng thiết giáp Ba Lan đã có 2-3 đơn vị xe tăng loại vừa này.
Vào năm 1929, Ba Lan là một trong số những quốc gia đầu tiên đặt mua ở Anh 10 xe tăng loại vừa “Karen – Loyd” Mk VI và dây truyền sản xuất chúng. Tuy nhiên, ở Ba Lan, loại xe tăng này không được sản xuất và trên cơ sở của nó, người Ba Lan đã quyết định thực hiện những phiên bảm cải tiến. Vào năm 1930, tại Ba Lan đã xuất hiện hai mẫu thử nghiệm xe tăng loại vừa Tk-1 và Tk-2, có sự khác biệt với nguyên mẫu ở sự nâng cấp hệ thống nâng, tốc độ tăng gấp 3 lần, sự bố trí động cơ và những cải tiến khác. Súng máy “Brouning” 7,92mm có thể xoay trên trục bên ngoài và có thể đảm nhiệm nhiệm vụ phòng không. Nắp mở phía trên có độ dày 6-8mm.
Vào năm 1931, xưởng “Ursus” ở Vác sa va đã chế tạo được Tk-3 với nắp trên nóc được bọc thép và thêm hệ thống nâng bằng lò xo cho bánh đỡ. Tk-3 được đưa vào sản xuất hàng loạt, sau 3 năm, đã có 280 xe loại này được sản xuất. Trong quá trính sử dụng loại xe này đã xuất hiện những nhược điểm: súng máy không đảm bảo, giáp bảo vệ mỏng (không đảm bảo – NV), sự chật chội cho hai người trong kíp xe. Vì thế, vào năm 1933, những mẫu cải tiến bắt đầu ra đời, TKS, có thể tích bên trong rộng hơn và giáp bảo vệ tốt hơn. Súng máy nhận được bộ phận mới, có khả năng bẳn theo phương ngang hình quạt với góc bắn 48 độ và theo phương thẳng đứng – 35 độ. Bên ngoài xe một lần nữa được gia cố thêm trong hệ thống kẹp, tăng khả năng phòng không của súng máy. Xạ thủ súng máy phải ngồi ngoài xe. Ngoài ra, xe còn được trang bị động cơ mạnh hơn, bánh đỡ được nâng lên và tăng chiều rộng bản xích – tăng khả năng vượt chướng ngại vật của xe tăng. Động cơ 6 xi lanh “Fiat Ba Lan” 122AC 42 sức ngựa cho phép xe đạt tốc độ tối đa c lên 40 km/h. Khả năng ngắm, quan sát của chỉ huy xe được thực hiện sau kính tiềm vọng và 3 khe quan sát (khe ngắm). Đến năm 1937, có khoảng 280 TKS được sản xuất.
Gần thời điểm Đức tấn công Ba Lan, có khoảng 403 xe tăng loại vừa Tk-3 và TKS cùng 250 xe tăng hạng nhẹ. Trong các trận đánh, chúng được sử dụng toàn bộ, kể cả lực lượng dự bị. Nhưng lực lượng thiết giáp Ba Lan và dòng xe tăng loại vừa đầu tiên đã bị tiêu diệt bởi lực lượng ưu việt hơn hẳn của kẻ thù (quân Đức). Những chiếc xe tăng Tk-3 và TKS bị bắt sống, còn nguyên vẹn sau đó đã được quân Đức sử dụng làm xe vận chuyển đạn và phục vụ bảo vệ hậu cứ sau khi được thay bằng súng máy do Đức sản xuất. Các đơn vị xe tăng Ba Lan đã bộc lộ sự yếu kém trên chiến trường. Khi gặp các xe tăng Đức, chúng đều bị bắn cháy. Thậm chí, pháo 20mm, được trang bị trên một số xe tăng cũng không gây thiệt hại cho xe tăng đối phương. Chỉ có xe tăng hạng nhẹ 7TP với pháo chính 37mm mới có thể đem lại thiệt hại cho xe tăng đối phương.
Các thông số chính
Tên gọi : TKS
Phân loại : xe tăng loại vừa
Kíp xe : 2 người
Khối lượng chiến đấu: 2,5 tấn
Chiều dài,m : 2,57
Chiều rộng,m : 1,77
Chiều cao,m : 1,3
Số lượng vũ khí :
Pháo chính/mm : -
Hỗ trợ/mm : 1/7,92
Độ dày giáp trước : 8mm
Độ dày giáp bên : 8mm
Động cơ : “Ford A”, bộ chế hòa khí, 40 sức ngựa
Tốc độ tối đa : 45km/h
Tầm hoạt động : 200km.